BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH KHOA ĐỊA LÝ TIỂU LUẬN Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THƯ VIỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN MỤC LỤC 1 PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài: Hệ thống thư viện hiện nay ngày càng được mở rộng không chỉ ở các trường học mà còn ở các xã, huyện, tỉnh trên khắp cả nước. Đặc biệt trong các trường đại học, thư viện là nơi nắm giữ các nguồn tài nguyên trí tuệ phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giáo viên, sinh viên, Và trong trường Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn ( Cơ sở Linh Trung – Thủ Đức), thư viện là nơi luôn được mở rộng, nâng cấp với diện tích 1313 mét vuông với sức chứa 540 chỗ ngồi, gồm các phòng: Phòng đọc tham khảo, phòng đọc tham khảo Hàn Quốc, trung tâm Hán học Đài Loan, phòng mượn, phòng giáp trình, phong đọc báo – tạp chí, phòng tra cứu dữ liệu, phòng tra cứu – Đa phương tiện, phòng đọc tự do, phòng thảo luận nhóm và một lượng thông tin trên tài liệu giấy với 187252 bản sách, cơ sở dữ liệu trực tuyến với 82617 biểu ghi, tài liệu điện tử với 3469 bản (tương ứng với 1968 tên tài liệu), (theo thống kê của trung tâm thư viện trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn).Trên những điều kiện đó, thư viện trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn mong muốn tạo nên một môi trường tốt nhất để sinh viên học tập, nghiên cứu. Nhưng trên thực tế, một số sinh viên trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn lại sử dụng thư viện không đúng mục đích cho phép như ngủ, ăn uống, trò chuyện thỏa thích, sử dụng dịch vụ internet trong việc vui chơi (facebook, game online, chat,…). Chính vì sự mâu thuẫn này, chúng tôi đã chọn đề tài “Thực trạng sử dụng thư viện của sinh viên trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn” làm nghiên cứu.2.Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Cơ sở 2, trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích nghiên cứu -Giúp nâng cao ý thức của sinh viên trong việc sử dụng thư viện cho đúng mục đích. -Tạo không gian thư viện lành mạnh, lịch sự, văn hóa. 4.Nhiệm vụ -Khảo sát số lượng và thực trạng của sinh viên khi vào thư viện. -Đánh giá mức độ thường xuyên và thái độ của sinh viên khi vào thư viện. -Đề xuất giải pháp khắc phục và kiến nghị. 5.Ý nghĩa thực tiễn và giải pháp: a.Ý nghĩa thực tiễn: Giúp sinh nhận thức rõ việc sử dụng thư viện có hiệu quả nhất đồng thời tạo một nét đẹp của sinh viên trong việc sử dụng thư viện.Nâng cao chất lượng thư viện hơn trong việc truyền, lưu giữ thông tin cho sinh viên. b.Giải pháp: - Tạo cho sinh viên cách sử dụng thư viện có hiệu quả bằng các lớp học hướng dẫn sử dụng thư viện. -Tổ chức các cuộc thi về thư viện (cách sử dụng,, ý thức,….) 2 -Quản lý thư viện chặc chẽ hơn, tăng cường nhắc nhở sinh viên nâng cao ý thức sử dụng thư viện đúng mục đích. -Tăng cường các đầu sách chuyên ngành và giải trí. -Tổ chức lấy ý kiến đóng góp của sinh viên về việc sử dụng thư viện có hiệu quả 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng bằng cách thu thập dữ liệu thông qua công cụ bảng hỏi.Là phương pháp được sử dụng để lấy những thông tin trực tiếp của sinh viên,nhằm hiểu biết được mức độ quan tâm của sinh viên về vấn đề nghiên cứu.Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê mô tả và đưa ra kết quả nghiên cứu.Từ kết quả nghiên cứu đề ra biện pháp khắc phục,cải cách ý thức sinh viên đối với sử dụng thư viện. 7.Tổng quan tình hình nghiên cứu: Nhìn về mặt vĩ mô các vấn đề liên quan đến thư viện trong giai đoạn phát triển như hiện nay. Sinh viên trong các trường Đại học có thể tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác nhau: từ các giảng viên, từ các cuộc thảo luận, hội thảo khoa học, từ các cơ sở thực nghiệm, từ thực tiễn xã hội và từ thư viện. Trong những nguồn thông tin ấy, thông tin từ thư viện sẽ là quan trọng nhất, đầy đủ, toàn diện, phong phú và đa dạng nhất. Thư viện trở thành nơi tìm đến của sinh viên tìm hiểu,khai hác thông tin kiến thức, phục vụ cho nhu cầu học tập, nghiên cứu của họ.Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về nhìu vấn đề liên quan đến thư viện.Đề tài khoa học thư viện “Giải pháp nguồn tin điện tử phục vụ công tác đào tạo và nghiên cưú khoa học tại trường Đại học Ngoại Thương” của thạc sĩ Trần Thị Kiều Phương hoàn thành vào tháng 11 năm 2011. Trên cơ sở khảo sát nguồn tin điện tử của thư viên trường ĐH Ngoại Thương đề tài xác định được phương hướng và xác định giải pháp nâng cao và phát triển nguồn tin điện tử của trường nhằm phục vụ công tác học tập nghiên cứu cũng như học tập của sinh ciên và cán bộ nhân viên trường. Hay bài viết của thạc sĩ Lê Ngọc Oánh (2006), “Thư viện góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở bậc đại học”, Bản tin Thư viện – Công nghệ thông tin Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM Bài viết bàn về vai trò, của thư viên đối với nhà trường ngành giáo dục mục đích,chức năng, nhiệm vụ của thư viện và các giải pháp nâng cao chất lượng thư viện trường học. Bài viết “Thư viên đại học và việt đổi mới phương pháp học tập của sinh viên” của Lê Quỳnh Chi được in trong tạp chí Khoa học Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh đăng ngày 07_9_2011.Bài viết nói về thư viện và việc đổi mới phương pháp học tập của sinh viên, đưa ra nhiều phương pháp, thư viện tạo động cơ học tập, hình thành thói quen tra cứu tham khảo tài liệu nhằm đổi mới phương pháp học tập của sinh viên,từng bước hình thành kĩ thành kĩ năng đọc tài liệu, kĩ năng tìm kiếm, khai thác nguồn thông tin đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp học tập. Thư viện trường đại học là một nơi để sinh viên học tập nghiên cứu tham khảo tài liệu, nghiên cứu.Là một môi trường rèn luyện không thể thiếu để sinh viên phát huy khả năng độc lập tư duy, sáng tạo….Nguyễn Thị Lan Thanh (2004), “Thư viện các trường đại học với việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học”, Tham luận tại Hội thảo “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam – Hội nhập và thách thức”, Hà Nội.Nói về vai trò của trường đại học với việc nâng cao chất lượng nền giáo dục đồng thời đưa ra nhiều giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở Việt Nam….Tuy nhiên những đề tài nghiên cứu đó chỉ quan tâm đến vai 3 trò, định hướng phát triển thư viện.Những ảnh hưởng của thư viện đến nền giáo dục đến sự phát triển của sinh viên chứ chưa tìm hiểu đến ý thức sử dụng của sinh viên về sử dụng thư viện. Ở góc độ vi mô, tại trường ĐHKHXH&NV cũng có những đề tài nghiên cứu của sinh viên, …về vấn đề thư viện.Nhưng, vấn đề sử dụng thư viện của sinh viên chưa được đề cập tới trong các tài liệu, nghiên cứu một cách rõ ràng và hệ thống.Do đó, việc tìm hiểu và nghiên cứu để tìm ra các giải pháp, kiến nghị hữu hiệu để nâng cao nhận thức của sinh viên về vấn đề sử dụng thư viện của sinh viên.Các nội dung nghiên cứu trên, sẽ là những kiến thức căn bản và là nền tảng cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi được mở rộng và hoàn chỉnh những nội dung mà các đề tài trước chưa tìm hiểu. Phần II: NỘI DUNG CHƯƠNG I: THÔNG TIN THƯ VIỆN I. Khái niệm 1.1 Thư viện là gì? Thư viện là nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thông tin qúy vị cần hoặc muốn. Thư viện chỉ có giá trị khi nó có thông tin và có người biến thông tin trở nên hữu ích. Chúng ta có nhiệm vụ đảm bảo sự tiếp cận không hạn chế các ý tưởng mà chúng ta thừa hưởng một cách hợp pháp, sau đó định hình và chuyển giao cho thế hệ tiếp theo. />Định nghĩa mới nhất của UNESCO: Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi, là bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách,báo, tài liệu các loại, ấn phẩm định kì Nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài liệu để nghiên cứu thông tin, giáo dục & giải trí. /> 1.2 Thư viện số (thư viện trực tuyến là gì)? Thư viện số hay thư viện trực tuyến là thư viện mà ở đó các bộ sưu tập được lưu trữ dưới dạng số (tương phản với các định dạng in, vi dạng, hoặc các phương tiện khác) và có thể truy cập bằng máy tính. Nội dung số có thể được lưu trữ cục bộ hoặc truy cập từ xa qua mạng máy tính. Thư viện số là một loại hệ thống truy hồi thông tin. /> 1.3 Thực trạng là gì? 4 Tình trạng là thực trạng có thật có thể phản ánh những tình trạng xấu ảnh hưởng đến xã hội và cũng có thể là tình trạng mang tính tích cực. http://www.từ-điển.com/thực trạng II.Nguồn gốc và vai trò của thư viện 2.1 Nguồn gốc thư viện Khoảng năm 290 TCN, pharaoh Ptolemy I Soter cho xây "Museion", trong đó có một viện đại học, một viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000 cuộn (scroll) sách vào lúc bắt đầu hoạt động. Người ta thường ghi rằng thư viện chỉ thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II Philadelphus (285 - 246 TCN). Vua này đã định chỉ tiêu 500.000 cuộn sách cho Thư Viện.[1]Theo nguồn tin xưa nhất, Bức thư của Aristeas (thế kỷ 2 TCN), Thư Viện vào lúc đầu được tổ chức bởi Demetrius của Phaleron,[2] một môn đồ của triết gia Aristotle, tức có thể là bạn học với pharaoh Ptolemy I Soter.Có câu chuyện kể rằng: vua Ptolemy III Euergetes hạ lệnh rằng, ai đến Alexandria có mang theo sách vở viết trên bất cứ chất liệu gì, bằng tiếng gì, theo Galen (129 - 216), đều phải kê khai vào danh sách "sách tàu" (vì đi tàu đến); những sách này đều được thư lại của nhà nước sao chép nhanh chóng. Có khi bản gốc được đem vào Thư Viện, và bản sao giao lại cho "khổ chủ".Trường hợp sách được viết bằng thứ tiếng khác thì ông cho dịch sang tiếng Hy Lạp. Muốn dịch sách từ một thứ tiếng sang tiếng Hy Lạp, phải có người biết rành cả hai thứ tiếng và có đủ trình độ hiểu biết về lãnh vực đề cập trong sách. Công việc này hẳn đã động viên rất nhiều người trí thức đến từ nhiều nơi. Câu chuyện 72 giáo sĩ Do Thái giáo - mỗi bộ lạc của 12 bộ lạc Do Thái được đại diện bởi 6 vị giáo sĩ - đã đóng cửa làm việc trong 72 ngày trên đảo Pharos để dịch Kinh Thánh Cựu Ước sang tiếng Hy Lạp vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.Vua Ptolemy III cũng rao mua sách từ khắp các nước mà ông biết đến, trong đó có Rhodes và Athena.[3] Theo Galen, Ptolemy III Euergetes hỏi mượn người Athena bản viết tay nguyên gốc của Aeschylus, Sophocles và Euripides; người Athena đòi số tiền thế chân khổng lồ là 15 talent. Vua Ptolemy III giao đủ tiền, nhưng giữ luôn sách lại, không thèm đổi lấy lại tiền thế chân.Bằng những cách như vậy, Thư Viện dần dần có được đến 90.000 tài liệu được coi là bản nguyên thủy.Ban đầu, sách Thư Viện phần lớn là những cuộn giấy chỉ thảo (papyrus). Nhưng ngày càng có thêm nhiều cuộn da thuộc, chất liệu thông dụng sau năm 300 TCN. Người ta cho rằng Thư Viện thúc đẩy nhu cầu, khiến cho sách viết trên da thuộc phát triển, vì nhà Ptolemy giữ giấy chỉ thảo dùng cho Thư Viện, nên xuất khẩu giấy này rất ít, các xứ khác phải tìm tòi phát triển chất liệu khác để ghi chép lên.Theo học giả Carl Sagan, Thư Viện có lúc có đến gần 1 triệu cuộn sách. Ngày nay không còn thư mục nào tồn tại, nên khó biết thực hư ra sao. Nhiều học giả đồng ý với con số xấp xỉ 700.000 cuộn sách trước vụ cháy năm 48 TCN. Vài trăm ngàn cuộn sách có lẽ tương ứng với vài mươi ngàn tựa, vì nhiều tựa sách lại có nhiều dị bản song song với nhau. /> 2.2 Vai trò của thư viện 2.2.1 Thư viện là động lực đóng góp vào việc đổi mới giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực 5 Trong trường đại học, thư viện góp phần đào tạo nguồn nhân lực có tri thức cho đất nước, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển sản xuất và các khoa học công nghệ. Thư viện cung cấp cho xã hội những thông tin khoa học mới mẻ, đặc biệt là những thành quả của các công trình nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên và sinh viên trong trường. Đây là dạng thông tin mang tính đặc thù và đôi khi là những thông tin độc nhất, khó tìm thấy ở nơi khác. Thư viện bổ sung và cập nhật những kiến thức mới, những phương pháp giảng dạy tiên tiến làm cho việc học tập và giảng dạy thêm sinh động và hấp dẫn. Thư viện mở rộng điều kiện học tập cho sinh viên cả về không gian, thời gian và các lĩnh vực tri thức hơn so với khuôn khổ qui định về nội dung, chương trình và kế hoạch đào tạo của nhà trường. Công nghệ thông tin - truyền thông đang đưa đến một cuộc cách mạng giáo dục - sư phạm thật sự, làm thay đổi nhiều khái niệm cơ bản của giáo dục, nghiên cứu khoa học. Tại nhiều hội thảo bàn về vấn đề này, các ý kiến đã thống nhất hiệu quả, tiện ích của áp dụng phương tiện thông tin hiện đại và công nghệ vi tính để soạn giáo trình, dạy - học, khai thác các nguồn tư liệu trong dạy - học và nghiên cứu khoa học. Tham gia quá trình ứng dụng công nghệ thông tin và Internet vào giảng dạy - học tập, nghiên cứu khoa học, thư viện trở thành những trung tâm thông tin tư liệu thực sự, góp phần đắc lực biến thông tin thành tri thức bằng cách liên kết các nguồn tài nguyên thông tin với nhau, đồng thời mở rộng khả năng đáp ứng nhu cầu tin của mọi đối tượng qua sự hợp tác liên thông và chia sẻ nguồn lực thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm cả thời gian và vật chất cho người sử dụng. Vai trò giáo dục, góp phần đào tạo nguồn nhân lực của cán bộ thư viện được thể hiện rõ nét qua việc hướng dẫn, giảng dạy về các kỹ năng tìm kiếm và khai thác thông tin để hỗ trợ cho người dùng tin khai thác hiệu quả nguồn thông tin sẵn có. 2.2.2 Thư viện góp phần đổi mới phương pháp dạy - học, tạo môi trường tự học và tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của người học Mục tiêu quan trọng nhất đối với giáo dục đại học trong kỷ nguyên thông tin là tạo ra những con người có khả năng tự định hướng học tập, tự học thường xuyên, 6 biết chọn lọc, xử lý thông tin và có khả năng sáng tạo tri thức, tự tin hội nhập vào thị trường lao động “chất xám” quốc tế đầy tính cạnh tranh. Đây là xu thế tất yếu trong xã hội thông tin. Hoạt động giảng dạy, học tập thực chất là một quá trình truyền đạt và tiếp nhận thông tin. Nếu giáo viên nắm bắt, cập nhật được những thông tin mới thường xuyên và vận dụng phù hợp với quá trình giảng dạy thì bài giảng sẽ sinh động, phong phú và đi sát với thực tế hơn. Nếu sinh viên tìm tài liệu, khai thác thông tin tư liệu hiệu quả thì chất lượng học tập và khả năng nghiên cứu khoa học sẽ được nâng cao rõ rệt. Trong trường đại học, hoạt động khai thác thông tin đóng vai trò tích cực vào việc nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp dạy – học. Phương pháp dạy và học mới đòi hỏi một số điều kiện tiên quyết cho phép người học “phát huy nội lực” và người dạy “dạy cách phát huy nội lực”. Phương pháp dạy - học mới sẽ rút ngắn thời gian giảng dạy lý thuyết trên cơ sở sinh viên được cung cấp nguồn thông tin dồi dào trước khi lên lớp, tăng thời gian tự học của sinh viên với sự trợ giúp của thư viện. Và cùng với học trò, người thầy lại tiếp thu những kiến thức mà chính mình đang giảng dạy, nhìn nhận chúng qua lăng kính của người học. Có thể nói đó là quá trình truyền thụ – tiếp thu kiến thức một cách chủ động và có tính sáng tạo. Chính vì vậy, để thực hiện tốt sứ mệnh của mình, người thầy không thể không đọc tài liệu, cập nhật và sử dụng thông tin. Cũng có thể nói rằng, trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu không có vai trò đóng góp của thư viện. Việc đào tạo bậc đại học chỉ thực sự có chất lượng khi hoạt động học tập của sinh viên được thực hiện trong cả bốn môi trường: lớp học, thư viện, cơ sở thực nghiệm và môi trường thực tế. Trong đó, thư viện có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính độc lập, sáng tạo của sinh viên. Người sinh viên phải học một cách thông minh hơn, chủ động hơn