Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Nêu tên của các loai nhà máy phát điện và chức năng của mỗi loại nhà máy ấy

Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử

Các câu hỏi tương tự

Lịch sử ra đời nhà máy điện nguyên tử di độngcủaLiên Xô

Vào những năm 1950, ý tưởng xây dựng trạm năng lượng nguyên tử có thể vận chuyển được vẫn còn là “chuyện viển vông”. Nếu có thể lắp đặt những lò phản ứng hạt nhân trên tàu thủy nguyên tử và tàu ngầm, thì tại sao không thể đưa chúng lắp vào các phương tiện trên cạn? Vì vậy, ý tưởng đặt nhà máy điện nguyên tử “trên các bánh xe” di động đã làm cho Bộ trưởngBộChế tạocơ khíhạng vừa Liên Xô Efim Slavsky lúc đó tỏ ra hào hứng. Bởi lẽ, điều này sẽ giúp Liên Xô đảm bảo cho người dân vùng Cực Bắc và Viễn Đông của nước này nguồn năng lượng điện và nhiệt sưởi ấm với giá rẻ. Tại thời điểm đó, chính phủ Liên Xô phải cung cấp cho những khu dân cư và căn cứ quân sự ở Bắc Cực hàng triệu tấn nhiên liệu mỗi năm.

Theo các tác giả Bộ bách khoa toàn thư “Chế tạo cơ khí” (tập IV-25), việc nghiên cứu chế tạo các trạm điện hạt nhân di động thế hệ đầu tiên được tiến hành vào những năm 1950-1960. Trên cơ sở phản ứng năng lượng nước-nước, người ta đã tạo ra lò nhiệt điện được lắp trên khung gầm của xe tăng T-10. Trong số những trạm di động thời kỳ đó có trạm ARBUS (Trạm hình khối Nam Cực), cũng như thiết bị BK-50 đến nay vẫn còn hoạt động tại thị trấn Dimitrovgrad (Bulgaria).

Thế hệ thứ hai của nhà máy điện nguyên tử di động là những trạm “Phương Bắc-2” và “Volnolom-3”, được xây dựng vào những năm 1970. Năm 1981, Viện nghiên cứu Kurchatov đã đưa vào vận hành trạm nhiệt điện trưng bày-thử nghiệm “Gamma”. Trạm này sau đó hoạt động được gần 20 năm.

Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử
Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử
Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử
Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử
Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử
Nhà máy điện nguyên tử di động “Pamir-630D”. Nguồn: russian7.ru.

Nhà máy điện nguyên tử “đặt trên bánh xe”

Kinh nghiệm tích lũy được là rất hữu ích cho những nhà thiết kế nhà máy điện nguyên tử di động “Pamir-630”. Việc thiết kế chế tạo nhà máy này diễn ra tại Viện Năng lượng hạt nhân (thuộc Viện hàn lâm khoa học Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Belarus) vào những năm 1976-1985. Đầu những năm 1980, người ta đã xây dựng hai mẫu thử nghiệm, những mẫu này tại thời điểm đó là những nhà máy điện nguyên tử “đặt trên bánh xe” duy nhất trên thế giới.

Nhìn bề ngoài, nhà máy điện nguyên tử di động “Pamir-630D” là một tổ hợp gồm toa rơ-moóc nặng hàng tấn được gắn vào đầu xe máy kéo quân sự MAZ-796. Phía sau những tấm chắn kim loại kiên cố, người ta đặt lò phản ứng công suất 630 kW và các khối tuabin phản lực. Trên hai chiếc xe khác là các máy tính điều khiển “Minsk” và khoang làm việc cho đội ngũ nhân viên vận hành lên tới 28 người.

Những chiếc xe có sức vượt địa hình cao có thể vận chuyển “Pamir-630B” đến bất kỳ vị trí nào trên đài nguyên và đầm lầy của vùng Cực Bắc. Nhà máy điện nguyên tử khi đó sẵn sàng hoạt động trong điều kiện nhiệt độ môi trường thấp nhất.

Khai tử “Pamir-630D”

Các nhà chế tạo mong muốn tạo ra nhà máy điện nguyên tử di động có thể hoạt động liên tục 2.000 giờ. Tuy nhiên, một trong hai nhà máy “Pamir-630D” đã vận hành được 3.000 giờ, và thực tế, nhà máy này chạy ở công suất thấp hơn so thiết kế. Trong khi đó, lượng nhiên liệu hạt nhân dự trữ đủ để chạy thêm vài năm nữa.

Đến đầu giai đoạn thực hiện chính sách “Cải tổ”, chính phủ Liên Xô dự tính rằng, những nhà máy điện nguyên tử công suất nhỏ sau này sẽ đảm bảo năng lượng điện và nhiệt sưởi ấm cho khoảng 33 khu dân cư ở vùng Cực Bắc của nước này. Tuy nhiên, sự cố nhà máy điện nguyên tử Chernobyl đã dẫn đến việc hủy bỏ các chương trình phát triển năng lượng nhỏ được chính phủ Liên Xô phê duyệt trước đó.

Đáng chú ý, nhà máy điện nguyên tử di động “Pamir-630” hầu như không gây ra mối nguy hiểm nào, bởi các nhà thiết kế đã cài đặt vào hệ thống 3 cấp độ an toàn. Để loại trừ yếu tố con người, nhà máy này có thể vận hành ở chế độ tự động hóa tối đa. Tuy nhiên, việc thử nghiệm được tiến hành chỉ cách thành phố Minsk của Belarus chừng 6km. Vì vậy, đối với những người mới trải qua hậu quả của sự cố Chernobyl như người dân Belarus, thì đây là điều không hề dễ chịu về mặt tâm lý. Tháng 2-1988, Ủy ban quốc gia Liên Xô đã quyết định dừng thử nghiệm “Pamir-630D”.

Những dự án xây dựng trạm năng lượng hạt nhân mới được các nhà khoa học trong nước đưa ra đầu những năm 1990 cũng chỉ nằm trên giấy, do Nga khi đó thiếu nguồn ngân sách triển khai. Sang thế kỷ XXI, nhiều nước trên thế giới bắt đầu quan tâm trở lại việc xây dựng nhà máy điện nguyên tử công suất nhỏ. Rất có thể, kinh nghiệm của các nhà thiết kế chế tạo “Pamir-630” sẽ tiếp tục có ích cho Nga, nhất là trong bối cảnh sự hiện diện của nước này tại Bắc Cực ngày càng có ý nghĩa chiến lược và địa chính trị.

QUỐC KHÁNH (theo russian7.ru)

Nhà máy điện nguyên tử đầu tiên được xây dựng ở đâu trên thế giới? Bao giờ Việt Nam có nhà máy điện nguyên tử?

* Nhà máy điện nguyên tử đầu tiên được xây dựng ở đâu trên thế giới? Bao giờ Việt Nam có nhà máy điện nguyên tử ?

Nguyễn Đình Phong , Tân Lạc, Hòa Bình

Ngày 27 tháng 6 năm 1954, nhà máy điện hạt nhân Obninsk của Liên Xô trở thành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới sản xuất điện hòa vào mạng lưới với công suất không tải khoảng 5 MW điện.

Kể tên một số nhà máy điện nguyên tử

Ảnh minh họa

Năm 1955 "Hội nghị Geneva đầu tiên" của Liên Hiệp Quốc tập hợp phần lớn các nhà khoa học và kỹ sư bàn về khám phá công nghệ. Năm 1957 EURATOM thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (bây giờ là Liên minh châu Âu). Cũng cùng năm này cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế cũng được thành lập.

Nhà máy năng lượng nguyên tử thương mại đầu tiên trên thế giới, Calder Hall tại Sellafield, nước Anh được khai trương vào năm 1956 với công suất ban đầu là 50 MW (sau này nâng lên 200 MW). Còn nhà máy phát điện thương mại đầu tiên vận hành ở Hoa Kỳ là lò phản ứng Shippingport (Pennsylvania, tháng 12 năm 1957). Hiện nay, trên thế giới có 441 lò phản ứng hạt nhân đang vận hành...

Nhà máy Điện hạt nhân có thể được xây dựng ở Việt Nam với công suất từ 2.000 MW (phương án cơ sở) đến 4.000 MW (phương án cao) trong giai đoạn đến năm 2020 trên cơ sở phương án tổng hòa cân đối các nguồn có tính đến cả tiết kiệm năng lượng... 

* Từ khi hình thành, Hà Nội còn có những tên gọi nào được ghi chép trong sách sử nhà nước Việt Nam

Trịnh Huy Nam, Văn Lâm, Hưng Yên

Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long-Hà Nội có nhiều tên gọi khác nhau được chép trong sử sách Nhà nước Việt Nam:

1 - Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng, lúc Cao Biền nhà Đường, năm 866, đang đắp thành Đại La, phát hiện thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do vậy, sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

2 - Tống Bình: Tống Bình là tên đất trị sở của thế lực đô hộ phương Bắc thời Tùy (581-618), Đường (618-907). Trước đó, trị sở đô hộ phương Bắc đóng ở vùng Long Biên (tức Bắc Ninh ngày nay), đến đời Tùy, mới chuyển đến Tống Bình.

3 - Đại La: Theo kiến trúc xưa, kinh đô bao giờ cũng có "tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử cấm thành (bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành.

Năm 866, Cao Biền bồi đắp cho Đại La thành rộng và vững chãi hơn trước. Từ đó, có tên gọi thành Đại La. Bởi thế, trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ (1010) có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa trời đất...".

4 - Thăng Long: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), vua từ thành Hoa Lư dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long". Đây là tên gọi có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong các tên về Hà Nội.

5 - Đông Đô: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô".

Trong "Khâm định Việt sử thông giám cương mực" có giải rõ: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô".

6 - Đông Quan: Quan quân nhà Minh gọi Thăng Long là Đông Quan với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta chỉ được ví là "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Theo sử sách, năm 1408, quân Minh sau khi đánh bại cha con Hồ Quý Ly đã đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.

7 - Đông Kinh: Thời Lê, vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh.

8 - Bắc Thành: Đời Tây Sơn (1787-1802) vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (Huế), nên gọi Thăng Long là Bắc Thành.

9 - Thăng Long: Năm 1802, vua Gia Long quyết định đóng đô ở Phú Xuân (Huế), không ra Thăng Long. Tên Thăng Long đã có từ lâu đời, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi, vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ Long là Rồng thành chữ Long là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ Long là rồng.Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805.

10 - Hà Nội: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội".