Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của cách mạng Việt Nam Show
Chuyên đề 1 CÂU 3 CHỨNG MINH SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MAC LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN LÀ BƯỚC NGOẠT CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.2 KB, 3 trang ) Câu 3 : Chứng minh sự ra đời của Triết học Mác là 1 tất yếu khách quan phán mạnh mẽ tôn giáo, bác bỏ quan niệm sai lầm của phái Hêghen tre lẫn lộn tự nhiên với ý thức. Ông khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, không phụ thuộc vào con ngời và tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo. Con ngời cũng là sản phẩm của giới tự nhiên. Thần thánh không sáng tạo ra con ngời mà con ngời sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình tuỳ thuộc vào những điều kiện sống nhất định. Tuy Mác và Angghen chịu ảnh hởng mạnh mẽ của triết học Phoiơbắc, nhng C.Mác và Ph.Angghen đã tiếp thu triết học đó một cách có phê phán. Hai ông khác Phoiơbắc ở chỗ không vứt bỏ hoàn toàn triết học của Hêghen - phép biện chứng nh Phoiơbắc đã làm. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác và Ph.Angghen là chủ nghĩa duy vật triệt để, còn chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc vẫn cha thót khỏi tính chất duy tấm và siêu hình, đặc biệt khi ông xem xét xã hội. Phoiơbắc cha hiểu đúng vấn đề thực tiễn xã hội, quan niệm về đấu tranh chính trị xã hội còn nhiều sai lầm. Mác và Angghen đánh giá vai trò to lớn của Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, trong việc làm hình thành thế giới quan duy vật khoa học của mình. Sự ra đời cảu TH Mác là kết quả của sự tiếp thu tinh hoa t tởng triết học nhân loại. Tiền đề khoa học tự nhiên Thế kỷ 17, 18 căn bản là của các khoa học cụ thể, khoa học nghiên cứu các bộ phận riêng rẽ của tự nhiên và do đó làm xuất hiện phơng pháp siêu hình, thì những năm cuối thế kỷ 19, sự phát triển của khoa học tự nhiên đã chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn phát triển khoa học tự nhiên lý luận. Khoa học này đòi hỏi phải chuyển phơng pháp nghiên cứu từ siêu hình, máy móc sang phơng pháp biện chứng, coi sự phát triển của tự nhiên nh một quá trình vận động, liên hệ thống nhất. Vào đầu thế kỷ 19, có ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lợng của Robet X Maye, thuyết tế bào của Slayđen Sơvanơ, thuyết tiến hoá của Đác uyn, ba phát minh này góp phần 1 cách toàn diện thế giới quan biện chứng từ tự nhên đến xã hội. Phát minh ĐL bảo toàn và chuyển hoá năng lợng vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác nhau cảu thế giới vật chất; thuyết tế bào đã phá tan quan niệm sai lầm của phơng pháp siêu hình về thế giới sinh vật, nó chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật; thuyết tiến hoá chống lại quan điểm quy tâm về nguồn gốc của sự sống, nó giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh, khi có sự biến đổi về điểu kiện tự nhiên, các loài động vật, thực vật phải biến đổi để thích nghi với điều kiện mới và nó cũng chỉ ra sự phát triển động vật từ sinh vật cho đến con ngời là kết quả của sự tiến hoá. Từ sự phát triển của giới tự nhiên đã góp phần vào duy vật biện chứng về tự nhiên của C.Mác và Ph.Angghen, Mác và Angghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ gnhĩa duy vật lịch sử nh một triết học phù hợp sự phát triển của các khoa học cụ thể nh khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đồng thời TH Mác trở thành thế giới quan và phơng pháp luận cho các khoa học đó. Sự ra đời của triết học Mác là do chín muồi của các điều kiện về kinh tế- xã hội, lý luận và điều kiện về khoa học tự nhiên do vậy mà triết học Mác ra đời là một tất yếu lịch sử không thể sớm hơn và cũng không thể muộn hơn và chính ở thời điểm lịch sử đó các điều kiện kinh tế-xã hội đã đợc chín muồi. * Cuộc cách mạng mang tính bớc ngoặt do Mác và Angghen thực hiện Thực chất của bớc ngoặt cách mạng trong triết học do Mác và Angghen thực hiện : Khác với tất cả các hệ thống TH trớc đó, TH Mác đã chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn trong sự tồn tại, phát triển của xã hội và trong nhận thức. Nếu không hiểu đúng vai trò cảu thực tiễn, nhât là thực tiễn sx xã hội thì tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy tâm. Trong nhận thức thực tiễn là cơ sở, động lực. mục đích của nhận thức, là nơi mà lý luận hớng đến để giải thích và cải tạo thế giới. Mác cho rằng : "Các nhà TH trớc kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới". Bớc ngoặt cách mạng vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác thực hiện là đã đa ra quan điểm duy vật lịch sử. Trớc Mác các nhà triết học hiểu sự phát triển của xã hội một cách duy tâm, coi động lực phát triển của xã hội là ở trong ý thức, tinh thần của con ngời. Đối lập với quan điểm trên Mác - Angghen đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của TH trong đời sống xã hội không phải ý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội, sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào ý thức của con ngời: Sự phát triển của xã hội mang tính quy luật, là quá trình lịch sử tự nhiên. Do sự tác động của các quy luật vốn có của xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau một cách khách quan độc lập với ý chí và ý thức của con ngời, trong sự phát triển ấy, quần chúng nhân dân là lực lợng quyết định, sáng tạo ra lịch sử. Với chủ nghĩa DV biện chứng và chủ nghĩa DVLS Mác - Angghen đã biến đổi căn bản tính chất TH, đối tợng nghiên cứu và mối liên hệ của nó với các khoa học khác. TH Mác đóng vai trò là thế giới quan và phơng pháp luận của các khoa học cụ thể. Các tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở để cụ thể hoá và phát triển TH Mác. Phép biện chứng giữa LLSX và QHSX, đó là quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Trong mỗi một PTSX, QHSX và LLSX là hai mặt đối lập, trong đó LLSX là nội dung của PTSX còn QHSX là hình thức xã hội của PTSX. Giữa QHSX và LLSX thờng xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì QHSX trở thành phơng thức đảm bảo cho sự phát triển của LLSX. Khi QHSX không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX. QHSX là yếu tố tĩnh còn LLSX là yếu tố động, trong khi LLSX có xu h ớng thờng xuyên biến đổi thì QHSX lại có xu hớng bảo thủ. Vì vậy khi LLSX biến đổi đến một giới hạn nào đó, QHSX sẽ không còn biến đổi kịp với sự phát triển của LLSX nữa. QHSX bắt đầu kìm hãm sự phát triển của LLSX. Sức sản xuất muốn đợc giải phóng thì phải xoá bỏ QHSX đã lỗi thời. QHSX mới, LLSX mởi PTSX mới lại tác động biện chứng với nhau và đến một mức độ nào đó lại xảy ra sự xung đột giữa LLSX và QHSX, dẫn đến nhu cầu khách quan tiếp tục xoá bỏ QHSX cũ để mở đờng cho LLSX phát triển.. cứ nh thế các FTSX không ngừng thay thế nhau trong lịch sử làm cho xã hội loài ngời không ngừng vận động từ thấp đến cao. Tính cách mạng trong TH Mác xoá bỏ cái cũ, lỗi thời và xác lập cái mới, tiến bộ hơn. Với bản chất ấy, cách mạng không phải là quá trình dễ dàng, thẳng tắp, trơn tru mà là một quá trình khó khăn, phức tạp, thậm chí có sự thụt lùi tạm thời nhng cuối cùng cái mới tiến bộ hơn là cái chiến thắng. Với việc phủ định các quan điểm Duy tâm và siêu hình của các nền Triết học khác, đồng thời phát triển từ t duy siêu hình lên phép BCDV, TH Mác đãvạch ra quá trình phát triển, với nội dung và hình thức hết sức phong phú. Đối với phép BCDV không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra tính chất quá độ của mọi sự vật, và đối với nó không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự tiến triển vô cùng, vô tận từ thấp đến cao. Chính quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sụe vật, quá trình tích luỹ dần dần về lợng, đến một giai giới hạn nhất định, khi điều kiện chín muồi, tất yếu dẫn đến sự tự phủ định của sự vật, làm cho sự vật phát triển lên một giai đoạn mới cao hơn, tiến bộ hơn. Có thể nói phép DVBC là cơ sở phơng pháp luận, chỉ đạo chủ thể xác định phơng pháp cách mạng khoa học và đúng đắn. Tính khoa học trong TH Mác: Triết học Mác với Phép DVBC là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và ph ơng pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của phép DVBC không chỉ phán ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hớng cho con ngời trong nhận thức và cải tạo thế giới. Phép DVBC không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà còn là kết tinh những tinh hoa trong qúa trình phát triển t tởng TH của nhân loại. TH Mác là 1 học thuyết sáng tạo, không ngừng đợc bổ sung, đợc làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và cũng phát triển cùng thực tiễn. Sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848 đánh dấu bớc chuyển căn bản về thế giới quan cũng nh lập trờng chính trị nhng TH Mác không dừng tại đó mà 2 ông đã sáng tạo nhiều công trình TH lớn nhằm tổng kết mặt lý luận, những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, đa TH Mác phát triển lên một đỉnh cao mới. TH Mác là kim chỉ nam cho hành động. Qua đó ta thấy C.Mác và Ph.Angghe đã tạo ra bớc ngoặt mang tính cách mạng trong lịch sử triết học. BÀI 1: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMThứ hai - 20/07/2020 21:31 747.981 0 1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng trong thời đại ngày nay 1.1. Sự ra đời, phát triển và các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin 1.1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp này là một trong những điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Trong thời kỳ này,nhiều phát minh khoa học mang tính vạch thời đại xuất hiện. Những phát minh khoa học này không chỉ làm bộc lộ rõ tính hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình mà còn tạo ra cơ sở khoa học để khắc phục phương pháp tư duy siêu hình này. Đồng thời, chúng cũng cung cấp những cơ sở khoa học cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác ra đời còn là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc, tiếp thu có phê phán toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại từ cổ đại đến thời đại của C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895), nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác còn là kết quả của các yếu tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen,như:tình yêu thương những người lao động, tinh thần hy sinh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng họ, niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, cùng sự thông minh... Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khoa học về thế giới vi mô phát triển và chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng ở nước Nga Xô viết, mở ra giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng, bởi nó phản ánh đúng quy luật khách quan vận động của lịch sử và đấu tranh xóa bỏ mọi hình thức nô dịch người, xây dựng một xã hội mà ở đó không còn người bóc lột người, người đàn áp người, người nô dịch người và sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người. 1.1.2. Các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học gồm ba bộ phận thống nhất hữu cơ không thể tách rời nhau: - Triết học Mác-Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị cho con người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới. - Kinh tế chính trị học Mác-Lênin nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (tức là nghiên cứu quan hệ sản xuất) và trong trao đổi, tiêu dùng; nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với quy luật giá trị thặng dư, chỉ rõ bản chất, những quy luật kinh tế chủ yếu của sự hình thành, phát triển và đưa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tới chỗ diệt vong; chỉ ra những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một xã hội không có áp bức bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người - xã hộicộng sản chủ nghĩa, giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. -Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương hướng xây dựng xã hội mới; chứng minh rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển càng tạo ra những tiền đề vật chất đầy đủ cho sự ra đời xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó chính là giai cấp vô sản và nhân dân lao động; chỉ ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - không còn người áp bức người, không còn người nô dịch người; nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... 1.1.3. Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong các giai đoạn lịch sử Thời kỳ trước “đổi mới, cải cách, cải tổ” Các nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội, đứng đầu là các nhà lý luận Xô Viết đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên tất cả ba bộ phận triết học; kinh tế - chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Họ đã cụ thể hóa và làm giàu thêm những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin bằng thực tiễn đấu tranh giải phóng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, họ cũng đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ những sự xuyên tạc, vu khống ác ý đối với chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Liên Xô nói riêng trước đổi mới, cải cách, cải tổ ít nhiều đã bị giáo điều. Chính vì vậy, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đổi mới, cải cách, cải tổ có những biểu hiện giáo điều, xơ cứng, bảo thủ, chậm đổi mới. Thời kỳ “đổi mới, cải cách, mở cửa” Trong thời kỳ đổi mới, cải cách, mở cửa,Đảng Cộng sản Việt Nam,Đảng Cộng sản Trung Quốc, cùng một số Đảng Cộng sản khác đã vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn mỗi nước. Trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa là đặc trưng thứ nhất vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam.Trung Quốc đã xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục được xây dựng ở Cu Ba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào...Vì vậy,chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn tồn tại và phát triển,vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hàng triệu triệu con người tiến bộ trên trái đất. 1.2.Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin 1.2.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học thống nhất của ba bộ phận cấu thành không thể tách rời làTriết học Mác-Lênin;Kinh tế chính trị học Mác-Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Triết học Mác-Lênin chỉ ra rằng, lực lượng sản xuất theo quy luật khách quan tự thân luôn vận động phát triển và đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có, mâu thuẫn này được giải quyết sẽ làm cho phương thức sản xuất mới ra đời, kéo theo nó là một xã hội mới, một hình thái kinh tế - xã hội mới được ra đời từ trong lòng xã hội cũ, hình thái kinh tế -xã hội cũ. Quá trình này diễn ra một cách lịch sử - tự nhiên. Từ trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ hình thành những điều kiện, tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết giá trị thặng dư của Kinh tế chính trị học Mác-Lênin chỉ rõ sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là mục đích và quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với tính chất tư bản tư nhân chủ nghĩa của sự chiếm hữu tư liệu sản xuất là nguyên nhân của mọi mâu thuẫn trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân - giai cấp tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ với giai cấp tư sản - giai cấp đại diện cho giai cấp bảo thủ, phản tiến bộ. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua cách mạng xã hội do giai cấp công nhân thực hiện. Giai cấp công nhân có vai trò lôi cuốn các tầng lớp lao động khác vào cuộc đấu tranh đập tan xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không còn người bóc lột người mà Chủ nghĩa xã hội khoa học đã phân tích chỉ ra. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học là còn bởi lẽ, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã kế thừa toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư duy của nhân loại.Chủ nghĩaMác - Lênin còn có căn cứ cơ sở, tiền đề khoa học; có giai cấp vô sản và thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp này và các phương pháp khoa học, khách quan trong nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. 1.2.2. Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận mácxít Trước khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học luôn tách rời nhau. Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại cũng có một số nhà tư tưởng có sự thống nhất giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học. Tuy nhiên, sự thống nhất này còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả thế giới quan khoa học, cả phương pháp luận biện chứng khoa học đều còn ở trình độ thô sơ. Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật thống nhất hữu cơ với phép biện chứng. Đồng thời, chủ nghĩa duy vậtvàphép biện chứng đều được C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển lên một trình độ mới về chất hơn hẳn so với trước đó. Do đó, sự thống nhất thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học mácxít là một đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa Mác-Lênin. 1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vớiviệc xác định rõcon đường, lực lượng, phương thứcđểđạt mục tiêu đó Chủ nghĩa Mác-Lênin xuất phát từ con người hiện thực và cũng nhằm mục đích giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác-Lênin không có mục tiêu nào khác là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột. Nhưng để giải phóng con người, trước hết phải giải phóng giai cấp công nhân rồi tiến tới giải phóng nhân loại, giải phóng xã hội. Con đường giải phóng này là con đường đấu tranh cách mạng đập tan nhà nước tư sản bóc lột, xây dựng một nhà nước mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa và sau này là cộng sản chủ nghĩa - mà ở đó không còn bất kỳ sự nô dịch, áp bức, bóc lột con người nào. Muốn vậy, giai cấp công nhân phải đoàn kết, tập hợp giai cấp nông dân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng này. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng tỏ ý nghĩa nhân văn to lớn của mục tiêugiải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin.Cả về phương diện lý luận, cả về phương diện thực tiễn đều chứng tỏ, chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa nhân đạo nhất. 1.2.4. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết mở, không ngừng được đổi mới, được phát triển trong dòng trí tuệ của nhân loại Về bản chất, chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết phát triển, là hệ thống mở, luôn được bổ sung, phát triển. Ngay từ năm 1887, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Lý luận của chúng tôi không phải là một giáo điều, mà là sự giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao hàm trong bản thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp nhau”[1]. V.I.Lênin sau này cũng đã không ít lần nhắc lại lời Ph.Ăngghen và khẳng định lại luận điểm kinh điển ấy của chủ nghĩa Mác[2]. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm phạm”, là hệ thống khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các ông luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa...của mỗi nước. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như cácĐảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế cũng cho thấy bản chất vốn có của chủ nghĩa Mác-Lênin là sáng tạo và phát triển. Chính nhờ có sáng tạo mà chủ nghĩa Mác-Lênin được phát triển, chính phát triển lại là điều kiện cho những người mác-xít vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam 2.1.Khái niệm và nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh 2.1.1. Khái niệm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của Nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân…”[3]. Đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và của dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi”[4]. Nội dung củatư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống quan điểm, tư tưởng bao gồm những nội dung cốt lõi: Thứ nhất,về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người.Thứ hai,về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Thứ ba,về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Thứ tư,về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc.Thứ năm,về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.Thứ sáu,về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.Thứ bảy,về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.Thứ tám,về đạo đức cách mạng.Thứ chín,về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.Thứ mười,về xây dựng Đảngtrong sạch, vững mạnh. Đảng ta coitư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng củaNhân dân ta giành thắng lợi. 2.1.2. Nguồn gốc hình thành Thứ nhất,tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở nhiều vấn đề lý luận quan trọng, nhất là lý luận về giai cấp - dân tộc và lý luận về chủ nghĩa xã hội. Thứ hai,tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hồ Chí Minh là một trong những người con ưu tú của dân tộc. Người đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong đó giá trị tiêu biểu là chủ nghĩa yêu nước; ý chí tự lực, tự cường; tinh thần nhân nghĩa; truyền thống đoàn kết tương thân tương ái, truyền thống cần cù, dũng cảm ,thông minh, sáng tạo... Thứ ba,tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông, nhất là những tư tưởng tiến bộ trong Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng tiến bộ của Tôn Trung Sơn. Ở đó,Người tìm thấy những yếu tố phù hợp với điều kiện của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái và cách mạng phương Tây. Từ đó, Người hướng cách mạng Việt Nam theo những giá trị của nền văn hóa ấy. Thứ tư,tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu thươngNhân dân vô hạn, một nhân cách lớn. Hồ Chí Minh cũng là người có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, không ngừng học tập để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại và vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, là tiền đề cho những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. 2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh 2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người Hồ Chí Minh cho rằng, con đường của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người. Trong đó, giải phóng dân tộc để dân tộc ta thoát khỏi cảnh lầm than, nô lệ, áp bức,nô dịchbởi thực dân, đế quốc; giải phóng giai cấp để xóa bỏ áp bức giai cấp, bóc lột giai cấp, đem lại hạnh phúc choNhân dân. Giải phóngxã hội để thực hiện công bằng xã hội. Giải phóngcon người để mỗi người ai cũng có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện. Tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chủ tịch làdân tộc thì độc lập, dân quyền thì tự do, dân sinh thì hạnh phúc. Chính vì vậy, với Người không có gì quý hơn độc lập, tự do. Nhưnggiành được độc lập, tự do rồi mà dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập, tự do cũng vô nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc,giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon ngườigắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ, giải phóng dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người. Tuy nhiên, giải phóng giai cấp và giải phóngxã hội vàcon người sẽ củng cố, khẳng định, bảo vệ giải phóng dân tộc. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các nước thuộc địa và phụ thuộc phải tiến hành chủ động, sáng tạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong các cuộc cách mạng giải phóng ấy thì giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của cách mạng, thúc đẩy cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. 2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắnliềnvới chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới vững bền. Nói khác đi, chỉ có lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa mới là con đường bảo vệ và phát triển vững chắc nhất thành quả của độc lập dân tộc, mới bảo đảm choNhân dân thực sự được hạnh phúc, đồng bào ta thực sự được ấm no. Tất nhiên, độc lập dân tộc cũng là điều kiện, tiền đề, cơ sở để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ phát triển lên chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển đúng đắn và hợp quy luật khách quan của Việt Nam. Điều này có các luận cứ: Thứ nhất,đây là quy luật phát triển khách quan của lịch sử không ai có thể ngăn cản được. Người khẳng định: “Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa...Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”[5]. Thứ hai,Hồ Chí Minh không nói nhiều về khái niệm chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội mà Người hiểu là mô hình xã hội duy nhất thực hiện được ham muốn của Người là dân tộc được độc lập,Nhân dân được hạnh phúc, đồng bào được tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh chính là “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”[6]. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao choNhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”[7]. “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa củaNhân dân và doNhân dân tự xây dựng lấy”[8]. Có thể nói, chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai cũng có việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Chủ nghĩa xã hội có quan hệ hòa bình, hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội như vậy sẽ không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc mà còn làm choNhân dân được hạnh phúc, đồng bào được ấm no, tạo điều kiện phát triển mới cho dân tộc, cho mọi người dân. Do vậy, mà Hồ Chí Minh đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và đây là một giá trị bền vững trong tư tưởng của Người. 2.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại Sức mạnh dân tộc theo Hồ Chí Minh,đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực, tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết. Sức mạnh của thời đại được Hồ Chí Minh đúc kết từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Trải qua nhiều nước trên thế giới, Người hiểu rằng, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”[9]. Hơn nữa, các nước đế quốc đã không đơn độc trong hành động áp bức, bóc lột ở các nước thuộc địa, chúng còn tuyển những người lính ở các nước thuộc địa sang đàn áp ở chính quốc. Chính vì thế,Nhân dân và các nước thuộc địa bị áp bức cần đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Hồ Chí Minh cho rằng sức mạnh thời đại bao gồm sức mạnh của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc; phong trào cách mạng của công nhân vàNhân dân lao động các nước chính quốc và tư bản chủ nghĩa nói chung; phong trào xã hội chủ nghĩa; phong trào vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; phong trào cách mạng củaNhân dân Đông Dương...Biết tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của cách mạng. Đồng thời, Việt Nam luôn gắn kết cuộc đấu tranh của mình với phong trào giải phóng dân tộc, vớiNhân dân các nước mới giành độc lập hoặc đang đấu tranh vì nền độc lập, tự do. Chính vì vậy, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng; là xây dựng được khối liên minh đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản vàNhân dân thuộc địa với giai cấp vô sản vàNhân dân lao động ở các nước chính quốc; là phát huy sức mạnh của các dòng thác cách mạng trên thế giới phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. 2.2.4.Tư tưởng Hồ Chí Minhvề sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ chí Minh có quan điểm đúng đắn về quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là những người lao động,“Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng...dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[10]. Quần chúng nhân dân có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Chính quần chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi sáng tạo, chủ thể của mọi phong trào cách mạng. Trong một quốc gia, quần chúng nhân dân là gốc của nước. Với Hồ Chí Minh“nước lấy dân làm gốc”[11], cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân và Người khẳng định: “Gốc có vững cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”[12]. Với Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân còn là người quyết định lịch sử. Người thường hay trích dẫn câu ca của người dân vùng Quảng Bình, Vĩnh Linh“Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”để nói lên vai trò to lớn của quần chúng nhân dân. Vai trò của Nhân dân còn được Người khẳng định rõ:“Ở đâu có dân là có núi, có sông, có biển. Dân có sức mạnh hơn cả sông núi. Nếu ta biết dựa vào dân thì sẽ thành công”[13]. Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách đến hoạt động thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Vì, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không phải là việc một hai người có thể làm được. Đại đoàn kết toàn dân có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.Nguyên tắc cơ bản để xây dựng khối đại đoàn kết là bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân. 2.2.5.Tư tưởng Hồ Chí Minh vềquyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa “dân là chủ”. Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà doNhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức làNhân dân là người chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.Theo Người: “Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” ... Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[14].Hồ Chí Minh coi dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà còn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hòa bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế. Vì vậy, Ngườiyêu cầu phải thực hiện được một nền dân chủ chân chính. Không cho phép ai lợi dụng và lạm quyền “dân chủ” để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và Nhân dân. Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước ta là ởNhân dân. “Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ của Nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”[15]. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta và bản chất này được thể hiện ở chỗ:trước hết,nhà nước ấy do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.Hai là,nhà nước này bảo vệ, chăm lo lợi ích cho nhân dân lao động.Ba là,nhà nước này có nhiệm vụ điều hành,“phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”[16].Bốn là,nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước này là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà nước thực hiện quyền lực củaNhân dân, dựa vào sức mạnh củaNhân dân, trước hết làNhân dân lao động. Nhà nước của dân là: tất cả quyền bính đều thuộc vềNhân dân, những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia doNhân dân phán quyết; tức làNhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình “Chính quyền từ xã đến chính phủtrung ương do dân cử ra. Đoàn thể từtrung ương đến xã do dân tổ chức nên”. Nhà nước do dânvì “lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết”. Nhà nước muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”. Vì vậy,Đảng ta luôn chủ trương dựa vào dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy cao nhất quyền làm chủ, tham gia tích cực vào việc quản lýnhà nước. Nhà nước vì dân nghĩa là mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát và vì lợi ích củaNhân dân; việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. 2.2.6.Tưtưởng Hồ Chí Minhvề quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Chí Minh sớm nhận ra rằng, muốn giải phóng dân tộc thì phải có lực lượng quân sự và lực lượng này phải có tổ chức, phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng[17]. Xây dựng lực lượng vũ trang phải nắm vững quan điểm: sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; bạo lực vũ trang khởi nghĩa chủ yếu cũng là bạo lực của quần chúng; chiến tranh nhân dân; quốc phòng toàn dân; an ninh nhân dân. Lực lượng vũ trang cách mạng từNhân dân mà ra, vìNhân dân mà chiến đấu và phục vụ, đượcNhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở. Người luôn căn dặn các cán bộ, chiến sỹ quân đội nhân dân “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” củaNhân dân. Tất cả quân nhân phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Phải làm thế nào để khi mình chưa đến, thì dân trông mong, khi mình đến thì dân giúp đỡ, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Muốn vậy, bộ đội phải giúp đỡ dân, thương yêu dân. Mỗi quân nhân phải là một cán bộ tuyên truyền bằng việc làm của quân đội... Dân như nước, quân như cá. Phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh thắng giặc”[18]. Để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng cần kết hợp giáo dục quân sự với chính trị. Bởi lẽ, “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”[19]. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng phải toàn diện về các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và quân sự. Hồ Chí Minh có quan điểm rất đúng về quan hệ giữa con người và vũ khí, theo Người “con người là quyết định, vũ khí là quan trọng”, “người trước, súng sau”. Đồng thời,Người đề ra tư tưởng tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân-bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Đó là cách tổ chức độc đáo, hiệu quả trong tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Phương châm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Hồ Chí Minh là tự lực cánh sinh. 2.2.7.Tư tưởng Hồ Chí Minhvề xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Hồ Chí Minh luôn luôn đặt những vấn đề kinh tế trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề chính trị - xã hội: “Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[20]. Do vậy, ngay sau khi giành chính quyền về tay nhân dân, Người đã kêu gọi nhân dân cả nước tích cực tăng gia sản xuất, quyết tâm diệt giặc dốt và chỉ rõ trách nhiệm “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi”.Với một nước nông nghiệp, Người đưa ra cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp; xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đảm bảo an ninh lương thực để công nghiệp hoá và là hậu phương vững chắc cho sự nghiệp cách mạng. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữucông cộng về tư liệu sản xuất.Hồ Chí Minh là người sớm đưa ra chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất. Người coi trọng vấn đề quản lý, hạch toán kinh tế, cho đó là chìa khoá phát triển kinh tế quốc dân. Người đề xuất chính sách mở cửa và hợp tác với các nước để thu hút ngoại lực và phát huy nội lực. Người cũng đã bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất. Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá với nghĩa rộng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,loài người mới sáng tạo và phát triển ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đótức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[21]. Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có nhiệm vụ chủ yếu là bồi dưỡng con người có tư tưởng đúng và tình cảm cao đẹp; nâng cao dân trí, nghĩa là đề cập tới chức năng giáo dục của văn hoá; bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người tới chân, thiện, mỹ đểkhông ngừng hoàn thiện bản thân. Hồ Chí Minh xác định rõ văn hoá là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp các mạng. Văn hoá là một mặt trận, nghệ sĩ là người chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Văn hoá phải phục vụ quần chúng nhân dân, đó là quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.Hồ Chí Minh rất chú ý đến xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn hoá. Hồ Chí Minh yêu cầu“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”[22].Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nghĩa là phải nâng cao ý thức giác ngộ cáchmạng, độc lập dân tộc, kiên trì phấn đấu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường, không có gì quý hơn độc lập tự do của nhân dân. Phải thực hiện công bằng xã hội. Phải phát triển dân trí, coi giáo dục là quốc sách. 2.2.8.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên theo Hồ Chí Minh có tầm quan trọng đặc biệt - là gốc, là nền tảng cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đượcNhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”[23]. Về bản chất, đạo đức cách mạng “không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,của loài người”[24]. Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, trong đạo đức này có sự thống nhất lợi ích của Đảng với lợi ích của dân tộc và lợi ích của nhân loại tiến bộ. Đạo đức cách mạng không đối lập với đạo đức chân chính của dân tộc và đạo đức của nhân loại tiến bộ. Nó chỉ đối lập, xa lạ với đạo đức cũ, đạo đức thủ cựu của giai cấp bóc lột, thống trị.“Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”[25]. 2.2.9. Tư tưởng Hồ Chí Minhvề chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau Hồ Chí Minhluônđánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ - những người mang trong mình bầu nhiệt huyết, sức sống tràn trề, năng lực sáng tạo…đối với sự trường tồn của đất nước. Theo Người, “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùaxuân của xã hội”, vận mệnh của quốc gia, dân tộc thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên.“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên”[26].Vì vậy, xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng và hành động, Hồ Chí Minh luôn kêu gọi, đánh thức, giác ngộ và cổ vũ họ tham gia cách mạng; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sẵn sàng giao nhiệm vụ và tạo điều kiện để họ được học tập, lao động, cống hiến… Để hoàn thành sứ mệnh đó, thế hệ trẻ luôn phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích cực làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Đó là, phải ra sức học tập, trau dồi tri thức, đặc biệt là rèn luyện đạo đức cách mạng. Thế hệ trẻ phải xung phong trong công tác, đi trước, làm trước, phải có tinh thần sẵn sàng dấn thân “đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm.Việc giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội, nhằm giúp họ tránh những cái độc hại, tiêu cực và tiếp thu, học hỏi những cái hay, tiến bộ trong cuộc sống.Nói về những yêu cầu đạo đứccách mạngcủa thanh niên, của thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư, tự lợi, chỉ lolợi íchriêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”[27].Những yêu cầu về phẩm chất đạo đức đó cũng là biểu hiện khác của cần,kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - những phẩm chất đạo đức chân chính trong mỗicon người. Hồ Chí Minh cho rằng cần phải tin tưởng ở thế hệ trẻ, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong xây dựng và kiến thiết đất nước. Muốn phát huy được thế hệ trẻ phải thực sự hiểu thế hệ trẻ; phải quan tâm tới những nguyện vọng, những lợi ích chính đáng của thế hệ trẻ; xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh; nâng cao trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội đối với việc bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. 2.2.10.Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảngtrong sạch, vững mạnh Đảng Cộng sản Việt Nam theo Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Nhưng Đảng không phải là “quan nhân dân”, mà là “công bộc”, “đầy tớ thật trung thành củaNhân dân”. Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần,kiệm,liêm,chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành củaNhân dân”[28]. Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, Đảng củaNhân dân lao động và của dân tộc. Đảng chân chính cách mạng phải là Đảng tiên phong về lý luận, khoa học, lại còn phải tiêu biểu cho đạo đức cách mạng trong sáng, chí công vô tư, toàn tâm toàn ý vìNhân dân và dân tộc. -Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằmxây dựng đường lối chính trị, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ. Xây dựng Đảng về đạo đứcđể mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng vàNhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Đảng hoạt động trên nguyên tắctập trung dân chủ;tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;tự phê bình và phê bình;kỷ luật nghiêm minh, tự giác;đoànkết thống nhất trong Ðảng. 3. Giá trị, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác -Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở vạch ra được các quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người giúp chúng ta lựa chọn đúng đắn con đường phát triển của dân tộc -độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải thích được quy luật phát triển của xã hội loài người một cách khoa học, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng, từ trong lòng của chủ nghĩa tư bản sẽ ra đời phương thức sản xuất mới, một xã hội mới, một hình thái kinh tế - xã hội mới là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Quá trình này diễn ra một cách lịch sử - tự nhiên. Do vậy, sự ra đời cũng như diệt vong của chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách quan như nhau và đều do tất yếu kinh tế quy định. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho Đảng ta, dân tộc ta: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” - là sự lựa chọn đúng đắn con đường phát triển của Việt Nam. Bởi lẽ, độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho độc lập dân tộc thực sự trọn vẹn, bền vững. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội. Chính chủ nghĩa tư bản tạo ra những điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội ra đời. Mặc dù hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu nhất định về một số lĩnh vực: kinh tế, khoa học, công nghệ...Nhưng chính chủ nghĩa tư bản cũng là kẻ đã gây ra không ít tai họa cho con người như chiến tranh, nghèo đói, bất công xã hội, sự nô dịch áp bức...Những mục tiêu phục vụ con người, về hình thức và so với trước đây, có vẻ được quan tâm, nhưng thực chất ngày càng bị xa rời. Tiền lương thực tế của phần lớn công nhân Mỹ hầu như không tăng trong nhiều thập kỷ[29]. Chủ nghĩa tư bản về bản chất không thể giải quyết được vấn đề công bằng xã hội nhất là trong lĩnh vực phân phối nguồn của cải xã hội. Xu hướng giàu nghèo và phân tầng xã hội ngày càng diễn ra trầm trọng. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản không tương thích với dân chủ[30]. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không được giải quyết mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra”[31]. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh chủ nghĩa tư bản đến giới hạn cuối cùng của nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng là quá trình làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa mang tính toàn cầu. Quá trình này nhất định sẽ làm sâu sắc hơn mâu thuẫn cơ bản nội tại của chủ nghĩa tư bản,đẩy nhanh chủ nghĩa tư bản đến giới hạn cuối cùng của nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giải quyết quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù đi lên chủ nghĩa xã hội.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta phương pháp nhận thức khoa học, đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là mang tính phổ biến. Nhưng, mỗi dân tộc, quốc gia căn cứ vào tình hình thực tiễn của dân tộc, quốc gia mình mà lựa chọn hình thức quá độ trực tiếp hay gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đó là tính đặc thù và quan trọng là, không được vận dụng giáo điều những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời phải chống việc tuyệt đối hóa những điều kiện cụ thể của dân tộc, quốc gia và hạ thấp những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, khi ấy sẽ rơi vào dân tộc cực đoan, xét lại. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta phương pháp nhận thức điều kiện cụ thể để thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta có cơ sở lý luận để thực hiện đổi mới kinh tế - xã hội là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt,xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên[32]. Chủ nghĩaMác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn cung cấp cho chúng ta cơ sở lý luận để tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trên cơ sở đó đưa ra được tám đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội; tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và chín mối quan hệ lớn cần giải quyết[33]. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng cung cấp cho chúng ta phương pháp luận để giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh tế thị trường với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập quốc tế... Nói tóm lại, chính chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan, phương pháp luận cho chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới thành công. Tất cả những điểm trên cho thấy, tại sao Đảng ta lại lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng thế giới quan, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. PHẦN II. ĐI LÊN CHỦ NGHĨA Xà HỘI - SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM 1. Đi lên chủ nghĩa xã hội - sự lựa chọn phù hợp với khát vọng của nhân dân, yêu cầu giải phóng dân tộc của Việt Nam và quy luật, xu thế khách quan của lịch sử Vì sao chủ nghĩa Mác – Lênin là nội dung quan trọng trong nền tảng tư tưởng của ĐảngCập nhật: Thứ sáu 03/12/2021 - 08:50 Hiện nay, một số người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta cho rằng, lý luận về chủ nghĩa xã hội là sai lầm, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu nên nó đã “cáo chung cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô viết ở Đông Âu và Liên Xô”. Theo họ, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX ở châu Âu; nó chỉ phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của một số nước ở châu Âu và Liên Xô; hoàn toàn không phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam. Việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh “du nhập một học thuyết ngoại lai vào Việt Nam là hoàn toàn không phù hợp”, là sai lầm. Họ cho rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thất bại của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam là do Đảng ta “gặp may”, “bản thân Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không có tài cán gì”. Từ đó, họ vu khống rằng sư lạc hậu, kém phát triển của Việt Nam là do Đảng ta và Chủ tịch Hổ Chí Minh lấy “chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Họ lập luận rằng, chính sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và Đông Âu cũng như sự điều chỉnh, thích nghi của các nước tư bản phát triển là nhờ tận dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, nhất là thành tựu của cuộc mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều đó thêm một lần nữa đặt ra yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam là phải “thay máu cho hệ tư tưởng”, cần phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, thay vào đó là một lý luận khác phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, lý luận đó không có gì khác là hệ tư tưởng tư sản. Nhân dân ta không hề ngạc nhiên trước những luận điệu xuyên tạc ấy bởi “điệp khúc này” đã tua đi tua lại nhiều lần kể từ ngày chủ nghĩa Mác còn là “một bóng ma ám ảnh châu Âu” cho đến khi trở thành hệ tư tưởng thống trị phong trào công nhân quốc tế từ những năm 70 của thế kỷ XIX; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh chống các thế lực phản động, phản cách mạng, giành thắng lợi về tay mình. Chính sự ra đời của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới là minh chứng hùng hồn bác bỏ sự xuyên tạc ấy. Là con người có lương tâm và trách nhiệm thì đương nhiên phải thừa nhận một sự thật không thể chối cãi: Chủ nghĩa Mác - Lênin là một khoa học, có tính cách mạng và nhân văn sâu sắc. Đó là điểm khác biệt căn bản mà các luận thuyết của các bậc tiền bối và cùng thời với C. Mác đã không thể có được bởi có học thuyết của họ dựa trên lập trường thế giới quan duy vật nhưng phương pháp tư duy lại siêu hình; có học thuyết, phương pháp tư duy biện chứng nhưng quan điểm lại rơi vào duy tâm, tôn giáo hoặc rơi vào chủ nghĩa xã hội không tưởng. Vượt lên trên mọi thiên kiến và các rào cản đương thời, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát hiện ra quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Qua đó chỉ rõ quy luật phát triển của lịch sử, xã hội loài người không phải do thánh thần, chúa trời tạo ra mà do những mâu thuẫn nội tại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dẫn đến những mâu thuẫn không thể tránh khỏi của xã hội biểu hiện ở đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Với quan điểm duy vật biện chứng, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin và những người cộng sự đã chấm dứt sự lũng đoạn của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải thích sai lầm các hiện tượng tự nhiên, xã hội và lịch sử, tìm ra quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử nhân loại. Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin không những được thể hiện ở giá trị của phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa nhân đạo trong hai phát kiến vĩ đại của C. Mác: Quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, mà còn thể hiện sâu sắc ở việc C. Mác và Ph. Ăngghen phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, chính giai cấp này là “người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, kết thúc chế độ người áo bức, bóc lột người; xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn. Điều này là hoàn toàn khách quan bởi lịch sử xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, theo quy luật vận động của nó, cái mới sẽ thay thế cái cũ, tiến bộ sẽ thay thế lạc hậu; chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản như chủ nghĩa tư bản đã từng thay thế chủ nghĩa phong kiến. Lý luận và thực tiễn cách mạng thế giới từ Công xã Pa ri, đến Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và thực tế công cuộc cải cách, đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đã khẳng định sức sống mãnh liệt, sự trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin thật sự là “công cụ nhận thức vĩ đại” để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới. Bản chất chân lý này thể hiện ở chỗ: - Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược và phương pháp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công; đem lại cuộc sống hoà bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân. - Chủ nghĩa Mác - Lênin đã tìm ra các quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người, vạch ra những “bí mật” của các hình thái kinh tế - xã hội, chỉ ra động lực và chủ thể phát triển của lịch sử chính là con người và sản xuất vật chất - cơ sở quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Dù ai có xuyên tạc hoặc cố tình bôi đen, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự thật ấy vĩnh viễn không thể thay đổi. Đây là điều khách quan, cơ sở khoa học để luận giải sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. - Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất biện chứng giữa học thuyết duy vật với phương pháp biện chứng, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng, tính cách mạng và tính khoa học, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là một học thuyết mở, sống động, có khả năng tự đổi mới, tự phát triển trong dòng chảy tư duy, trí tuệ của nhân loại, luôn thu nạp, tích hợp những thành tựu, tinh hoa trí tuệ mới nhất, tiến bộ nhất của nhân loại để không ngừng phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học thuyết giáo điều, kinh viện bởi linh hồn sống động của nó là phép biện chứng duy vật không bao giờ lùi bước, chấp nhận, thỏa hiệp với quan điểm duy tâm, tôn giáo, phương pháp tư duy siêu hình. Năm tháng sẽ đi qua, một số luận điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin có thể không còn phù hợp với thực tiễn ngày nay; đó cũng là lẽ đương nhiên, nhưng tinh hoa của phép biện chứng duy vật, quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết giá trị thăng dư và chủ nghĩa nhân văn với khát vọng giải phóng con người cùng với hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó là những giá trị vĩnh hằng, sống mãi. Chính giá trị bền vững này mà chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, nhờ có nó mà đứng trước những biến động của thời cuộc, tự tin khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Sự thật khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin không lỗi thời, chỉ có những người vận dụng nó lỗi thời hoặc mắc những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xây dựng đất nước. Hãy dừng việc quy kết, đỗ lỗi cho chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời, lạc hậu. Đối với nước ta, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta giành được trong hơn 9 thập kỷ qua đã khẳng định thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là chân lý, bởi ngày nay, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là chắc chắn nhất, sâu sắc nhất và chân chính nhất, là “cẩm nang thần kỳ” cần thiết để đưa dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. PGS, TS, NGND. Thiếu tướng Nguyễn Bá Dương |