Người phụ nữ đã hy sinh quyền lợi của bản thân và dòng họ vì vận mệnh đất nước ở thế kỷ 10 là ai

Phụ nữ khẳng định vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực hoạt động, như chính trị gia nổi tiếng, nhà lãnh đạo tài ba của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp lớn, nhà khoa học xuất sắc, xứng đáng với danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.


      Từ thuở sơ khai, địa vị của người phụ nữ đã được đề cao và coi trọng hơn hẳn so với người đàn ông, tiêu biểu là thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ. Trong xã hội này, quyền của người đàn bà được biểu hiện trước hết là quyền được phân công lao động trong gia đình và quyền điều hành những công việc chung của thị tộc. Vì thế, họ không những được bình đẳng, được tôn trọng mà còn có thể được bầu làm tộc trưởng, tù trưởng. Vì sao lại có sự tôn trọng đặc biệt dành cho người phụ nữ như vậy? Bởi vì, những đứa con được sinh ra bởi người phụ nữ; việc hái lượm, trồng trọt, chăn nuôi lúc bấy giờ cũng được người phụ nữ đảm nhận; qua đó, họ nắm quyền chi phối về mọi mặt của xã hội, điều khiển công việc và điều hòa quan hệ giữa các thành viên.

      Theo dòng thời gian, lịch sử cũng dần thay đổi, xã hội thị tộc mẫu hệ nhường chỗ cho xã hội phụ hệ. Tiêu biểu cho xã hội này ở nước ta, đó là thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền đánh đập. “bán vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.

      “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”

      Sự phục vụ của phụ nữ lúc bấy giờ bị xem như là một điều hiển nhiên và tất yếu. Không ai cảm thấy biết ơn cho sự hy sinh to lớn của họ, thậm chí, chính bản thân người phụ nữ cũng bị tư tưởng ấy đồng hóa mà quên đi giá trị đích thực của mình.

      Ngay ở thời kỳ này, trong những giai đoạn mà sử cũ gọi là “Bắc thuộc”, với những chặng đường vô cùng oanh liệt dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ truyền thống thông minh, sáng tạo, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm. 

      Vượt lên trên cái phận đàn bà “ba chìm, bảy nổi”, thoát ra khỏi cái lẽ “nữ nhi thường tình”, người phụ nữ Việt Nam nuôi giữ trong mình một ý chí sắt đá, một tinh thần quật cường bất khuất, càng được khắc họa rõ nét trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Họ từ những người mẹ, người vợ tảo tần sớm tối, bỗng chốc hóa thành người chiến sỹ chống ngoại xâm kiên cường, sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc oai hùng.

      Trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đã được xây dựng và lưu truyền: mẹ Âu Cơ đưa các con đi mở nước và dạy dân dựng làng; bà mẹ Gióng kiên trì nuôi đứa con “Chậm lớn, chậm đi” và giúp con lên đường đánh giặc; nàng Quế Hoa, cô gái dùng đá làm vũ khí, tung hoành giữa đám giặc Ân; Đó là hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu Thị Trinh, hay Bùi Thị Xuân,...trong thời kỳ chống Bắc thuộc; đó là Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế,...trong hơn 60 năm thực dân Pháp đô hộ...

      Hồ Chủ tịch đã từng nói: “Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do người phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”[1].

      Kế thừa tinh thần đó, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn đề ra những kế hoạch và chính sách thiết thực nhằm bồi dưỡng, nâng cao vị thế của người phụ nữ không chỉ ở gia đình mà còn trong xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế cũng như đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế đã giúp cho người phụ nữ Việt Nam được tiếp cận với cơ hội giáo dục và đào tạo. Họ tham gia một cách tích cực vào công tác quản lý, lãnh đạo, chính trị, những công việc mà trước đây nam giới chủ yếu nắm giữ. Có thế kể đến, đó là bà Nguyễn Thị Kim Ngân, một nữ chính khách, nữ chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước ta; bà Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng bộ y tế; bà Tòng Thị Phóng, Ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội,...

      Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta thuộc vào loại cao nhất thế giới. Các nữ trí thức là nhà khoa học, đại biểu Quốc hội chiếm tỷ lệ cao, với số nữ Giáo sư chiếm tỷ lệ gần 4%, phó giáo sư hơn 6%, tiến sĩ khoa học hơn 5%, tiến sĩ gần 13%... Ngoài ra còn có gần 20 nữ Anh hùng lao động, và nhiều nhà khoa học xuất sắc trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa.

      Hiến pháp năm 2013, so với Hiến pháp năm 1992, đã có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của phụ nữ. Theo đó, mọi người (cả nam và nữ) đều bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn, hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Đặc biệt, nếu Hiến pháp năm 1992, Điều 63 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26). Tức là đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, đã được mở rộng và làm sâu sắc hơn. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

      Có thể khẳng định, Hiến pháp nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung, luôn tôn trọng nguyên tắc “bình đẳng và ưu tiên” đối với người phụ nữ, xóa bỏ đi những sự bất công còn tồn tại và tạo điều kiện thuận lợi nhất để họ phát triển khả năng của mình, cũng như có thể hoàn thành tốt vai trò với gia đình và xã hội.

       Như vậy, dù là trong quá khứ, hiện tại hay tương lai, phụ nữ luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng, là những người giữ lửa của gia đình, và là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, là linh hồn của những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc xưa nay.

      Trong thời đại mới, người phụ nữ Việt Nam tiếp tục nâng tầm năng lực và phẩm chất của mình, đoàn kết, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo trong lao động sản xuất, công tác và học tập để có thể đáp ứng yêu cầu của thời đại mới_thời đại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập toàn cầu, xứng đáng với tám chữ: “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”.

[1] Bác Hồ viết trong thư gởi phụ nữ nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 năm 1952

Dương Vân Nga là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong lịch sử Việt Nam -Đinh Tiên HoàngLê Đại Hành. Bà đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê.Tuy nhiên, bà không được chính sử ghi chép nhiều.Đại Việt sử ký toàn thưchỉ cho biết bà họ Dương, không nói bà tên là gì, cũng không viết xuất thân của bà ra sao.

Còn theo truyền tụng dân gian, Dương Vân Nga là con gái của ông Dương Thế Hiển, quê ở vùng Nho Quan, Ninh Bình. Sinh thời,Vân Nga rất xinh đẹp. Bà có khuôn mặt bầu bĩnh rất phúc hậu song vẫn có nét thanh tú, cao sang. Nước da trắng hồng và cặp mắt phượng, mày ngài lúc nào cũng long lanh đầy tình tứ.

Năm 968, sau khi dẹp xong "loạn 12 sứ quân", thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng) lên ngôi vua, lấy tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, lấy niên hiệu là Thái Bình.

Người phụ nữ đã hy sinh quyền lợi của bản thân và dòng họ vì vận mệnh đất nước ở thế kỷ 10 là ai

Tượng hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga tạiđền vua LêởHoa Lư. Ảnh tư liệu

Trong một lần đến vùng Nga My, nghe tiếng hát giọng trong trẻo của một cô gái, Đinh Bộ Lĩnh xuống ngựa, cho người gọi cô gái, nhưng không thấy. Ông chợt nghĩ đến người bạn bố mình xưa kia là Tướng quân Dương Thế Hiển ở gần đây, bèn ghé vào thăm. Thế Hiển sai con gái Vân Nga bưng nước mời khách. Nàng có tiếng nói hệt giọng hát Đinh Bộ Lĩnh vừa nghe. Nhà vua xin được đón cô gái về kinh đô, lúc đó Vân Nga tròn 16 tuổi. Về sau, bà là một trong 5 hoàng hậu của vua Đinh,được vua rất yêu chiều docó nhan sắc và hiểu biết.

Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và hoàng tử Đinh Liễn bị hoạn quan Đỗ Thích giết hại.Triều thần tôn Vệ Vương Đinh Toàn (mới được 6 tuổi) lên ngôi Hoàng đế, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn (Lê Đại Hành) được Dương Thái hậu chọn làm Nhiếp chính, sau tự xưng là Phó Vương.

Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy quyền lực rơi vào tay Lê Hoàn, lại nghi Dương Thái hậu cùng Lê Hoàn tư thông nên kéo quân về Hoa Lư tiến đánh nhưng bị Lê Hoàn đánh bại.Ở biên giới phía Bắc, giặc Tống lợi dụng tình hình Đại Cồ Việt rối ren, chuẩn bị cất binh xâm lược.

Năm 980, trước nguy cơ xâm lược của quân Tống, Dương hoàng hậu cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm Hoàng đế, lập nên nhà Tiền Lê. Việc này,Đại Việt Sử Ký Toàn ThưKhâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mụcđều có chép lại:

"Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng làm đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng: 'Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn'".

Quân sĩ nghe vậy đều hô 'vạn tuế'. Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Lê Hoàn lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Phúc vào đầu năm 980, giáng phong Đinh Toàn làm Vệ Vương".

Người phụ nữ đã hy sinh quyền lợi của bản thân và dòng họ vì vận mệnh đất nước ở thế kỷ 10 là ai

Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư (Ninh Bình). Ảnh: Wikipedia

Tháng 7/980 quân Tống xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn vừa lên ngôi đã phải triển khai lực lượng kháng chiến đánh giặc bảo vệ đất nước. Đến tháng 3/981, cuộc kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn trực tiếp chỉ huy thắng lợi hoàn toàn. Vua Tống buộc phải xuống chiếu lui quân. Sau thắng lợi, Lê Hoàn dốc sức chăm lo xây dựng đất nước.

Năm 982, Lê Đại Hành phong Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng Hậu. Chính sử không cho biết hai người có bao nhiêu con, nhưng theo các thần tích ở cố đô Hoa Lư thì họ có một cô con gái tên Lê Thị Phất Ngân. Về sau, công chúa Phất Ngân được gả cho cho Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn - người mở đầu triều đại nhà Lý.

Cuối đời, hoàng hậu Dương Vân Nga tu hành tại động Am Tiênở phía đông kinh thành Hoa Lư. Tại đây còn lưu giữ một bài thơ truyền khẩu khắc trên tường Chùa tóm tắt về cuộc đời bà: "Hai vai gồng gánh hai Vua/Hai triều hoàng hậu, tu Chùa Am Tiên/Theo chồng đánh Tống bình Chiêm/Có công với nước, vô duyên với đời...".Năm 1000, bà qua đời.

Hoàng hậu Dương Vân Nga được thờ cùng với vua Lê Đại Hành tại đền vua Lêở khu di tích cố đô Hoa Lưvà thờ cùng vua Đinh Tiên Hoàngtại đền Mỹ Hạ ở Gia Thủy, Nho Quan.Tại khu di tích đình - chùa Trung Trữ, Ninh Giang, huyện Hoa Lư, bà còn được phối thờ cùng cả hai vua.Nhân dân khi làm đền thờ, tô pho tượng Dương thái hậu, nhưng mặt pho tượng tô đỏ. Theo truyền thuyết dân gian thì việc tô mặt đỏ thể hiện sự ngượng ngùng của người đàn bà thờ hai đời chồng, một Hoàng hậu thờ hai đời vua.

Việc Dương Vân Nga - thái hậu nhà Đinh tôn Lê Đại Hành lên làm vua, mở đầu nhà Tiền Lê, rồi lại trở thành vợ vua Lê bị các nhà nho và sử gia trước đây lên án rất gay gắt.Khâm Định nhà Nguyễnbàn: "Đại Thắng Minh là tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ mình: Thật là không còn kiêng nể chút gì cả! Sử sách ghi chép, để cười nghìn thu".

Người phụ nữ đã hy sinh quyền lợi của bản thân và dòng họ vì vận mệnh đất nước ở thế kỷ 10 là ai

Tượng vua Lê Đại Hành trong đền thờ ở Hoa Lư. Ảnh tư liệu

Đại Việt Sử Ký toàn thư còn phê phán nặng nề hơn: "Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sao?"

Tuy nhiên, về sau giới nghiên cứu lịch sử đã có cái nhìn thông cảm hơn đối với hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga. Nhữngnhà sử học bênh vực bà cho rằng, trong khi đất nước đang lâm nguy, nếu chỉ vì quyền lợi của dòng họ và ngôi vị của con mình thì có thể giữ được nước không?Sự lựa chọn và quyết định của bà trong hoàn cảnh ấy, đã biểu hiện thái độ chính trị sáng suốt của một người có khối óc lớn thức thời, xứng đáng được coi là anh hùng.

Sử gia Nguyễn Khắc Thuần trong Việt Sử Giai Thoạicũng cho rằng:"Đinh Tiên Hoàng mất, vua nối ngôi là Đinh Toàn chỉ mới được 6 tuổi, Lê Hoàn làm Phó Vương, giữ quyền nhiếp chính, ấy là vì sự thể lúc đó buộc phải làm như vậy. Sau, vận nước lâm nguy, xã tắc không thể phó thác cho Đinh Toàn bé nhỏ, chư tướng cùng Dương Thái hậu tôn Lê Hoàn lên ngôi, và Lê Hoàn đã vui nhận ý tôn lập đó, ấy cũng bởi sự thể lúc bấy giờ buộc phải làm như vậy đó thôi. Ai lên ngôi để hưởng cuộc đời nhung lụa, còn Lê Hoàn lên ngôi trước hết là để nhận lấy sứ mệnh vinh quang mà cực kì khó khăn, đó là chỉ huy cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lăng, bảo vệ nền tự chủ và thái bình cho xã tắc, kính thay".

Trung Sơn