Braunol khác braunoderm như thế nào

Là Điều dưỡng thì không ai không sử dụng các thuốc sát khuẩn như một vũ khí bất ly thân trong kiểm soát nhiễm trùng cho người bệnh, tuy nhiên trên thực tế rất ít người chú ý đến dược động học của thuốc, việc hiểu và sử dụng đúng thuốc sát khuẩn đem lại hiệu quả cao trong chăm sóc điều trị cho người bệnh, nhưng ngược lại việc sử dụng vô tội vạ không những tốn kém mà còn mang lại sự khó chịu với người bệnh và những tác hại không mong muốn ,chúng tôi post bài này hy vọng mọi người dành ít thời gian để thỉnh thoảng đọc lại kiến thức cũ mèm này nhé :1 Các thuốc sát khuẩn lý tưởng cần đạt được các tiêu chuẩn sau- Tác dụng ở nồng độ loãng- Không độc với mô hoặc làm hỏng dụng cụ- Ổn định- Không làm mất màu hoặc không nhuộm màu- Không mùi- Tác dụng nhanh ngay cả khi có mặt protein lạ, dịch dỉ viêm- RẻHiện chưa có chất nào đạt được!2. Phân loại theo cơ chế tác dụng
- Oxy hóa: H2O2, phức hợp có clo, KMnO4
- Alkyl hoá: Ethylenoxyd, Formaldehyd, Glutaraldehyd
- Làm biến chất protein: cồn, phức hợp phenol, iod, kim loại nặng
- Chất diện hoạt: các phức hợp amino bậc 4
- Ion hoá cation: chất nhuộm
- Chất gây tổn thương màng: clorhexidin

3. Nguyên tắc dùng thuốc sát khuẩn
3.1. Ở da lành
- Rửa sạch chất nhờn
- Bôi thuốc sát khuẩn

3.2. Trên vết thương
- Đo pH ở chỗ cần bôi. Xác định vi khuẩn (nếu cần)
- Làm sạch vêt thương
- Rửa bằng nước diệt khuẩn
- Bôi thuốc tuỳ theo pH vêt thương

II. CÁC THUỐC SÁT KHUẨN THÔNG THƯỜNG
2.1. Cồn
Thường dùng cồn ethylic (C 2H5OH) và isopropyl (isopropanol) [CH 3CH(OH)CH3] 60 -
70%. Tác dụng giảm khi độ cồn <60% và >90%.
Cơ chế: gây biến chất protein
Tác dụng: diệt khuẩn, nấm bệnh, siêu vi. Không tác dụng trên bào tử.
Dùng riêng hoặc phối hợp với tác nhân diệt khuẩn khác. Ở nồng độ thấp cồn có thể được sử dụng như
các cơ chất cho một số vi khuẩn, nhưng ở nồng độ cao các phản ứng khử
hydro sẽ bị ức chế.
2.2. Nhóm halogen

2.2.1. Iod
- Cơ chế: Iod làm kết tủa protein và oxy hóa các enzim chủ yếu theo nhiều cơ chế: phản ứng với các
nhóm NH, SH, phenol, các carbon của các acid béo không bão hoà, làm ngăn cản tạo màng vi khuẩn.
- Iod có tác dụng diệt khuẩn nhanh trên nhiều vi khuẩn, virus và nấm bệnh.
Dung dịch 1:
20.000 có tác dụng diệt khuẩn trong 1 phút, diệt bào tử trong 15 phút và tương đối ít độc với mô.
- Chế phẩm và cách dùng:
Iod được dùng như thuốc sát khuẩn và tẩy uế.
+ Cồn iod: có iod 2% + kali iodid 2,4% (để làm iod dễ tan) + cồn 44 -50%. Nhược điểm là hơi kích ứng da,
sót và nhuộm màu da.
+ Povidon - iod, là “chất dẫn iod” (iodophore), chế tạo bằng cách tạo phức iod với polyvinyl pyrolidon.
Iod sẽ được giải phóng từ từ. Hiện được dùng nhiều vì vững bền hơn cồn iod ở nhiệt độ môi trường, ít kích
ứng mô, ít ăn mòn ki m loại. Tuy nhiên giá thành đắt. Với vết thương mở, do độc với nguyên bào
sợi (fibroblast) nên có thể làm chậm lành.
Chế phẩm:
- Betadin
- Povidin

