Vì sao cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất

Bằng cách đăng ký, bạn đồng ý với Điều khoản sử dụng và Chính sách Bảo mật của chúng tôi.

Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp tập trung vào

A. Phát triển kinh tế nông nghiệp – công thương nghiệp

B. Nông nghiệp – công nghiệp – quân sự

C. Cướp đất lập đồn điền, khai mỏ, giao thông, thu thuế

D. Ngoại thương – quân sự - giao thông thủy bộ

Đáp án Đúng là C

Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân pháp tập trung vào cướp ruộng đất, lập đồn điền, khai thác mỏ, giao thông, thu thuế.

Để thực thi chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất thực dân Pháp tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước để bắt tay vào khai thác, ban hành các chính sách kinh tế, chinh sách xã hội với mục tiêu vơ vén ruộng đất của dân, lập các đồn điền, tiến hành khai thác mỏ, giao thông, thu thuế cao và nặng. Cùng Top lời giải tìm hiểu cách thực dân Pháp xây dựng bộ máy và chính sách ban hành để thực hiện mục tiêu khai thác thuộc địa lần thứ nhất:

Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897– 1914)

1. Tổ chức bộ máy Nhà nước

- Sau khi đàn áp xong những cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914). Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, đứng đầu là viên toàn quyền người Pháp.

- Tổ chức bộ máy nhà nước từ trên xuống do Pháp chi phối. Việt Nam bị chia làm 3 xứ với 3 chế độ cai trị khác nhau: Nam Kì (thuộc địa), Trung Kì (bảo hộ), Bắc Kì (nửa bảo hộ). Xứ và các tỉnh đều do viên quan người Pháp cai trị.

- Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, làng xã.

=> Nhìn chung bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương đều do thực dân Pháp chi phối nhằm tăng cường ách áp bức, kìm kẹp, để tiến hành khai thác Việt Nam, làm giàu cho tư bản Pháp.

* Nhận xét

- Chính sách của Pháp trong việc tổ chức bộ máy nhà nước vô cùng chặt chẽ, với tay xuống tận nông thôn.

- Kết hợp giữa thực dân và phong kiến cai trị.

2. Chính sách kinh tế để phục vụ khai thác thuộc địa lần thứ nhất

- Nông nghiệp:

+ Đẩy mạnh cướp đoạt ruộng đất. Ở Bắc Kì đến năm 1902, có tới 182.000 hécta ruộng đất bị Pháp chiếm.

Năm 1897, Pháp ép triều Nguyễn kí điều ước “nhượng” quyền “khai khẩn đất hoang” cho chúng. Năm 1915, địa chủ người Pháp chiếm 470 000 ha để lập đồn điền ở Bắc và Trung Kì.

+ Phát canh thu tô.

- Công nghiệp: khai thác mỏ than và kim loạiđể xuất khẩu, đầu tư công nghiệp nhẹ như: sản xuất xi măng, gạch ngói, xay xát gạo, giấy, diêm...

- Giao thông vận tải:xây dựng hệ thống đường giao thông để tăng cường bóc lột và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.

Cầu Long Biên (1898 - 1902)

- Thương nghiệp:độc chiếm thị trường Việt Nam, đánh thuế nặng vào hàng hóa nước ngoài, trong khi đó hàng hóa Pháp bị đánh thuế rất nhẹ hoặc được miễn thuế.

- Pháp lại tăng thêm các loại thuế, thuế mới chồng thuế cũ, đặc biệt là thuế rượu, muối, thuốc phiện.

- Tác động tiêu cực:

+ Tài nguyên vơi cạn.

+ Nông nghiệp dẫm chân tại chỗ, không có sự phát triển.

+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

+ Việt Nam trở thành thị trường cung cấp nguyên – nhiên liệu và thị trường độc chiếm của Pháp.

- Tác động tích cực:

+ Phương thức sản xuất TBCN bước đầu được du nhập vào Việt Nam, nó mang lại nhiều tiến bộ hơn so với phương thức sản xuất phong kiến⇒đưa tới sự chuyển biến cơ bản về bộ mặt kinh tế tại một số khu vực (ví dụ: Hà Nội, Sài Gòn,...).

3. Chính sách văn hoá, giáo dục để phục vụ khai thác thuộc địa lần thứ nhất

- Duy trì nền giáo dục phong kiến.

- Mở một số trường học và cơ sở y tế, văn hoá, đưa tiếng Pháp vào chương trình học bắt buộc ở bậc Trung học.

=>Những chính sách của thực dân Pháp đã tạo ra tầng lớp tay sai, kìm hãm nhân dân.

4. Những chuyển biến về xã hội thời kỳ pháp khai thác thuộc địa lần thứ nhất

- Giai cấp địa chủ phong kiến: Từ lâu đã đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận nhỏ có tinh thần yêu nước.

- Giai cấp nông dân: số lượng đông đảo nhất, họ bị áp bức bóc lột nặng nề, cuộc sống của họ khổ cực, nông dân sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành được độc lập và ấm no.

- Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX xuất hiện nhiều đô thị mới: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn…

- Tầng lớp tư sản: Là các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn bán… bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản Pháp chèn ép.

- Tiểu tư sản thành thị: Là chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do.

- Công nhân: Xuất thân từ nông dân, làm việc ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống bọn chủ để cải thiện điều kiện làm việc và đời sống.

=> Từ một nước phong kiến, Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: Nông dân với phong kiến; dân tộc ta với thực dân Pháp, ngày càng sâu sắc.

Trong bối cảnh đó đã xuất hiện xu hướng mới trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.

Kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là nước thắng trận nhưng đất nước bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế kiệt quệ. Do đó, tư bản Pháp đẩy mạnh chương trình khai thác thuộc địa để bù đắp những thiệt hại của chiến tranh => Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam.

Nguồn lợi của Tư bản Pháp ở Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai là: Vơ vét, xuất khẩu nhiều mặt hàng như than, thiếc, chì, kẽm, cà phê, vải, sợi, đường, rượu, gỗ, diêm, chè, cao su, lúa gạo...

Nhận xét về chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp: Tất cả các chính sách của Pháp đối với kinh tế Việt Nam đều nhằm mục đích bóc lột nền kinh tế Việt Nam, mang lại lợi ích kinh tế cho tư bản Pháp, nhằm phục hồi nền kinh tế Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất.

Vì sao đang tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Việt Nam, đến năm 1914, thực dân Pháp phải dừng cuộc khai thác lại?


A.

Pháp nhận thấy tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam không phong phú.

B.

Pháp phải tập trung sức người, sức của vào chiến tranh.

C.

 Chiến tranh đang đe dọa nước Pháp một cách khốc liệt.

D.

 Pháp lợi dụng chiến tranh để buôn bán vũ khí thu lợi nhuận.

Vì sao thực dân Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Việt Nam (1897 – 1914)?


Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Vậy Vì sao thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam? là câu hỏi được nhiều độc giả quan tâm.

Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam

Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) mặc dù thực dân Pháp là quốc gia thắng trận nhưng đất nước bị tàn phá năng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ bởi cuộc chiến tranh. Tư bản độc quyền Pháp vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, vừa đầy mạnh khai thác các thuộc địa để bù đắp những thiệt hại do chiến tranh gây ra. Chương trình khai thác lần thứ hai đã được chúng ráo riết thi hành ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam.

Vì sao thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam? bới một số nguyên nhân sau:

Nước Việt Nam nằm ở phía rìa đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Phía Bắc giáp Trung Quốc. Phía Tây giáp Lào và Campuchia. Phía Đông và phía Nam giáp biển Đông. Vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển các nước Trung Quốc, Campuchia, Philippin, Malaixia, Brunây, Inđônêxia, Thái Lan. Vị trí địa lý của Việt Nam hết sức thuận lợi.

Bên cạnh đó sau khi kết thúc chiến tranh đất nước Pháp bị tàn phá năng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ nên để bù đắp những thiệt hại của chiến tranh mang đến thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam.

Nội dung cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam

Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam được thể hiện rõ qua một số vấn đề như sau:

Pháp tăng cường đầu tư vào Việt Nam, bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (chủ yếu là đồn điền cao su) và khai mỏ (chủ yếu là mỏ than), vì cao su và than là hai mặt hàng thị trường Pháp và thế giới có nhu cầu lớn. Năm 1927, số vốn đầu tư vào nông nghiệp lên tới 400 triệu phrăng, gấp nhiều lần vào thời kì trước chiến tranh. Diện tích trồng cao su tăng từ 15 ngàn héc ta năm 1918 lên 120 nghìn héc ta năm 1930.

Nhiều công ty cao su lớn ra đời : Công ty Đốt Đỏ, Công ty Mi-sơ-lanh, Công ty Cây nhiệt đới …. Pháp tăng cường vào khai mỏ. Các công ty than có từ trước đều được bỏ thêm vốn và hoạt động vững mạnh.

Nhiều công ty than mới được ra đời như: Công ty than Hạ Long – Đồng Đăng, công ty than và kim khí Đông Dương;… Tư bản Pháp mở thêm một số cơ sở công nghiệp như các nhà máy sợi Hải Phòng, Nam Định; các nhà máy rượu Hà Nội, Nam Định, Hà Đông; các nhà máy diêm Hà Nôi, Hàm Rồng (Thanh Hoá), Bến Thuỷ (Vinh); nhà máy đường Tuy Hoà (Phú Yên); nhà máy xay xát gạo Chợ Lớn…

Về thương nghiệp cũng phát triển hơn trước thời kì chiến tranh. Để nắm chặt thị trường Việt Nam và Đông Dương, tư bản độc quyền Pháp đánh thuế nặng hàng hoá các nước nhập vào nước ta, chủ yếu là của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ đó, hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam tăng lên rất nhanh.

Về giao thông vận tải: được Pháp đầu tư để phát triển thêm. Đường sắt xuyên Đông Dương được nối liền nhiều đoạn : Đồng Đăng – Na Sầm (1922), Vinh – Đông Hà (1927).

Ngân hàng Đông Dương, đại diện thế lực của tư bản tài chính Pháp, có cổ phần trong hầu hết các công tí và xí nghiệp lớn, đã nắm quyền chỉ huy các ngành kinh tế ở Đông Dương.

Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp không thay đối: hạn chế công nghiệp phát triển, đặc biệt là công nghiệp nặng; tăng cường thủ đoạn bóc lột, vơ vét tiền của của nhân dân ta bằng cách đánh thuế nặng (thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác).

Tất cả các chính sách của Pháp đối với kinh tế Việt Nam đều nhằm mục đích bóc lột nền kinh tế Việt Nam, mang lại lợi ích kinh tế cho tư bản Pháp, nhằm phục hồi nền kinh tế Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất.

Với những thông tin trên đây, chúng tôi tin rằng Quý khách hàng đã phần nào nắm được nội dung Vì sao thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam?