Hồ Chí Minh - Từ lòng yêu nước đến con đường giải phóng dân tộc
(ĐCSVN) - Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911-5/6/2011), Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam giới thiệu bài viết "Hồ Chí Minh - Từ lòng yêu nước đến con đường giải phóng dân tộc" của tác giả Bùi Kim Hồng - Giám đốc Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
|
Nhà sàn Bác Hồ trong Phủ Chủ tịch (Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet) |
“Tôi luôn luôn là một người yêu nước, tranh đấu cho độc lập và thống nhất thật sự của Tổ quốc tôi ” [1]. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh tự khẳng định “ Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi ” [2]. Cho dù thế giới công nhận Người là lãnh tụ cộng sản kiệt xuất có tầm ảnh hưởng to lớn trong thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chỉ luôn giản dị nhận mình là một người yêu nước. Rời Tổ quốc tìm đường giải phóng dân tộc vào tháng 6-1911 để rồi 30 năm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới trở về. 30 năm là một chặng đường dài với biết bao cuộc trường chinh qua các đại dương và lục địa, ghi nhận sự trưởng thành của một con người về tuổi đời, về nhận thức, tư tưởng, từ thân phận một người dân mất nước trở thành một chiến sĩ cộng sản đầy năng lực và sáng tạo. Nhưng điều có ý nghĩa vô cùng sâu sắc là sự trưởng thành đó gắn liền với vận mệnh của một đất nước. tương lai của một dân tộc.
Trước hết, cần khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc với tấm lòng của một người Việt Nam yêu nước. Tinh thần yêu nước của Người được hun đúc bằng truyền thống yêu nước với bề dày hàng nghìn năm lịch sử của cha ông. Được hình thành trong quá trình dựng nước, trong đấu tranh và bảo vệ nền độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam nổi bật ở tính cố kết cộng đồng chặt chẽ giữa nhà - làng - nước để bảo vệ đất nước, bảo vệ độc lập, thống nhất dân tộc, bảo vệ cuộc sống cộng đồng và sự trường tồn của nền văn hoá dân tộc. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý, triết lý sống, niềm tự hào của con người Việt Nam, khởi đầu từ lòng tự hào về “ Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước tiếng để muôn đời " [3]. Tiếp đó là ý thức về quyền độc lập dân tộc, bắt đầu từ " Nam quốc sơn hà Nam đế cư ” của thời Lý cho đến ý chí quyết tâm "Sát Thát” ở đời Trần, tinh thần quyết chiến của Quang Trung - Nguyễn Huệ " Đánh cho phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ ”, từ triết lý " Nước là của chung chứ không phải của một dòng họ nào " của nhà giáo, nhà tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm đến quan điểm “ nhà nước của dân vì dân, do dân ” và " lòng căm ghét bọn xâm lược " [4] ) .
Về lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: “ Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước ” [5] ) . Thực tế từ chính cuộc đời Người cho thấy, cậu bé Nguyễn Sinh Cung (tên khai sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã được nuôi dưỡng trong truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất của gia đình, của quê hương sông Lam núi Hồng “địa linh, nhân kiệt”. Người được thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và ảnh hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực dưới sự thống trị hà khắc và tàn bạo của thực dân Pháp. Các cuộc đấu tranh do các tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo liên tiếp nổ ra: phong trào kháng Pháp của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, đặc biệt là phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết khởi xướng. Tuy chiến đấu rất anh dũng nhưng rồi các phong trào trên cũng lần lượt bị đàn áp. Thất bại của phong trào Cần Vương chính là cái mốc đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của thời kì đấu tranh chống Pháp giành độc lập dân tộc dưới khẩu hiệu “phò vua cứu nước” nằm trong hệ tư tưởng phong kiến. Nó chứng tỏ giai cấp phong kiến đã không còn đủ uy tín và lực lượng để giải quyết vấn đề giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Đoạn tuyệt với con đường cứu nước phong kiến, những sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX hướng ra nước ngoài tìm đến những con đường cứu nước mới để mong được giải phóng. Trong khi cụ Phan Bội Châu sang Nhật Bản tìm con đường Duy Tân, sang Trung Quốc tìm con đường cách mạng Tân Hợi (1911) thì cụ Phan Châu Trinh lại hướng theo con đường nghị viện tư sản của các nước phương Tây. Những con đường đó tuy có màu sắc khác nhau nhưng đều đi theo con đường dân chủ tư sản, không phù hợp với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Trong bối cảnh như vậy, phải có những con người ưu tú với trí tuệ mẫn cảm và tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của điều kiện lịch sử trong nước mới có khả năng tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam .
Với tinh thần ham hiểu biết và học hỏi, với tư duy độc lập sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hình thành chí hướng lớn lao và quyết tâm tìm con đường đi cho cho riêng mình. Người rất trân trọng và khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của những chí sĩ yêu nước trước đó, nhưng Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Người không theo con đường của các bậc tiền bối đã đi, mà có suy nghĩ khác, cách thức khác. Về mục đích đi ra nước ngoài của mình, năm 1923 Người đã trả lời nhà báo Nga Ôxip Manđenxtam rằng: “ Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy ” [6] . Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “ Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi ” [7] . Như vậy là, chí hướng tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với các bậc tiền bối. Rõ ràng, Người đã sớm nhận thức được “ cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải, mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng [8] .
Chỉ với đôi bàn tay trắng, bằng ý chí “ sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi ” [9] , chính chủ nghĩa yêu nước đã trở thành hành trang giá trị nhất của người thanh niên Nguyễn Tất Thành ở thời điểm Người xuống con tàu đô đốc La-tút-xơ Tơ-rê-vin ngày 5/6/1911 bước vào cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Chính chủ nghĩa yêu nước cũng là cơ sở, là động lực trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người sau này.
Ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, trong vòng 10 năm tiếp theo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới như Singapo, Sri Lanka, Ai Cập, Pháp, Angiêri, Tuynidi, Xênêgan, Ghinê, Cônggô, Mỹ, Braxin, Anh, Tây Ban Nha, Đức, Bỉ, Italia, Thuỵ Sĩ,… Với ý chí kiên cường và lòng yêu nước nồng nàn, Người sẵn sàng làm mọi thứ nghề lao động chân tay như nấu bếp, làm vườn, vẽ thuê,…để sống cuộc đời của người lao động, hoà mình vào phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, của các dân tộc bị áp bức bóc lột ở thuộc địa. Tháng 2-1913, từ nước Anh, Người đã gửi cụ Phan Châu Trinh (lúc này đang sống ở Pháp) một bài thơ thể hiện quyết tâm cứu nước của mình: “ Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng - Phải có kiên cường mới gọi hùng - Vai cứng long lanh ngoài ách tớ - Má đào nóng nảy giới quyền chồng ” [10] . Tháng 9 - 1919, phóng viên Mỹ Kim Koei Tche đã có cuộc phỏng vấn Người như sau: “ Hỏi : Anh đến Pháp với mục đích gì? Đáp: Để đòi quyền tự do cho dân An Nam. Hỏi : Bằng cách nào? Đáp: Bằng cách làm việc hết mình và luôn xông xáo tiến lên ” [11] . Rõ ràng, q ua những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm đó, chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh có những biến chuyển mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên thành sự đồng cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị áp bức như dân tộc mình. Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó cũng đã giúp Người nhận thức rõ hơn, khái quát hơn diện mạo của kẻ thù: không chỉ đối với thực dân Pháp mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói chung: “ …những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác và vô nhân đạo. Ở đâu chúng nó cũng thế… Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu ” [12] .
Bôn ba tới nhiều nước châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý trước hết đến cuộc cách mạng Mỹ năm 1776 và cuộc cách mạng Pháp năm 1789. Cuộc cách mạng Mỹ được Người đánh giá là cuộc cách mạng không triệt để và khẳng định không đi theo hình mẫu của cách mạng đó, vì rằng “ Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai…Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc ” [13] . Nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp năm 1789, Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra 5 bài học: Phải có tổ chức cách mạng vững chắc; phải lấy liên minh công nông làm gốc; Phụ nữ và thiếu nhi là lực lượng cách mạng quan trọng; Dũng khí cách mạng là một lực lượng vô địch; Làm cách mạng thì phải có gan không sợ hy sinh. Kết luận cuối cùng của Người là nhân dân Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản của Pháp và của Mỹ bởi vì “ Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi ”.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ lúc đó thường lên tiếng chống lại chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các thuộc địa theo hướng nhân đạo hoá các chính sách đó, như lời Người lý giải sau này: “ Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà" ấy- (hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) - đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu ” [14] . Tháng 6-1919, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội Những người yêu nước Việt Nam ở Pháp , Người gửi tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam viết bằng tiếng Pháp, gồm 8 điểm, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Mặc dù không đạt được được một yêu cầu nào song việc gửi bản yêu sách đến một hội nghị quốc tế, sự xuất hiện lần đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc trên vũ đài chính trị tại sào huyệt của chủ nghĩa thực dân và cùng những nội dung của bản yêu sách đã đánh thức sự thờ ơ của dư luận đối với vấn đề thuộc địa, với chính sách cai trị hà khắc ở thuộc địa của Pháp nói chung và thuộc địa Đông Dương, Việt Nam nói riêng. Sự kiện này cũng đánh dấu một bước tiến trong sự trưởng thành của Nguyễn Ái Quốc sau những khảo nghiệm thực tế. Bằng những hoạt động sôi nổi trong Đảng Xã hội Pháp, trong phong trào công nhân Pháp, Người nhanh chóng nắm bắt được thời cuộc và định hướng đúng đắn cho mình, cho con đường giải phóng dân tộc mình.
Ngày 16 và 17-7-1920, lần đầu tiên ở Pháp, báo Nhân Đạo (L’Humanite), cơ quan của Đảng Xã hội Pháp công bố tác phẩm quan trọng của Lê-nin: “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Trong văn kiện này, Lênin phê phán mọi luận điểm sai lầm của những người cầm đầu Quốc tế II về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, nhấn mạnh sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Tác phẩm của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. 9 năm sau ngày rời Tổ quốc, cầm tờ báo ở trang ba đăng văn kiện của Lê-nin, người thanh niên yêu nước thấy bừng lên một ánh sáng mới. Từng dòng, từng chữ quý giá hiện ra trước mắt. Văn kiện lịch sử ấy của Lê-nin mở ra trước mắt Người một chân trời mới rực rỡ và là ngọn đèn soi đường giải phóng cho đồng bào của Người đang rên xiết dưới ách thực dân. Văn kiện ấy khiến cho Người xúc động, tin tưởng, vui mừng đến phát khóc lên và dù chỉ ngồi một mình trong căn buồng nhưng Người vẫn nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: " Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! " [15] .
Chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với cuộc gặp gỡ kỳ thú đó với tư tưởng Lênin. Nó tạo ra bước chuyển căn bản của Người - chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi và mở đầu một chuyển biến thực sự trong lịch sử tư tưởng cách mạng nước ta - “hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba” [16] . Chủ tịch Hồ Chí Minh vững bước tới tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tours. Tại Đại hội này Người đã cùng với những nhà hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp như: Macxen Casanh (Marcel Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant Couturier)... bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại những người cơ hội. Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Lúc ấy là rạng sáng ngày 30-12-1920. Thời khắc đó xuất hiện người cộng sản Việt Nam đầu tiên là Nguyễn Ái Quốc. Thời khắc đó đánh dấu sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Lê-nin và quyết tâm bước theo ánh sáng tư tưởng Lê-nin. Cuối cùng Người cũng đã tìm thấy con đường giải phóng không chỉ phá vỡ xiềng xích cho dân tộc Việt Nam mà còn là niềm hy vọng chung cho các dân tộc thuộc địa khác trên thế giới.
Vậy là, từ thời điểm ra đi năm 1911 cho đến năm 1920, là cả một thập kỷ cho một hành trình tìm kiếm nguồn sáng chân lý cách mạng của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Tất nhiên, chân lý ấy cần phải được vận dụng và kiểm nghiệm trong điều kiện thực tiễn lịch sử xã hội Việt Nam, còn là một chặng gian lao phía trước, song niềm cảm thức và trực giác mách bảo Nguyễn Ái Quốc rằng: đó là một chân lý duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam " Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin " [17] và " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản [18]. Sự lựa chọn và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, đã thức tỉnh, thôi thúc lớp lớp người Việt Nam yêu nước đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tập hợp được đông đảo quần chúng dưới ngọn cờ cách mạng để làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám và tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi. Có thể nói, mỗi bước tiến, mỗi thắng lợi của nhân dân ta, của Đảng ta trong những năm qua “ đều gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng sôi nổi và đẹp đẽ của Hồ Chủ tịch. Toàn bộ hoạt động của Người cùng với sự nghiệp của nhân dân ta và của Đảng ta là một thiên anh hùng ca bất diệt của cách mạng Việt Nam ” [19] . Dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng tư tưởng, đường lối cùng với tình thương yêu bao la của Người để lại cho nhân dân ta vẫn còn sức sống bất diệt. Những tư tưởng ấy, tình yêu thương ấy vẫn sáng chói và soi đường cho chúng ta bước tiếp trong công cuộc phát triển phồn vinh và hội nhập quốc tế./.
--------------------------------------
[1] Hồ Chí Minh toàn tập , Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, t.5, tr.575 [2] Hồ Chí Minh toàn tập , Sđd, t.12, tr.560 [3] Hồ Chí Minh toàn tập , Sđd, t.3, tr.216 [4] Hồ Chí Minh toàn tập , Sđd, t.1, tr.466 [5] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.6, tr.171 [6] Báo Ogoniok , số 39, ngày 23-12-1923. [7] Báo Nhân dân , ngày 18-5-1965. [8] Phạm Xanh: Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam (1921-1930), Nxb Thông tin lý luận, H.1990, tr.17. [9] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, H.1970, tr.11 [10] Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử , Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, t.1, tr.52 [11] Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 69 [12] Trần Dân Tiên, Sđd, tr.23-24 [13] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.2, tr.270 [14] Hồ Chí Minh toàn tập , Sđd, t.10, tr.126 [15] Hồ Chí Minh toàn tập , Sđd, t.10, tr.127 [16] Phạm Xanh, Sđd, tr.28 [17] Hồ Chí Minh toàn tập , Sđd, t.2, tr.268 [18] Hồ Chí Minh toàn tập , Sđd, t.9, tr.314 [19] Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới , Nxb Sự thật, H.1970, tr.35
Truyền thống yêu nước với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí MinhĐăng lúc: 15:37:30 31/05/2021 (GMT+7)4033 lượt xem Chuyên viên: Nguyễn Thị Tâm Phòng Quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học Như chúng ta đều biết, tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của đầu óc con người, do con người sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Nhưng con người bao giờ cũng mang tính xã hội, chịu sự tác động của xã hội, của lịch sử…Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên, sống và làm việc trên đất nước Việt Nam, vì vậy, tư tưởng của Người trước hết cũng phải được bắt nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo dựng, hun đúc lên một hệ thống các giá trị văn hoá mang sắc thái dân tộc bền vững. Theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII thì những giá trị truyền thống tốt đẹp Việt Nam được thể hiện qua các giá trị căn bản đó là: Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử và tính giản dị trong lối sống. Trong những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì tinh thần yêu nước Việt Nam là truyền thống tốt đẹp nhất, là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc, là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam, là sức mạnh, là lẽ sống, niềm tự hào và là đạo lý làm người của con người Việt Nam, như có lần Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà Nho yêu nước, ngay từ trong giáo dục của gia đình, sự ảnh hưởng của những người thân, tinh thần yêu nước của dân tộc đã thấm sâu vào Chủ tịch Hồ Chí Minh từ khi còn nhỏ, cho nên ngay khi còn niên thiếu, Người đã làm liên lạc cho các sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương; tham gia vào phong trào yêu nước chống Pháp của Nhân dân Trung Kỳ. Đồng thời, cũng chính tinh thần yêu nước đó là động lực thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, vượt qua mọi khó khăn trong hành trình tìm đường cứu nước và chi phối mọi suy nghĩ và hành động của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Đồng thời, cũng chính từ lòng yêu nước, thương dân đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin một cách tự nhiên, từng bước hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.Trong bài viết Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin( 1960), Hồ Chí Minh viết: “lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[2]. Nghiên cứu cuộc đời, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy rất rõ, từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi từ biệt chúng ta trở về với thế giới người hiền, Người luôn khát khao và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân chủ và giàu mạnh, nhân dân Việt Nam được ấm no, tự do và hạnh phúc. Cuộc đời cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vinh quang của Người xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân và cũng vì nước vì dân mà tận tâm, tận lực phấn đấu. Khi còn đang phải vất vả nơi xứ người để tìm con đường cứu nước, cứu dân, Người đã từng nói: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu. Hoặc sau này khi đất nước độc lập, Người lại nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[3]. Tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng lên một tầm cao mới. Đó là yêu nước phải gắn với thương dân, gắn với tinh thần quốc tế vô sản.Và yêu nước phải được thể hiện trong hành động thực tế chứ không chỉ đơn giản là khẩu hiệu, là lời kêu, gọi động viên thuần tuý. Chính vì vậy, với lòng yêu nước, Người đã biến tình cảm, tư tưởng thành sức mạnh thực tiễn bằng những sáng tạo, tài năng và cống hiến vô giá trong sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để giành thắng lợi, giành lại độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Tóm lại, như Đảng ta đã khẳng định, Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.Điều này có nghĩa, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dựa trên nhiều yếu tố; trong đó, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước chính là nguồn gốc cơ bản đầu tiên hình thành tư tưởng của Người. Trân trọng giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, trong đó đặc biệt là truyền thống yêu nước, trong suốt quá trình cùng với Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền về lòng yêu nước, tinh thần yêu nước cho mọi người dân, trong mọi thời điểm là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, kể cả trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn có nhiều những cách thức để tuyên truyền, vun đắp và phát huy sức mạnh yêu nước trong mỗi người dân Việt Nam. Chính tinh thần yêu nước đã trở thành điểm tương đồng, mẫu số chung để Đảng thực hiện phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân toàn dân tộc trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng đất nước. Những thắng lợi, những thành công của Đảng trong lãnh đạo cách mạng bắt nguồn từ nhiều nhân tố, nhưng trong đó việc khơi dậy và phát huy được tinh thần yêu nước của mọi cán bộ, đảng viên và Nhân dân; đó chính là một trong những yếu tốt rất quan trọng. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu với đại dịch COVID-19 thời gian gần đây đã cho thấy rất rõ về vai trò, sức mạnh tinh thần yêu nước của người dân Việt Nam. Cùng với những cuộc vận động do Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội đứng ra vận động, đã có nhiều doanh nghiệp chủ động thực hiện chi khoản tiền lớn để giúp Chính phủ chống dịch; nhiều văn nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên; nhiều người dân từ già trên 90 tuổi cho đến em học sinh đều tham gia đóng góp bằng nhiều cách thức. Đó chính là minh chứng rất rõ tinh thần yêu nước, tương thân tương ái của người Việt. Chính vì vậy, tại Đại hội XIII, Đảng đã nêu rất rõ việc phải tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Có thể nói,điểm nhấn mớitrong nhận thức về động lực của Đại hội XIII làphát huy mạnh mẽ ý chí tự cường dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội XIII, các cấp các ngành phải thường xuyên chú trọng việc tuyên truyền và phát huy truyền thống yêu nước trong mọi cán bộ, đảng viên và trong Nhân dân, phải làm cho mỗi người đều thấy được tinh thần trách nhiệm của mình đối với đất nước và có những hành động yêu nước đúng đắn, tránh bị kẻ địch lợi dụng để kích động. Đặc biệt, đối vớimỗi cán bộ, đảng viên phải luôn là những tấm gương phấn đấu, không ngừng tu dưỡng rèn luyện mình thực sự có lòng yêu nước chân chính, biết đặt lợi ích của đất nước của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, tiếp tục phát huy những phẩm chất anh hùng cách mạng, luôn xây dựng niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Làm tốt điều đó, nhất định chúng ta sẽ phát huy tốt chủ nghĩa yêu nước trong thời kỳ mới và sẽ tạo được sự lan tỏa trong Nhân dân để cùng đoàn kết một lòng xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu của chúng ta./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, tr. 38 [2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.128. [3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.161
|