2.2.2. Clo
- Tác dụng và cơ chế: clo nguyên tố phản ứng với nước tạo thành acid hypoclorơ (HOCl).
Cơ chế diệt khuẩn còn chưa rõ.
+ Có thể HOCl giải phóng oxy mới sinh ra để oxy hóa các thành phần chủ yếu của nguyên sinh chất:
2HOCl = H2O + Cl2 + Oư
+ Hoặc, Cl kết hợp với protein của màng tế bào để tạo thành phức hợp N - Clo làm gián đoạn chuyển hóa
màng tế bào.
+ Hoặc, oxy hóa nhóm - γH của một số enzym làm bất hoạt không hồi phục.
Tác dụng ở pH trung tính hoặc acid nhẹ (tối ưu là 5) ở nồng độ 0,25 ppm (phần triệu) Clo có tác dụng
diệt khuẩn trên nhiều chủng, trừ vi khuẩn lao có sức đề kháng 500 lần mạnh hơn.
Clo không còn được dùng như một thuốc sát khuẩn vì có tác dụng kích ứng và bị mất hoạt tính bởi các
chất hữu cơ do chúng dễ kết hợp với các chất hữu cơ. Tuy nhiên, nó còn được dùng nhiều làm thuốc tẩy
uế và khử trùng nước vì rẻ.
- Các chế phẩm:
. Cloramin: là các dẫn xuất Cl – N của sulfonamid, dẫn xuất guanidin, phức hợp N dị vòng, chứa
25 - 29% Clo. Tác dụng kéo dài, ít kích ứng mô, nhưng yếu.
Thường dùng Cloramin T (Na -p-toluen sulfon cloramid), dung dịch 1 -2% để rửa vết thương.
. Halazon (acid p -dicloro sulfamidobenzoic): viên 4mg đủ sát khuẩn cho 1 lít nước, uống được sau 30 phút.

3. CÁC CHẤT OXY HÓA
Thường dùng peroxyd hydro (H 2O2, nước oxy già), thuốc tím (KMnO 4). Do có tác dụng oxy hóa, tạo gốc
tự do, nên các thuốc này làm tổn hại màng vi khuẩn, ADN và một số thành phần chủ yếu khác của tế bào.
Nước oxy già 3 - 6% có tác dụng diệt khuẩn và virus, nồng độ cao hơn (10 - 25%) diệt được bào tử.
Khi tiếp xúc với mô sẽ giải phóng oxy phân tử. Không thấm vào mô nên chỉ dùng để súc miệng và rửa các
vết thương, c ác bộ phận giả. Catalase làm bất hoạt thuốc.
Nước oxy già độc với nguyên bào sợi nên có thể làm chậm liền sẹo vết thương. Không được dùng H2O2
dưới áp lực để rửa các vết thương sâu có rách nát vì có thể tạo hơi ở dưới
da.
- Thuốc tím: với nồng độ 1:10.000, có tác dụng diệt nhiều loại vi khuẩn trong 1 giờ. Nồng độ cao hơn dễ
kích ứng da. Thường dùng rửa các vết thương ngoài da có rỉ nước.

4. CÁC KIM LOẠI NẶNG
Mọi kim loại nặng đều có tác dụng diệt khuẩn. Thường dùng là Hg, Ag.
4.1. Thuỷ ngân
- Tác dụng và cơ chế: ion Hg++ làm kết tủa protein và ức chế các enzym mang gốc SH. Vì vậy các vi
khuẩn bị ức chế bởi Hg, có thể hoạt động trở lại khi tiếp xúc với các phức hợp
có nhóm SH. Thuỷ ngân hữu cơ có tác dụng kìm khuẩn và yếu hơn cồn, kém độc hơn Hg vô cơ.
- Chế phẩm: Thuốc đỏ (mercurochrom) dung dịch 2%, chỉ dùng bôi ngoài da.
Không nên bôi diện rộng ở vùng đã mất da. Không được uống, có thể gây độc cho ống thận. Dùng thận
trọng ở trẻ sơ sinh.

4.2. Bạc
- Tác dụng và cơ chế: Bạc ion kết tủa protein và ngăn cản các hoạt động chuyển hóa cơ bản của tế bào
vi khuẩn. Các dung dịch muối bạc vô cơ có tác dụng sát khuẩn.
- Các chế phẩm:
. Bạc nitrat dung dịch 1% dùng nhỏ mắt cho trẻ mới đẻ, chống được bệnh lậu cầu gây viêm mắt.
Hiện đang thay thế bằng pomat kháng sinh.
. Bạc - Sulfadiazin 1% dưới dạng kem bôi chữa bỏng, làm giải phóng từ từ cả bạc và sulfadiazin, có tác
dụng diệt khuẩn tốt và làm giảm đau. Bôi diện rộng và kéo dài, đôi khi
có thể gây giảm bạch cầu.
. Các chế phẩm bạc dưới dạng keo (collargol, protargol, arg yrol) có tác dụng kìm khuẩn tốt, ít gây thương
tổn cho mô. Chế phẩm chứa 20% bạc dùng sát khuẩn niêm mạc. Thuốc
bị huỷ bởi ánh sáng nên phải để trong lọ mầu.
Mọi chế phẩm bạc dùng lâu gây chứng nhiễm bạc (argyrism).

5. XÀ PHÒNG
Xà phòng là chất diện hoạt l oại anion, thường là các muối Na hoặc K của một số acid béo. Vì NaOH và KOH
là các base mạnh trong khi phần lớn acid béo lại là các acid yếu,
vì vậy các xà phòng khi tan trong nước đều là các base mạnh (pH 8.0 - 10.0), dễ kích ứng da (pH của da
= 5,5 - 6,5). Một số xà phòng được sản xuất với pH = 7.
Các xà phòng loại bỏ trên bề mặt da các chất bẩn, các chất xuất tiết, biểu mô tróc vẩy và mọi vi khuẩn
chứa trong đó. Để làm tăng tác dụng sát khuẩn của xà phòng, một số chất diệt khuẩn đã được cho thêm
vào như hexaclorophan, phenol, carbanilid, là những chất sẽ trình bày ở dưới.

6. CÁC HỢP CHẤT CHỨA PHENOL
Phenol được Lister dùng đầu tiên từ năm 1867 để tiệt khuẩn. Do làm biến chất protein và
kích ứng da nên độc, chỉ dùng để tẩy uế. Ngày nay dùng các chất thay thế.

6.1. Hexaclorophen
Là chất kìm khuẩn mạnh.
Xà phòng và chất tẩy uế chứa 3% hexaclorophen có tác dụng kìm khuẩn mạnh và lâu bền vì giữ lại ở lớp
sừng của da. Nhưng dùng nhiều lần có thể bị nhiễm độc, nhất là ở trẻ nhỏ.

6.2. Carbanilid và Salicylanilid
Hiện dùng thay thế hexaclorophen trong “xà phòng sát khuẩn”.
Dùng thường xuyên xà phòng này có thể làm giảm mùi của cơ thể do ngăn ngừa được sự phân huỷ của
vi khuẩn với các chất hữu cơ cho trong mồ hôi.
Các loại xà phòng này có thể gây dị ứng hoặc mẫn cảm với ánh sáng.

6.3. Clohexidin

Là dẫn xuất của biguanid, có tác dụng làm phá vớ màng bào tương của vi khuẩn, đặc biệt là chủng
gram (+). Dùng trong “xà phòng sát khuẩn”, nước súc miệng. Dung dịch 4% dùng rửa vết thương.
Thuốc có thể được giữ lại lâu ở da n ên tác dụng kìm khuẩn kéo dài.