qua việc phân tích, tổng luận những tài liệu tra tìm được ở thư viện. Từ đó sẽ xóa bỏ lối học thụ động, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của sinh viên. 2.2.3 Vai trò của cán bộ thư viện đại học trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của người sử dụng Trong tất cả các yếu tố góp phần làm tăng chất lượng, hiệu quả của hoạt động quản lý và khai thác thông tin thư viện, yếu tố con người là quan trọng nhất và mang tính quyết định. Cán bộ thư viện là cầu nối giữa nguồn tài nguyên thông tin và người dùng tin. Chúng ta có thể nói một khiếm khuyết rất quan trọng của thư viện đại học hiện tại là chưa chú trọng đúng mức tới việc hướng dẫn cụ thể sinh viên phương pháp nghiên cứu, tìm tư liệu, cung cấp thông tin thư tịch để sinh viên hứng khởi, ham thích trong công việc nghiên cứu.Với vai trò đóng góp vào sự đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập tại trường, cán bộ thư viện phải chủ động giới thiệu, cung cấp nguồn thông tin phong phú, đa dạng. Đồng thời, cán bộ thư viện phải tạo môi trường thân thiện, thông thoáng, chuyên nghiệp không chỉ bằng khả năng chuyên môn, nghiệp vụ giỏi mà còn bằng khả năng giao tiếp tốt. Các cán bộ thư viện ngày nay không thể chỉ bằng lòng là những người “thủ kho giữ tài liệu” với phương châm “ vui vẻ, hòa nhã, nhiệt tình” mà còn phải là những 7 “ hoa tiêu” trong ”đại dương” thông tin; năng động, thạo nghề, có trình độ ngoại ngữ, tin học để chỉ ra những tài liệu độc giả cần một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Bên cạnh đó, cán bộ thư viện phải luôn có ý thức trách nhiệm động viên, nuôi dưỡng thói quen và sự hứng thú đọc sách cho sinh viên. Để làm được điều này, nhà trường cần có một kế hoạch gửi các cán bộ thư viện đi đào tạo lại, đào tạo mới không chỉ về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn cả về tin học, ngoại ngữ bằng những khóa học ngắn hạn, dài hạn trong và ngoài nước. Đồng thời, bổ sung những cán bộ trẻ có năng lực, có khả năng sáng tạo, có tâm huyết. Ngoài các kiến thức về chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, người cán bộ thư viện còn cần được đào tạo các kiến thức về tâm lý, kỹ năng giao tiếp… để biết vận dụng khéo léo khả năng, trình độ của mình vào công việc và có những thái độ, cư xử thích hợp với bạn đọc trong từng tình huống khác nhau. Việc cán bộ thư viện biết cách cộng tác và tranh thủ sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo trong nhà trường và đội ngũ giảng viên là điều cơ bản nhất cho sự thành công của các hoạt động thư viện. Cán bộ thư viện phải tìm những cơ hội để có quan hệ mật thiết hơn với các giảng viên nhằm cung cấp thông tin, hỗ trợ họ trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và chính giảng viên lại là người cung cấp những thông tin có giá trị để phát triển bộ sưu tập và các dịch vụ của thư viện. Khi thiết lập được sự cộng tác tốt thì chắc chắn thư viện sẽ có một môi trường làm việc thuận lợi. Công tác liên hệ tốt sẽ đưa giảng viên và sinh viên tham gia vào các hoạt động của thư viện, chia sẻ, cảm thông với thư viện như chính người “trong cuộc”. /> III.Một số thư viện nổi tiếng trên thế giới Thư viện Admont, Áo Nằm trên dòng sông Enns thơ mộng, Admont là thư viện dành cho tu sĩ lớn nhất thế giới. Xây dựng năm 1776, mái vòm thư viện được trang trí bằng những bức bích họa của họa sĩ đại tài Bartolomeo Altomonte. Thư viện hiện lưu giữ hơn 200.000 đầu sách. Thư viện Saint Gall, Thụy Sĩ Thư viện được thành lập bởi Thánh Othmar, hiện nắm giữ bộ sưu tập sách cổ nhất Thụy Sĩ với 2.100 bản thảo từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 15. Thư viện mạng phong cách kiến trúc Rococo, do kiến trúc sư Peter Thumb thiết kế. 8 Thư viện Wiblingen, Đức Wiblingen được xây dựng năm 1093. Ngày nay tu viện được trưng dụng làm Khoa Y học của Đại học Ulm. Thư viện nằm trong tu viện này đặc biệt nổi tiếng với kiến trúc đặc trưng của thế kỷ 18 và được mở cửa thường xuyên phục vụ người dân đến tham quan và tra cứu tư liệu.Thư viện tòa thánh Vatican Thư viện Tòa Thánh Vatican được coi là một trong những thư viện lâu đời nhất thế giới có niên đại từ thời giáo hoàng đầu tiên lên ngôi. Thư viện chứa nhiều tài liệu bí mật của tòa thánh và được trùng tu lần mới nhất là vào năm 2010. Thư viện của tu viện Melk, Áo Được thành lập vào năm 1089, tu viện của dòng tu Benedictine Melk đã hoạt động hơn 900 năm mà chưa từng bị gián đoạn. Thư viện trong tu viện là một căn phòng làm bằng đá cẩm thạch vô cùng ấn tượng, được trang trí bởi những bức bích họa nổi tiếng của họa sĩ Paul Troger, có thể nhìn ra sông Danube. Thư viện Bảo tàng Morgan, New York Pierpont Morgan (1837 - 1913) là một chuyên gia tài chính có ảnh hưởng ở New York và cũng là một nhà sưu tập lớn mà bằng chứng là những bảo tàng và thư viện do ông thành lập. Thư viện hiện lưu giữ rất nhiều tài liệu quý giá như Kinh Thánh Gutenberg, bản thảo Symphony của nhà soạn nhạc nổi tiếng Mozart hay thư tín của Oscar Wilde. Thư viện của lâu đài Fontainebleau, Pháp Thư viện của lâu đài Fontainebleau có thể coi là tổ tiên của thư viện quốc gia Pháp, được thành lập vào năm 1808 nhưng theo thiết kế từ năm 1786. Ngay từ khi thành lập, thư viện đã có 4.500 cuốn sách liên quan đến lịch sử, địa lý và khoa học. Thư viện Chethams, Manchester, Anh Thư viện Chethams là một trong những thư viện lâu đời nhất nước Anh, được thành lập năm 1653 hiện phục vụ cho sinh viên nghiên cứu học tập. Thư viện chứa hơn 100.000 cuốn sách, trong đó 60.000 cuốn xuất bản trước năm 1851. Thư viện Bảo tàng Victoria và Albert, London, Anh Thư viện này nằm trong Bảo tàng Victoria và Albert ở London, là công trình được xây dựng dành riêng cho nghệ thuật trang trí và nằm trong khu phố South Kensington. Thư viện Alexandrina, Ai Cập Được xây dựng để ghi nhớ sự tồn tại của thư viện cổ Alexandria, thư viện mới được khánh thành vào năm 2002 sau 7 năm xây dựng tại chính khu đất cũ của thư 9 viện cổ Alexandria. Thư viện có thể lưu trữ đến 5 triệu cuốn sách. /> IV. Thư viện ở Việt Nam 4.1 Một số thư viện lớn Thư viện Quốc Gia Hà Nội là thư viện Quốc gia lớn nhất cả nước, nằm trên phố Tràng Thi. Được thành lập năm 1919, thư viện lúc đó có tên là thư viện Pierre Pasquier. Năm 1939, thư viện chứa 92.163 cuốn sách, chiếm 20% số lượng sách tại Việt Nam có lúc đó. Sau 1954, thư viện được đổi tên thành thư viên trung tâm. Ngày 26/6/1957, đổi tên thành thư viên Quốc gia. Hàng năm thư viện Quốc gia luôn tiếp nhận sách mới sản xuất tại Việt Nam và nước ngoài. Tổng số sách trong thư viện lên đến hơn một triệu cuốn sách, hơn 7 tạp chí, báo của Việt Nam và nước ngoài. Các luận văn tiến tiến sĩ và thạc sĩ của các nhà khoa học Việt Nam đều được giữ ở đây. Thư viện Quốc gia thường xuyên trao đổi sách với hơn 300 thư viện, các viện nghiên cứu lớn của hơn 100 nước trên thế giới và là thành viên của Hiệp hội Thư viện Quốc tế. Thư viện Quốc gia đã lưu trữ hàng trăm cuốn sách quý từ khắp nơi trên thế giới. Thư viện lưu giữ sách theo các chủ đề lớn về đời sống, kinh tế, khoa học, lịch sử, và kĩ thuật. Các thư viện khác ở Hà Nội là thư viện Khoa học và Kĩ thuật, thư viện Khoa học xã hội (26 Lý Thường Kiệt), thư viện Quân Đội (phố Lý Nam Đế) và thư viện Hà Nội (47 Bà Triệu) />Thư viện khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh Phòng có kích thước lớn nhất trong các phòng phục vụ của thư viện, có hơn 400 chỗ ngồi.Phục vụ cho bạn đọc đến nghiên cứu và học tập. (Tầng 1) Trang thiết bị: 02 máy tính dành cho bạn đọc tra cứu CSDL của Ngân hàng Thế Giới. 04 máy tính cho bạn đọc tra cứu cơ sở dữ liệu của Thư viện Với hơn 20.000 bản, sách được xuất bản từ năm 2007 trở lại đây, thuộc các lĩnh vực KHTN, KHKT, KHXH, TPVH, sách tham khảo. Gồm các ngôn ngữ: Việt, Anh, Trung hoa, v.v Từ điển chuyên ngành 10 Sách tiếng Anh của Quỹ Châu Á Góc Thông tin Ngân hàng thế giới thuvienkhth.blogspot.com 4.2 Thư viện trường Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh 4.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển Thư viện Đại học KHXH & NV TP. HCM có lịch sử 60 năm. Tiền thân là thư viện trường Đại học Văn Khoa thuộc Đại học Sài Gòn (thành lập năm 1955), phục vụ cho công tác đào tạo 7 ngành: Văn chương Việt Nam, Hán Nôm, Lịch sử, Địa lý, Triết học, Anh văn, Pháp văn. Tháng 04/1977 Thư viện trường Đại học Văn Khoa hợp nhất với thư viện trường Đại học Khoa Học thành thư viện trường Đại học Tổng hợp TP HCM phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học cơ bản lớn nhất ở các tỉnh phía Nam. Vào tháng 03/1996, nhằm đổi mới, sắp xếp lại mạng lưới các trường Đại học trên phạm vi cả nước, theo quyết định 1233/GD–ĐT ngày 30/03/1996 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo, trường Đại học KHXH & NV được thành lập (tách ra từ trường Đại học Tổng hợp TP HCM), là trường thành viên của Đại học Quốc Gia TP HCM. Trên cơ sở này, Thư viện được tách ra từ thư viện Đại học Tổng hợp. Từ năm 1997 đến nay, thư viện phục vụ theo hướng mở, tiến hành tin học hóa thư viện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên tiếp cận dễ dàng vốn tài liệu – nguồn lực thông tin của thư viện. Hiện nay Thư viện ĐHKHXH & NV là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của trường Đại học KHXH & NV - Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG TP HCM). Thư viện giữ một vị trí quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại 14 khoa và 8 bộ môn trực thuộc trường với 31 ngành khác nhau thuộc các lĩnh vực KHXH & NV. Vốn tài liệu – nguồn lực thông tin của thư viện được bổ sung và cập nhật theo các chuyên ngành đào tạo của trường và đã đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng tăng lên của cán bộ, giảng viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và sinh viên của trường. Đồng thời vốn tài liệu - nguồn lực thông tin của thư viện cũng thu hút được sự chú ý của nhiều cán bộ thuộc cơ quan đơn vị khác trong và ngoài thành phố Hồ Chí Minh.Thư viện phục vụ các bậc đào tạo Đại học về các ngành: Triết học, Ngữ văn, Báo chí, Lịch sử, Địa lý, Thư viện – Thông tin học, Đông phương học, Xã hội học, Giáo dục học, Việt Nam học, Ngữ văn Anh, Ngữ văn Pháp, Ngữ văn Nga, Ngữ văn Trung Quốc, Ngữ văn Đức, Văn hóa học, Nhân học, 11 Quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó vốn tài liệu - nguồn lực thông tin của thư viện phục vụ đắc lực cho các bậc đào tạo cao học về các ngành: Văn học Việt Nam; Ngôn ngữ học so sánh; Ngôn ngữ Nga – Slave; Lịch sử Việt Nam; Dân tộc học; Địa lý học; Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tái tạo tài nguyên thiên nhiên; Triết học; Giảng dạy tiếng Anh; Xã hội học; Khoa học Thư viện – Thông tin. Ngoài ra thư viện cũng giữ vai trò quan trọng trong việc phục vụ đào tạo bậc tiến sĩ về các ngành: Ngôn ngữ học so sánh; Lý thuyết và lịch sử văn học; Ngôn ngữ Nga – Slave; Lịch sử Việt Nam; Lịch sử cận hiện đại; Dân tộc học; Lịch sử triết học; Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 4.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu,tầm nhìn, xứ mạng: Chức năng: Thư viện là trung tâm thông tin, trung tâm văn hóa, khoa học của trường ĐH KHXH & NV. Thư viện có chức năng cung cấp tri thức và thông tin – tu liệu về các lĩnh vực KHXH & NV trong và ngoài nước, phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của trường. Thư viện có trách nhiệm tổ chức, quản lý, bổ sung, thu thập, bảo quản các tài liệu, sách, báo, tạp chí, băng, đĩa, các luận án đã bảo vệ tại trường, các ấn phẩm của trường và các tài liệu lưu trữ khác, hướng dẫn và quản lý công tác quyền sở hữu trí tuệ của trường. Nhiệm vụ: Nghiên cứu đề xuất phương hướng, chủ trương, kế hoạch phát triển nguồn tài nguyên thông tin về các lĩnh vực KHXH & NV trong và ngoài nước phù hợp với nhiệm vụ đào tạo và NCKH của trường ĐH KHXH & NV đồng thời chịu trách nhiệm bảo quản nguồn tài nguyên thông tin đó. Tổ chức cho đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên của trường khai thác, sử dụng thuận lợi và có hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin do thư viện quản lý: - Tổ chức kho mở theo môn loại tri thức, phân loại và sắp xếp tài liệu theo từng chuyên ngành khoa học - công nghệ; - Xây dựng và hoàn thiện bộ máy tra cứu điện tử để bạn đọc - người dùng tin tìm tài liệu nhanh chóng; - Thông báo kịp thời những tài liệu mới, nguồn tin mới; - Tổ chức các hình thức tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi các tài liệu, sách báo, tạp chí, các nguồn tin điện tử; - Tổ chức các CSDL giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ đào tạo theo học chế tín chỉ. - Biên soạn các loại hình thư mục, ấn phẩm thông tin phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo và tự học; - Tổ chức hệ thống các phòng phục vụ: phòng đọc sách, báo - tạp chí tại chỗ, phòng mượn, phòng tra cứu dữ liệu, phòng đọc đa phương tiện, phòng đọc tài liệu hạn chế Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu những vấn đề lý luận của công tác thư viện - thư mục - thông tin trong nước và ngoài nước để góp phần xây dựng lý luận thư viện học, thư mục học và thông tin học của Việt Nam. Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ thư viện trở thành các chuyên gia thông tin; chủ động thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên 12 môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, công nghệ thông tin cho cán bộ thư viện để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ. Đặt quan hệ đối ngoại với thư viện các nước để trao đổi tài liệu, kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với thư viện đại học nước ngoài. Có trách nhiệm phối hợp, hợp tác tốt về mặt nghiệp vụ với các thư viện, Trung tâm thông tin lớn ở trung ương như Viện Thông tin KHXH VN, Trung tâm thông tin KH&CN quốc gia và Liên hiệp Thư viện các trường đại học; liên thông với hệ thống thông tin-thư viện của cả nước Thu nhận những ấn phẩm do trường xuất bản, các luận văn cao học, luận án tiến sĩ được bảo vệ tại trường hoặc người viết luận văn, luận án là cán bộ của trường. Kiểm kê tài liệu theo định kỳ hàng năm. Phối hợp chặt chẽ với các Khoa, các phòng ban chức năng trong trường để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mục tiêu: Đảm bảo Thư viện hoạt động theo chiến lược phát triển chung của Nhà trường và được quản lý một cách khoa học, hiệu quả và có trách nhiệm. Phát triển và duy trì các chính sách và kế hoạch hướng tới người sử dụng và lấy người sử dụng thư viện làm trung tâm. Phát huy tối đa khả năng và tiềm lực của các cán bộ thư viện để họ có thể làm việc một cách hiệu quả, có trách nhiệm và sáng tạo. Sử dụng thích hợp, thành thạo và sáng tạo chuyên môn nghiệp vụ thư viện. Duy trì và phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị thư viện nhằm phát huy tối đa hiệu quả và hiệu suất phục vụ để cung cấp và phân phối các dịch vụ thông tin. Hỗ trợ và mở rộng quá trình dạy và học thông qua việc phân phối và đẩy mạnh việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực thông tin. Cung cấp môi trường thông tin phong phú, đa dạng để hỗ trợ và khuyến khích tốt nhất cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh vị thế và danh tiếng của trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh thông qua sự đa dạng của các sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện, sự hợp tác với các tổ chức ở trong và ngoài nước và sự đóng góp của các cán bộ thư viện cho xã hội. />Tầm nhìn: Hướng tới năm 2030, thư viện trở thành TRUNG TÂM THÔNG TIN, TƯ LIỆU KHXH & NV hiện đại, ngang tầm các thư viện đại học khu vực Châu Á, phục vụ nghiên cứu, đào tạo các ngành KHXH & NV cho các trường đại học trong cả nước. Sứ mạng 13 Thư viện thúc đẩy sự tăng trưởng trí tuệ và sự sáng tạo bằng cách phát triển nguồn tài nguyên thông tin phong phú, đa dạng, chất lượng; Tạo điều kiện cho người sử dụng tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng đến các nguồn lực thông tin; Đào tạo hướng dẫn việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin và có khả năng đánh giá, chọn lọc các nguồn tin; Cung cấp các dịch vụ thông tin phục vụ nghiên cứu. 5. Phương thức phục vụ Thư viện tổ chức phục vụ theo phương thức mở, bạn đọc có thể tiếp cận trực tiếp với vốn tài liệu và nguồn lực thông tin của thư viện. Bạn đọc có thể tự chọn tài liệu trong kho sách và tra cứu theo mục lục truyền thống hoặc mục lục điện tử. Tài liệu trong thư viện được sắp xếp theo môn loại khoa học, trong từng môn loại xếp theo ký hiệu mã hóa tên tài liệu để bạn đọc tìm tài liệu nhanh chóng. Việc phục vụ mượn trả thực hiện bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại. a. Tại cơ sở 10-12 Đinh Tiên Hoàng: Phục vụ đọc tại chỗ gồm: + 1 phòng đọc + 1 Phòng báo, tạp chí + 1 phòng tra cứu dữ liệu Phục vụ mượn về nhà: + 1 phòng mượn + 1 kho giáo trình b. Tại cơ sở Tân Phú – Thủ Đức: Phục vụ đọc tại chỗ gồm: + 1 phòng đọc + 1 Phòng báo, tạp chí + 1 phòng tra cứu dữ liệu + 1 phòng Multimedia + 1 phòng đọc tham khảo Hàn Quốc Phục vụ mượn về nhà: + 1 phòng mượn + 1 kho giáo trình 6. Cơ sở vật chất Tại cơ sở 10 – 12 Đinh Tiên Hoàng, thư viện có tổng diện tích là 882 m2. Gồm có: 1 phòng đọc sách, 1 phòng đọc báo - tạp chí, 1 phòng mượn, 1 phòng tra cứu dữ liệu, 1 phòng nghiệp vụ, sức chứa của thư viện 330 chỗ ngồi. Tại cơ sở Tân Phú Thủ Đức có tổng diện tích 1.313 m2. Gồm có 1 phòng đọc sách, 1 phòng đọc báo - tạp chí, 1 phòng đọc tự do, 1 phòng tra cứu dữ liệu, 1 phòng mượn, 1 phòng Multimedia, 1 phòng giáo trình, 1 phòng tham khảo Hàn Quốc, 1 phòng thảo luận nhóm với sức chứa 540 chỗ ngồi. Các phương tiện kỹ thuật của Thư viện gồm: + 196 máy client. + 6 máy server. 14 + 10 máy in laser. + 6 máy scanner. + 5 máy quét mã vạch (barcode). 6. Thành tích hoạt động • Năm Danh hiệu thi đua 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tập thể lao động tiên tiến Tập thể lao động tiên tiến Tập thể lao động tiên tiến Tập thể lao động tiên tiến Tập thể lao động tiên tiến Tập thể lao đông tiên tiến Tập thể lao động tiên tiến Tập thể lao động tiên tiến Tập thế lao động tiên tiến Tập thể lao động tiên tiến Hình thức khen Số, ngày, tháng, năm của quyết định khen thưởng; cơ quan ban thưởng hành quyết định Giấy khen của Hiệu Quyết định số 58/QĐ-TĐKT ngày 25/10/2006 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định số 344/QĐ-TĐKT ngày 27/08/2007 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH &NV -HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định số 127/QĐ-TCHC ngày 25/08/2008 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định số 208/QĐ-TCHC ngày 28/08/2009 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định 351/QĐ-TCHC ngày 03/11/2010 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định 299/QĐ-XHNV-TCCB ngày 31/08/2011 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định 477/QĐ-XHNV-TCCB ngày 23/08/2012 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định 957/QĐ-XHNV-TCCB ngày 12/08/2013 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định 521/QĐ-XHNV - TCCB ngày 15/08/2014 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM Giấy khen của Hiệu Quyết định 659/QĐ-XHNV-TCCB ngày 28/08/2015 của Hiệu Trưởng Trưởng ĐHKHXH&NV - HCM 8.N guồn nhân lực thư viện Tính đến ngày 17/06/2017, kho tài liệu của thư viện có 213.780 bản tài liệu, tương ứng với 89.864 nhan đề đủ các môn loại về các ngành KHXH & NV. Tài liệu điện tử gồm có: 4.120 bản (tương ứng với 2.763 tên tài liệu). Trong đó có: 3.987 đĩa CD-ROM, VCD, DVD (tương ứng với 2.640 nhan đề), 112 băng cassette (tương ứng với 104nhan đề) và 21 băng video (tương ứng với 19 nhan đề); và các cơ sở dữ liệu (CSDL), bao gồm: Các CSDL thư mục (như: CSDL SACH, CSDL BAO-TAPCHI, CSDL LUANAN, CSDL DETAINGHIENCUUKHOAHOC, CSDL TLĐAPHUONGTIEN, CSDL tóm tắt bài trích báo-tạp chí); 01 CSDL toàn văn do thư viện tự tạo lập: CSDL TAILIEUSOHOA; 03 CSDL toàn văn (đã mua) như: CSDL toàn văn BAOCAOKHOAHOC, CSDL THUVIENDIENTU, CSDL TAPCHITIENGANH. Trong đó: - CSDL thư mục gồm 92.641 biểu ghi/phản ánh 210.055 bản tài liệu, gồm: 15 + CSDL SACH: 83.624 biểu ghi/phản ánh 196.013 bản sách; + CSDL luận văn: 5.104 biểu ghi/phản ánh 8.039 bản; + CSDL đề tài nghiên cứu khoa học: 1.150 biểu ghi/phản ánh 1.883 bản; + CSDL tài liệu điện tử: 2.763 biểu ghi/phản ánh 4.120 bản. * Kho báo – tạp chí bao gồm: 73 tên báo và phụ san (trong đó tiếng Viêt: 63 loại, tiếng Anh: 07 loại, tiếng Pháp: 01 loại, tiếng Trung: 01 loại, tiếng Nga: 01 loại). 526 tên tạp chí, tập san (lưu + sử dụng thường xuyên), trong đó Tiếng Việt: 126 loại, tiếng Anh: 248 loại, (tạp chí do JDP tài trợ: 196 loại), tiếng Pháp: 69 loại, tiếng Nga: 78 loại, tiếng Đức: 04 loại, tiếng Nhật: 01 loại; 304 tài liệu chuyên đề phục vụ nghiên cứu. * Kho tài liệu tại cơ sở Đinh Tiên Hoàng: 101.656 bản, trong đó Kho đọc: 64.721 bản, Kho giáo trình: 2.253 bản, Kho mượn: 29.968 bản, Kho hạn chế: 4.714 bản. * Kho tài liệu tại cơ sở Thủ Đức: 106.207 bản, trong đó Kho đọc: 40.450 bản, Kho mượn: 25.524 bản, Kho giáo trình: 13.986 bản, Kho lưu:19.984 bản , Phòng tham khảo Hàn Quốc: 5.061 bản. 9. Tổ chức - nhân sự Cơ cấu tổ chức của Thư viện Trường gồm : 1. Tổ chức Đảng và đoàn thể : - Chi bộ Thư viện - GDTC. - Công đoàn Thư viện Trường. - Đoàn thanh niên. 2. Chính quyền : - Giám đốc - phụ trách chung: Quản lý chung các hoạt động của Thư viện - Phó giám đốc: Chỉ huy, điều khiển hoạt động Thư viện khi giám đốc giao phó 16 - Khổi nghiệp vụ - Thông tin thư mục: Thực hiện việc xây dựng, tổ chức quản lý, khai thác và phát triển nguồn tài nguyên thông tin về các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. - Khối phục vụ: +Thực hiện các công tác liên quan trực tiếp đến người sử dụng thư viện + Phục vụ tại các phòng của 2 cơ sở: * Cơ sở 1 Đinh Tiên Hoàng: Phòng đọc, phòng mượn, phòng báo – tạp chí, phòng tra cứu dữ liệu * Cơ sở 2 Thủ Đức: Phòng đọc, phòng mượn, phòng báo – tạp chí, phòng tra cứu dữ liệu 2, phòng đa phương tiện; + Thực hiện các dịch vụ thư viện; CHƯƠNG II: SINH VIÊN NHÂN VĂN SỬ DỤNG THƯ VIỆN 1.Số lượng sinh viên đã vào thư viện Kết quả thu thập được như sau: Bảng 1: Tương quan về giới tính trong 100 người vào thư viện Giới tính Tần số Phần trăm tích lũy Giá trị Nam Nữ Tổng 35 65 100 35.0 65.0 100 35.0 65.0 100 Qua bảng thì trong số 100 người được hỏi thì có 35 nam và 65 nữ. Bảng 2 : Số lượng sinh viên đã vào thư viện: Đã vào thư viện Tần suất Phần trăm Giá trị phần trăm Phần trăm tích lũy Giá trị Có Không Tổng 85.0 15.0 100 85.0 15.0 100 85.0 15.0 100 Từ kết quả trên cho thấy số lượng sinh viên đã vào thư viện là 85 bạn chiếm 85% chiếm đa số. 15 bạn chưa vào thư viện chiếm 15%. 17 2.Mức độ thường xuyên vào thư viện Bảng 3 : Mức độ thường xuyên vào thư viện của sinh viên: Mức độ vào thư viện Tần suất Phần trăm Phần trăm tích lũy Giá trị Giá trị Thường xuyên 50 50 50 Thường Thỉnh thoảng 14 20 14 20 14 20 Hiếm khi 16 16 16 Tổng 100 100 100 Biểu đồ thể hiện mức độ thường xuyên mượn sách thư viện của sinh viên trường ĐHKHXH & NV Từ kết quả trên, trong tổng số 85 bạn vào thư viện chiếm 85% có 15 bạn thường xuyên vào thư viện chiếm 15%. 50 bạn thường vào thư viện chiếm 50%. 14 bạn thường và thư viện chiếm 14% và 20 bạn hiếm khi vào thư viện chiếm 20%.Trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu không có vai trò đóng góp của thư viện. Đặc biệt trường ĐHKHXH & NV là trường học theo hệ thống tín chỉ, thời gian sinh viên lên lớp rút ngắn đi 18 nhiều, chủ yếu là thời gian sinh viên tự học tập. Hơn nữa, những tiết học trên lớp chỉ là thời gian giảng viên hướng dẫn sinh viên nghiên cứu, đọc sách… Chính vì vậy, vào những tiết tự học thì thư viện là lựa chọn hàng đầu của sinh viên. Việc đào tạo bậc đại học chỉ thực sự có chất lượng khi hoạt động học tập của sinh viên được thực hiện trong cả bốn môi trường: lớp học, thư viện, cơ sở thực nghiệm và môi trường thực tế. Trong đó, thư viện có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính độc lập, sáng tạo của sinh viên. Người sinh viên phải học một cách thông minh hơn, chủ động hơn qua việc phân tích, tổng luận những tài liệu tra tìm được ở thư viện. Từ đó sẽ xóa bỏ lối học thụ động, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của sinh viên.Có thể, trên giảng đường, sinh viên đi học một cách uể oải, gượng ép để… điểm danh! Nhưng khi bước chân vào thư viện bạn sẽ thấy mọi người lên thư viện đều là tự nguyện, xuất phát từ niềm đam mê đọc sách và ham tìm tòi, nghiên cứu… Đến đó, thấy mọi người học hành nghiêm túc, chăm chỉ, say sưa… Và tự nhiên sinh viên được tiếp thêm một nguồn động lực để học tập. Có nhiều người không lên để đọc sách mà để tìm cảm hứng học tập ở đây. 3.Lý do sinh viên không vào thư viện Bảng 4: Lý do sinh viên không vào thư viện: Lý do sinh viên Tần suất Phần không vào thư viện Tram giá trị Giá trị phần trăm Giá trị thời giankhông có 30 30 30 Bận học Tổng 20 50 20 50 20 50 Qua kết quả điều tra cho thấy có 50/100 bạn sinh viên chưa vào thư viện. Trong đó có 8 bạn cho rằng không có thời gian, chiếm 60%. 6 bạn cho rằng không gian không thoải mái, chiếm 40%. Lên thư viện một số bạn sinh viên cảm thấy gò bó, thiếu năng động. Một ngày sẽ tẻ nhạt biết bao nếu sinh viên chỉ biết cắp cặp lên thư viện, ngồi đọc sách cả ngày rồi lại cắp cặp về. Vì thế, sinh viên cần lên kế hoạch lên thư viện hợp lí, không cần phải lúc nào cũng chăm chăm lên đó đọc sách. Một số sinh viên ngày nay không mấy mặn mà, hứng thú với việc đọc sách, nghiền ngẫm những cuốn sách, tài liệu trên thư viện…Sự phong phú, tràn ngập của vô số kênh thông tin trên mạng Internet, trên truyền hình… đã làm cho họ không còn đủ sự kiên nhẫn để tìm kiếm những cuốn sách hay, những tư liệu tốt. Sinh viên ngày nay có rất nhiều phương tiện thông tin giải trí khác ngoài việc học. Nhiều bạn sinh viên mất hàng giờ ngồi trong quán Game – Internet vì cho rằng ở đó không gian thoải mái hơn. Nhờ tính cập nhật, nhanh và giao diện bắt mắt kèm theo những hình ảnh minh họa độc đáo mà các phương tin thông tin ngày nay được giới trẻ rất ưa chuộng. Họ lên mạng Internet tìm kiếm thông tin, đápứng nhu cầu giải trí. 19 Nhiều sinh viên thường chỉ có thói quen tìm kiếm những thông tin giải trí, mà không tận dụng được hết những tiện ích, những mặt tích cực của Internet đem lại 20 |