Image | Title | Summary | Categories | Author | Date |
---|
| Giá thức ăn chăn nuôi tăng mạnh: Gỡ khó bằng tìm nguyên liệu thay thế | Trong khi giá thức ăn chăn nuôi dự báo sẽ tiếp tục tăng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh các giải pháp thức ăn thay thế từ nguyên liệu trong nước để gỡ khó cho người chăn nuôi. Xung đột Nga và Ukraine làm giảm nguồn cung, đẩy giá nhiều loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng cao và dự báo còn tiếp tục tăng đến hết năm nay. Kéo theo đó, giá thức ăn chăn nuôi hỗn hợp đã tăng từ 25-40% và ảnh hưởng rất lớn đến phát triển chăn nuôi trong thời gian tới. Đây là thông tin được đưa ra tại hội nghị trực tuyến bàn giải pháp thúc đẩy phát triển chăn nuôi lợn và tăng cường công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức ngày 18/3. Giá nguyên liệu tăng gần 50% Từ năm 2015-2020, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước tương đối ổn định, thậm chí có thời điểm giảm dần. Thế nhưng bắt đầu từ năm 2020, do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Đặc biệt, xung đột Nga và Ukraine gần đây đã đẩy giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng mạnh. So với cùng kỳ (tháng 3/2021), giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tháng 3/2022 đều tăng, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm ngũ cốc. Mức tăng cao nhất là giá lúa mì đã lên tới 9.850 đồng/kg, tăng tới 49,5%; khô dầu đậu tương là 16.500 đồng/kg, tăng 33,4%; ngô hạt giá là 10.200 đồng/kg, tăng 29,3%; bã ngô giá 10.300 đồng/kg tăng 23,1%. Theo ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), dự kiến giá nguyên liệu vẫn tăng đến hết năm 2022. Thực tế, giá chào hàng nguyên liệu nhập khẩu về Việt Nam giao hàng sau tháng 8/2022 đã tăng, giá ngô tăng lên 11.000 đồng/kg và giá khô gầu đậu tương tăng lên 17.000 đồng/kg. Nguyên nhân khiến các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng giá chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết bất lợi từ các khu vực trồng chính trên thế giới tại các nước Nam Mỹ đồng thời cuộc khủng hoảng chính trị giữa Nga và Ukraine (nhà xuất khẩu lúa mỳ lớn nhất và thứ tư trên thế giới) đang tác động lớn đến giá ngô và lúa mỳ trên thị trường thế giới và Việt Nam. Việt Nam nhập khẩu từ Nga và Ukraine nhiều nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp trong nước như lúa mỳ (trong điều kiện bình thường có thể đến 1 triệu tấn, chiếm khoảng 20% tổng nhập khẩu lúa mỳ), ngô (3% tổng nhập khẩu ngô)… để làm thức ăn chăn nuôi. Ông Tống Xuân Chinh cho biết do giá nguyên liệu tăng mạnh nên giá thức ăn chăn nuôi công nghiệp trong nước cũng tăng theo. Giá thức ăn cho lợn thịt xuất chuồng đã tăng 18,4% lên 12.500 đồng/kg, thức ăn cho gà thị lông màu tăng 24,5% lên 13.400 đồng/kg, thức ăn cho gà thịt lông trắng tăng 29,8% lên 14.100 đồng/kg. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến nhận định giá thức ăn chăn nuôi tăng tương đối cao trong hai năm gần đây. Trước đây giá ngô chỉ khoảng 4.700 đồng/kg thì đến nay đã tăng lên trên dưới 10.000 đồng/kg, đỗ tương trước đây chỉ hơn 8.000 đồng/kg đến giờ đã tăng lên 16.300 đồng/kg… kéo theo đó giá thức ăn chăn nuôi hỗn hợp đã tăng từ 25-40%, điều này ảnh hưởng rất lớn đến phát triển chăn nuôi trong thời gian tới. “Hạ nhiệt” bằng nguyên liệu trong nước Theo ông Tống Xuân Chinh, lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ biến động giá nguyên liệu trên thế giới. Sở dĩ nguồn nguyên liệu còn phụ thuộc là do năng lực sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước còn hạn chế, công nghệ sản xuất và quản lý thức ăn chăn nuôi còn thiếu đồng bộ, nhiều cơ sở sản xuất quy mô nhỏ lẻ, thủ công. [Thêm khó cho doanh nghiệp chăn nuôi từ căng thẳng Nga-Ukraine] Dẫn chứng ví dụ về năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước còn hạn chế, ông Tống Xuân Chinh cho biết diện tích trồng ngô làm nguyên liệu phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam đến nay chỉ đạt 942.00 hecta và thậm chí đang có xu hướng giảm đi. “Chẳng hạn như tại Sơn La, trước kia đây là địa phương có diện tích trồng ngô số 1 tại miền Bắc nhưng hiện nay do có ưu thế về xuất khẩu hoa quả ra nước ngoài, địa phương này đã chuyển dịch rất nhanh từ diện tích trồng ngô sang trồng hoa quả khiến diện tích trồng ngô đã giảm đi đáng kể,” ông Chinh cho hay. Không chỉ diện tích trồng ít mà năng suất ngô cũng còn rất thấp. Theo ông Chinh, hiện nay sản phẩm ngô của Việt Nam rất khó cạnh tranh với những sản phẩm nhập khẩu bởi lẽ Mỹ và Brasil, Irasel đều có năng suất trồng ngô cao gấp 2-4 lần so với Việt Nam. Điều này đòi hỏi cần phải hình thành vùng nguyên liệu để tập trung công nghệ cao, tăng năng suất thì mới có thể giảm bớt phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu. Trong khi việc nâng cao năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước để “hạ nhiệt” giá thành thức ăn chăn nuôi sẽ không phải là câu chuyện ngày một ngày hai mà cần có thời gian, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh triển khai giải pháp tìm thức ăn thay thế để gỡ khó cho người chăn nuôi. Đại diện Viện Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết việc sử dụng các nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương như cám dừa, cám gạo… trong mô hình chăn nuôi lợn tại Tiền Giang, Lào Cai đã giúp giảm giá thành sản phẩm khoảng 3.000-5.000 đồng/kg. Mô hình chăn nuôi lợn bản địa áp dụng các công thức phối trộn thức ăn từ nguyên liệu tự có tại Nghệ An, Thừa Thiên Huế… cũng đã giúp giảm chi phí thức ăn từ 10-15%/nái/năm so với việc mua thức ăn hỗn hợp. Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, giá thức ăn chiếm tới 65-70% giá thành trong chăn nuôi. Do đó, trong bối cảnh giá nguyên liệu nhập khẩu tăng cao thì việc ứng dụng công nghệ xây dựng khẩu thức ăn chăn nuôi từ nguyên liệu trong nước sẽ là giải pháp giúp hạ giá thành sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết sau nhiều năm, Viện Chăn nuôi cùng với các đơn vị đã đánh giá giá trị dinh dưỡng các nguyên liệu của địa phương và đưa ra công thức thức ăn, phân tích giá trị thức ăn hỗn hợp với đầy đủ các tiêu chí protein, năng lượng, canxi, phốt pho, vitamin, axit amin… Kết quả nghiên cứu được ứng dụng trên nhiều đối tượng như chăn nuôi lợn, chăn nuôi gia cầm… “Các công thức từ nguyên liệu trong nước đã được nghiên cứu và nghiệm thu. Với cách làm này, giá thức ăn chăn nuôi giảm từ 300-1.000 đồng/kg. Với mức giảm 1.000 đồng/kg, khi mua thức ăn 10.000 đồng/kg sẽ giảm được 10% và tương ứng giá thành chăn nuôi sẽ giảm được 5-7%,” Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho hay. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã yêu cầu Cục Chăn nuôi, các địa phương cần nhân rộng hơn nữa các công thức xây dựng khẩu phần ăn từ nguyên liệu trong nước trong thời gian tới để gỡ khó cho người chăn nuôi vượt qua giai đoạn giá nguyên liệu nhập khẩu sẽ vẫn tiếp tục có xu hướng tăng cao./. Hồng Kiều …
| Tin mới | admin | 18/03/2022 | | Sử dụng nguyên liệu sẵn có hạ giá thành thức ăn chăn nuôi | https://nongnghiep.vn/video/su-dung-nguyen-lieu-san-co-ha-gia-thanh-thuc-an-chan-nuoi-tv318341.html Sử dụng nguyên liệu sẵn có hạ giá thành thức ăn chăn nuôi. Chờ đón sự kiện trình diễn quốc tế AGRITECHNICA Live 2022. Giá heo hơi ngày 18/3 tăng cao nhất 3.000 đồng/kg. Hành tím giảm giá do nguồn cung tăng. Truyền hình Nông …
| Tin mới | admin | 18/03/2022 | | DỰ THẢO BÁO CÁO HỘI NGHỊ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI LỢN BỀN VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, KINH DOANH THỨC ĂN CHĂN NUÔI | …
| Tin mới | admin | 17/03/2022 | | Cục Chăn nuôi xin ý kiến góp ý Tiêu chuẩn quốc gia về Phúc lợi động vật trong chăn nuôi bò thịt, bò sữa và trâu | Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về: Phòng Kế hoạch Tổng hợp Địa chỉ: Phòng 105 Toà nhà số 2 số 16 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội Cán bộ đầu mối: Ông Võ Trọng Thành; Điện thoại di động: 0912664237; email: …
| Thông báo | admin | 21/02/2022 | | Chúng ta mới dạy nông dân sản xuất chứ chưa dạy làm giàu | ‘Hồi xưa đến giờ chúng ta dạy người nông dân sản xuất chứ chưa dạy người nông dân làm giàu’, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan chia sẻ. Giải quyết điểm yếu của ngành nông nghiệp từ nền móng Khi tôi có ý tưởng xây dựng chiến lược nông nghiệp, nông thôn bền vững với tầm nhìn đến năm 2050, nhiều người băn khoăn vì không biết nguồn tiền lấy từ đâu để xây dựng. Thậm chí, toàn ngành đã có chiến lược phát triển trong 5 năm tới rồi, nhiều phân ngành quan trọng cũng đã có chiến lược. Trên các diễn đàn, tôi đã nhiều lần phát biểu rằng, “ngành nông nghiệp của chúng ta đang bị lời nguyền sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự phát”. Những nhược điểm, điểm yếu đó kéo theo hàng loạt câu chuyện như được mùa mất giá, giá cả bấp bênh, câu chuyện thị trường, câu chuyện dự báo… Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan chia sẻ tại buổi họp báo công bố Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vào ngày 17/2. Ảnh: Minh Phúc Vậy nên, Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt nền tảng từ tổ chức lại sản xuất để phát triển nông thôn, hay cơ cấu lại nền nông nghiệp bắt đầu bằng tổ chức sản xuất. Không thể nào 10 triệu hộ nông dân sản xuất trên vài chục triệu mảnh ruộng được. Thứ hai, quyền lực của cơ quan nhà nước trong nền kinh tế thị trường khác với nền kinh tế bao cấp, kế hoạch trước đây. Tất cả đều phải tuân theo quy luật thị trường. Dù chúng ta đã có quy hoạch, nhưng nông dân thấy trồng cây gì có lợi là lập tức trồng theo. Do đó, quyền lực nhà nước có giới hạn. Vậy thì phải huy động sự tham gia của quyền lực xã hội, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, hợp tác xã. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, tôi nói như vậy không phải để thoái thác trách nhiệm quản lý nhà nước, mà để chúng ta nhìn lại câu chuyện đó và đưa ra các giải pháp dài hạn. Tại sao Chiến lược đặt mục tiêu cho giai đoạn đầu là đến năm 2030, vì tổ chức lại sản xuất không phải ngày một ngày hai, chúng ta cũng không thể ép buộc bà con vào hợp tác xã. Chưa nói đến cánh đồng lớn, chỉ nói đến việc ghép những người nông dân sản xuất nhỏ lại để sản xuất lớn đã là vấn đề khó rồi. Do đó, Chiến lược này bắt đầu từ nền, chứ không phải bắt đầu từ ngọn (là giải quyết vấn đề được mùa mất giá). Bởi vì, nguyên lý giá rất đơn giản, đó là thị trường quyết định và cung – cầu quyết định, ai cũng biết hết rồi. Nhưng nguyên lý kinh tế học nói rằng, khi thông tin được cân bằng thì cung cầu quyết định giá, còn khi thông tin không minh bạch, bất cân xứng thì không biết theo quy luật nào. Nhà nước không có quyền quyết định giá. Vì nếu Nhà nước có quyền lực định giá 5.000/kg lúa, thì chính bà con nông dân sẽ là người phá giá đầu tiên chứ không phải ông thương lái. Bởi vì có người nghĩ rằng, bán 4.900 đồng/kg cũng được, miễn là bán hàng được nhanh hơn người khác, bớt lợi nhuận chút ít không sao. Theo tư duy đó, đến những người sau, giá nông sản giảm dần Chúng ta chỉ giúp người nông dân đẩy mạnh sản xuất để đạt sản lượng nhiều nhất mà không dạy người nông dân đôi khi hãy sản xuất ít hơn nhưng vẫn thu nhập cao hơn. Ảnh: LHV. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng quyết định được giá để tranh mua, tranh bán. Truyền thông cũng quyết định giá cả. Ví dụ, khi giá lợn đang xuống mà báo chí đăng tin còn mấy triệu con lợn trong chuồng, thì tâm lý của nông dân sẽ hoảng loạn, họ bán đổ, bán tháo dẫn đến giá giảm mạnh. Chúng ta phải hiểu được các vấn đề này thì mới đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững trong Chiến lược. Khó làm giàu từ nông nghiệp nếu không có tư duy kinh tế Dịp tết vừa rồi, có nhà báo hỏi tôi rằng: “Bộ trưởng tiền nhiệm đặt mục tiêu thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,5 lần, vậy Bộ trưởng đương nhiệm cho rằng, nông dân chúng ta chừng nào làm giàu được?” Tôi không trả lời được vì nó liên quan đến nhiều tư duy. Nếu nói nông dân làm giàu, thì tôi có thể chỉ ra hàng loạt nông dân giàu. Còn nếu nói nông dân nghèo thì tôi sẽ chỉ ra được hàng loạt nông dân nghèo, thậm chí có người nông dân không có đất, phải đi làm thuê cho nông dân khác. Bản thân giai cấp nông dân đã có sự phân tầng rồi. Từ đó tôi mới suy nghĩ ra, chúng ta khó có thể làm giàu từ nông nghiệp nếu không có tư duy kinh tế nông nghiệp. Cùng một sản phẩm nông sản có chất lượng như nhau, người có kỹ năng bán hàng, có tư duy kinh tế có thể bán được sản phẩm với giá gấp đôi người khác. Bởi họ tạo được niềm tin của khách hàng nhờ chú trọng truy xuất nguồn gốc sản phẩm, minh bạch quy trình canh tác, bán hàng khéo léo, còn người khác thì không. Một trái xoài nếu bọc giấy báo để dưới vỉa hè bán giá khác, làm cái kệ đặt quả xoài lên giá sẽ khác, đưa trái xoài vào cái hộp, tạo ra giá trị cảm xúc, bao bì thì giá sẽ khác. Thành ra, hồi xưa đến giờ chúng ta dạy người nông dân sản xuất chứ không dạy người nông dân làm giàu. Hai vấn đề này khác xa nhau, bởi vì làm giàu không phải chỉ từ bán sản phẩm mà từ cách phân loại nông sản, bán niềm tin cho khách hàng về quy trình sản xuất sạch, xây dựng mã số vùng trồng, vùng nuôi, bao bì nhãn mác… Tại sao các loại trái cây ngoại thường để trong những quầy kính rất đẹp đẽ còn nông sản của Việt Nam để ngoài vỉa hè? Thực trạng đó một phần đến từ việc chúng ta ứng xử với người nông dân. Chúng ta chỉ giúp người nông dân đẩy mạnh sản xuất để đạt sản lượng nhiều nhất mà không dạy người nông dân đôi khi hãy sản xuất ít hơn nhưng vẫn thu nhập cao hơn. Bộ NN-PTNT đang xây dựng Chương trình Quốc gia về hợp tác xã và dự kiến trong tháng 3/2022 sẽ trình Chính phủ Nghị định về vấn đề này. Bên cạnh đó, Bộ sẽ phối hợp với các cơ quan truyền thông, báo chí để có chương trình huấn luyện người nông dân kỹ năng kinh doanh, cách làm giàu, cách giảm chi phí đầu vào trong sản xuất để nâng cao giá trị gia tăng. Trung Quốc đã làm những vấn đề này lâu rồi. Định vị sứ mạng của “tam nông” trong tâm thức những nhà lãnh đạo Tôi kỳ vọng rằng, bản Chiến lược này sẽ được truyền thông lan tỏa đến toàn xã hội. Từ đó, chúng ta định vị đúng vai trò, vị trí sứ mạng của nông nghiệp, nông thôn trong tâm thức của những nhà lãnh đạo, người dân. Báo chí đặt vấn đề: ngành chiếm giữ đất đai nhiều nhất là nông nghiệp, ngành chiếm giữ lao động nhiều nhất là nông nghiệp nhưng đóng góp GDP không lớn thì có nên chuyển dịch sang các khu vực khác? Tuy nhiên, nông nghiệp và kinh tế nông thôn có một vai trò, vị trí trong việc bình ổn xã hội, bởi hơn 60% dân số sống ở nông thôn và đang là nông dân. Bởi vậy, phải có Chiến lược này để chúng ta cùng ngồi lại với nhau, định vị lại. Khi chúng ta nhận thức đúng rồi thì sẽ có vốn, sẽ có hạ tầng, còn khi chúng ta thấy không quan tâm thì vốn và hạ tầng sẽ được chuyển cho khu vực khác. Khó có thể làm giàu từ nông nghiệp nếu không có tư duy kinh tế nông nghiệp. Ảnh: MP. Bản thân nông nghiệp không phải là một ngành kinh tế độc lập mà là một thành phần trong cấu trúc kinh tế – xã hội. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh nằm ở địa phương chứ không phải chỉ ở các Bộ, ngành. Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, các địa phương cần cân nhắc dành nguồn lực nhiều hơn cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; để đâu đó đừng chẻ đồi chè ra để làm bất động sản. Tôi hoàn toàn không trách chính quyền địa phương, vì đó là xu thế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Phần nào đó, ngành nông nghiệp cần tự trách mình vì chúng ta chưa định vị được mỗi diện tích đất sẽ đem lại giá trị bao nhiêu. Và chúng ta cũng chưa chứng minh được nếu chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp thì giá trị mảnh đất sẽ tăng rất nhiều lần, để mỗi khi cân nhắc quyết định chuyển đổi đất nông nghiệp, đất rừng, đất lúa, các địa phương sẽ cân nhắc cái được trước mắt, cái được lâu dài để quyết định. “Chúng ta đừng chỉ vì tăng thu ngân sách, phục hồi kinh tế mà không lường trước được các tác động đến cuộc sống của người nông dân, nhất là người nông dân sau khi mất đất sẽ như thế nào. Giá trị của Chiến lược nằm ở đó”. Minh Phúc …
| Tin mới | admin | 21/02/2022 | | Bộ trưởng Lê Minh Hoan: Nông nghiệp VN tiếp cận xu thế tiêu dùng của nền kinh tế toàn cầu | TPO – Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết, trong chiến lược phát triển sắp tới, ngành nông nghiệp sẽ đổi mới tư duy một cách toàn diện, từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tập trung vào nâng cao giá trị, chuyển từ phát triển đơn ngành sang tích hợp đa ngành, từ “đơn giá trị” sang “tích hợp đa giá trị”… Ngày 17/2, Bộ NN&PTNT tổ chức buổi họp báo công bố Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 2,5 – 3%/năm. Tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5,5 – 6%/năm. Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu đạt bình quân từ 5 – 6%/năm. Tầm nhìn đến năm 2050, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có nền nông nghiệp hàng đầu thế giới với ngành công nghiệp chế biến nông sản hiện đại, hiệu quả, thân thiện với môi trường. Nông thôn không còn hộ nghèo và trở thành “nơi đáng sống”, văn minh, xanh, sạch, đẹp với điều kiện sống, thu nhập dân cư nông thôn tiệm cận và kết nối chặt chẽ, hài hoà với đô thị Bộ trưởng NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết, nông nghiệp Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới, cần tìm động lực mới cho sự tăng trưởng. Theo đó, ngành nông nghiệp sẽ phải đổi mới tư duy một cách toàn diện, từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tập trung vào nâng cao giá trị, hiệu quả, đa dạng theo chuỗi giá trị phù hợp với yêu cầu của thị trường; chuyển từ phát triển đơn ngành sang tích hợp đa ngành, từ “đơn giá trị” sang “tích hợp đa giá trị”… Theo ông Hoan, trong thời gian tới, nông nghiệp sẽ phát triển theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái bằng việc áp dụng đồng bộ các quy trình, công nghệ; sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không gây ảnh hưởng tới môi trường, sức khỏe con người. Bộ trưởng Lê Minh Hoan kỳ vọng chiến lược lần này sẽ được định vị đúng vai trò, vị trí sứ mệnh của nông nghiệp, nông thôn và nông dân Ngành nông nghiệp sẽ hoàn chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với lợi thế cạnh tranh và yêu cầu thị trường. Ngành tiếp tục cơ cấu lại theo 3 trục sản phẩm: quốc gia, cấp tỉnh và địa phương và theo lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp. “Bộ NN&PTNT rất nghiêm túc trong xây dựng chiến lược và thực hiện để chiến lược đi vào cuộc sống. Đến một thời điểm nào đó xã hội hiểu được nền nông nghiệp Việt Nam có tầm nhìn dài hạn, mang tính chất giải quyết vấn đề nội tại ngành nông nghiệp và quan trọng hơn là tiếp cận dòng chảy, xu thế tiêu dùng của nền kinh tế toàn cầu, xu thế tiêu dùng xanh của thế giới”, ông Hoan nói. Bộ trưởng Lê Minh Hoan kỳ vọng chiến lược lần này sẽ được định vị đúng vai trò, vị trí sứ mệnh của nông nghiệp, nông thôn và nông dân; góp phần thay đổi diện mạo xã hội vì 60% dân số Việt Nam đang ở nông thôn. Sau khi chiến lược được ban hành, Bộ NN&PTNT sẽ trình Chính phủ kế hoạch hành động, không để những nội dung, ý tưởng “nằm trên giấy”. “Chúng tôi mong các địa phương và các bộ, ngành cùng vào cuộc để hiện thực hoá chiến lược vì một mình Bộ NN&PTNT không thể triển khai hết được. Thông qua chiến lược, tôi cũng mong các địa phương trong quá trình phát triển cân nhắc, tập trung nhiều nguồn lực hơn cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đừng xẻ đồi chè ra làm bất động sản mà hãy cân nhắc được và mất của người nông dân trước khi chuyển đổi”, ông Hoan chia sẻ. Đưa Việt Nam trở thành nước có nông nghiệp hàng đầu thế giới Nói về mục tiêu chiến lược, ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho biết: Mục tiêu chung của chiến lược là xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo hướng hiện đại năng suất cao, chất lượng, hiệu quả, bền vững và sức cạnh tranh cao thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực và trên thế giới, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà …
| Tin mới | admin | 17/02/2022 | | Bình Phước phấn đấu thành trung tâm chăn nuôi, xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi | UBND tỉnh Bình Phước vừa ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển chăn nuôi trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045. Theo kế hoạch, đến năm 2025, tổng đàn heo trên địa bàn tỉnh Bình Phước đạt 2,7 triệu con; đàn gia cầm trên 18 triệu con; đàn trâu, bò trên 60.000 con. Năm 2030, tổng đàn heo trên địa bàn 3,2 triệu con; đàn gia cầm trên 27 triệu con; đàn trâu, bò trên 70.000 con. Mức tăng trưởng giá trị sản xuất giai đoạn 2021 – 2025 trên 15% năm, giai đoạn 2026 – 2030 trên 8% năm. Sản lượng thịt xẻ các loại đến năm 2025 đạt 401.025 tấn, trong đó thịt heo 58 – 60%, thịt gia cầm 35 – 38%, thịt gia súc ăn cỏ 2 – 7%; đến năm 2030 đạt 618.942 tấn, trong đó thịt heo 56 – 58%, thịt gia cầm 38 – 40%, thịt gia súc ăn cỏ 1 – 2%. Sản lượng trứng đến năm 2025 đạt 1.150 triệu quả, đến năm 2030 đạt 1.728 triệu quả. Bình Phước phấn đấu trở thành trung tâm chăn nuôi cả nước. Ảnh: Trần Trung. Về xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, đến năm 2025 xây dựng ít nhất 7 vùng cấp huyện; đến năm 2030 ít nhất 10 vùng cấp huyện. Hoàn thiện ít nhất 2 nhà máy giết mổ, chế biến thịt gia súc, gia cầm và đưa sản phẩm chế biến xuất khẩu ra thị trường thế giới. Tầm nhìn đến năm 2045, trình độ và năng lực sản xuất ngành chăn nuôi của tỉnh thuộc nhóm tiên tiến của các tỉnh khu vực Nam bộ và cả nước. Khống chế và kiểm soát tốt các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, bệnh lây nhiễm sang người. Hầu hết sản phẩm chăn nuôi chính, bao gồm thịt, trứng sản xuất trong các cơ sở chăn nuôi an toàn sinh học và thân thiện với môi trường. 100% sản phẩm thịt gia súc, gia cầm hàng hóa được cung cấp từ các cơ sở giết mổ tập trung, công nghiệp và trên 70% khối lượng sản phẩm chăn nuôi chính được qua sơ chế, chế biến công nghiệp, trong đó khoảng 30% được chế biến sâu. Bình Phước trở thành trung tâm chăn nuôi và xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tiên tiến và hiện đại của cả nước và khu vực Đông Nam Á Theo kế hoạch, kiểm soát dịch bệnh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Ảnh: Trần Trung. Ông Nguyễn Thanh Bình Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Phước cho biết, kế hoạch này nhằm mục đích phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển chăn nuôi toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với phát triển các chuỗi giá trị; nâng cao giá trị gia tăng; bảo đảm an toàn sinh học, dịch bệnh, môi trường và an toàn thực phẩm; đối xử nhân đạo với vật nuôi; đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Qua đó, phát triển ngành chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi hữu cơ, chăn nuôi truyền thống theo hướng sản xuất hàng hóa chất lượng cao, an toàn dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh việc xã hội hóa các hoạt động chăn nuôi, phát triển chăn nuôi phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng để mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển. Trần …
| Tin mới | admin | 07/02/2022 | | Dự thảo Nghị định Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi | …
| Thông báo | admin | 20/12/2021 | | Chuyển đổi số ngành nông nghiệp: Không thể không làm | Chuyển đổi số là xu thế, đòi hỏi, yêu cầu khách quan của sự phát triển, không thể không làm, không thể đứng ngoài cuộc, đặc biệt là chuyển đổi số trong nông nghiệp. Lễ công bố Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp của Bộ NN-PTNT. Ảnh: Phạm Hiếu. Thành lập Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp Ngày 14/12, Bộ NN-PTNT đã công bố Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp của Bộ NN-PTNT. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan là Trưởng Ban Chỉ đạo; Phó Trưởng Ban Chỉ đạo là ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT. Các thành viên giúp việc cho Ban Chỉ đạo gồm lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT. Theo đó, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp là chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành NN-PTNT quy định tại Quyết định số 749 ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Nghiên cứu, đề xuất ban hành chính sách, cơ chế quản lý, điều hành; xây dựng chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch, chiến lược lồng ghép nội dung về chuyển đổi số nông nghiệp; tạo điều kiện thúc đẩy người dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chuỗi giá trị nông nghiệp theo hướng số hóa, xây dựng nông thôn mới thông minh trên cả nước. Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chuyên ngành để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong tiến trình chuyển đổi số, khuyến khích đổi mới, sáng tạo trong chuyển đổi số nông nghiệp. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ xây dựng các hệ thống dữ liệu của ngành, thực hiện số hóa trong từng lĩnh vực chuyên ngành: Đất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, chế biến, quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, thủy lợi, phòng, chống thiên tai… Ứng dụng công nghệ số trong dự báo, cảnh báo thị trường, quản lý quy hoạch; ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác; xem xét thử nghiệm triển khai sáng kiến “Mỗi người nông dân là một thương nhân, mỗi hợp tác xã là một doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số”. Đôn đốc, điều phối việc triển khai hoạt động chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp. Tổng kết, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện và chỉ đạo xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện chuyển đổi số nông nghiệp trong toàn ngành… Ban Chỉ đạo sẽ xem xét thử nghiệm triển khai sáng kiến “Mỗi người nông dân là một thương nhân, mỗi hợp tác xã là một doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số”. Ảnh: Nafoods. Cũng tại Lễ công bố, Bộ NN-PTNT đã công bố Quyết định của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT lấy ngày 19/8 hàng năm là ngày Chuyển đổi số trong Nông nghiệp. Ngày Chuyển đổi số trong nông nghiệp nhằm nâng cao nhận thức về sứ mệnh, sự cần thiết, tính cấp bách của chuyển đổi số trong ngành NN-PTNT và hành động đồng bộ ở các cấp với sự tham gia của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn ngành NN-PTNT thực hiện thắng lợi chương trình chuyển đổi số quốc gia. Qua đó, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Bộ. Việc tổ chức các hoạt động hưởng ứng ngày Chuyển đổi số hàng năm đảm bảo đúng quy định của pháp luật, thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, không phô trương, hình thức, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng cơ quan, đơn vị. Căn cứ nhiệm vụ chuyển đổi số NN-PTNT hàng năm, Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số của Bộ xác định chủ đề chuyển đổi số của năm, xây dựng kế hoạch khung và hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ tổ chức các hoạt động hưởng ứng ngày Chuyển đổi số (19/8) phù hợp, thiết thực, hiệu quả; phát động phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số để phấn đấu đạt, vượt và về đích sớm các mục tiêu cơ bản và thực hiện toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp tại Quyết định số 749 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Không thể đứng ngoài cuộc Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp, nhấn mạnh, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, cùng với sự phát triển mạnh mẽ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là một trong ba trụ cột thực hiện phát triển nhanh, phát triển bền vững; đồng thời là một trong những khâu đột phá lớn, góp phần “tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Dự thảo Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2030 cũng nêu rõ “Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” là động lực quan trọng, mở ra cơ hội đổi mới mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp, Bộ đã đưa Chuyển đổi số vào nhiệm vụ trọng tâm của ngành, hướng đến mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp “minh bạch – trách nhiệm – bền vững”. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp của Bộ NN-PTNT, phát biểu tại chương trình. Ảnh: Phạm Hiếu. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, nhiệm vụ chuyển đổi số ngành nông nghiệp được xây dựng trên 3 trụ cột: Bộ số, Kinh tế nông nghiệp số và Nông thôn số, Nông dân số. Thời gian qua, việc thực hiện chuyển đổi số bước đầu đã được áp dụng trong ngành NN-PTNT ở các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, lâm nghiệp mang lại những kết quả hết sức khả quan. Tuy nhiên, quy mô ứng dụng chuyển đổi số còn hạn chế, chưa đồng bộ giữa các vùng, miền, địa phương. “Đại dịch Covid-19 là cú híc mạnh mẽ cho chuyển số trong nông nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ số trong chuỗi cung ứng, sản xuất, chế biến, thị trường nông sản diễn ra rất nhanh trên phạm vi toàn quốc, động chạm cùng lúc tới các doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã, nông dân. Nhưng cách triển khai, tiếp cận rời rạc đã nảy sinh các vấn đề: về trao đổi thông tin giữa các đơn vị thuộc Bộ, giữa bộ, ngành, các địa phương; về ứng dụng công nghệ; về dữ liệu…”, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT nêu vấn đề. Theo đó, Thứ trưởng cho rằng chuyển đổi số ngành nông nghiệp cần một tầm nhìn xa, phải bắt đầu nông dân và phải dựa trên nên tảng số, dữ liệu số. Mọi chính sách đều hướng đến nông dân, nông thôn doanh nghiệp, hợp tác xã và mọi nông dân, nông thôn, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng phải tham gia vào quá trình chuyển đổi số. Đồng thời, người đứng đầu phải có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, cách làm phù hợp, bám sát thực tiễn, điều kiện, hoàn cảnh của nền nông nghiệp Việt Nam để đạt hiệu quả cao, sức lan tỏa rộng và mang lại lợi ích cho nhiều nông dân, nông thôn, doanh nghiệp, hợp tác xã. “Chuyển đổi số là xu thế, đòi hỏi, yêu cầu khách quan của sự phát triển, không thể không làm, không thể đứng ngoài cuộc, đặc biệt là chuyển đổi số trong nông nghiệp. Đây là vấn đề tác động đến tất cả các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, người dân, doanh nghiệp nên phải bắt tay thực hiện ngay để tạo ra hệ thống tổng thể, liên thông từ Bộ đến cơ sở”, lãnh đạo Bộ NN-PTNT khẳng định. Phạm Hiếu – Đức …
| Tin mới | admin | 15/12/2021 | | Cục Chăn nuôi Lấy ý kiến hủy bỏ QCVN trong lĩnh vực chăn nuôi | Kính gửi: Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ Hiện nay, nội dung của một số QCVN trong lĩnh vực chăn nuôi không còn phù hợp với quy định tại Luật Chăn nuôi, Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vậy, để hoàn thiện hồ sơ trình Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị hủy bỏ một số QCVN trong lĩnh vực chăn nuôi, Cục Chăn nuôi đề nghị Chi cục Chăn nuôi và Thú y các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho ý kiến về việc hủy bỏ các QCVN, cụ thể như sau: Danh mục QCVN đề nghị hủy bỏ (chi tiết tại Phụ lục kèm theo). Đề nghị các Chi cục gửi ý kiến về Phòng Thanh tra, Pháp chế, Cục Chăn nuôi trước ngày 22/12/2021, 16 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà …
| Thông báo | admin | 15/12/2021 | | Tăng cường giải pháp phòng chống đói rét cho đàn vật nuôi | Sáng 14/12, Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai công tác phòng, chống đói rét cho vật nuôi năm 2021-2022 các tỉnh miền núi phía bắc và Bắc Trung Bộ. Số lượng gia súc, gia cầm bị thiệt hại do đói rét giảm rõ rệt Quang cảnh hội nghị. Ảnh: Trung Quân. Tại hội nghị, ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT) cho biết: Trong những năm gần đây, số lượng gia súc, gia cầm bị thiệt hại đo đói, rét trong vụ đông xuân giảm rõ rệt, cụ thể: Vụ đông xuân 2007-2008 hơn 200.000 gia súc bị chết; 2010-2011 gần 100.000 con; 2011-2012 hơn 5.800 con; 2013-2014 hơn 2.800 con, 2020-2021 hơn 2.200 con gia súc và 335 con gia cầm… Tuy nhiên, công tác phòng chống đói, rét cho đàn vật nuôi vẫn gặp rất nhiều khó khăn do các tỉnh thường chịu ảnh hưởng sâu sắc của rét đậm, rét hại, đặc biệt là các huyện vùng núi cao. Chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô nhỏ, phân tán còn chiếm tỷ lệ cao (trên 80%), điều kiện cơ sở vật chất, trình độ kỹ thuật chăn nuôi nông hộ, kiến thức về phòng chống dịch bệnh, xử lý ô nhiễm môi trường và vệ sinh chuồng trại của người dân còn nhiều hạn chế. Một số hộ nghèo chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của chính quyền, khi không có hỗ trợ thì người chăn nuôi cũng không đủ kinh tế để củng cố chuồng trại, xử lý phân chuồng và dự trữ thức ăn cho gia súc… Đồng bộ nhiều giải pháp, xây dựng mô hình hiệu quả Theo Cục chăn nuôi, để công tác phòng chống đói, rét cho đàn vật nuôi cần áp dụng đồng bộ các giải pháp, cụ thể: Tăng cường công tác quản lý và tổ chức sản xuất, theo dõi chặt chẽ và thông tin kịp thời về tình hình diễn biến của thời tiết khí hậu, đặc biệt những đợt rét đậm, rét hại để chủ động phòng chống đói, rét cho gia súc kịp thời. Vận động người dân không thả rông gia súc và cho gia súc làm việc khi nhiệt độ xuống dưới 10 độ C. Vận động người dân thực hiện 3 không (không thả rông, không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, không dấu dịch), 3 có (có chuồng trại, có xử lý chất thải trong chăn nuôi, có tiêm phòng cho gia súc). Không chủ quan, lơ là trong chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý vật nuôi trước, trong và sau rét đậm, rét hại… Về chuồng trại, thường xuyên kiểm tra, gia cố chuồng trại, tiến hành xây mới chuồng nuôi đảm bảo chống rét được cho gia súc trước mỗi vụ đông xuân hàng năm và sau mỗi đợt rét đậm, rét hại. Thực hiện tiêu độc khử trùng, phòng chống nguy cơ có thể bùng phát dịch. Sử dụng các chế phẩm vi sinh phun xử lý mùi hôi chuồng trại, hỗ trợ phân hủy nhanh chất thải thành phân bón hữu cơ. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Trung Quân. Về thức ăn, thu gom phụ phẩm nông nghiệp có sẵn tại địa phương như rơm rạ, ngô, đậu, lạc khi thu hoạch, dự trữ chế biến để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn thức ăn, phế phụ phẩm nông nghiệp sẵn có tại các địa phương làm thức ăn gia súc. Chuyển diện tích sản xuất lương thực kém hiệu quả sang trồng cây thức ăn gia súc. Mở rộng diện tích trồng cỏ, ngô sinh khối, ngô vụ đông để làm thức ăn cho gia súc ăn cỏ… Về con giống, tổ chức tuyển chọn nhân giống, mua giống để có được giống tốt cung cho người chăn nuôi trước mỗi mùa đông. Có phương án chủ động con giống để sẵn sàng thay thế khi vật nuôi bị chết, tái sản xuất ngay sau khi thiệt hại do rét đậm, rét hại. Những vùng thấp, củng cố, tăng cường, phát huy tối đa hệ thống thụ tinh nhân tạo ở địa phương để tiến hành cải tạo đàn trâu, bò lợn bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Vùng cao, tuyển chọn đực giống tốt của địa phương để cải tạo giống bằng phương pháp nhảy trực tiếp… Tại hội nghị, ông Hoàng Văn Hồng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chia sẻ: Trung tâm đã triển khai 3 dự án về trồng và chế biến bảo quản thức ăn phục vụ phòng chống đói, rét cho đàn trâu, bò tại các địa phương. Hướng dẫn người dân xây dựng và củng cố chuồng trại trong chăn nuôi đại gia súc; phòng bệnh ghi chép sổ sách trong chăn nuôi; đào tạo, tập huấn phòng chống rét phát triển chăn nuôi đại gia súc; tăng cường thông tin tuyên truyền phòng chống đói, rét đến đông đảo người dân… Linh hoạt, chủ động giải pháp là giải pháp tối ưu Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nêu rõ: Trong bối cảnh ngành nông nghiệp phải đối diện với nhiều khó khăn như hiện nay, với sự nỗ lực quyết tâm của cả hệ thống, năm 2021, ngành chăn nuôi vẫn có sự tăng trưởng tương đối tốt, tổng sản lượng thịt đạt 6,2 triệu tấn, trứng 6 tỷ quả, sữa 1,2 triệu tấn… góp tỷ trọng lớn vào sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Để công tác phòng chống đói rét cho đàn vật nuôi hiệu quả cần áp dụng đồng bộ các giải pháp như gia cố chuồng nuôi, tăng cường dinh dưỡng, dự trữ thức ăn thô xanh…Ảnh: TL. Tuy nhiên, vấn đề biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, khó lường, nếu ngành nông nghiệp nói chung, chăn nuôi nói riêng không có giải pháp chủ động ứng phó thì khi có tình huống xảy ra sẽ không kịp phản ứng, hậu quả sẽ rất nặng nề. Bên cạnh đó, công tác phòng chống đói, rét không thể thực hiện ngay một lúc mà cần chuẩn bị kỹ lưỡng. Trong đó, tập trung nâng cao sức khỏe đàn vật nuôi, đẩy mạnh công tác tiêm phòng, tăng cường dinh dưỡng, củng cố chuồng trại… là những vấn đề then chốt. Nếu các địa phương không chủ động chuẩn bị thì rất dễ lặp lại lịch sử vụ đông xuân 2007-2008, hơn 200.000 gia súc chủ yếu trâu bò bị chết. Trung …
| Tin mới | admin | 14/12/2021 | | Quyết định số 222/QĐ-CN-VP ngày 23 tháng 11 năm 2021 Về việc thành lập Ban chỉ đạo phong trào thi đua “Thực hiện chuyển đổi số, xây dựng nền chăn nuôi số gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính” giai đoạn 2021 – 2025 | …
| Quyết định | admin | 14/12/2021 | | Quyết định số 221/QĐ-CN-VP ngày 23 tháng 11 năm 2021 Về việc phát động phong trào thi đua “Thực hiện chuyển đổi số, xây dựng nền chăn nuôi số gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính” giai đoạn 2021 – 2025 | …
| Quyết định | admin | 14/12/2021 | | Ông Dương Tất Thắng giữ chức Cục trưởng Cục Chăn nuôi | Ngày 24/11, Bộ NN-PTNT đã công bố và trao quyết định bổ nhiệm ông Dương Tất Thắng, Quyền Cục trưởng Cục chăn nuôi giữ chức Cục trưởng Cục chăn nuôi. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến trao quyết định bổ nhiệm cho ông Dương Tất Thắng. Ảnh: Nam Khánh. Ông Dương Tất Thắng sinh năm 1970, quê huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh). Trước khi được bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Chăn nuôi, ông Dương Tất Thắng là Quyền Cục trưởng Cục chăn nuôi. Trước đó, ông là Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi. Tại lễ trao quyết định bổ nhiệm, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: Chăn nuôi là lĩnh vực hết sức quan trọng của ngành nông nghiệp, không chỉ phục vụ cho nhu cầu thực phẩm của 100 triệu dân trong nước, mà đang hướng tới mục tiêu vươn ra xuất khẩu, khẳng định vị thế và đóng góp lớn hơn cho ngành nông nghiệp. Đây cũng đang là lĩnh vực còn dư địa phát triển rất lớn. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến tin tưởng với kinh nghiệm công tác của mình trong lĩnh vực chăn nuôi – thú y, trên cương vị Cục trưởng Cục Chăn nuôi, với hành lang pháp lý, chiến lược và nguồn lực đã có, ông Dương Tất Thắng sẽ kế thừa và phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết, nỗ lực, cùng tập thể, lãnh đạo Cục Chăn nuôi tổng hợp các lực lượng, hệ thống quản lý nhà nước về ngành chăn nuôi các địa phương; các doanh nghiệp; các nhà khoa học và hộ nông dân cùng đưa ngành chăn nuôi Việt Nam lên tầm cao mới… Nhận quyết định bổ nhiệm, ông Dương Tất Thắng hứa sẽ nỗ lực hết mình trong công tác, triển khai thực hiện các nhiệm vụ được Bộ NN-PTNT giao, kế thừa và tiếp tục phát huy thành quả của các thế hệ đi trước; nỗ lực học tập, rèn luyện và làm việc với khả năng cao nhất để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Với ngành chăn nuôi, trước mắt, sẽ thường xuyên kết nối với địa phương để nắm bắt thông tin, sâu sát thực tiễn, đưa ra các giải pháp kịp thời, phủ hợp để ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất thường của thị trường, dịch bệnh, thiên tai, môi trường và biến đổi khí hậu của từng vùng, từng địa phương, từng đối tượng vật nuôi nhằm thúc đẩy phát triển chăn nuôi bên vững, nâng cao giá trị, sức cạnh tranh và đàm bảo an toàn thực phẩm của sản phẩm chăn nuôi. Bên cạnh đó, tiếp tục phát huy, xây dựng phát triển bền vững mối quan hệ hữu cơ giữa Cơ quan quản lý nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp và người chăn nuôi. NAM …
| Tin mới | admin | 29/11/2021 | | Mặt trái của ngành chăn nuôi bò vùng Amazon | Đối với nhiều người, hình ảnh trái chiều của nông nghiệp ở Amazon là các hoạt động tàn phá môi trường. Nhu cầu về thịt bò ở vùng Amazon ngày càng tăng khiến nhiều người dân địa phương coi chăn nuôi gia súc như một sinh kế giúp nuôi sống gia đình của họ, dẫn đến tình trạng phá rừng bất hợp pháp leo thang. Ảnh: Washington Post. Khoảng 80% số vụ phá rừng trong khu vực là do chăn nuôi gia súc, xuất khẩu thịt bò nhiễm độc. Ngành công nghiệp thịt bò của Brazil hy vọng sẽ thu hút người nuôi quay trở lại khu vực Amazon, nơi chiếm khoảng 40% tổng diện tích cả nước, với cam kết không phá rừng mới. Nhưng các nhà phê bình lo ngại rằng nó có thể hợp pháp hóa việc phá rừng một cách hiệu quả trong khu vực. Vào tháng 5, các quan chức chính phủ Brazil bắt đầu tìm hiểu chi tiết về cái gọi là khu vực phát triển bền vững Amacro, nơi được hy vọng sẽ dẫn đến việc tăng cường nông nghiệp lớn ở Amazon. Tổng thống Brazil, Jair Bolsonaro, dự kiến sẽ bật mí dự án vào cuối năm nay. Vùng Amacro – một từ viết tắt được lấy từ các bang: Amazonas, Acre và Rondônia – là một vùng rộng lớn 465.800 km2 ở tây bắc Brazil. Vùng Amacro bao gồm công viên quốc gia Mapinguari, khu bảo tồn lớn thứ năm của Brazil, và lãnh thổ bản địa Kaxarari, nơi bộ tộc đã đấu tranh chống lại lâm tặc để bảo vệ đất đai của mình. Tổ chức Hòa bình xanh đã xác định phần phía bắc của khu vực này là một điểm nóng phá rừng mới nổi. Các dự án phát triển nông nghiệp trước đây đã làm mất đi những vùng rộng lớn của thảm thực vật bản địa ở các vùng khác của Brazil, nhưng những người ủng hộ Amacro cam kết dự án đang được thiết kế để ngăn chặn nạn phá rừng bất hợp pháp. Edivan Maciel, cựu Bộ trưởng Nông nghiệp của bang Acre, cho biết mục đích của dự án là sản xuất nhiều thịt bò hơn trên những vùng đất đã được khai phá. Maciel, một đồng minh của Tổng thống Bolsonaro, cho biết đó là nhằm tối ưu hóa khả năng sản xuất mà không cần phá rừng. Nhưng Humberto de Aguiar, một công tố viên liên bang ở bang Acre, người chuyên xử lý các tội phạm về môi trường, nói rằng kế hoạch này có khả năng “hợp pháp hóa việc phá rừng đã được thực hiện”. Amacro là sản phẩm trí tuệ của Assuero Doca Veronez, một nhân vật quyền lực trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp ở vùng Amazon. Veronez chính là người đã nói với một trang tin tức Brazil vào năm ngoái rằng “phá rừng đồng nghĩa với tiến bộ”. Veronez, một chủ trang trại và là chủ tịch của Liên đoàn Nông nghiệp và Chăn nuôi Acre, đã bị phạt vì phá rừng bất hợp pháp vào năm 2006. Ông phủ nhận mọi hành vi sai trái và nói rằng ông đã bán tài sản vào năm 2002. Veronez cho biết việc chăn nuôi gia súc thâm canh hơn sẽ cho phép sản xuất nhiều thịt bò hơn trên diện tích đất ít hơn và chống lại nạn phá rừng. Ông tuyên bố sản xuất thịt bò tăng khoảng 2,5 lần so với mức trung bình của tiểu bang Acre. “Amacro có thể đóng góp vào việc bảo tồn những khu vực này”, Veronez khẳng định. Một số nhà nghiên cứu tranh cãi ý kiến rằng việc chuyển sang chăn nuôi tập trung có thể cắt giảm nạn phá rừng ở Amazon. Một báo cáo của Đại học California vào năm 2017 đã kết luận rằng đó có thể là một cách tiếp cận không đúng, trong đó lưu ý rằng “điều ngược lại có thể xảy ra”. Judson Valentim, một nhà nghiên cứu tại cơ quan nghiên cứu nông nghiệp của Brazil, cho biết việc tăng cường trồng rừng khó có thể theo kịp tốc độ phá rừng chóng mặt. “Veronez, giống như hầu hết các chủ trang trại lớn, phụ thuộc vào mạng lưới các nhà sản xuất nhỏ hơn. hầu hết trong số họ thiếu nguồn lực kỹ thuật và tài chính để đầu tư vào các hoạt động chăn thả hiệu quả hơn”, Valentim thông tin. Trong khi các chủ trang trại như Veronez có thể tránh được nạn phá rừng, các nhà cung cấp cho họ có thể không có đủ điều kiện để làm như vậy. Nhu cầu về thịt bò ở vùng Amazon ngày càng tăng đã khiến nhiều người dân địa phương coi chăn nuôi gia súc như một sinh kế giúp nuôi sống gia đình của họ, dẫn đến tình trạng phá rừng bất hợp pháp leo thang. Gabriel Santos, một chủ trang trại ở vùng Amacro, đã bị phạt hơn 130.000 đô la vì đã chặt cây trái phép trong khu bảo tồn để chăn thả gia súc. Nhưng ông nói rằng chuyển đổi rừng thành đồng cỏ là lựa chọn kinh tế khả thi duy nhất của mình. Vì trang trại của Santos đã bị các cơ quan quản lý đưa vào danh sách đen nên ông không thể bán gia súc trực tiếp cho các lò mổ. Vì vậy, ông bán cho một người trung gian, người này bán cho các chủ trang trại lớn. Valentim cho biết, “nếu các chủ trang trại lớn trở nên năng suất hơn, ngay cả khi họ không chặt phá rừng, thì điều đó sẽ gây áp lực cho những người chăn nuôi gia súc trong rừng bán hàng cho họ phải phát triển hoạt động phá rừng”. Veronez nói rằng ông ta không liên quan gì đến các vấn đề môi trường của người khác: “Tôi hoàn toàn chống lại kiểu kiểm soát này. Mặc dù luật pháp Brazil hạn chế hầu hết các chủ đất ở Amazon phá hơn 20% diện tích đất của họ, nhưng việc thiếu sự giám sát theo quy định sẽ giúp giải thích tại sao 94% vụ phá rừng có thể được thực hiện bất hợp pháp”. “Rất khó để duy trì hợp pháp”, Santos, người đã phải trốn tránh vì khoản tiền phạt chưa được thanh toán, nói. Santos nói với thu nhập hàng năm là 10.000 USD, ông không thể trả được. Ông lẩn trốn khi các nhân viên chính phủ đến trang trại của mình và lo sợ cuối cùng sẽ bị tống vào tù. Ông cho rằng mình bị một cơn đau tim gần đây là do căng thẳng. “Tôi sẽ hỗ trợ gia đình mình như thế nào?”, ông cầu xin. “Nếu tôi có một phương tiện sinh tồn khác, tôi sẽ rời đi. Tôi chỉ ở lại đây vì tôi không còn nơi nào để đi”. Hương Lan (Theo …
| Tin mới | admin | 29/11/2021 | | Phát triển kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi | Ngày 19/11, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Sở NN-PTNT tỉnh Hòa Bình tổ chức diễn đàn khuyến nông về ‘Giải pháp phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi’. Hiểu đúng về kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp Theo ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, nông nghiệp tuần hoàn nói chung và chăn nuôi tuần hoàn nói riêng là hoạt động sản xuất không chất thải, không phế phẩm. Ứng dụng kỹ thuật truyền thống và những tiến bộ khoa học để xử lý phụ phẩm, chất thải trong quá trình sản xuất thành giá trị hữu ích, tái sử dụng trong nông nghiệp, góp phần bảo vệ và tái sinh môi trường là hướng đi bền vững trong định hướng phát triển ngành chăn nuôi. Xây dựng hầm biogas trong xử lý chất thải chăn nuôi. Ảnh: TL. Bà Hạ Thúy Hạnh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết: Phát triển kinh tế tuần hoàn đã và đang là xu hướng của các quốc gia trên thế giới, nhất là trong bối cảnh nguồn tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt. Kinh tế tuần hoàn không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán, tạo thành vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. Kinh tế tuần hoàn mang lại 4 lợi ích cụ thể giúp phát triển bền vững: Tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế và mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Bên cạnh đó, kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp là quá trình sản xuất nông nghiệp theo chu trình khép kín, chất thải và phế phụ phẩm của quá trình này là đầu vào của quá trình sản xuất khác thông qua áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, công nghệ hóa lý. Nhờ đó, sản xuất nông nghiệp sẽ khai thác và sử dụng tài nguyên một cách tiết kiệm, hiệu quả, giảm thiểu sự lãng phí thất thoát sau thu hoạch; giảm thiểu và đi đến triệt tiêu chất thải gây ô nhiễm môi trường, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người. Cũng theo bà Hạnh, ở Việt Nam, hiện nay cách hiểu về kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp chưa đầy đủ và đúng nghĩa. Song một số mô hình gắn với kinh tế tuần hoàn đã và đang xuất hiện, tạo cơ hội cho kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp phát triển như: Mô hình vườn ao chuồng (VAC), vườn ao chuồng bioga (VACB), vườn ao chuồng rừng (VACR) tại các tỉnh miền núi, vườn ao hồ (VAH) tại các tỉnh miền trung, lúa tôm, lúa cá… Nông nghiệp tuần hoàn nói chung và chăn nuôi tuần hoàn nói riêng, là hướng đi bền vững trong định hướng phát triển ngành chăn nuôi. Ảnh: TL. Tuy nhiên, việc việc phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt nam đang gặp một số khó khăn: Những hướng dẫn về vai trò, lợi ích, bản chất, nội dung, tiêu chí của nông nghiệp tuần hoàn chưa rõ ràng, thậm chí chưa có. Điều này dẫn tới nhận thức của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, người dân còn mơ hồ, chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên, sử dụng thuốc BVTV, phân bón vô cơ nên chưa tạo được động lực áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Năng lực tái chế, tái sử dụng phế phụ phẩm nông nghiệp còn rất hạn chế. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ xử lý, chất thải phế phụ phẩm trong nông nghiệp còn thiếu. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, nên việc thu gom, phân loại cũng như đầu tư cho công nghệ tái chế chưa được quan tâm. Vì vậy, hiện nay mới có 10% phụ phẩm trồng trọt được sử dụng là chất đốt tại chỗ, 5% là nhiên liệu công nghiệp, 3% là thức ăn gia súc, còn 80% chưa được sử dụng và thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ… Đề xuất nhiều giải pháp Tại diễn đàn, tổ tư vấn gồm các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp… có kinh nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi đã giải đáp những thắc mắc, băn khoăn của của các hộ sản xuất về nông nghiệp tuần hoàn, kinh tế tuần hoàn, các quy định, chính sách hiện nay. Bên cạnh đó, nhiều đại biểu đã đóng góp những giải pháp để phát triển kinh tế tuần hoàn hiệu quả trên thực tế Tổ tư vấn diễn đàn trả lời, giải đáp những thắc mắc của người dân, doanh nghiệp về các quy định, chính sách xuay quanh kinh tế tuần hoàn và nông nghiệp tuần hoàn. Ảnh: Trung Quân. Ông Hà Văn Thắng, Chủ tịch Công ty Cổ phần T&T 159 Hòa Bình chia sẻ: Nguyên tắc cơ bản trong nền kinh tế tuần hoàn bao gồm: Thiết kế tái sử dụng, khả năng linh động nhờ sự đa dạng, sử dụng năng lượng từ các nguồn vô tận, sử dụng năng lượng từ các nguồn vô tận, tư duy hệ thống và nền tảng sinh học. Cũng theo ông Thắng, để triển khai được mô hình kinh tế tuần hoàn trong trong nông nghiệp, cần xây dựng một số mô hình thí điểm, với sự tham gia của kinh tế tập thể (hợp tác xã) gắn với kinh tế tư nhân (doanh nghiệp trong hợp tác xã). Từ đó, phát triển hệ sinh thái cho vùng sản xuất nông nghiệp. Trong hệ sinh thái này, doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt, rường cột, làm trung tâm vùng lõi, dẫn dắt thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm, thực hiện dịch vụ kỹ thuật, hậu cần, chế biến… Song song đó, cần mở rộng liên kết vùng sản xuất theo khu vực, ngành hàng để kết nối phát triển kinh tế tuần hoàn. Trong liên kết này, phế phụ phẩm của đơn vị này được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho đơn vị kia. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn người dân, nông dân nhận thức, hiểu biết các mô hình nông nghiệp tuần hoàn để sẵn sàng tham gia và cùng phát huy hiệu quả… Đại diện Trung tâm Khuyến nông tỉnh Phú Thọ góp ý: Cần khuyến khích bà con nông dân xử lý trả lại chất đất hữu cơ bằng cách để lại phần phụ cho đất (như thân lá sắn, ngô, cành lá chè sau đốn), tăng cường chế biến phụ phẩm như mùn cưa tạo thành phân bón hữu cơ sử dụng trong nông nghiệp. Áp dụng các kỹ thuật mới sản xuất phân bón từ phân và chất thải chăn nuôi, khí đốt từ hầm Biogas, sử dụng làm nguyên vật liệu nuôi trồng đối tượng khác để khép kín tuần hoàn sản xuất… Có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp đầu tư, khai thác, chế biến phế phụ phẩm trong nông nghiệp để tạo ra phân bón và giá thể hữu cơ; đẩy mạnh quy trình sản xuất tiên tiến, thân thiện với môi trường; xây dựng và nhân rộng các mô hình sử dụng thức ăn chăn nuôi phối trộn, sử dụng phế phẩm sinh học thay thế kháng sinh trong chăn nuôi. Trung …
| Tin mới | admin | 22/11/2021 | | Quyết định số 186/QĐ-CN-VP ngày 29 tháng 10 năm 2021 Ban hành Kế hoạch triển khai các hoạt động trong Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2021 của Cục Chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 19/11/2021 | | Chương trình “ Tuổi trẻ Bộ Nông nghiệp và PTNT chung tay xây dựng nông thôn mới năm 2021” | Thực hiện chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh niên năm 2021, Sáng ngày 23/10/2021, Đoàn thanh niên Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức chuỗi các hoạt động “Tuổi trẻ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chung sức xây dựng nông thôn mới” tại huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Cụm đoàn khu liên cơ quan số 16 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội được Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT giao chủ trì thực hiện Chương trình tình nguyện này. Chi đoàn Cục Chăn nuôi đã chủ động, tích cực phối hợp với các Chi đoàn tại Cụm đoàn khu liên cơ quan số 16 Thụy Khuê, huyện Đoàn Na Rì, các đoàn viên thanh niên công ty Cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam lên Kế hoạch, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện. Ảnh: Đại diện Ban giám hiệu trường THCS Trần Phú nhận vở, sách truyện và trang thiết bị dậy và học từ đoàn công tác Đoàn thanh niên Bộ NN&PTNT đã trao tặng 1.500 quyển sách, 01 bộ máy tính, 01 bộ máy chiếu và nhiều sách, truyện cho trường THCS Trần Phú để xây dựng Tủ sách thanh niên đồng thời tổ chức khánh thành Công trình nước sạch và trồng cây lưu niệm. Ảnh: Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi trồng cây lưu niệm và khánh thành công trình nước sạch tại trường THCS Trần Phú Cũng trong khuôn khổ của Chương trình tình nguyện tại huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, Chi đoàn Cục Chăn nuôi đã phối hợp với Công ty Cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam tổ chức trao 2.000 gà giống (20 đàn gà khăn quàng đỏ), 1.000 kg thức ăn chăn nuôi, 20 bóng đèn và các loại vật tư (thuốc thú y, máng cho ăn, uống nước…) phục vụ cho việc chăm sóc đàn gà, đồng thời tổ chức tập huấn mô hình chăn nuôi gà cho đoàn viên thanh niên và phụ huynh, học sinh nhận được hỗ trợ. Ảnh: Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi tặng quà cho các em học sinh trường THCS Trần Phú Chương trình thể hiện tinh thần, trách nhiệm của tuổi trẻ Bộ Nông nghiệp và PTNT, Cục Chăn nuôi đối với cộng đồng, chung tay phát triển kinh tế, sinh kế khu vực miền núi và xây dựng nông thôn mới tại huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Đây cũng là dịp để giáo dục về ý thức, trách nhiệm sống vì cộng đồng, xã hội cho Đoàn viên thanh niên Cục Chăn nuôi, môi trường để chia sẻ kiến thức chuyên môn và kết nối giữa các đoàn viên thanh niên. Nguồn: Chi đoàn Cục Chăn nuôi …
| Chi đoàn Cục Chăn nuôi | admin | 10/11/2021 | | Giá heo hơi hôm nay 27/10: Miền Bắc tiếp tục tăng mạnh | Giá heo hơi hôm nay 27/10/2021 tại miền Bắc tiếp tục tăng thêm 1.000 – 5.000 đ/kg. Trong khi đó, giá heo hơi miền Nam lại đi ngang. Giá heo hơi miền Bắc hôm nay Giá heo hơi hôm nay 27/10 tại thị trường miền Bắc tiếp tục tăng, giao dịch quanh mức 46.000 – 52.000 đ/kg Cụ thể, heo hơi tại Hưng Yên tiếp tục tăng giá thu mua lêm mức 52.000 đ/kg, tăng thêm 1.000 đ/kg so với hôm qua. Đây cũng là địa phương có mức giao dịch heo hơi cao nhất khu vực. Tương tự, Yên Bái cũng đang tăng nhẹ 1 giá lên mức 46.000 đ/kg, là địa phương có mức giá heo hơi thấp nhất khu vực hôm nay. Các tỉnh Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình đồng loat tăng thêm 2.000 đ/kg, lên mức 47.000 đ/kg. Và đang ngang bằng với các địa phương Thái Bình và Tuyên Quang. Lào Cai và Vĩnh Phúc cũng không ngoại lệ, khi tăng mạnh 3.000 đ/kg so với hôm qua, lên mức 48.000 đ/kg. Đây cũng là mức giá giao dịch heo hơi đang neo tại Thái Nguyên. Đặc biệt, tỉnh Bắc Giang tiếp tục tăng lên mức 50.000 đ/kg, tăng mạnh thêm 5.000 đ/kg so với hôm qua. Còn thương lái tại Hà Nội đang tiếp tục thu mua heo hơi ở mức 49.000 đ/kg. Đây cũng là mức giá heo hơi tại Phú Thọ, sau khi tăng mạnh 4.000 đ/kg. Như vậy, giá heo hơi hôm nay 27/10/2021 tại thị trường miền Bắc tăng thêm 1.000 – 5.000 đ/kg so với hôm qua. Giá heo hơi miền Trung hôm nay Giá heo hơi hôm nay 27/10 tại miền Trung và Tây Nguyên chỉ tăng ở vài nơi Trong đó, Thanh Hóa và Nghệ An sau khi tăng 2.000 đ/kg, cùng điều chỉnh giá thu mua lên mức 46.000 đ/kg. Trở thành 2 địa phương có mức giá heo hơi cao nhất khu vực. Hiện tỉnh Hà Tĩnh đang giao dịch heo hơi với giá thấp nhất khu vực, với 44.000 đ/kg. Các tình thành còn lại đồng loạt đi ngang, duy trì mức giao dịch tại 45.000 đ/kg. Như vậy, giá heo hơi hôm nay 27/10/2021 ở miền Trung thu mua quanh mốc 44.000 – 46.000 đ/kg. Giá heo hơi miền Nam hôm nay Tại miền Nam, giá heo hơi hôm nay 27/10 đi ngang so với hôm qua. Cụ thể, Đồng Nai đang là địa phương có mức thu mua heo hơi cao nhất khu vực hiện nay, duy trì ở giá 46.000 đ/kg. Trong khi đó, TP HCM, Bình Phước, Bình Dương, Long An và các tỉnh thành còn lại khác tiếp tục neo tại 45.000 đ/kg. Như vậy, giá heo hơi hôm nay 27/10/2021 toàn miền Nam dao động quanh ngưỡng 45.000 – 46.000 đ/kg. Bàng …
| Tin mới | admin | 27/10/2021 | | Mỹ: Người nuôi gà hữu cơ ‘sốc nặng’ vì giá đậu tương hữu cơ tăng vọt | Giá đậu tương hữu cơ của Mỹ được sử dụng để làm thức ăn chăn nuôi và sản xuất sữa đậu nành đã tăng lên mức cao kỷ lục. Tại Hoa Kỳ, giá thức ăn hữu cơ, chiếm 65% chi phí nuôi gà, đã tăng gần 20% vào năm 2021. Ảnh minh họa: Reuters. Lý do là khối lượng hàng nhập khẩu chiếm phần lớn nguồn cung của Hoa Kỳ suy giảm, gây ra sự tăng giá đối với thực phẩm, bao gồm cả gà nuôi hữu cơ. Đậu tương lên giá và các sản phẩm hữu cơ có giá cao hơn đang thúc đẩy lạm phát thực phẩm tại thời điểm người tiêu dùng mong muốn ăn ngon hơn và chú trọng đến sức khỏe trong đại dịch Covid-19. Ngành thực phẩm hữu cơ trị giá 56 tỷ USD của Mỹ cũng đang phải vật lộn với tình trạng thiếu container vận chuyển và thị trường lao động eo hẹp do giá thực phẩm toàn cầu đạt mức cao nhất trong 10 năm. Các công ty thực phẩm và các nhà sản xuất gà đang gặp phải cú sốc lớn hơn từ giá đậu tương hữu cơ, được vận chuyển trong các container. Dù giá đậu tương thông thường chưa phải mức kỷ lục nhưng vẫn đang ở mức cao nhất trong vòng 7 năm. Các nhà sản xuất gà hữu cơ đang cắt giảm chi phí hoạt động để bù đắp chi phí thức ăn cao và tranh giành nguồn cung ứng nội địa thay vì ở nước ngoài. Theo ước tính của ngành nông nghiệp, Mỹ nhập khẩu khoảng 70% đậu tương hữu cơ và sản lượng hữu cơ của Mỹ hiện không tăng đủ lượng để bắt kịp với nhu cầu. Bell & Evans, một nhà sản xuất gà có tuổi đời 127 năm, và có trụ sở tại Pennsylvania, hàng tuần đều sử dụng các loại cây trồng hữu cơ của Mỹ làm thức ăn cho 500.000 – 600.000 con gà và “đang phải cạnh tranh để mua đậu tương với những người mua khác phụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu trước đây”, theo chủ sở hữu Scott Sechler. “Công ty đã tăng tất cả giá gà trong tháng 7 và có khả năng sẽ cần tăng giá gà nuôi hữu cơ một lần nữa”, ông nói. “Chúng ta đang ở trong thời kỳ thách thức nhất kể từ khi thế giới hữu cơ bắt đầu mở ra với việc cho động vật ăn thức ăn hữu cơ và bán protein động vật hữu cơ. Tình hình hiện tại điên rồ giống như trong nhà thương điên”. Nhập khẩu đậu tương hữu cơ của Hoa Kỳ từ tháng 9/2020 đến tháng 8/2021 đã giảm 18% xuống còn khoảng 240.585 tấn, theo dữ liệu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Các lô hàng nhập khẩu từ Argentina, nhà cung cấp lớn nhất cho Hoa Kỳ, giảm 30%. Nhập khẩu từ Ấn Độ giảm 34%, làm trầm trọng thêm xu hướng suy giảm đã có từ trước, sau khi Hoa Kỳ vào tháng Giêng tăng cường các yêu cầu về chứng nhận cây trồng của Ấn Độ là hữu cơ. Trong khi Hoa Kỳ là nhà xuất khẩu đậu tương thông thường số 2 thế giới, nông dân nước này lại chậm chuyển sang canh tác đậu tương hữu cơ, do đầu tư ban đầu quá lớn và thời gian chuyển đổi dài để đạt được chứng nhận hữu cơ. Giờ đây, khi xem xét lợi nhuận thu được từ canh tác thông thường trong bối cảnh nguồn cung đậu tương toàn cầu thấp, một số người trồng cho biết không đáng để bỏ thêm tiền và công sức để chuyển sang trồng hữu cơ. “Mỹ không có đủ ngũ cốc hữu cơ để thay thế tất cả các loại ngũ cốc hữu cơ nhập khẩu”, Sechler nhấn mạnh. Tắc nghẽn Tình trạng thiếu container vận chuyển sử dụng trong nhập khẩu cây trồng hữu cơ, kèm theo đó là việc tắc nghẽn tại các cảng của Hoa Kỳ đúng thời điểm người mua đang có nhu cầu tiêu dùng lớn, đã đẩy chi phí vận chuyển hàng hóa lên mức kỷ lục. John Sheppard, Chủ tịch công ty nghiền đậu tương hữu cơ Sheppard Grain của Mỹ cho biết: “Thị trường hàng tiêu dùng đang trả thêm chi phí cho bất cứ container nào mà họ có thể tìm thấy. Sản phẩm nông nghiệp không thể cạnh tranh được”. Công ty dữ liệu hàng hóa Mercaris cho biết, giá đậu tương hữu cơ giao tại Trung Tây Hoa Kỳ vào tháng 9 đạt khoảng 33 USD/giạ, vượt qua mức kỷ lục trước đó đạt khoảng 25 USD/giạ trong năm 2014-15. Debarshi Sengupta, Giám đốc tài chính của nhà sản xuất gà Farmer Focus, cho biết giá thức ăn hữu cơ, chiếm 65% chi phí nuôi gà, đã tăng gần 20% vào năm 2021. Ông dự đoán giá thức ăn hữu cơ sẽ tăng gần 40% vào cuối năm nay nếu xu hướng giá hiện tại vẫn tiếp tục. Doanh số bán thực phẩm hữu cơ của Mỹ tăng 12,8% trong năm ngoái lên 56,5 tỷ USD, so với mức tăng 4,6% trong năm 2019, theo Hiệp hội Thương mại Hữu cơ. Năm 2020, thực phẩm hữu cơ chiếm 5,8% doanh số bán thực phẩm vì đại dịch đã thúc đẩy người tiêu dùng ăn nhiều bữa hơn ở nhà và tập trung vào các sản phẩm được coi là có lợi cho sức khỏe. Nhà sản xuất gà Perdue Farms hy vọng khách hàng chấp nhận mức giá cao hơn một phần do chi phí thức ăn hữu cơ tăng. “Chúng tôi đang tìm cách tăng cường nguồn cung ngũ cốc hữu cơ trong nước để ngăn chặn sự thay đổi giá trong tương lai”, người phát ngôn của công ty Andrea Staub cho biết. Các công ty thực phẩm và người sử dụng thức ăn chăn nuôi đang đàm phán để mua đậu tương hữu cơ của Mỹ với giá cao từ vụ thu năm nay kéo dài đến vụ thu hoạch năm sau. Nguồn cung trong nước sẽ vẫn còn hạn chế, những người tham gia đàm phán cho biết. Nông dân Mỹ đã thu hoạch khoảng 170.074 mẫu (68.827 héc-ta) đậu tương hữu cơ vào năm 2019, tăng 37% so với năm 2016, theo USDA. Tổng sản lượng đậu tương, phần lớn là cây biến đổi gen, chiếm 86,4 triệu mẫu (khoảng 35 triệu héc-ta) trong năm nay. Tại Hoa Kỳ, nông dân phải trồng trọt trong ba năm mà không sử dụng các chất bị cấm, chẳng hạn như hạt giống biến đổi gen và thuốc trừ sâu tổng hợp, để được chứng nhận là hoàn toàn hữu cơ. Nicole Atchison, Giám đốc điều hành của nhà cung cấp nguyên liệu PURIS Holdings, công ty mua đậu tương hữu cơ của Mỹ, cho biết: “Đây không phải là một ngành công nghiệp có thể chuyển đổi trong một sớm một chiều”. (1 giạ đậu tương, lúa mì = 27,2 kg; 1 giạ ngô = 25,4 kg) Hương Lan (Theo …
| Tin mới | admin | 13/10/2021 | | Mỹ nói Việt Nam là ‘cường quốc nhập khẩu thức ăn chăn nuôi’ | Việt Nam đã tăng cường nhập khẩu ngô làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi để phục vụ ngành sản xuất thịt, vốn đã tăng trưởng gần 30% trong thập kỷ qua, theo USDA. Tốc độ tăng trưởng nhanh Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), vấn đề này giống như đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia, tăng trưởng tiêu thụ protein từ động vật đi đôi với sự phát triển kinh tế. Vì vậy Việt Nam đã chuyển sang nhập khẩu ngô làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi để phục vụ ngành sản xuất thịt, vốn đã tăng gần 30% trong thập kỷ qua. Đồ họa cơ cấu ngành sản xuất thịt tại Việt Nam (thịt lợn màu nâu, thịt gia cầm màu xanh nhạt và thịt bò màu xanh đậm) từ năm 2011 đến 2021 (đơn vị triệu tấn) và lượng tiêu thụ thịt (kg) trên đầu người. Nguồn: GSOV Đến nay, Việt Nam là nhà nhập khẩu ngô lớn nhất ở Đông Nam Á và dự báo sẽ là nhà nhập khẩu ngô lớn thứ năm trên toàn cầu vào các năm 2021/22. Mặc dù thịt lợn vẫn là loại thịt chính được người dân Việt Nam lựa chọn, nhưng lượng tiêu thụ thịt gà và thịt bò cũng đang tăng lên. Theo Báo cáo Thương mại Nông nghiệp Quốc tế của USDA, nuôi trồng thủy sản và động vật có vỏ hoặc các loài khác cũng đang được mở rộng tại Việt Nam và tạo thêm nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi vào thị trường tiềm năng này. Sản lượng ngô của Việt Nam bắt đầu tăng lên từ những năm 1980 và tiếp tục xu hướng này cho đến năm 2015. Tuy nhiên, nó đã đạt đến “điểm uốn” vào năm 2015/16 khi nhập khẩu vượt sản lượng lần đầu tiên kể từ những năm 1970. Sản lượng ngô bị sa sút và giảm dần do hoạt động sản xuất trong nước ngày càng kém khả năng cạnh tranh so với ngô nhập khẩu về cả giá thành và chất lượng, dẫn đến Việt Nam không khuyến khích mở rộng diện tích ngô. Cùng lúc, nguồn cung tại Argentina và Brazil trở nên dồi dào hơn và nhìn chung được giao dịch với giá thấp hơn ngô Mỹ, nên hai quốc gia này đã trở thành bạn hàng cung cấp phần lớn lượng ngô nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2013/14 đến nay. Bất chấp sự xuất hiện của dịch tả lợn châu Phi (ASF) năm 2019 tại Việt Nam, các doanh nghiệp vẫn không lo ngại khi tăng lượng nhập khẩu ngô về nước. Mặc dù năm 2021 số lượng ngô nhập về có giảm – mức giảm đầu tiên kể từ năm 2011/12 chủ yếu là do nguồn cung bị ảnh hưởng sương giá ở Brazil. Ngô Mỹ thường kém cạnh tranh hơn so với ngô Nam Mỹ do giá cả nhưng khi sản lượng ngô ở Argentina và Brazil bị ảnh hưởng tiêu cực bởi hạn hán trong niên vụ 2018/19, Việt Nam đã trở thành nhà nhập khẩu ngô lớn nhất của Mỹ. Cùng với ngô, các mặt hàng xuất khẩu phục vụ thức ăn chăn nuôi và thủy sản của Mỹ như bột ngũ cốc sấy khô, phụ phẩm lên men (DDGS) đã tăng trưởng mạnh trong thập kỷ qua. Việt Nam hiện là một trong những nhà nhập khẩu hàng đầu của mặt hàng này của Mỹ, nhất là việc sử dụng DDGS làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi có hàm lượng protein và năng lượng cao. Nhờ có cơ sở hạ tầng sản xuất ethanol tốt, Mỹ hiện là nước xuất khẩu mặt hàng DDGS lớn nhất thế giới và nhìn chung phải đối mặt với rất ít cạnh tranh. Xuất khẩu DDGS của Mỹ sang Việt Nam năm 2020 đạt gần 1,3 triệu tấn, trị giá hơn 275 triệu USD. Nhập khẩu tăng mạnh Dự báo, nhu cầu nhập khẩu ngô và phụ phẩm ngũ cốc làm thức ăn chăn nuôi của Việt Nam tiếp tục tăng cao, với mức gấp ba lần trong vòng 10 năm tới. Trong đó ngô chiếm phần lớn, còn lại là lúa mì và lúa mạch thể hiện qua xu hướng trong ngành sản xuất thịt. Cụ thể là mặc dù sản lượng thịt tổng thể ở Việt Nam giảm trong năm 2019 do tác động của ASF đối với sản xuất thịt lợn, nhưng sản lượng thịt gà và thịt bò đều tăng trưởng trong giai đoạn này. Đồ họa mô tả sản lượng ngô trong nước (xanh đậm) và lượng nhập khẩu ngô (xanh nhạt) của Việt Nam từ 2011 đến năm 2021 (đơn vị triệu tấn). Nguồn: USDA Theo USDA, hầu hết sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đều thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, trong đó khoảng 70% lượng cá nuôi và 80% lượng tôm nuôi của Việt Nam được sản xuất ở 13 tỉnh cực nam của đất nước. Số liệu thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam cho biết, xuất khẩu cá da trơn năm 2020 của Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD, giảm so với năm trước do tác động của COVID-19. Dữ liệu hải quan chính thức cho thấy, tổng kim ngạch xuất khẩu của tất cả các sản phẩm thủy sản của Việt Nam năm 2020 là 8,4 tỷ USD. Ngô và DDGS là hai trong số những thành phần phổ biến trong thức ăn chăn nuôi trên cạn. Các nghiên cứu, báo cáo về xu hướng thức ăn phục vụ nuôi trồng thủy sản ở châu Á chỉ ra rằng các thành phần thức ăn chính vẫn được sử dụng ở Việt Nam bao gồm bột đậu nành, cám gạo và bột cá. Tuy nhiên một thử nghiệm do Hội đồng Ngũ cốc Hoa Kỳ tài trợ cho thấy, DDGS cũng có thể dễ dàng được bổ sung vào khẩu phần ăn của cá da trơn tại Việt Nam, nhằm có thể thay thế cho các nguồn protein khác. Theo USDA, bên cạnh sự phục hồi của sản xuất thịt lợn và mở rộng sản xuất thịt bò và thịt gia cầm, ngành nuôi trồng thủy sản đang phát triển của Việt Nam sẽ mang lại cơ hội lớn hơn cho các nhà xuất khẩu ngô và DDGS làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Kim …
| Tin mới | admin | 08/10/2021 | | Tài liệu Hội nghị trực tuyến Phát triển chăn nuôi các tháng cuối năm 2021 và kế hoạch năm 2022 | Tài liệu Hội nghị trực tuyến Phát triển chăn nuôi các tháng cuối năm 2021 và kế hoạch năm …
| Uncategorized | admin | 07/10/2021 | | Chủ động phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi | Nghệ An sở hữu tổng đàn gia súc lớn nhưng đa phần là chăn nuôi nông hộ, do đó công tác quản lý an toàn phòng chống dịch bệnh phải được đặt lên hàng đầu. Trên địa bàn Nghệ An chăn nuôi nông hộ vẫn chiếm đa số, do đó công tác quản lý, phòng chống dịch bệnh phải được đặt lên hàng đầu. Ảnh: Anh Khôi. Quy mô càng lớn càng phải đề phòng Nghệ An có tổng đàn gia súc, gia cầm lớn với 788.000 con trâu bò, 926.000 con lợn và trên 26 triệu con gia cầm. Số lượng dù “nhiều nhưng không tinh” bởi hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ, nông hộ, phân tán chiếm đến 85%. Nhiều vùng chủ yếu chăn thả rông, chuồng trại không đảm bảo, khâu tiêm phòng chưa đạt đã gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý và ứng phó phòng chống dịch bệnh. Bên cạnh đó, dù trên địa bàn có hàng chục cơ sở giết mổ (bao gồm 19 cơ sở giết mổ tập trung đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm) nhưng nhìn chung chính quyền cơ sở vẫn thiếu sự chỉ đạo, quản lý, đôn đốc, kiểm tra. Phần đa vẫn duy trì hoạt động giết mổ nhỏ lẻ, thủ công, chính những điều này ẩn chứa rất nhiều nguy cơ lây lan dịch bệnh. Hai nữa, Nghệ An là tỉnh có địa bàn rộng, lại nằm trên trục chính của các tuyến giao thông Bắc – Nam, do đó việc kiểm soát, hạn chế lây lan dịch bệnh từ các phương tiện giao thông càng khó khăn gấp bội. Là tỉnh có địa bàn rộng, lại nằm trên trục chính của các tuyến giao thông Bắc – Nam, vì thế quá trình kiểm soát vận chuyển phòng chống dịch bệnh gia súc trên địa bàn gặp nhiều khó khăn. Ảnh: Việt Khánh. Theo ghi nhận của NNVN, thực hiện Nghị quyết số 22/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019 của HĐND tỉnh Nghệ An thì nhân viên thú y thuộc Ban NN-PTNT không nằm trong chức danh những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và không có chế độ phụ cấp. Trong thế “liệu cơm gắp mắm”, công tác chăn nuôi và thú y đành giao cho các chức danh như: công chức Địa chính – Nông nghiệp hoặc Hội Nông dân, Đoàn thanh niên… theo hình thức kiêm nhiệm, vì thế hoạt động kém hiệu quả. Xuất phát từ thực tiễn, lộ trình đến 2025 Nghệ An đặt mục tiêu duy trì ổn định đàn trâu khoảng 268.000 con, đàn bò thịt từ 445.000 – 450.000 con, đàn bò sữa đạt 90.000 con. Trên tinh thần đó sẽ từng bước cơ cấu lại phương thức chăn nuôi, dần chuyển dịch theo quy mô công nghiệp, trang trại. Mục tiêu của ngành thú y tỉnh là chủ động khống chế hiệu quả dịch bệnh truyền nhiễm trên đàn vật nuôi theo nguyên tắc “Thực hiện phòng bệnh là chính, chữa bệnh kịp thời, chống dịch khẩn trương; phát hiện nhanh, chính xác, xử lý triệt để”. Nguyên nhân nữa xuất phát từ nhân lực chuyên ngành còn mỏng, đặc biệt cán bộ thú y cấp xã, lực lượng này vừa thiếu, vừa yếu, chưa kể phụ cấp thấp nên không thể níu chân họ nên hiện đang lộ ra nhiều lỗ hổng. Cẩn trọng không thừa Dịch lở mồm long móng (LMLM) trên địa bàn tỉnh Nghệ An có xu hướng giảm dần. Năm 2017 xảy ra khá nhiều ổ dịch với 446 con gia súc mắc bệnh. Từ 2018-2020 dịch chủ yếu xảy ra trên đàn trâu bò nhưng quy mô nhỏ lẻ, trong diện hẹp. Trong 6 tháng đầu năm 2021 diễn biến chung được kiểm soát tốt với chỉ tổng cộng 5 ổ dịch thuộc 29 hộ của 4 huyện Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Diễn Châu và Tân Kỳ, số trâu, bò mắc bệnh chỉ 70 con. Qua theo dõi, phần đa các trường hợp bị bệnh là do không thực hiện tiêm phòng đầy đủ, không có đủ miễn dịch để chống chọi trước sự xâm nhập của virus. Ngoài ra, nhiều hộ chăn nuôi tự phát không bảo đảm vệ sinh thú y và vệ sinh môi trường, gia súc mua về không có nguồn gốc rõ ràng… cũng là nguyên nhân. Dịch lở mồm long móng được ngành chăn nuôi và thú y Nghệ An kiểm soát tốt trong những năm qua. Ảnh: Việt Khánh. Ông Đặng Văn Minh – Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Nghệ An khẳng định: “Để chủ động phòng, chống dịch bệnh LMLM trên gia súc, người chăn nuôi cần chú ý nắm bắt thông tin về diễn biến thời tiết chủ động phương án che chắn chuồng trại, tránh mưa rét, nhiễm lạnh. Tuyệt đối hạn chế để chuồng trại, vật nuôi bị ngấm, ứ đọng nước, đặc biệt là chuồng nuôi bê nghé”. Ngành chăn nuôi khuyến cáo, tiêm phòng vacxin LMLM là biện pháp tối ưu để nâng cao hệ thống miễn dịch, do đó người nuôi cần tuân thủ nghiêm túc cho đàn gia súc của mình. Đồng thời thực hiện tốt “5 không” trong phòng chống dịch: Không dấu dịch; Khi có dịch báo ngay cho thú y và chính quyền; Không bán chạy gia súc mắc bệnh; Không giết mổ gia súc mắc bệnh; Không vứt xác chết và chất thải gia súc ra môi trường. Cùng với đó, cần tăng cường cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho đàn vật nuôi nhằm nâng cao sức để kháng, qua đó chống lại mầm bệnh xâm nhập. Khi phát hiện có những triệu chứng bất thường (bỏ ăn, không nhai lại, nước dãi nhiều và trắng như bọt xà phòng, vành móng có vết loét, đi lại khó khăn) phải báo ngay cho cán bộ thú y cơ sở đến để có biện pháp can thiệp kịp thời. Dựa theo tình hình thực tại, dễ thấy công tác quản lý và ứng phó dịch bệnh trên vật nuôi nói chung đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Trông chờ đơn thuần vào quá trình xoay xở của lực lượng chức năng chỉ là phương án trước mắt, lâu dài nhất thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ từ chính quyền các cấp. Việt …
| Tin mới | admin | 14/09/2021 | | THÔNG BÁO triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi theo Quyết định số 3639/QĐ-BNN-TC ngày 26/8/2021 về việc phê duyệt kế hoạch nhập khẩu giống gốc vật nuôi năm 2021 (đợt 3) | Cục chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao đầu mối triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi theo Quyết định số 3639/QĐ-BNN-TC ngày 26/8/2021 về việc phê duyệt kế hoạch nhập khẩu giống gốc vật nuôi năm 2021 (đợt 3) cụ thể như sau: Giống nhập ĐVT Số lượng Vịt Star53 Heavy ông bà con 1.105 – Trống con 215 – Mái con 890 Xin mời các cơ sở chăn nuôi (khu vực phía Bắc, đã và đang nuôi giữ giống gốc và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi) có đủ điều kiện năng lực về con người, cơ sở vật chất đáp ứng Quyết định số 2317/QĐ-BNN-CN ngày 07/6/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc phê duyệt tiêu chí đối với cơ sở nuôi giữ giống gốc, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi và giống gốc thủy sản, đăng ký tham gia bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu gửi về Cục Chăn nuôi – Bộ nông nghiệp và PTNT, số 16, Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội từ 16 giờ ngày 27/8 đến hết 16 giờ ngày 31/8/2021. (Liên hệ chi tiết với bà Trần Thị Ngọc Lan (ĐT: 0961186668, E.mail: ), Phòng giống vật nuôi – Cục Chăn nuôi. Hà Nội, Ngày 27 tháng 8 năm 2021 CỤC CHĂN …
| Thông báo | admin | 27/08/2021 | | Thông báo về việc phê duyệt kế hoạch lưu giữ, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi năm 2021 (đợt 2) | THÔNG BÁO Cục chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao đầu mối triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi theo Quyết định số 3490/QĐ-BNN-TC ngày 9/8/2021 về việc phê duyệt kế hoạch lưu giữ, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi năm 2021 (đợt 2) gồm chủng loại và số lượng cụ thể như sau: Nuôi giữ. TT Loại giống gốc ĐVT Số lượng Khu vực nuôi giữ đàn giống gốc 1 Lợn Yorkshire, Landrace nái GG phối hợp với lợn đực kiểm tra năng suất. con 300 Miền Bắc 2 Lợn đực kiểm tra năng suất con 50 Miền Bắc 3 Gà Lương Phượng mái thuần SS con 1.000 Miền Bắc 6 Gà Móng mái thuần SS con 1.500 Toàn Quốc 7 Gà Tiên Yên mái dòng thuần SS con 1.700 Toàn Quốc 8 Tằm thầu dầu lá sắn thuần ổ 5.500 Toàn Quốc 9 Lợn Móng cái – CD nái thuần sinh sản con 100 Toàn Quốc Xin mời các cơ sở chăn nuôi có đủ điều kiện năng lực về con người, cơ sở vật chất và đàn giống gốc vật nuôi đáp ứng Quyết định số 2317/QĐ-BNN-CN ngày 07/6/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc phê duyệt tiêu chí đối với cơ sở nuôi giữ giống gốc, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi và giống gốc thủy sản, Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN ngày 4/4/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTNT đăng ký tham gia thực hiện việc nuôi giữ đàn giống gốc và cung ứng sản phẩm giống gốc từ 1/1 đến 31/12/2021. Đăng ký tham gia bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu gửi về Cục Chăn nuôi – Bộ nông nghiệp và PTNT, số 16, Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội từ 16 giờ ngày 9/8 đến hết 16 giờ ngày 13/8/2021. (Liên hệ chi tiết với bà Trần Thị Ngọc Lan (ĐT: 0961186668, E.mail: ), Phòng giống vật nuôi – Cục Chăn nuôi. Hà Nội, Ngày 09 tháng 8 năm 2021 CỤC CHĂN …
| Thông báo | admin | 09/08/2021 | | Tuyệt đối không để đứt gãy các chuỗi cung ứng nông sản | Các địa phương cần chủ động rà soát kế hoạch sản xuất và cụ thể hóa danh mục vật tư nông nghiệp trong điều kiện dịch Covid-19. Thực hiện Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 20/7/2021 của Chính phủ về phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và bảo đảm lương thực, thực phẩm cho nhân dân tại các địa phương thực hiện giãn cách xã hội, Bộ NN-PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan, ban ngành trực thuộc chủ động rà soát kế hoạch sản xuất và cụ thể hóa danh mục vật tư nông nghiệp trong điều kiện dịch Covid-19. Cụ thể, các đơn vị cần rà soát tình hình, kế hoạch sản xuất các loại nông sản trên địa bàn; có phương án cụ thể, phù hợp đối với các loại cây trồng, vật nuôi, thủy sản bảo đảm thúc đẩy sản xuất. Đối với các loại nông sản vào vụ thu hoạch cần thiết huy động các lực lượng tham gia thu hoạch, vận chuyển, tiêu thụ, tuyệt đối không để đứt gãy các chuỗi cung ứng nông sản, hàng hoá nhằm bảo đảm ổn định nguồn cung lương thực, thực phẩm cho người dân nhất là tại các địa phương thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ và phục vụ xuất khẩu. Cùng với đó cần thường xuyên rà soát, cập nhật Danh mục các mặt hàng vật tư nông nghiệp (gồm: nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, trang thiết bị, thuốc, vacxin thú y…) phục vụ sản xuất chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, lâm nghiệp và chế biến nông sản, phòng, chống dịch bệnh động vật, kiểm dịch động thực vật, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm. Đồng thời cần linh hoạt để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người và phương tiện vận chuyển các loại vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến nông sản. Song song tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm của các cơ sở có chuỗi sản xuất khép kín, đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu như Masan, Japfa, CP,… bảo đảm nguồn cung ứng kịp thời các mặt hàng thực phẩm thiết yếu. Phạm …
| Tin mới | admin | 23/07/2021 | | Công văn số 4150/BNN-CN ngày 20 tháng 7 năm 2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc tháo gỡ khó khăn trong vận chuyển vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến nông sản | Kính gửi: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận được phản ánh của nhiều doanh nghiệp chăn nuôi, thủy sản, trồng trọt và lâm nghiệp về việc gặp khó khăn khi lưu thông, vận chuyển vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến nông sản,… tại một số địa phương đang có dịch Covid-19. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 789/CĐ-TTg ngày 05 tháng 6 năm 2021 về áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid-19 và phát triển kinh tế để thực hiện mục tiêu kép, đồng thời góp phần thúc đẩy sản xuất đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nông sản; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan, ban ngành trực thuộc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người và phương tiện vận chuyển các loại vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến nông sản được lưu thông trên địa bàn của tỉnh và liên tỉnh khi đã tuân thủ các quy định về phòng, chống dịch Covid-19 của Bộ Y tế. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trân trọng đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố quan tâm chỉ đạo các đơn vị chức năng thực hiện các nội dung nêu …
| Tin mới | admin | 21/07/2021 | | Tổ công tác đặc biệt của Bộ NN-PTNT bắt tay ngay vào việc | Chiều 19/7, Bộ NN-PTNT tổ chức hội nghị trực tuyến tại đầu cầu hai miền, nhằm thúc đẩy sản xuất, cung ứng nông sản trong điều kiện dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Lâm Đồng đủ khả năng cung ứng 6.000-7.000 tấn rau/ngày Theo ông Nguyễn Văn Sơn, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Lâm Đồng, Sở đã liên hệ với TP.HCM để hỗ trợ nông sản cho các vùng cách ly. “Hiện nay, khả năng cung ứng mỗi ngày của Lâm Đồng cho thành phố khoảng từ 6.000-7.000 tấn rau”, ông Sơn cho biết. Cũng theo ông Sơn, hiện giá rau đang tăng cao chứ không có chuyện rẻ và dư thừa như một số thông tin đã đưa trước đó. Hiệp hội bán lẻ hiến kế các chung cư nên mở thêm điểm bán hàng Theo đại diện Hiệp hội bán lẻ, để thực hiện quy định “3 tại chỗ”, các sản phẩm đóng gói chế biến bị giảm nguồn cung tới 50% (do một số nhà máy phải đóng cửa). Phía Hiệp hội mong muốn chính quyền địa phương khi áp dụng giãn cách nên bám sát tình hình thực tiễn để chỉ đạo, không để hàng hóa ùn ở nơi sản xuất và thiếu ở nơi bán hàng. Hiệp hội đưa ra đề xuất các khu chung cư nên mở thêm nhiều điểm bán hàng để phục vụ kịp thời nhu cầu cho nhân dân. Cần có hướng dẫn cụ thể trong tất cả các khâu cung ứng nông sản Từ khi thực hiện Chỉ thị 16, các doanh nghiệp thu mua rau quả chưa được hướng dẫn cụ thể. Tại các nhà máy sơ chế, công nhân rất lo ngại do chưa có hướng dẫn lao động trong điều kiện dịch bệnh. Thêm vào đó, các vùng bị phong tỏa dẫn đến thương lái không thể vào thu mua, tiêu thụ, làm thị trường bị thiếu hụt. Đại diện Hiệp hội Rau quả Việt Nam kiến nghị có biện pháp, hướng dẫn cụ thể trong tất cả các khâu như thu hoạch, nhà máy sơ chế, vận chuyển tiêu thụ. Đồng quan điểm, Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh các doanh nghiệp cần phối hợp với các Sở NN-PTNT để hình thành chuỗi an toàn cung ứng rau củ quả. Cần Thơ kiến nghị duy trì chợ truyền thống Khó khăn của Cần Thơ chủ yếu là vận chuyển hàng hóa. Lý do là xe vận chuyển phải đi qua nhiều trạm kiểm soát dịch. Ngoài ra, việc chăn nuôi từ con giống, thức ăn chăn nuôi cũng khó. Đầu cầu Cần Thơ cho biết, tỉnh kiến nghị các tỉnh, địa phương duy trì chợ truyền thống để giúp bà con nông dân tiêu thụ được nông sản. Thứ hai, giá phân bón đang tăng quá cao, nên tỉnh khó phối hợp với Cơ quan Trung ương kiểm soát dc giá thực phẩm, duy trì sản xuất ổn định. Thứ ba, “mô hình vận chuyển hàng hóa, con giống đi các tỉnh cần cơ chế ưu tiên”, phía đầu cầu Cần Thơ góp ý. Lý do là hiện tại một số con giống chưa thu hoạch được, cần có quy trình chung cho các tỉnh nuôi thủy sản, giúp thông thương cho các tỉnh. “Chẳng hạn, đi từ miền Trung đến ĐBSCL phải mất quá nhiều thủ tục, chưa có một cơ chế ưu tiên, luồng xanh cho nông sản”, phía đầu cầu Cần Thơ nêu dẫn chứng. Đồng Tháp mong muốn Bộ NN-PTNT đứng ra tạo chuỗi thu mua – tiêu thụ khép kín Đầu cầu Đồng Tháp cho biết tỉnh cố gắng kết nối các doanh nghiệp để tạo luồng đi cho nông sản. Ngoài ra, phối hợp với Cục Chế biến để tìm đầu ra cho quả nhãn. “Đề nghị Bộ đứng ra, tạo một chuỗi thu mua, tiêu thụ khép kín cho các địa phương, giúp tiêu thụ nhanh hơn”, phía Đồng Tháp cho biết. “Hiện tỉnh đang học tập kinh nghiệm của Bắc Giang trong việc thu hoạch, bao tiêu đầu ra quả vải”. Trà Vinh dồi dào hàng hóa Theo đại diện Sở NN-PTNT tỉnh Trà Vinh, hiện tỉnh chưa có sản phẩm nào bị ứ đọng hay chưa tiêu thụ được. Vị đại diện cho biết TP.HCM nói thiếu nhưng tỉnh lại đang dồi dào hàng hóa. Cụ thể, lúa gạo đảm bảo 70% nhu cầu tiêu thụ ngoài tỉnh, chăn nuôi đảm bảo 50% nhu cầu tiêu thụ ngoài tỉnh, thủy sản đảm bảo 60-65%. Tuy nhiên, cũng theo đại diện Sở NN-PTNT Trà Vinh, trong thời gian TP.HCM giãn cách, việc tiêu thụ nông sản tắc nghẽn là do các lái xe không dám thực hiện vận chuyển do sợ dịch bệnh. “Mong TP.HCM cho các tỉnh biết quy trình đưa xe nông sản tiêu thụ vào thành phố. Thêm vào đó, kiến nghị TP.HCM có kênh kết nối cung cầu tiêu thụ”, vị đại diện phát biểu. TP.HCM đã rà soát nhu cầu của người dân Giám đốc Sở Công Thương TP.HCM Bùi Tá Hoàng Vũ khẳng định đã rà soát nhu cầu của người dân thành phố. Theo đó, rau dự kiến thiếu khoảng 1.500 tấn, nhưng trứng chỉ thiếu khoảng 300.000-400.000 quả. Số liệu trên được thống kê thông qua 9 đầu mối kết nối. Ngoài ra, “những xe từ miền Đông vào thành phố vẫn thuận lợi và được tạo điều kiện tối đa”, ông Vũ cho biết thêm. Tây Ninh cung cấp 20.000 tấn rau, 40.000 tấn lúa cho TP.HCM “Số nông sản nói trên sẽ được tỉnh Tây Ninh cung cấp cho TP.HCM trong thời gian 14 ngày tới”, đại diện Sở NN-PTNT tỉnh Tây Ninh cho biết. Tuy nhiên, tỉnh đang gặp khó khăn trong việc lưu thông hàng hóa. Về lâu dài sẽ có ách tắc sản xuất do các nhà máy đóng cửa. Dự báo hàng hóa sẽ bị thiếu. Tỉnh đã động viên bà con tiếp tục sản xuất. Về vấn đề này, Thứ trưởng Trần Thanh Nam khẳng định sẽ làm việc với Bộ Công Thương để cấp luồng xanh, tạo điều kiện cho việc vận chuyển nông sản. TP.HCM cố gắng trung chuyển hàng hóa không cần thông qua chợ đầu mối Để làm được điều này, thành phố dự kiến kết nối với các HTX tại các tỉnh thành để trung chuyển hàng hóa nhanh chóng. Bên cạnh đó, thành phố cũng cố gắng mở lại các chợ đầu mối, chợ truyền thống. Ông Trần Lâm Sinh, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Nai, cho biết, từ nay đến cuối năm, Đồng Nai sẽ làm việc với TP.HCM để khi các chợ đầu mối mở lại sẽ thông tin chi tiết chính xác cho tiểu thương. Tỉnh Đồng Nai cũng tích cực điều phối thông tin nông sản thừa thiếu, chú trọng việc phòng ,chống dịch trong các cơ sở giết mổ. Về phía TP.HCM, theo ông Đinh Minh Hiệp, Giám đốc Sở NN-PTNT TP.HCM, sở đã đề xuất việc đặt hàng online thông qua Bưu điện Thành phố. “Hiện nay, thành phố ưu tiên tiêm vacxin cho hơn 300 nhân viên cơ sở giết mổ trên địa bàn, do đó có thể đảm bảo nhu cầu về thịt”, ông Hiệp cho biết. Tuy nhiên, nhu cầu của người dân TP.HCM vẫn thiếu khoảng 3 triệu trứng gà, hơn 2.000 tấn rau củ. Phân bón tăng giá dẫn đến giá rau củ quả sẽ tăng 10%. Thức ăn chăn nuôi cũng tăng nên giá thịt gia súc sẽ tăng nhẹ. 5 việc cần làm ngay của các tỉnh thành phía Nam Phát biểu tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam nhấn mạnh 5 việc cần làm ngay của các tỉnh thành phía Nam để đảm bảo chuỗi cung ứng nông sản. Một là, cần theo dõi dự báo tình hình nguồn cung từ nay đến cuối năm. Các tỉnh có 2 nhiệm vụ để cung ứng sản xuất: Thứ nhất phải đảm bảo cung ứng cho địa bàn, thứ hai là tiếp tục hỗ trợ cho TP.HCM. Hai là, các tỉnh cần báo cáo tổ công tác tình hình cơ sở sản xuất giết mổ. Nếu 1 cơ sở chế biến giết mổ có nhân viên dính Covid-19 sẽ làm đứt gãy cả chuỗi cung ứng. Các tỉnh cần rà soát lại, đặc biệt là TP.HCM. Ba là, Bộ NN-PTNT và Bộ Công Thương đã tạo điều kiện tối đa để cung ứng nông sản, vậy thì các tỉnh không những phải cung ứng sản phẩm tiêu thụ mà còn cần tập trung vào vật tư để sản xuất. Bốn là, các tỉnh nên phối hợp với Bộ Công Thương để củng cố tình hình phát triển chuỗi cung ứng nông sản. Nên hình thành chuỗi thể hiện vai trò của Nhà nước. Năm là, nguồn nhân lực phục vụ sản xuất và lưu thông đang thiếu hụt, cần phải tháo gỡ sớm. Theo Bộ NN-PTNT, tại TP.HCM, giá lương thực, thực phẩm trong tháng 6 và nửa đầu tháng 7/2021 đều tăng so với các tháng trước đó. Cụ thể, giá lương thực tăng 0,46%; giá thực phẩm tăng 0,37% so tháng trước, trong đó rau củ quả tăng mạnh do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên việc vận chuyển hàng hóa khó khăn, nguồn rau về chợ giảm (bắp cải tăng 18,53%, su hào tăng 5,28%, đậu cô ve tăng 22,78%, rau muống tăng 5,38%, rau tươi khác tăng 5,63%). Trong khi đó, giá thịt các loại có xu hướng giảm (thịt heo giảm 1,92%; thịt bò giảm 0,75%), giá các loại trứng tăng 2,36%-3,41%, giá nhiều mặt hàng thủy hải sản đa số tăng 6%-20% vì lượng thủy hải sản tươi về chợ bình quân giảm 10% so tháng trước. Nhu cầu tiêu dùng của người dân trên địa bàn TP.HCM ước tính khoảng 10 triệu người. Cụ thể: Các doanh nghiệp bình ổn thị trường: chiếm 30% – 40% thị phần. Thương nhân các chợ đầu mối (mặt hàng rau, củ, quả, thủy hải sản, thịt gia súc) chiếm 60% -70% thị phần. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác chiếm 10% – 20% thị phần. Để thực hiện công tác phòng, chống dịch, trong trường hợp cần điều chuyển hàng hóa bằng các kênh giao dịch phù hợp, để đảm bảo hàng hóa lưu thông thông suốt đến với người tiêu dùng trên địa bàn, Bộ NN-PTNT khuyến cáo chuyển dịch năng lực cung ứng. Cụ thể: Các chợ đầu mối (mặt hàng rau, củ, quả, thủy hải sản, thịt gia súc) chiếm 25%-30% thị phần. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác chiếm 20% – 30% thị phần. Các doanh nghiệp bình ổn thị trường đẩy mạnh sản xuất, tăng cường dự trữ, đảm bảo cung ứng hàng hóa tăng 50%. Về các chuỗi cung ứng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn TP. HCM, hiện có 2.833 tổng điểm cung ứng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn. Trong số này: 106 Các siêu thị, 2.616 Hệ thống cửa hàng tiện lợi, và 111 Hệ thống các Chợ truyền thống. Nhìn chung, người dân tập trung mua lương thực, thực phẩm từ hệ thống siêu thị và các cửa hàng tiện lợi. Do phải đáp ứng điều kiện giãn cách, cấm tụ tập đông người nên người dân vẫn phải xếp hàng lâu mới mua được hàng hóa thiết yếu. Việc thu mua nông sản của các thương lái, hiện hoạt động chậm lại, thậm chí đóng cửa do dịch bệnh. Giá nhiều nông sản giảm mạnh khi các đợt dịch bùng phát trùng với thời điểm vào vụ thu hoạch rộ. Vấn đề đáng lưu tâm nhất là lưu thông hàng hóa. Các xe vận chuyển tiêu thụ nông sản khi lưu thông trên các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ phải tuân thủ kiểm dịch, kiểm tra nhiều tại các chốt nên tăng chi phí vận chuyển. Việc lưu thông, vận chuyển hàng hóa khó khăn do nhiều tỉnh, thành phố yêu cầu lái xe khi đi ra từ vùng dịch phải thực hiện cách ly nên đã khiến các thương lái tại các tỉnh lo ngại khi vào địa bàn tỉnh để thu mua nông sản. Container vận chuyển khan hiếm, giá thành vận chuyển cao do nhiều lái xe lo ngại việc phải thực hiện cách ly thời gian dài sau khi từ vùng có dịch trở về. Nhóm …
| Tin mới | admin | 19/07/2021 | | Tài liệu Hội nghị tổng kết thực hiện Chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2015-2020 | …
| Thông báo | admin | 09/06/2021 | | Anh: Thu nhập trang trại giảm 20% trong một năm do thời tiết, Covid-19 và Brexit | Khó khăn gia tăng đối với các nông dân nhỏ khi gần một tỷ bảng Anh đã biến mất khỏi nền kinh tế nông nghiệp của Vương quốc Anh vào năm 2020. Tổng thu nhập từ nông nghiệp, được chính phủ Anh tính toán hàng năm, đã giảm từ gần 5,2 tỷ bảng vào năm 2019 xuống chỉ còn hơn 4,1 tỷ bảng vào năm 2020. Ảnh: Alamy. Thu nhập từ nông trại đã giảm đáng kể vào năm 2020, do thời tiết xấu kết hợp với tác động của đại dịch Covid-19 và các vấn đề liên quan đến Brexit đã quét sạch gần một tỷ bảng Anh khỏi nền kinh tế nông nghiệp của Vương quốc Anh và gia tăng khó khăn cho nhiều nông dân nhỏ. Tổng thu nhập từ nông nghiệp, được chính phủ Anh tính toán hàng năm, đã giảm từ gần 5,2 tỷ bảng vào năm 2019 xuống chỉ còn hơn 4,1 tỷ bảng vào năm 2020, giá trị thấp nhất tính theo giá trị thực kể từ năm 2007. Vụ phong tỏa do đại dịch Covid-19 vào mùa xuân năm 2020 khiến nhiều nông dân quay cuồng khi thị trường chính của họ trong cung cấp hàng hóa cho dịch vụ ăn uống đã biến mất chỉ sau một đêm. Nông dân đã phải đổ sữa tươi xuống cống khi họ phải vật lộn để tập trung vào việc cung cấp cho các siêu thị. Thời tiết khắc nghiệt cũng gây ra một thiệt hại lớn, với mưa lớn và bão đầu năm 2020 đã ngăn cản việc trồng trọt trước một trong những mùa xuân khô hạn nhất được ghi nhận. Vụ thu hoạch lúa mì giảm mạnh và các cây trồng chủ lực khác như khoai tây bị ảnh hưởng. Nhìn chung, giá trị sản lượng cây trồng đã giảm 999 triệu bảng, mặc dù giá trị vật nuôi tăng khoảng 490 triệu bảng trong năm. Tom Bradshaw, Phó Chủ tịch của Hiệp hội Nông dân Quốc gia, cho biết: “Biến động là thứ mà nông dân phải quen để thích nghi nhưng nó không làm cho việc ứng phó dễ dàng hơn, đặc biệt là khi tiếp tục có quá nhiều sự không chắc chắn về những thay đổi trong tương lai đối với chính sách nông nghiệp và sự thiếu rõ ràng đối với các chương trình [trợ cấp] mới”. Nông dân đang phải đối mặt với việc cắt giảm nghiêm ngặt các khoản trợ cấp của họ, vì họ không còn nhận được các khoản thanh toán theo chính sách nông nghiệp chung của EU và chính phủ đang dần áp dụng một hệ thống quản lý đất theo môi trường mới, theo đó nông dân sẽ được trả tiền để cung cấp “hàng hóa công cộng” như trồng cây, cải tạo đất, bảo vệ động vật hoang dã và các biện pháp phòng chống lũ lụt. Tuy nhiên, chi tiết về cách thức hoạt động của hệ thống mới vẫn chưa rõ ràng và nhiều nông dân đang phải đối mặt với sự bất ổn gia tăng do tác động của Brexit và các thỏa thuận thương mại mới. Một thỏa thuận thương mại sắp đạt được với Úc có khả năng mở cửa thị trường thịt của Vương quốc Anh cho một dòng thịt bò Úc giá rẻ, một số được sản xuất bằng các phương pháp có thể là bất hợp pháp ở Vương quốc Anh. Tuần trước, chính phủ Anh đã công bố khoản thanh toán mới lên tới 100.000 bảng cho những nông dân nghỉ hưu, với một số ưu đãi cho những người mới tiếp quản. Nhưng nhiều người lo ngại rằng các khoản thanh toán sẽ thúc đẩy sự hợp nhất hơn nữa trong ngành nông nghiệp ở Anh, ép các nông dân nhỏ lẻ ủng hộ các doanh nghiệp nông nghiệp thâm canh lớn và các trang trại nhà máy. Tim Farron, người phát ngôn của Đảng Dân chủ Tự do về môi trường, lương thực và các vấn đề nông thôn, cho biết: “Đảng Bảo thủ đang đưa những người nông dân Anh và môi trường của chúng ta tới thất bại. Họ đang cắt giảm các khoản thanh toán hỗ trợ, đưa ra các giao dịch thương mại mà không có đủ đảm bảo và họ khuyến khích những người nông dân có kinh nghiệm rời đi mà không đảm bảo sẽ có người thay thế họ. “Thu nhập giảm mạnh này là do Đảng Bảo thủ quản lý kém. Đảng Bảo thủ phải thay đổi cách giải quyết ngay bây giờ trước khi chúng ta thấy thu nhập giảm hơn nữa và nông dân phải bỏ sản xuất”, Tim nhấn mạnh. Số lượng trang trại gia đình nhỏ ở Anh đã giảm hơn 100.000 trang trại kể từ năm 1990 và nhiều nông dân nhỏ được tờ Guardian liên hệ cho thấy mối lo ngại về một cuộc di cư lớn hơn khi các thỏa thuận thương mại mới hậu Brexit được ký kết. Thái tử Charles đã viết trên tờ Guardian trong tuần vừa rồi rằng những người nông dân nhỏ là điều cần thiết cho một nền nông nghiệp tương lai bền vững sẽ giúp giảm khí nhà kính và nuôi dưỡng nông thôn. Ông kêu gọi các hộ nông dân nhỏ ở Anh và trên thế giới đoàn kết trong các hợp tác xã để tăng sức ảnh hưởng của họ và thúc đẩy các phương pháp canh tác thân thiện với môi trường. Hương Lan (Theo The …
| Tin mới | admin | 01/06/2021 | | Tạm ngừng nhập khẩu lợn thịt từ Thái Lan | Trong quá trình thực hiện kiểm dịch nhập khẩu lô lợn sống 980 con nhập khẩu từ Thái Lan vào Việt Nam để giết mổ làm thực phẩm, cơ quan kiểm dịch đã phát hiện lô lợn bị nhiễm bệnh dịch tả lợn châu Phi… Ngày 28/5/2021, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến ký Công văn số 3157/BNN-TY gửi Đại sứ quán Thái Lan tại Hà Nội, thông báo về việc: Tạm ngừng nhập khẩu lợn sống để giết mổ làm thực phẩm từ Thái Lan vào Việt Nam. Công văn dẫn thông báo của cơ quan kiểm dịch thuộc Cục Thú y Việt Nam, ngày 19/5/2021, trong quá trình thực hiện kiểm dịch nhập khẩu lô lợn sống 980 con nhập khẩu từ Thái Lan vào Việt Nam để giết mổ làm thực phẩm, cơ quan kiểm dịch đã phát hiện lô lợn bị nhiễm bệnh Dịch tả lợn châu Phi. Vì vậy, “Để ngăn ngừa bệnh Dịch tả lợn châu Phi xâm nhập vào Việt Nam làm lây lan dịch bệnh cho đàn lợn nuôi trong nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trân trọng thông báo tới Đại sứ quán Thái Lan tại Hà Nội về việc Việt Nam tạm ngừng nhập khẩu lợn sống để giết mổ làm thực phẩm từ Thái Lan kể từ ngày 30/6/2021. “Đối với những lô lợn sống đã được doanh nghiệp hai nước ký hợp đồng mua bán và sẽ vận chuyển về Việt Nam đến hết ngày 29/6/2021, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vẫn tiếp tục cho phép nhập khẩu vào Việt Nam và sẽ chỉ đạo cơ quan thú y tổ chức kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm an toàn dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm”, Công văn nêu rõ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao Cục Thú y phối hợp với Cơ quan có thẩm quyền của Thái Lan đánh giá tình hình dịch bệnh trên đàn lợn nuôi để giết mổ làm thực phẩm của Thái Lan, xem xét cho phép nhập khẩu trở lại khi các điều kiện về an toàn dịch bệnh được bảo đảm. Trước đó, năm 2020, do nguồn cung trong nước thiếu hụt trầm trọng khiến giá thịt lợn tại Việt Nam tăng quá cao, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng đã ký văn bản cho phép lợn sống từ Thái Lan được nhập khẩu vào Việt Nam để giết mổ làm thực phẩm hoặc được nuôi bắt đầu từ ngày 12/6/2020. Văn bản này nêu rõ, khi ngành chăn nuôi trong nước đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu tiêu dùng thịt lợn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ dừng nhập khẩu và quyết định này được thông báo cho các doanh nghiệp trước 1 tháng. Theo Cục Thú y, năm 2020, Việt Nam nhập khẩu gần 226 nghìn tấn thịt lợn các loại, tăng 260% so với năm 2019. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Nga, Ba Lan, Brazil, Canada, Mỹ, Đức, Tây Ban Nha. Riêng về nhập khẩu lợn sống từ Thái Lan, thống kê của Cục Thú y cho thấy, từ giữa tháng 6/2020 đến ngày 13/1/2021 đã có hơn 503 nghìn con lợn được nhập về Việt Nam để giết mổ làm thực phẩm. Trong quý I/2021, Việt Nam nhập khẩu 34,65 nghìn tấn thịt lợn (mã HS 0203), trị giá 80,07 triệu USD, tăng 101,4% về lượng và tăng 102,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Nga, Canada, Brazil, Ba Lan và Đan Mạch là 5 thị trường lớn nhất cung cấp thịt lợn cho Việt Nam. Từ đầu năm đến nay, lợn sống vẫn tiếp tục được nhập từ Thái Lan về, với sống lượng ước tính mỗi tháng khoảng 30 nghìn đến 50 nghìn …
| Tin mới | admin | 31/05/2021 | | Công văn Số: 82 /SPS-BNNVN ngày 27 tháng 5 năm 2021 V/v Thông báo của Thái Lan tạm dừng nhập khẩu gia cầm sống và thịt gia cầm từ Việt Nam | Ngày 25/5/2021, Thái Lan ra thông báo các biện pháp khẩn cấp số G/SPS/N/THA/394 tới Việt Nam về việc Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan ra lệnh tạm dừng nhập khẩu gia cầm sống và thịt gia cầm từ Việt Nam để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Cúm gia cầm độc lực cao (Serotype H5N6 và H5N1) (Thông báo kèm theo). Nội dung chính như sau: -Theo công báo Chính phủ Thái Lan, từ ngày 15/12/2020, Thái Lan đã tạm ngừng nhập khẩu gia cầm sống và thịt gia cầm từ Việt Nam (hiệu lực đến ngày 15/3/2021). Tuy nhiên, Tổ chức Thú y thế giới (OIE) nhận định tại Việt Nam tiếp tục bùng phát dịch cúm gia cầm độc lực cao (HPAI). Do đó, Thái Lan cần ngăn chặn sự xâm nhập của bệnh HPAI vào nước này. Theo Đạo luật dịch tễ động vật B.E. 2558 (2015), việc nhập khẩu gia cầm sống và thịt gia cầm từ Việt Nam bị tạm dừng trong thời hạn 90 ngày sau khi đăng trên công báo Hoàng gia Thái Lan (ngày 21/4/2021). Văn phòng SPS Việt Nam đề nghị Quý Cơ quan: 1.Xem xét các thông tin liên quan trong thông báo đểcó giải pháp thích ứng. 2.Thông báo cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang Thái Lan thuộc phạm vi điều chỉnh của biện pháp này. Văn phòng SPS Việt Nam thông báo để Quý cơ quan biết, phối hợp thực …
| Tin mới | admin | 27/05/2021 | | Hồ sơ thiết kế mẫu thiết bị khí sinh học kiểu KT1 và KT2 (Dùng cho các tỉnh phía Nam) | …
| Môi trường chăn nuôi | admin | 25/05/2021 | | Hồ sơ thiết kế mẫu thiết bị khí sinh học kiểu KT1 và KT2 (Dùng cho các tỉnh phía Bắc gồm cả tỉnh Thừa Thiên Huế | …
| Môi trường chăn nuôi | admin | 25/05/2021 | | Giá ngô tương lai vượt ngưỡng 7 USD/giạ do lo ngại về thời tiết ở Brazil | ‘Giá ngô kỳ hạn tăng trên 7 USD/giạ lần đầu tiên trong hơn 8 năm qua. Lý do là Brazil thiếu mưa dẫn đến lo ngại về nguồn cung bị thu hẹp’, Bloomberg đưa tin. “Giá ngô giao dịch tương lai tăng thêm 3,6% lên 7,04 USD/giạ trên Sàn giao dịch Chicago, mức cao nhất kể từ tháng 3/2013. Giá ngô kỳ hạn giao tháng 7 tăng vọt, và chốt cuối ngày với mức tăng 2,5% lên 6,9675 USD/giạ. Đậu nành và lúa mì cũng tăng giá”, Bloomberg cho biết. Bài báo của Bloomberg giải thích: “Hôm 4/5, nhà kinh doanh cây trồng lớn Bunge Ltd. đưa ra dự đoán nhu cầu cây trồng trở nên mạnh mẽ khi thế giới đối mặt với đại dịch, động thái Trung Quốc tăng mua từ nguồn cung của Mỹ và ngành công nghiệp diesel mở rộng”. Bài báo cho biết thêm, “Khô hạn đang cản trở vụ ngô chủ chốt thứ hai của Brazil và một số khu vực trồng trọt chính của nước này sẽ tiếp tục không có mưa trong tuần tới, theo Somar – cơ quan dự báo thời tiết của Brazil. Điều đó có thể làm ảnh hưởng đến sản lượng hơn nữa, và các nhà phân tích bao gồm Safras và StoneX Brazil đã cắt giảm ước tính cho vụ thu hoạch tới. Tình trạng thiếu hụt sản lượng sẽ khiến nguồn cung ngũ cốc toàn cầu bị kéo dài và có nguy cơ gây ra lạm phát lương thực hơn nữa”. Trước đó, cũng trong tuần này, Bloomberg còn có một bài báo khác viết: “Có những dấu hiệu về điều kiện tốt hơn ở các nước cung cấp lớn khác, điều này có thể giúp hạ nhiệt thị trường [ngô]. Nông dân Hoa Kỳ đang trồng ngô với tốc độ nhanh nhất trong nhiều năm, nhờ thời tiết nắng ấm. Dữ liệu mới nhất của chính phủ cho thấy việc gieo hạt sắp hoàn thành một nửa. Công ty tư vấn SovEcon ước tính những dấu hiệu ban đầu cũng cho thấy một vụ mùa lớn kỷ lục ở Ukraine”. Điều kiện tốt của Hoa Kỳ – cùng với giá cao – đã làm gia tăng suy đoán trên thị trường rằng nông dân tăng diện tích trông ngô hơn nhiều so với dự đoán của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. “Cơ quan sẽ cập nhật dự báo của mình vào cuối tháng 6”, Bloomberg cho biết. Cùng quan điểm, ngày 5/5, Reuters đưa tin “Nông dân Mỹ đang đi trước kế hoạch gieo trồng ngô và đậu tương năm 2021 bắt đầu vào tháng 5, tháng gieo trồng bận rộn nhất. Dự báo thời tiết không chính xác không tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng liền mạch trong những tuần tới, nhưng giá hấp dẫn có thể khắc phục những điểm chưa hoàn hảo đó”. “Thị trường vẫn kỳ vọng sự gia tăng đáng kể diện tích trông ngô và/hoặc đậu tương trong cuộc khảo sát về diện tích tháng 6 sau khi các dự định trong tháng 3 không như dự đoán, mặc dù diện tích trồng ngô thường không được bổ sung vào những ngày mưa ẩm ướt. Tuy nhiên, các so sánh trước đó có thể bị lãng quên vì giá ngô kỳ hạn mới đã có một đợt tăng giá chưa từng có trong vài tháng qua, làm phức tạp thêm các kịch bản về diện tích có thể xảy ra cho cả cuộc khảo sát tháng 6 và kết quả báo cáo cuối cùng. Trong 40 năm qua, có 15 lần kết quả diện tích trồng ngô cuối cùng cao hơn dự định trồng báo cáo trong tháng Ba. Khối lượng mưa tháng 5 cao hơn mức trung bình chỉ ở hai trong số 15 trường hợp đó: năm 2004 và năm 2017. Diện tích đạt được năm 2017 ở mức tối thiểu, diện tích bổ sung của năm 2004 là một ngoại lệ lớn khi xem xét tới yếu tố thời tiết”, Reuters viết. (1 giạ ngô = 25,4 kg) Hương Lan (Theo Bloomberg, …
| Tin mới | admin | 10/05/2021 | | Trung Quốc có thể nhập 40 triệu tấn ngô trong năm nay | Các chuyên gia nhận định, lượng nhập khẩu ngô của Trung Quốc làm thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng lên và đạt mốc kỷ lục vì nhu cầu trong nước thiếu hụt nặng. Hãng Bloomberg cho biết, lượng ngô Trung Quốc nhập khẩu từ Mỹ có thể đạt mốc 40 triệu tấn trong niên vụ này, so với 11 triệu tấn của năm 2020. Ảnh: Daniel Acker Việc Trung Quốc tăng lượng nhập khẩu ngô Mỹ ngoài nguyên nhân khách quan là tình hình sản xuất ngô tại Ukraine gặp khó khăn, khiến giá ngô tăng mạnh thì còn có cả việc thực thi bản thỏa thuận thương mại giai đoạn một của cuộc thương chiến giữa hai cường quốc. Kể từ tháng 3 năm 2020, giá ngô tại Trung Quốc đã tăng vọt, đạt đỉnh 2.900 nhân dân tệ (442 USD)/tấn. Bước sang năm 2021, mặc dù giá ngô đã có lúc giảm xuống mức 2.700 nhân dân tệ/tấn từ tháng 3 đến đầu tháng 4, nhưng sau đó đã tăng trở lại thêm 150 nhân dân tệ/tấn, tính đến cuối tuần qua và dự kiến sẽ vẫn duy trì ở mức cao trong lịch sử. Xi Yinsheng, chuyên gia Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp Trung Quốc cho hay, giá ngô đang trên đà thiệt lập kỷ lục trên mọi mặt trận thu mua, giao sau và bán buôn và điều này phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung- cầu. Các nhà phân tích cho biết trong những năm gần đây, các kho dự trữ lương thực của Trung Quốc đã nhanh chóng cạn kiệt, trong khi khoảng cách giữa các khu vực sản xuất cũng ngày một lớn thêm. Nhu cầu tăng đẩy giá ngô cao cũng khiến nông dân Trung Quốc mở rộng diện tích ngô tự phát. Ảnh: GloabalTimes Ông Xi cho biết: Cùng với tác động của đại dịch Covid-19, giá các loại cây có hạt đang tăng cao, trong đó giá ngô tăng mạnh nhất do chênh lệch cung cầu trong nước nới rộng. Dự báo, nhu cầu bùng nổ ở Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy việc nhập khẩu ngô. Số liệu từ Viện nghiên cứu ASKCI cho thấy, từ tháng 1 đến tháng 2 năm nay, lượng nhập khẩu ngô của Trung Quốc đã ở mức 4,8 triệu tấn, tăng 414% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó hãng tin Reuters dẫn nguồn Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự đoán rằng, Trung Quốc sẽ nhập khẩu một lượng ngô lớn nhất từ trước tới nay và có thể đạt mốc lịch sử 24 triệu tấn trong niên vụ 2020/21. Mặt khác, Trung Quốc cũng sẽ vẫn tăng cường sản xuất ngô trong nước để đảm bảo an ninh lương thực. “Mỹ sẽ thay thế Ukraine trở thành nhà cung cấp ngô lớn nhất cho Trung Quốc và lượng nhập khẩu ngô của Mỹ sẽ chiếm 70% lượng ngô nhập khẩu của Trung Quốc trong năm nay”, một chuyên gia giấu tên cho biết. Dữ liệu từ nền tảng thông tin thị trường trực tuyến Qichacha cho thấy, thị trường ngũ cốc sôi động khiến số lượng doanh nghiệp đăng ký tham gia kinh doanh ngành hàng ngô đã tăng 16% so với cùng kỳ năm 2020. Trong quý đầu tiên của năm 2021, có 16.000 đăng ký mới được ghi nhận, tăng 120 % so với cùng kỳ năm ngoái. “Thậm chí là ngay cả khi không hề có một thông báo chính thức nào kích thích ngành hàng ngô, nhưng diện tích ngô trồng tự phát cũng đang tăng mạnh, bất chấp thị trường có nhiều sản phẩm thay thế ngô nhập khẩu dùng làm thức ăn chăn nuôi”, chuyên gia Meng Jinhui cho biết. Kim Long (Reuters, GlobalTimes) Meng Jinhui, một nhà phân tích chuỗi ngành ngô của Bộ Nông nghiệp cho hay, “Trung Quốc không giới hạn đối với nhập khẩu ngô. Ngoài 10 triệu tấn từ khu vực Biển Đen như Ukraine và Nga, dự báo sẽ có khoảng 30 triệu tấn được nhập khẩu từ …
| Tin mới | admin | 19/04/2021 | | ĐÍNH CHÍNH THÔNG BÁO NGÀY 15/4/2021 | Cục chăn nuôi có Thông báo ngày 15/4/2021 trên cổng thông tin điện từ về việc đăng ký triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi năm 2021, nay xin đính chính lại cụ thể việc nuôi giữ giống gốc vật nuôi tại mục 17 và 29 như sau: TT Loại giống gốc ĐVT Số lượng Khu vực nuôi giữ đàn giống gốc 17 Ngan RT7, RT8 mái dòng thuần SS con 1.000 Miền Bắc 29 Bò đực Brahman-MCĐ, Red Angus-MCĐ, BBB-MCĐ và HF-MCĐ nhập ngoại sản xuất tinh con 30 Miền Bắc Các nội dung khác vẫn thực hiện theo đúng Thông báo ngày 15/4/2021. (Liên hệ chi tiết với bà Trần Thị Ngọc Lan (ĐT: 0961186668, E.mail: ), Phòng giống vật nuôi – Cục Chăn nuôi. Hà Nội, Ngày 19 tháng 4 năm 2021 CỤC CHĂN …
| Thông báo | admin | 19/04/2021 | | ‘Số hóa’ quản lý chăn nuôi | Tỉnh Bình Định đang triển khai quản lý chăn nuôi, kiểm soát dịch bệnh, truy xuất nguồn gốc… trong chăn nuôi bằng công nghệ 4.0. Xây dựng trung tâm mua bán động vật tập trung Theo ông Đào Văn Hùng, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Định, thời gian qua, hình thức qua chăn nuôi nhỏ lẻ trên địa bàn tỉnh đã có xu hướng giảm, thay vào đó là phát triển chăn nuôi tập trung. Với nhiều chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích phát triển chăn nuôi quy mô trang trại, gia trại, những năm qua Bình Định đã phát triển được 74 trang trại, cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao. Trong đó, có một doanh nghiệp được công nhận doanh nghiệp khoa học công nghệ là Công ty TNHH Giống gia cầm Minh Dư ở xã Phước Nghĩa (huyện Tuy Phước); 59 trang trại, cơ sở chăn nuôi đạt tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (Global GAP), an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm; 14 doanh nghiệp, cơ sở chăn nuôi theo hướng công nghệ cao. Bên cạnh đó, Bình Định còn chú trọng thu hút đầu tư các dự án chế biến gia súc, gia cầm nhằm nâng cao giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi. Trang trại heo giống quy mô 450.000 con/năm của THACO Group đầu tư tại Bình Định. Ảnh: Vũ Đình Thung. Trong năm 2021, Sở NN-PTNT Bình Định tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng tăng tỷ trọng gia súc, gia cầm; triển khai quy hoạch khu chăn nuôi công nghệ cao Nhơn Tân tại xã Nhơn Tân (Thị xã An Nhơn) và tiếp tục xây dựng vùng chăn nuôi heo an toàn tại huyện Hoài Ân. Bên cạnh đó, ngành chức năng sẽ tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích hỗ trợ chăn nuôi, thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô lớn, khép kín, áp dụng công nghệ cao. Cũng theo ông Đoàn Văn Hùng, tại huyện Hoài Ân, địa phương được mệnh danh là “vựa heo lớn nhất miền Trung”, ngoài xây dựng vùng chăn nuôi heo an toàn, huyện này còn đầu tư xây dựng trung tâm mua bán động vật tập trung để quản lý cả đầu vào lẫn đầu ra của gia súc. Hiện khu trung tâm mua bán động vật tập trung ở đây đã hoàn thành việc giải phóng mặt bằng với diện tích 2,5 ha tại thôn An Hậu (xã Ân Phong), xây dựng 1 số hạng mục cơ sở hạ tầng như tường rào cổng ngõ, hệ thống chiếu sáng, đường giao thông… Theo anh Võ Duy Tín, Phó trưởng phòng NN-PTNT huyện Hoài Ân, UBND tỉnh Bình Định đã chứng nhận nhà đầu tư dự án, mọi hồ sơ thủ tục đã hoàn thành cơ bản, dự án này có tổng kinh phí dự kiến khoảng 25 tỷ đồng. Hiện ở Bình Định đã có 800 cơ sở chăn nuôi được chọn triển khai thử nghiệm phần mềm quản lý đàn vật nuôi và dịch bệnh bằng công nghệ Blockchain. Ảnh: Vũ Đình Thung. Hoài Ân không chỉ là địa phương có phong trào chăn nuôi heo mạnh nhất tỉnh Bình Định, mà với tổng đàn heo luôn ổn định từ 300.000-400.000 con, Hoài Ân còn được mệnh danh là vựa heo lớn nhất miền Trung. Trung tâm mua bán động vật tập trung được xây dựng với mục đích vừa quản lý được số lượng heo xuất, nhập trên địa bàn, mà qua đó còn kiểm soát được dịch bệnh. Đặc biệt, lượng heo xuất bán khỏi địa phương trước khi vận chuyển ra khỏi địa bàn buộc phải đi qua trung tâm mua bán động vật tập trung để được ngành chức năng xử lý về thú y, phân loại, đóng dấu. Đây cũng là cách kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm làm tăng giá trị sản phẩm để tiến tới xây dựng thương hiệu heo Hoài Ân. “Số hóa” việc quản lý, kiểm soát dịch bệnh Đầu năm nay, UBND tỉnh Bình Định đã ban hành Văn bản số 175/UBND-TH ngày 11/1/2021 chỉ đạo Cục Thống kê, Sở NN-PTNT, Sở Tài chính và Sở Công thương phối hợp thực hiện triển khai thử nghiệm phần mềm quản lý đàn vật nuôi và dịch bệnh bằng công nghệ Blockchain trên địa bàn tỉnh năm 2021. Đầu tháng 3/2021, để thực hiện việc khai báo và quản lý phần mềm có hiệu quả, Cục Thống kê Bình Định đã phối hợp với Sở NN-PTNT xây dựng kế hoạch phân công công việc thực hiện phần mềm quản lý đàn vật nuôi và thông tin chống dịch cụ thể. Theo đó, ngành chức năng sẽ tuyên truyền cho người chăn nuôi hiểu ý nghĩa, quyền lợi, trách nhiệm trong việc tham gia chương trình quản lý đàn chăn nuôi và phòng, chống dịch bệnh trong chăn nuôi. Người chăn nuôi cũng sẽ nắm bắt cách thao tác ứng dụng trên điện thoại thông minh để báo cáo tình hình đàn vật nuôi, dịch bệnh và việc tiêu thụ, vận chuyển; thực việc chủ động, tự giác trong việc báo cáo số liệu chăn nuôi, dịch bệnh… Bình Định sẽ từng bước “số hóa” công tác quản lí chăn nuôi trên địa bàn. Ảnh: Vũ Đình Thung Từ phần mềm nói trên, các cơ quan chức năng sẽ quản lý được tổng đàn vật nuôi thường xuyên trên địa bàn; có thông tin nhanh, chính xác về đàn vật nuôi và sản phẩm chăn nuôi; quản lý thông tin thống kê; nắm bắt được tình hình dịch bệnh trên địa bàn để có những giải pháp kịp thời phòng, chống dịch bệnh. Phần mềm cũng sẽ giúp quản lý việc áp dụng an toàn sinh học, tiêm phòng, thức ăn tại cơ sở chăn nuôi; giúp ngành chức năng quản lý về tình hình tiêm phòng, theo dõi được trang trại bị lây nhiễm dịch bệnh, việc xử lý tiêu hủy gia súc, gia cầm và việc hỗ trợ thiệt hại do dịch bệnh… Theo ông Đào Văn Hùng, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Định, ngành nông nghiệp Bình Định đang giao cho Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh phối hợp với Cục Thống kê tỉnh và Công ty TNHH Chế tạo máy và Dịch vụ công nghệ cao Te-Food tổ chức tập huấn sử dụng phần mềm quản lý đàn vật nuôi và thông tin chống dịch khẩn cấp cho cán bộ quản lý và các hộ, trang trại chăn nuôi trên địa bàn. Người chăn nuôi sẽ được cung cấp miễn phí phần mềm trên điện thoại thông minh kết nối Internet, sau khi hoàn tất khai báo thông tin, hệ thống sẽ cung cấp mã quản lý, sử dụng. Ông Huỳnh Ngọc Diệp, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Bình Định cho biết: Hiện đã có 800 cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bình Định được chọn để triển khai thử nghiệm phần mềm quản lý đàn vật nuôi và dịch bệnh bằng công nghệ Blockchain trong năm 2021. Trong đó, huyện Hoài Ân có 450 cơ sở, Thị xã An Nhơn có 100 cơ sở, huyện Phù Cát có 100 cơ sở, Thị xã Hoài Nhơn có 80 cơ sở và huyện Phù Cát có 70 cơ sở. Te-Food là phần mềm quản lý từ trang trại đến bàn ăn. Theo đó, phần mềm sẽ quản lý số lượng đàn đối với heo thịt, heo nái, heo con. Về quản lý dịch bệnh, đối với heo bị bệnh, người chăn nuôi sẽ báo cáo, qua đó áp dụng quy trình xử lý từ sát trùng chuồng trại, sử dụng vacxin. Te-Food cũng giúp quản lý truy xuất chuỗi cung ứng thịt heo ra đến thị trường; đặc biệt hỗ trợ kết nối các kênh tiêu thụ và xây dựng thương hiệu; giúp cơ quan quản lý nắm được số lượng đàn, cập nhật chính xác số liệu chăn nuôi; hỗ trợ nhận biết và kiểm soát dịch bệnh; kiểm soát từ khâu vận chuyển, thức ăn, giết mổ, tiêu thụ… Vũ Đình …
| Tin mới | admin | 15/04/2021 | | Thông báo: Cục chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao đầu mối triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi năm 2021 gồm chủng loại và số lượng cụ thể như sau: | THÔNG BÁO Cục chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao đầu mối triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi năm 2021 gồm chủng loại và số lượng cụ thể như sau: Nuôi giữ. TT Loại giống gốc ĐVT Số lượng Khu vực nuôi giữ đàn giống gốc 1 Lợn YS, LR và DR nái GGP SS con 150 Miền Bắc 2 Lợn YS, LR và DR nái GGP SS con 300 Miền Nam 3 Lợn đực KTNS phục vụ sản xuất con 200 Miền Nam 4 Lợn VCN nái GGP SS con 350 Miền Bắc 5 Lợn đực VCN KTNS phục vụ sản xuất con 50 Miền Bắc 6 Lợn Móng Cái cái thuần SS con 140 Miền Bắc 7 Lợn hương cái thuần SS con 100 Miền Bắc 8 Vịt STAR53 mái dòng thuần SS con 4.000 Miền Bắc 9 Vịt SM3 mái dòng thuần SS con 2.200 Miền Bắc 10 Vịt CV Super M (SM) mái dòng thuần SS con 1.000 Miền Núi, TD phía Bắc 11 Vịt V2, V7, V12, V17 mái dòng thuần SS con 3.500 Miền Nam 12 Vịt biển (Haiya) mái thuần SS con 1.000 Miền Bắc 13 Vịt biển (ĐX) mái dòng thuần SS con 600 Miền Bắc 14 Vịt biển mái dòng thuần SS con 1.500 Miền Nam 15 Vịt TC mái dòng thuần SS con 2.000 Miền Nam 16 Ngan R71, R51 mái dòng thuần SS con 3.600 Miền Bắc 17 Ngan RT7, RT9 mái dòng thuần SS con 1.000 Miền Bắc 18 Gà LV mái dòng thuần SS con 3.500 Miền Bắc 19 Gà LMT1, LMT2 mái dòng thuần SS con 1.200 Miền Trung 20 Gà H’Mong mái thuần SS con 1.700 Miền Bắc 21 Gà ri mái dòng thuần SS con 1.500 Miền Bắc 22 Gà màu VLV1, VLV2 mái dòng thuần SS con 4.500 Miền Nam 23 Gà Ninh Hòa mái dòng thuần SS con 4.500 Miền Trung 24 Gà chọi mái thuần SS con 500 Miền Trung 25 Trâu đầm lầy (nội) cái thuần SS con 70 Miền Bắc 26 Trâu Muhra, đầm lầy (nội) cái thuần SS con 90 Miền Nam 27 Ngựa nội cái thuần SS con 40 Miền Bắc 28 Bò Senepol cái thuần SS con 30 Miền Bắc 29 Bò đực Brahman-MCĐ, Red Angus-MCĐ, BBB-MCĐ và HF-MCĐ nhập ngoại sản xuất tinh con 35 Miền Bắc 30 Bò đực Brahman, Angus, Charolais và BBB nhập ngoại sản xuất tinh con 22 Miền Bắc 31 Trâu đực SX tinh con 05 Miền Bắc 32 Bò Red Angus cái thuần SS con 50 Miền Nam 33 Bò Droughmaster cái thuần SS con 70 Miền Nam 34 Bò Brahman cái thuần SS con 140 Miền Nam 35 Dê Boer cái thuần SS con 150 Miền Bắc & Miền Trung 36 Dê Saanen cái thuần SS con 150 Miền Bắc & Miền Trung 37 Dê bách thảo cái thuần SS con 200 Miền Bắc & Miền Trung 38 Dê Boer cái thuần SS con 60 Miền Nam 39 Dê bách thảo cái thuần SS con 140 Miền Nam 40 Cừu Phan Rang cái thuần SS con 600 Miền Bắc & Miền Trung 41 Tằm lưỡng hệ thuần ổ 4.000 Miền Bắc 42 Tằm đa hệ thuần ổ 6.000 Miền Bắc 43 Phối giống công ích bò có chửa con 5.000 Miền Bắc Nhập khẩu giống TT Giống nhập ĐVT Số lượng 1 Vịt Star53 Heavy ông bà con 2.000 – Trống con 400 – Mái con 1.600 2 Dê Boer thuần con 78 – Đực con 14 – Cái con 64 3 Lợn LR, YS cụ kỵ con 90 – Đực con 18 – Cái con 72 4 Bò cái Senepol thuần con 26 5 Bò đực giống con 08 Bò đực giống BBB con 4 Bò đực giống Charolais con 4 Xin mời các cơ sở chăn nuôi có đủ điều kiện năng lực về con người, cơ sở vật chất và đàn giống gốc vật nuôi đáp ứng Quyết định số 2317/QĐ-BNN-CN ngày 07/6/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc phê duyệt tiêu chí đối với cơ sở nuôi giữ giống gốc, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi và giống gốc thủy sản, Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN ngày 4/4/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTNT đăng ký tham gia thực hiện việc nuôi giữ đàn giống gốc và cung ứng sản phẩm giống gốc từ 1/1 đến 31/12/2021. Đăng ký tham gia bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu gửi về Cục Chăn nuôi – Bộ nông nghiệp và PTNT, số 16, Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội từ 10 giờ ngày 15/4 đến 10 giờ ngày 26/4/2021. (Liên hệ chi tiết với bà Trần Thị Ngọc Lan (ĐT: 0961186668, E.mail: ), Phòng giống vật nuôi – Cục Chăn nuôi. Hà Nội, Ngày 15 tháng 4 năm 2021 CỤC CHĂN …
| Thông báo | admin | 15/04/2021 | | Xã biên giới thu tiền tỷ từ nuôi trâu vỗ béo | Xã biên giới Quang Hán, huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) tập trung phát triển mô hình nuôi trâu vỗ béo, đem lại thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm cho người chăn nuôi. Mô hình vỗ béo trâu của ông Bế Văn Định, xóm Vững Bền, xã Quang Hán, huyện Trùng Khánh cho hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: Công Hải. Theo chân cán bộ Hội Nông dân xã Quang Hán, chúng tôi đến thăm mô hình vỗ béo trâu của gia đình ông Bế Văn Định, xóm Vững Bền, một trong những hộ đầu tiên mạnh dạn phát triển vỗ béo trâu ở xã, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ông Định chia sẻ: Năm 2012, thấy nhiều nơi phát triển nuôi trâu vỗ béo bằng cách nuôi nhốt cho hiệu quả cao, nên vợ chồng ông đã mạnh dạn làm chuồng trại tập trung. Thời điểm đó, gia đình còn nhiều khó khăn, phải vay vốn ngân hàng nên chỉ dám nuôi 2 – 3 con/lứa. Chăn chủ yếu bằng rau, chuối nên trâu phát triển chậm, phải 4 tháng mới xuất bán được, hiệu quả kinh tế chưa cao. Không nản chí, vợ chồng ông tiếp tục tìm hiểu các thông tin trên ti vi, báo đài về kỹ thuật chăn nuôi trâu vỗ béo rồi áp dụng theo. Ngoài rau, chuối, gia đình đã trồng thêm vài nghìn m2 cỏ voi, sử dụng thêm các loại cám để thay đổi thức thức ăn theo từng ngày nên đàn trâu phát triển nhanh hơn hẳn. Cứ khoảng 2 – 3 tháng xuất bán một lứa. “Hiện nay, gia đình tôi nuôi trung bình 8 – 10 con trâu/lứa. Mỗi lần xuất bán, mỗi con trâu cho thu lãi trung bình 6 – 8 triệu đồng. Nhiều con trâu dù chỉ mua về được nửa tháng nhưng nếu gặp khách và đúng thời điểm giá cao thì bán luôn cũng có thể cho lãi vài triệu đồng”, ông Định cho biết thêm. Cũng là một trong những hộ chăn nuôi trâu vỗ béo điển hình ở xã, ông Bế Văn Hội, xóm Bản Niếng mỗi lứa đang vỗ béo 6 con trâu. Từ vỗ béo trâu, mỗi năm gia đình ông thu nhập hơn 100 triệu đồng. Nhờ đó cuộc sống có nhiều đổi thay. Ông Hội tâm sự: Vỗ béo trâu là nghề cho thu nhập ổn định so với nhiều nghề nông khác nhưng chi phí đầu tư cũng khá cao. Muốn chăn nuôi hiệu quả phải làm tốt từ khâu chọn giống. Phải chọn con dáng cao to, vai nở, lưng dài. Không mua loại còn non vì thời gian vỗ béo lâu, tốn thức ăn, lợi nhuận thấp, chậm quay vòng vốn. Ông thường đi tìm mua trâu nặng khoảng hơn 4 tạ về vỗ béo, mỗi con đầu tư cũng khoảng 40 triệu đồng. Ông Bế Văn Hội, xóm Bản Niếng, xã Quang Hán, huyện Trùng Khánh mỗi lứa vỗ béo 6 con trâu. Ảnh: Công Hải. Theo ông Hội, vỗ béo trâu việc pha trộn thức ăn là khâu quan trọng nhất. Thức ăn bao gồm: cỏ voi xay nhuyễn, rau, chuối, cám… đảm bảo sạch sẽ. Nguồn nước uống cũng được pha thêm các loại muối khoáng cần thiết, tăng sức đề kháng cho vật nuôi. Ngoài nguồn dinh dưỡng, trong quá trình chăn nuôi, cần quan tâm đến vệ sinh, che chắn chuồng trại, tiêm vacxin phòng bệnh đầy đủ. Nhiều năm nay, cùng với phát triển cây quýt, xã Quang Hán tuyên truyền người dân đẩy mạnh phát triển vỗ béo trâu, bò mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chỉ đạo các xóm mở rộng diện tích trồng cỏ voi, mỗi năm xã trồng trên 60 ha cỏ voi và nhiều loại cỏ khác. Toàn xã có hơn 450 hộ nuôi trâu, bò vỗ béo với tổng số hơn 2.000 con, trong đó hơn 90% số hộ vỗ béo trâu. Tập trung nhiều tại các xóm: Vững Bền, Bản Niếng, Pò Mán, Pú Dô, Bản Tám… Trung bình, mỗi hộ nuôi từ 3 – 5 con/lứa, một số hộ vỗ béo từ 8 – 10 con/lứa. Mỗi con trâu sau 2 – 3 tháng vỗ béo có thể cho thu nhập từ 6 – 8 triệu đồng/con. Ảnh: Công Hải. Ông Hoàng Văn Thiện, Chủ tịch UBND xã Quang Hán cho biết: Người dân trong xã thường chọn vỗ béo trâu vì con trâu tăng trọng lượng nhanh hơn, giá bán lại cao và ổn định hơn con bò. Đa số các hộ vỗ béo trâu tại xã đều đã thoát nghèo, nhiều hộ có thu nhập cao từ 100 – 200 triệu đồng/năm. Thời gian tới, mô hình vỗ béo trâu vẫn là một trong những hướng đi chính để phát triển kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giàu ở địa phương. Công …
| Tin mới | admin | 12/04/2021 | | Phát động tổ chức Cuộc thitrực tuyến “Tìm hiểu pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân” | …
| Thông báo | admin | 07/04/2021 | | Nhân dịp kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2021), Chi đoàn Cục Chăn nuôi tổ chức Lễ “Trưởng thành đoàn” cho các đoàn viên trong Chi đoàn và chương trình “Trồng cây xanh”. | Sáng ngày 22/03/2021, tại Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định Chăn nuôi, Chi đoàn Cục Chăn nuôi long trọng tổ chức Lễ trưởng thành Đoàn cho 11 đoàn viên và chương trình trồng cây xanh nhân dịp kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2021) với sự tham gia tham gia của toàn bộ 36 Đoàn viên Chi đoàn. Toàn thể hội nghị làm lễ chào cờ Tham dự buổi lễ có đồng chí Tống Xuân Chinh, Bí thư Đảng ủy, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Chủ tịch Công đoàn Cục Chăn nuôi; đồng chí Phương Văn Vĩnh, Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ 5, Giám đốc Trung tâm Khảo, Kiểm nghiệm và Kiểm định chăn nuôi; đồng chí Nguyễn Hoàng Linh, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Bộ Nông nghiệp và PTNT. Tại buổi lễ, Đồng chí Nguyễn Văn Tình, Bí thư Chi đoàn Cục Chăn nuôi báo cáo hoạt động của Chi đoàn trong thời gian qua. Được sự quan tâm, chỉ đạo của Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, Đảng ủy, Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT, Chi đoàn Cục Chăn nuôi từng bước phát triển, tổ chức, triển khai nhiều phong trào và hoạt động thanh niên, tạo môi trường phấn đấu, rèn luyện lành mạnh cho Đoàn viên Chi đoàn. Chi đoàn cũng đã biên tập và chiếu video giới thiệu về quá trình thành lập và phát triển của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và hình ảnh về hoạt động của Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi giai đoạn 2020 – 2021. Đồng chí Nguyễn Văn Tình, Bí thư Chi đoàn Cục Chăn công bố Quyết định trưởng thành Đoàn Đồng chí Nguyễn Văn Tình đã công bố Quyết định số 123-QĐ/ĐTN ngày 16/3/2021 của Đoàn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về công nhận trưởng thành Đoàn cho 11 đồng chí đoàn viên của Chi đoàn Cục Chăn nuôi. Thay mặt các đoàn viên trưởng thành Đoàn dịp này, đồng chí Võ Thị Vân xúc động phát biểu, chia sẻ những kỷ niệm khó phai trong suốt thời gian hoạt động Đoàn, đặc biệt là thời gian hoạt động tại Chi đoàn Cục Chăn nuôi. Qua đây, đồng chí gửi lời cảm ơn đến Đảng ủy, Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT và Chi đoàn đã luôn tạo điều kiện, giúp đỡ các đồng chí trong suốt thời gian vừa qua. Đồng thời, bày tỏ niềm tin tưởng vào thế hệ các đồng chí Đoàn viên trẻ kế cận, tin tưởng với sự sáng tạo, năng động, nhiệt tình của các đoàn viên thanh niên, Chi đoàn sẽ tiếp tục tổ chức và thực hiện tốt các hoạt động, bám sát yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng ủy, Lãnh đạo Cục, Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT tin tưởng, giao cho. Các đồng chí trưởng thành Đoàn sẽ vẫn tiếp tục đồng hành, đóng góp trí tuệ, công sức với công tác Đoàn và phong trào thanh niên của Bộ Nông nghiệp và PTNT nói chung và của Cục Chăn nuôi nói riêng trong thời gian tới. Đồng chí Võ Thị Vân thay mặt Đoàn viên trưởng thành phát biểu Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Tống Xuân Chinh, Bí thư Đảng ủy, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Chủ tịch Công đoàn Cục Chăn nuôi ghi nhận những đóng góp của Đoàn thanh niên trong thời gian qua. Đồng chí cho rằng, hoạt động trong tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là cơ hội tốt, môi trường lành mạnh để rèn luyện và tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng vì vậy thanh niên phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng chí khẳng định Đảng ủy, Lãnh đạo Cục Chăn nuôi sẽ luôn quan tâm, tạo điều kiện cho các hoạt động của Đoàn thanh niên. Đồng chí Tống Xuân Chinh, Bí thư Đảng ủy, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Chủ tịch Công đoàn Cục Chăn nuôi phát biểu tại buổi lễ Thay mặt Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT, đồng chí Nguyễn Hoàng Linh, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên biểu dương những kết quả đã đạt được của Chi đoàn. Đồng chí khẳng định, những kết quả này đã góp vào thành công chung của Đoàn Bộ năm 2020 và đề nghị Chi Đoàn Cục Chăn nuôi tiếp tục phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện, tính chủ động, sáng tạo để thực hiện tốt kế hoạch công tác Đoàn và phong trào thanh niên năm 2021. Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ luôn đồng hành, hỗ trợ Chi đoàn trong các phong trào và hoạt động thanh niên. Đồng chí Nguyễn Hoàng Linh, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Bộ Nông nghiệp và PTNT phát biểu tại buổi lễ Chi đoàn Cục Chăn nuôi tổ chức chương trình “Trồng cây xanh” – trồng hàng cây hoa Ban trước cổng Trung tâm Khảo, Kiểm nghiệm và Kiểm định chăn nuôi tại Thụy Phương, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đồng chí Tống Xuân Chinh, đồng chí Nguyễn Hoàng Linh, đồng chí Phương Văn Vĩnh và đồng chí Nguyễn Văn Tình tham gia trồng cây Đây là hoạt động hưởng ứng phong trào “Tết trồng cây” và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình trồng 1 tỷ cây xanh do Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT phát động nhằm tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong công tác bảo vệ môi …
| Chi đoàn Cục Chăn nuôi | admin | 01/04/2021 | | Đoàn Thanh niên Cục Chăn nuôi tích cực tham gia Chương trình Hiến máu tình nguyện năm 2021 “Mỗi giọt máu cho đi – Một cuộc đời ở lại” | Hiến máu tình nguyện là một hành động cao cả, một nghĩa cử cao đẹp của toàn xã hội. Mỗi giọt máu hiến tặng không chỉ góp phần cứu sống người bệnh trong giờ phút hiểm nghèo mà còn thể hiện tinh thần tương thân tương ái, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn đời Đoàn viên Cục Chăn nuôi tích cực tham gia chương trình hiến máu tình nguyện. Nhằm phát huy tinh thần tương thân thương ái, sẵn sàng cứu người, đề cao nghĩa cử cao đẹp, hưởng ứng Chương trình Hiến máu tình nguyện năm 2021 do Đoàn thanh niên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Viện Huyết học – truyền máu TW tổ chức, Đoàn viên thanh niên và cán bộ, công nhân viên chức Cục Chăn nuôi đã tích cực tham gia hiến máu tình nguyện ngay tại trụ sở Bộ Nông nghiệp và PTNT vào ngày 15/3/2021. Đây là hoạt động thiết thực, mang ý nghĩa nhân văn cao cả, ý nghĩa xã hội của Đoàn viên thanh niên Cục Chăn nuôi chào mừng Tháng thanh niên và kỉ niệm 90 năm ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (26/3/1931 -26/3/2021). Với ý nghĩa và mục đích nhân văn cao cả: “Một giọt máu cho đi – Một cuộc đời ở lại”, chương trình đã diễn ra và thành công tốt đẹp với sự tham gia của hơn 500 công nhân viên chức đang công tác, học tập tại các đơn vị của Bộ Nông nghiệp, đã bổ sung được gần 300 đơn vị máu vào ngân hàng máu quốc gia, đóng góp tích cực vào hoạt động cứu, chữa người bệnh tại các cơ sở y tế trong toàn quốc./. Nguồn: Đoàn thanh niên Cục Chăn …
| Chi đoàn Cục Chăn nuôi | admin | 18/03/2021 | | Lần đầu Việt Nam nhân bản thành công lợn Ỉ | Các nhà khoa học Viện Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT) đã áp dụng thành công phương pháp nhân bản lợn Ỉ từ tế bào soma mô tai trưởng thành. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường thăm và kiểm tra đàn lợn Ỉ được nhân bản vô tính thành công tại Viện Chăn nuôi sáng 14/3. Ảnh: Nguyễn Chương. Ngày 10/3/2021, 4 lợn Ỉ con đã chào đời khỏe mạnh tại Trung tâm Nghiên cứu lợn Thụy Phương, Viện Chăn nuôi, phát triển tốt từ công nghệ này. Đây là một bước tiến vượt bậc về khoa học công nghệ của Việt Nam trong lĩnh vực nhân bản động vật, khẳng định và nâng cao vai trò, vị thế nền khoa học công nghệ của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Trước đó, được sự quan tâm đặc biệt và chỉ đạo sát sao của Bộ NN-PTNT, tháng 7/2020, Viện Chăn nuôi đã tổ chức triển khai Đề tài “Nghiên cứu tạo lợn Ỉ bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào soma” thuộc “Chương trình trọng điểm nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020”. TS Phạm Công Thiếu, Viện trưởng Viện Chăn nuôi cho biết: Công nghệ nhân bản động vật với quy trình tạo dòng “tế bào cho” từ mô tai lợn Ỉ sử dụng trong quá trình cấy chuyển nhân tế bào cho và tạo phôi lợn nhân bản. Quy trình tạo dòng “tế bào nhận” có màng sáng hoặc không có màng sáng được sử dụng cho quá trình cấy chuyển nhân tế bào và tạo phôi lợn nhân bản. Quy trình cấy chuyển nhân tế bào cho và tạo phôi lợn nhân bản với tỷ lệ tạo phôi nang lợn Ỉ nhân bản đạt cao. Quy trình cấy chuyển phôi lợn nhân bản Phương pháp nhân bản lợn Ỉ từ tế bào soma mô tai trưởng thành được Viện Chăn nuôi áp dụng thành công. Ảnh: Nguyễn Chương. Trong quá trình nghiên cứu các nhà khoa học của Viện đã không ngừng đầu tư trí tuệ, cập nhật tiến bộ khoa học trên thế giới để tổ chức, nghiên cứu, xây dựng, chuẩn hoá và đưa vào ứng dụng các công nghệ, phương pháp mới như tạo tế bào trứng nhận không có màng sáng (zona pellucida) trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị còn rất hạn chế. Ưu điểm của phương pháp này dễ thao tác khi cấy chuyển nhân “tế bào cho”, tạo được nhiều phôi trong thời gian ngắn. Mặt khác, việc cấy chuyển phôi lợn 5 – 6 ngày tuổi đã nâng cao tỷ lệ thụ thai từ 24% (ở mức trung bình trên thế giới) lên 61%. Chính vì vậy, ngày 10/03/2021 đã có 4 “lợn Ỉ nhân bản” ra đời, khỏe mạnh và phát triển tốt. Kết quả đạt được của Đề tài đã được công bố trên các tạp chí uy tín trong nước và quốc tế (Tạp chí công nghệ sinh học, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Tạp chí Theriogenology). Thành tựu nổi bật này đã mở ra các hướng nghiên cứu mới về: Ứng dụng Công nghệ nhân bản động vật trong chọn giống; Bảo tồn các loài động vật có giá trị cao, động vật quý hiếm; Kết hợp công nghệ nhân bản động vật với công nghệ chỉnh sửa gen để tạo ra các giống vật nuôi có năng suất cao, có khả năng kháng bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu; Tạo ra những con lợn nhân bản theo ý muốn, phục vụ cho việc cấy ghép nội tạng trong tương lai. 4 con lợn Ỉ được nhân bản vô tính thành công tại Trung tâm Nghiên cứu lợn Thụy Phương, Viện Chăn nuôi. Ảnh: Nguyễn Chương. Nhân bản hay nhân bản vô tính ở động vật là các cá thể có thể được tạo ra từ một tế bào lấy từ nguyên bản gốc mà không phụ thuộc vào quá trình thụ tinh. Năm 1979, các nhà nghiên cứu đã tạo ra những con chuột giống hệt nhau về mặt di truyền đầu tiên bằng cách tách phôi chuột trong ống nghiệm. Ngay sau đó, các nhà nghiên cứu đã tạo ra những con bò, cừu và gà giống hệt nhau về mặt di truyền bằng cách chuyển nhân của một tế bào lấy từ phôi thai ban đầu vào một quả trứng đã được loại bỏ nhân của nó. Đến năm 1996, sau 276 lần thử nghiệm, các nhà khoa học Scotland đã thành công trong việc nhân bản vô tính trên động vật có vú đầu tiên (nhân bản từ một tế bào soma lấy từ một động vật trưởng thành bằng kỹ thuật cấy chuyển nhân tế bào soma) để tạo ra được con cừu Dolly. Hai năm sau, các nhà nghiên cứu ở Nhật Bản đã nhân bản 8 con bê từ một con bò duy nhất. Đến nay đã có trên 20 loài động vật khác nhau đã được nhân bản như: cừu, mèo, hươu, nai, chó, trâu, lợn, ngựa, la, bò, thỏ và chuột… với số lượng ngày càng nhiều. Nguyên …
| Tin mới | admin | 18/03/2021 | | ĐOÀN THANH NIÊN THAM GIA “TẾT TRỒNG CÂY ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN BÁC HỒ” | Hưởng ứng lễ phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” năm 2021 của Đoàn thanh niên Bộ Nông nghiệp và PTNT, ngày 05 tháng 3 năm 2021 Chi đoàn Cục Chăn nuôi đã tham gia trồng hơn 300 cây tại khu di tích và các tuyến đường liên xã Tả Thanh Oai và các xã của huyện Thanh Trì để cùng thực hiện công trình “Hàng cây thanh niên”. Đây là hoạt động ý nghĩa, thiết thực nhằm thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu “Mùa xuân là Tết trồng cây, làm cho đất nước càng ngày càng xuân, đồng thời hưởng ứng Chương trình trồng 01 tỷ cây xanh trong giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ phát động với thông điệp “Vì một Việt Nam xanh” và hướng tới chào mừng 90 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2021) Cũng trong khuôn khổ hoạt động này, Đoàn viên thanh niên Cục Chăn nuôi đã tích cực tham gia dọn dẹp vệ sinh môi trường tại Khu di tích cách mạng “Bác Hồ về tát nước chống cạn” và một số tuyến đường của xã Tả Thanh Oai. Chuỗi các hoạt động này đã góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm sống vì cộng đồng, xã hội, vì thế hệ tương lai của đoàn viên thanh niên, đồng thời nâng cao nhận thức của đoàn viên, thanh niên và người dân địa phương trong việc trồng cây xanh nhằm xây dựng môi trường sống xanh, sạch, đẹp, chung tay bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động của biến đổi khí …
| Chi đoàn Cục Chăn nuôi | admin | 18/03/2021 | | Đoàn Thanh niên Cục Chăn nuôi tích cực tham gia phong trào “Ngày Thứ bảy tình nguyện, ngày Chủ nhật xanh” | Được sự đồng ý của Đảng ủy và Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, ngày 05/3/2021 Chi đoàn Cục Chăn nuôi đã phối hợp với các chi đoàn tại khu liên cơ quan Bộ Nông nghiệp và PTNT, số 16 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội tổ chức các hoạt động dọn dẹp vệ sinh, trồng hoa và xây dựng môi trường làm việc xanh, sạch, đẹp hưởng ứng phong trào “Ngày Thứ bảy tình nguyện, ngày Chủ nhật xanh” do Đoàn Bộ Nông nghiệp và PTNT phát động. Đây là hoạt động nằm trong chuỗi các hoạt động của Đoàn thanh niên Bộ Nông nghiệp và PTNT nói chung, Chi đoàn Cục Chăn nuôi nói riêng chào mừng kỉ niệm 90 năm ngày thành lập Đoàn thanh niên (26/3/1931 – 26/3/2021) Phong trào “Ngày Thứ bảy tình nguyện, ngày Chủ nhật xanh” Trong ngày phát động, Đoàn viên thanh niên Cục chăn nuôi và các chi đoàn tại khu liên cơ quan, số 16 Thụy Khuê đã ra quân, trồng 100 khóm hoa và đặt tại hàng rào phía trước trụ sở cơ quan tạo mỹ quan cho nơi làm việc. Các chậu hoa được giao từng chi đoàn cụ thể phụ trách theo dõi, chăm sóc, thay thế định kỳ để bảo đảm duy trì cảnh quan của trụ sở làm việc. Đoàn thanh niên tham gia trồng hoa tạo hàng rào xanh Cũng trong buổi chiều cùng ngày, các đoàn viên đã có mặt cùng nhau tiến hành tổng vệ sinh khu vực khuôn viên và hướng dẫn mọi người phân loại rác đúng cách và bỏ rác đúng nơi quy định. Đoàn thanh niên tại khu liên cơ quan, số 16 Thụy Khuê đã bố trí 04 thùng phân loại rác hữu cơ và vô cơ, đặt tại 02 tòa nhà để toàn thể cán bộ, công chức, người lao động chung tay phân loại rác, bảo vệ môi trường. Đoàn thanh niên tham gia vệ sinh và hướng dẫn phân loại rác và bỏ rác đúng nơi quy định Những việc làm tuy nhỏ nhưng ý nghĩa lớn lao qua đó góp phần nâng cao nhận thức của Đoàn viên thanh niên về lối sống tích cực, có trách nhiệm giữ gìn vệ sinh chung để xây dựng nơi làm việc thân thiện với môi trường. Nguồn: Chi đoàn Cục Chăn …
| Chi đoàn Cục Chăn nuôi | admin | 17/03/2021 | | Công văn số 141/CN-TĂCN ngày 21 tháng 01 năm 2021 về tình hình giá và sử dụng kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi | Kính gửi: Các tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi 1.Thời gian gần đây giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (TACN) nhất là các loại ngũ cốc liên tục tăng cao và dự báo sẽ còn giữ ở mức cao này đến Quý II năm 2021 gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất chăn nuôi trong nước. Nhằm giảm thiểu tác động bất lợi này, Cục Chăn nuôi đề nghị các tổ chức, cá nhân sản xuất TACN thực hiện một số nội dung sau: – Sử dụng tiết kiệm triệt để, hiệu quả nguồn nguyên liệu để hạ giá thành sản xuất TACN; – Tăng cường các giải pháp tìm kiếm, tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước thay thế nguyên liệu nhập khẩu; – Thường xuyên cập nhật thông tin về diễn biến giá nguyên liệu TACN trên thế giới và trong nước để có giải pháp ứng phó kịp thời; – Điều chỉnh mức độ và lộ trình thay đổi giá bán TACN phù hợp không gây ảnh hưởng nhiều làm xáo trộn sản xuất và thị trường sản phẩm chăn nuôi trong nước. 2.Ngày 09/11/2020, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 12/2020/TT-BNNPTNT (có hiệu lực kể từ ngày 25/12/2020), trong đó có quy định về kê đơn thuốc thú y trong sản xuất TACN và danh mục các hoạt chất thuốc thú y thuộc nhóm kháng sinh đặc biệt quan trọng, rất quan trọng và quan trọng (tại các Phụ lục VIII, IX, X) được phép sử dụng để phòng bệnh cho vật nuôi ở giai đoạn con non theo lộ trình đã được quy định tại khoản 3 Điều 12 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP. Đề nghị các tổ chức, cá nhân sản xuất TACN nghiên cứu kỹ các nội dung của Thông tư số 12/2020/TT-BNNPTNT để sử dụng kháng sinh trong TACN đảm bảo quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện nếu có có vướng mắc, đề nghị liên hệ tới Cục Chăn nuôi, Cục Thú y để được giải thích, hướng dẫn. Cục Chăn nuôi trân trọng cảm ơn sự hợp tác của các Quý đơn vị vì sự ổn định và phát triển của ngành chăn …
| Tin mới | admin | 22/01/2021 | | Mức hỗ trợ phòng, chống dịch tả lợn Châu Phi | (Chinhphu.vn) – Thủ tướng chính phủ vừa ban hành Quyết định về cơ chế, chính sách, đối tượng hỗ trợ, mức hỗ trợ kinh phí trong phòng, chống bệnh Dịch tả lợn Châu Phi năm 2020. Theo Quyết định, Nhà nước hỗ trợ người chăn nuôi, hộ chăn nuôi nông hộ, chủ trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất, các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang kinh doanh trong lĩnh vực chăn nuôi (cơ sở chăn nuôi) có lợn buộc phải tiêu hủy do bệnh Dịch tả lợn Châu Phi với mức cụ thể như sau: 1- Đối với lợn con, lợn thịt các loại: Hỗ trợ 30.000 đồng/kg lợn hơi; 2- Đối với lợn nái, lợn đực đang khai thác: Hỗ trợ 35.000 đồng/kg lợn hơi. Hỗ trợ doanh nghiệp chăn nuôi nhỏ và vừa theo tiêu chí quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 ngày 12 tháng 6 năm 2017 (không bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa là công ty con hoặc là công ty có vốn cổ phần chi phối của doanh nghiệp lớn) có lợn buộc phải tiêu hủy do bệnh Dịch tả lợn Châu Phi với mức hỗ trợ cụ thể như sau: a- Đối với lợn con, lợn thịt các loại: Hỗ trợ 10.000 đồng/kg lợn hơi; b- Đối với lợn nái, lợn đực đang khai thác: Hỗ trợ 12.000 đồng/kg lợn hơi. Mức hỗ trợ cho các doanh nghiệp tối đa không quá 30% số lỗ do dịch bệnh sau khi đã sử dụng các quỹ dự phòng và tiền bồi thường bảo hiểm (nếu có). Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tiêu chí quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 ngày 12 tháng 6 năm 2017 (không bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa là công ty con hoặc là công ty có vốn cổ phần chi phối của doanh nghiệp lớn) và chủ hộ nuôi giữ lợn giống cụ kỵ, ông bà với mức 500.000 đồng/con lợn đến ngày 31 tháng 12 năm 2020 nhằm nâng cao các biện pháp an toàn sinh học, sát trùng tiêu diệt các loại mầm bệnh đảm bảo duy trì đàn lợn giống phục vụ tái đàn khi kiểm soát được dịch bệnh. Các cơ sở chăn nuôi bị thiệt hại được xem xét hỗ trợ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định số 02/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh; các quy định của Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chăn nuôi. Cơ chế hỗ trợ từ ngân sách trung ương Theo quy định, đối với các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, Ngân sách trung ương hỗ trợ 80% mức ngân sách nhà nước hỗ trợ thiệt hại. Còn các tỉnh, thành phố có tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia về ngân sách trung ương từ 50% trở lên thì chủ động sử dụng dự phòng ngân sách địa phương để thực hiện. Các tỉnh, thành phố có tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia về ngân sách trung ương dưới 50% thì Ngân sách trung ương hỗ trợ 50% phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách còn lại thì Ngân sách trung ương hỗ trợ 70% phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Ngoài ra, các địa phương huy động thêm tối đa 70% Quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh để hỗ trợ thiệt hại do Dịch tả lợn Châu Phi. Trường hợp các địa phương có mức độ thiệt hại lớn, nếu phần ngân sách địa phương đảm bảo vượt quá nguồn lực của địa phương (gồm: 50% nguồn dự phòng ngân sách địa phương (bao gồm cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã) và 70% Quỹ dự trữ tài chính địa phương, ngân sách trung ương sẽ bổ sung thêm phần chênh lệch vượt quá nguồn lực của địa phương để các tỉnh, thành phố có đủ nguồn để thực hiện. Vũ Phương …
| Tin mới | admin | 07/01/2021 | | Năm đặc biệt với ngành chăn nuôi Việt Nam | 2020 là một năm đặc biệt với ngành chăn nuôi Việt Nam khi trải qua hàng loạt những sự kiện lớn chưa từng có trong lịch sử. Năm 2020 là một năm đặc biệt đối với lĩnh vực chăn nuôi lợn. Ảnh: Trần Minh. Nóng hổi với giá lợn Với ngành chăn nuôi Việt Nam, năm 2020 không thể không nhắc đến câu chuyện xoay quanh con lợn. Có những thời điểm giá lợn hơi và giá thịt lợn nóng từ nông thôn đến thành thị, từ nghị trường Quốc hội tới các cuộc họp thường kỳ, cuộc họp điều hành giá của Chính phủ. Chưa bao giờ trong lịch sử mà người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng phải thốt lên rằng, “giá lợn hơi tăng như vậy là quá đáng”. Quả thực, trong lịch sử ngành chăn nuôi Việt Nam, lần giá lợn tăng cao nhất cũng chỉ lên tới 62.000 đồng/kg, song năm 2020 giá lợn hơi đã có thời điểm chạm mốc 100.000 đồng/kg. Nguyên nhân giá lợn hơi biến động và tăng mạnh năm 2020 ai cũng biết là do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi, một dịch bệnh cực kỳ nguy hiểm với con lợn, xuất hiện từ năm 2021, nhưng đến nay chưa có vacxin, chưa có thuốc điều trị mà tỉ lệ gây chết lợn khi mắc phải lên tới 100%. Dù so với Trung Quốc, Việt Nam đã rút ngắn thời gian khống chế được dịch từ 17 tháng xuống 13 tháng, song bệnh dịch tả lợn Châu Phi cũng đã kịp gây thiệt hại khoảng 6 triệu đầu lợn, tổng đàn lợn nái sụt giảm mạnh từ gần 4 triệu con xuống mức đáy chỉ còn 2,7 triệu con. Tuy nhiên, trao đổi với chúng tôi, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Văn Trọng thở phào cho biết, đến giờ này có thể khẳng định giá lợn hơi đã giảm theo đúng dự báo và lộ trình ngành nông nghiệp đề ra là cuối quý 3 đầu quý 4. Để có được thành công này, theo ông Nguyễn Văn Trọng là do có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời, chủ động, sát sao của Bộ NN-PTNT khi giữ được cơ bản đàn lợn cụ kỵ, ông bà 109.000 con, tư liệu quan trọng đầu tiên để việc tái đàn thành công. Theo ông Trọng, tính đến hết năm 2020, tổng đàn nái của Việt Nam đã tăng lên 3 triệu con, tổng đàn lợn cả nước đạt trên 26 triệu con, bằng 85% so với trước dịch. Đặc biệt, 16 doanh nghiệp chăn nuôi lớn cả nước tăng lên 5,55 triệu đầu lợn, chiếm 23% tổng đàn lợn của cả nước. So với lúc trước dịch, khối doanh nghiệp chăn nuôi lớn tăng trưởng tới 160% và so với ngày 1/1/2020 tăng 155%. Bên cạnh đó, nhờ có rất nhiều chính sách hỗ trợ tốt về con giống, đất đai, cơ chế, đến nay đã có tới 16 tỉnh, thành tái đàn vượt 100% so với trước dịch, điển hình như Bình Phước tăng trưởng tới 170%, tổng đàn lợn từ 800.000 con nay đã tăng lên mức 1,3 triệu con. Bên cạnh thành quả của việc tăng đàn, tái đành thành công trong thời gian ngắn kỷ lục, Bộ NN-PTNT cũng đã kịp thời tham mưu Chính phủ lần đầu tiên cho nhập khẩu thịt lợn từ Nga và lợn sống thương phẩm từ Thái Lan một cách an toàn, qua đó góp phần tạo hiệu ứng tâm lí hạ nhiệt giá lợn, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tín hiệu rất mừng với ngành chăn nuôi năm 2020 là có rất nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực giết mổ và chế biến thay vì chỉ đầu tư nhà máy thức ăn chăn nuôi và con giống. Ảnh: MML. Thu hút dự án đầu tư kỷ lục Theo ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, 2019 – 2020 là giai đoạn cực kỳ khó khăn đối với ngành chăn nuôi nước ta, nhưng cũng chính là giai đoạn đặc biệt thăng hoa với ngành chăn nuôi ở lĩnh vực thu hút đầu tư. Dù chưa có con số thống kê chính thức, nhưng điểm qua một số dự án đang đầu tư và đã khánh thành, 2020 chính là năm có làn sóng các doanh nghiệp, tập đoàn lớn đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi sôi nổi nhất. Trong đó, các doanh nghiệp đã có tên tuổi trong ngành chăn nuôi gia cầm như: Minh Dư, Cao Khanh, Dabaco… tiếp tục nâng cấp, mở rộng nâng cấp nhà máy con giống hiện đại hàng đầu thế giới với quy mô hàng trăm triệu con giống mỗi năm. Các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp ngoài ngành cũng liên tiếp có những dự án đầu tư quy mô vào chăn nuôi như: Cargill, Japfa, Hòa Phát, Thaco, Mavin, Hùng Nhơn, Tân Long… với tổng giá trị đầu tư lên tới cả tỉ USD. Điểm đáng mừng là hầu hết các dự án đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi của Việt Nam đều là những dự án quy mô lớn, công nghệ cao, chăn nuôi quy trình khép kín, là nền tảng, tiền đề quan trọng để ngành chăn nuôi Việt Nam từng bước hiện đại hóa, phát triển bền vững. Gần đây nhất, ngày 23/12, Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam chính thức khánh thành Nhà máy giết mổ gia cầm lớn nhất khu vực Đông Nam Á tại tỉnh Bình Phước với quy mô đầu tư 250 triệu USD. Giai đoạn 1 của dự án sẽ có quy mô giết mổ 50 triệu con gà/năm và giai đoạn 2 nâng công suất lên 100 triệu con gà/năm, trở thành tổ hợp nhà máy con giống, gia công, giết mổ, chế biến gà lớn nhất Đông Nam Á. Năm 2020 ngành chăn nuôi đón làn sóng đầu tư kỷ lục của các doanh nghiệp trong và ngoài ngành. Ảnh: Mavin. Trước đó, ngày 3/10, Công ty Cổ phần Masan MEATLife trực thuộc Tập đoàn Masan chính thức đưa Tổ hợp chế biến thịt MEAT Deli Sài Gòn tại tỉnh Long An trị giá 1.800 tỷ đi vào hoạt động với công suất thiết kế 1,4 triệu con heo/năm, tương đương với 155.000 tấn sản phẩm thịt mát và thịt chế biến từ thịt mát. Như vậy, cùng với Nhà máy MEAT Hà Nam khánh thành tháng 12/2018, Masan hoàn toàn đủ khả năng cung ứng được cơ bản nhu cầu tiêu thụ thịt mát cho hai thành phố lớn nhất của cả nước là TP.HCM và Hà Nội và tương lai là cho hàng chục triệu dân của Việt Nam. Bên cạnh việc đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi, chế biến, giết mổ lợn, Công ty Cổ phần Tập đoàn Masan còn công bố rót vốn sở hữu 51% Công ty Cổ phần 3F Việt, chính thức bước chân vào lĩnh vực giết mổ gia cầm. Việc có nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực chế biến, giết mổ vốn đòi hỏi suất đầu tư lớn, nhưng lại tiềm ẩn nhiều rủi ro thay vì chỉ tập trung vào phần ngọn là sản xuất con giống, cho thấy khát vọng, bản lĩnh và tầm nhìn của các doanh nghiệp chăn nuôi, bởi nếu không có được một hệ thống giết mổ chế biến đủ lớn, đủ hiện đại, khép kín, ngành chăn nuôi Việt Nam khó có thể trưởng thành và vươn ra thế giới. Theo Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Văn Trọng, mặc dù năm 2020 vẫn chưa hết khó khăn, nhưng chứng kiến các tỉnh miền Trung phải trải qua 9 cơn bão liên tiếp, trong đó có những cơn bão với lượng mưa lớn chưa từng có trong lịch sử gây thiệt hại nặng nề, hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường, các doanh nghiệp, đơn vị, trung tâm trong ngành chăn nuôi đã ngay lập tức ủng hộ 1,1 triệu con giống gia cầm, 300 tấn thức ăn chăn nuôi cùng rất nhiều vật tư, thuốc thú y, vacxin, thuốc sát trùng trị giá nhiều tỷ đồng và hiện đã bàn giao xong. 2020 cũng chính là mốc lịch sử quan trọng với ngành chăn nuôi Việt Nam khi từ ngày 1/1/2020, Luật Chăn nuôi chính thức có hiệu lực. Lần đầu tiên chăn nuôi trở thành ngành nghề có điều kiện với hệ thống thể chế, pháp lý đầy đủ, hiện đại quản lý xuyên suốt từ con giống tới chăn nuôi, giết mổ, tiêu thụ và môi trường. Ngày 16/10/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1520 phê duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045. Lần đầu tiên trong lịch sử ngành chăn nuôi có được một chiến lược phát triển bài bản, dài hơi và xứng tầm với vai trò, vị thế của ngành chăn nuôi trong tổng thể nền kinh tế của đất nước. Năm 2020 cũng là năm bước ngoặt với ngành chăn nuôi khi rất nhiều giống vật nuôi có giá trị và tiềm năng được đưa vào quản lý, điển hình là nghề nuôi chim yến. Hiện Bộ NN-PTNT và các bộ, ngành liên quan đang thực hiện các bước đàm phán xúc tiến để chính thức đưa tổ yến trở thành mặt hàng xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc. Qua đó, tạo tiền đề quan trọng để nâng sản lượng tổ yến của Việt Nam từ 150 tấn/năm lên 300 tấn/năm, trở thành ngành hàng nông nghiệp xuất khẩu tỷ USD tiếp theo. Nguyên …
| Tin mới | admin | 06/01/2021 | | Đảm bảo đủ thực phẩm phục vụ tết Tân Sửu 2021 | Bộ NN-PTNT khẳng định, tết Tân Sửu 2021 nguồn cung thực phẩm cơ bản đảm bảo đầy đủ dù ngành chăn nuôi vừa trải qua một năm vô cùng khó khăn do dịch bệnh. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến kiểm tra an toàn thực phẩm tại cơ sở chế biến của HTX Hoàng Long, Thanh Oai, Hà Nội. Ảnh: Nguyên Huân. Kiểm tra và làm việc với UBND TP. Hà Nội chiều 29/12 về công tác an toàn thực phẩm dịp tết Tân Sửu 2021, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, dù sản lượng thịt lợn sụt giảm do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nhưng nhờ sự tăng trưởng vượt bậc từ lĩnh vực chăn nuôi gia cầm, đại gia súc ăn cỏ và thủy sản đã bù đắp cơ bản thiếu hụt do thịt lợn để lại. Đặc biệt, năm 2020, nhờ Bộ NN-PTNT đẩy mạnh thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản an toàn sinh học, khép kín, công nghệ cao, giết mổ, chế hiện đại theo chuỗi nên chất lượng các mặt hàng nông, lâm thủy sản ngày càng được nâng cao, số vụ vi phạm và mức độ vi phạm năm nay giảm mạnh so với 2019 và các năm trước. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chia sẻ thêm, ảnh hưởng từ các cơn bão lịch sử vừa qua khiến chăn nuôi các tỉnh miền Trung chịu thiệt hại nặng nề, Bộ NN-PTNT ngay lập tức huy động được 1,1 triệu con giống gia cầm, trên 300.000 nghìn tấn thức ăn chăn nuôi cùng các vật tư khác hỗ trợ bà con nhân dân vào đàn, tái đàn để kịp thời có sản phẩm xuất bán đúng dịp tết này, góp phần hạn chế việc khan hiếm thực phẩm cục bộ tại một số địa phương. Thời gian gần đây giá lợn hơi trên thị trường có xu hướng nhích lên do nhu cầu tăng dịp tết cộng dịch bệnh tả Châu Phi bùng phát xôi đỗ tại một số địa phương nhưng nhờ tổng đàn lợn của cả nước đến nay đã phục hồi trên 85% so với trước dịch, đạt trên 26 triệu con, đàn nái đã phục hồi đạt 3 triệu con nên quý 1/2021 sản lượng thịt lợn sẽ tiếp tục tăng, vì vậy áp lực với mặt hàng thịt lợn tuy vẫn còn nhưng không quá lớn như đầu năm 2020. Ông Nguyễn Trọng Long, Giám đốc HTX Hoàng Long giới thiệu với Thứ trưởng Phùng Đức Tiến và đoàn công tác mô hình giết mổ lợn mini đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Ảnh: Nguyên Huân. Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường cho biết, sản phẩm nông nghiệp phục vụ dịp tết năm nay của Hà Nội đa dạng, phong phú, chất lượng cao. Theo tính toán, nhu cầu thực phẩm trước, trong và sau tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 của Hà Nội ước khoảng 292.000 tấn gạo, 56.000 tấn thịt lợn, 19.000 tấn thịt gà, 18.000 tấn thịt bò, 396 triệu quả trứng gia cầm, 315.000 tấn rau củ, 15.000 tấn thủy hải sản, 18.000 tấn thực phẩm chế biến, 156.000 tấn trái cây. Theo ông Tường, hiện sản lượng gia cầm, thủy sản đã đáp ứng 100% nhu cầu người dân, sản lượng gạo, rau, quả, thịt lợn, thịt gà… đáp ứng 60 – 90%. Ngoài ra, Hà Nội còn liên kết với các tỉnh, thành phố đưa nông sản, thực phẩm an toàn về thị trường Thủ đô tiêu thụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân. Ông Tường cho biết, Sở NN-PTNT Hà Nội chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, các đơn vị trực thuộc tiếp tục tăng cường công tác quản lý an toàn thực phẩm nông sản theo chức năng, nhiệm vụ được giao, nhất là tại các chuỗi, các chợ dân sinh, chợ đầu mối để khôn chỉ đảm bảo về số lượng mà phải đảm bảo cả chất lượng thực phẩm cho bà con nhân đân Thủ đô đón tết. Hiện đã có 25 đơn vị sản xuất, kinh doanh của TP. Hà Nội và các tỉnh, thành, 2 tổ chức tín dụng đăng ký tham gia chương trình bình ổn thị trường các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân thông qua 12.443 điểm bán, trong đó có 142 siêu thị; 1.351 cửa hàng tiện lợi, 7.680 cửa hàng tạp phẩm, 1.438 điểm bán tại các chợ, 495 bếp ăn tập thể, 5.000 điểm bán hàng ở các tỉnh, thành phố ngoài Hà Nội. Thông tin từ Sở Công thương Hà Nội, các đơn vị của Hà Nội đã xây dựng kế hoạch khai thác tăng lượng hàng hóa thiết yếu phục vụ tết tăng trung bình từ 7% đến 22% so với tết 2020, nguồn cung các mặt hàng dồi dào, cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân dịp tết. Ước tính tổng giá trị hàng hóa phục vụ tết trên địa bàn Hà Nội năm nay đạt khoảng 39.400 tỷ đồng, tăng 5% so với Tết năm 2020. Từ nay đến tết Nguyên đán Tân Sửu 2021, TP. Hà Nội cho biết, sẽ tổ chức hàng loạt Hội chợ hàng hóa nông sản thực phẩm Tết Tân Sửu 2021 trong tháng 1/2021 với quy mô dự kiến 200 gian hàng; Dự kiến tổ chức Hội chợ Xuân Tân Sửu năm 2021 thuộc dự án Tuần hàng Việt với quy mô 100 gian hàng trong tháng 2/2021; tổ chức 88 chợ Hoa Xuân phục vụ tết, các chuyến bán hàng lưu động về khu vực ngoại thành Hà Nội, các khu công nghiệp, khu chế xuất để đáp ứng nhu cầu mua sắm của nhân dân; hỗ trợ các tỉnh, thành phố tổ chức 3 – 5 tuần hàng tại Hà Nội. Nguyên …
| Tin mới | admin | 04/01/2021 | | Đoàn Thanh niên Cục Chăn nuôi: ra quân cải tạo tường rào bao quanh và xây dựng “Hàng rào xanh” | Hưởng ứng phong trào “Ngày Thứ bảy tình nguyện, ngày Chủ nhật xanh” do Đoàn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát động và kỷ niệm tháng thanh niên, được sự đồng ý của Đảng ủy Cục Chăn nuôi, Ban Giám đốc Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định Chăn nuôi, Chi đoàn Cục Chăn nuôi đã tổ chức cải tạo tường rào bao quanh và xây dựng “Hàng rào xanh” trong khuôn viên Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định Chăn nuôi tại Thụy Phương, Bắc Từ Liêm Hà Nội. Phong trào “Ngày Thứ bảy tình nguyện, ngày Chủ nhật xanh” Trong ngày phát động, toàn thể đoàn thanh niên đã ra quân và trồng 400 cây Trúc quân tử, 20 cây Trắc nhật tạo nên 80 mét hàng rào bao quanh Trung tâm. Từ sáng sớm, các đoàn viên đã có mặt cùng nhau tiến hành vệ sinh khu vực khuôn viên và chuẩn bị cây trồng, toàn bộ số cây xanh đã được trồng tạo nên “Hàng rào xanh” góp phần xây dựng cảnh quan Trung tâm vừa đảm bảo môi môi trường đô thị xanh, sạch, đẹp. Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi tham gia trồng cây Cũng trong tháng thanh niên, Chi đoàn đã tổ chức cải tạo lại phần tường bao quanh. Toàn bộ mặt tường bao quanh trung tâm đã được sơn lại. Hàng rào bao quanh Trung tâm Công trình xanh thể hiện tinh thần xung kích, trách nhiệm của đoàn thanh niên trong nhiệm vụ xây dựng Trung tâm, giúp thanh niên nâng cao nhận thức về lợi ích của việc trồng cây gây rừng, góp phần xây dựng thành phố phát triển toàn diện, bền vững. Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi tích cực tham gia phong trào Công trình xanh thể hiện tinh thần xung kích, trách nhiệm của đoàn thanh niên trong nhiệm vụ xây dựng Trung tâm, giúp thanh niên nâng cao nhận thức về lợi ích của việc trồng cây gây rừng, góp phần xây dựng thành phố phát triển toàn diện, bền vững. Đây là một hoạt động có ý nghĩa thiết thực và nhận được sự hưởng úng nhiệt tình từ các đoàn viên, thanh niên, có ý nghĩa lớn trong việc tuyên truyền, nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ cảnh quan, đồng thời góp phần truyền cảm hứng tới cộng đồng trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường sống. Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi …
| Chi đoàn Cục Chăn nuôi | admin | 31/12/2020 | | Phòng chống đói rét cho đàn vật nuôi khu vực phía bắc | Ngày 30-12, UBND tỉnh Hòa Bình phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) tổ chức Hội nghị triển khai công tác phòng chống đói rét cho đàn vật nuôi khu vực phía bắc. Đồng chí Đinh Công Sứ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình phát biểu tại hội nghị. Tại hội nghị, Bộ NN và PTNT chỉ đạo, để giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại của thiên tai gây ra trước tình hình rét đậm, rét hại trên diện rộng, các địa phương cần tập trung chỉ đạo quyết liệt, áp dụng các biện pháp phòng, chống đói, rét cho đàn vật nuôi. Tuyên truyền, vận động nhân dân không chăn thả gia súc và cho gia súc làm việc ngoài trời khi nhiệt độ xuống 12 độ C. Đồng thời, đề nghị các địa phương thực hiện tốt các yếu tố như: bảo đảm toàn bộ vật nuôi được tiêm vaccine đầy đủ; sử dụng đúng định lượng hóa chất để khử khuẩn cho chuồng trại và trong quá trình tiêu hủy; xây dựng vùng an toàn dịch bệnh và an toàn sinh học tại địa phương; phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố, ổ dịch khi xảy ra. Bên cạnh đó, các địa phương cần tăng cường công tác phối hợp và huy động nguồn nhân lực tại chỗ để hỗ trợ kịp thời cho người dân triển khai các biện pháp phòng, chống đói rét cho đàn vật nuôi. Thực hiện công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng các biện pháp dự trữ thức ăn, che chăn chuồng trại. Thống kê đầy đủ, chính xác số lượng vật nuôi bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trên địa bàn. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình Đinh Công Sứ cho biết, toàn tỉnh hiện có gần 116 nghìn con trâu, gần 85 nghìn con bò, hơn 446 nghìn con lợn, gần tám triệu con gia cầm và hơn 51 con dê. Năm 2020, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi năm theo giá so sánh đạt khoảng 3,4 nghìn tỷ đồng, vượt 4,5% so với cùng kỳ năm 2019. Nhiều mô hình chăn nuôi tập trung công nghiệp và hợp tác xã chăn nuôi hình thành và ngày càng mở rộng. Việc xây dựng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể cho sản xuất vật nuôi có lợi thế của địa phương đã được cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể sản phẩm “Gà Lạc Sơn”, “Gà Lạc Thủy”, “Lợn bản địa huyện Đà Bắc”… Trên địa bàn tỉnh có năm nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi với tổng công suất khoảng 655 nghìn tấn/năm, có 225 cơ sở kinh doanh thức ăn chăn nuôi. Người dân đã chủ động chuyển đổi tối đa diện tích đất sản xuất cây lương thực, hoa màu kém hiệu quả sang trồng cây thức ăn chăn nuôi, dự trữ chế biến thức ăn từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp cho trâu, bò và vụ đông. Trong năm vừa qua, tỉnh đã làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, tuyên truyền, vận động người dân thực hiện các biện pháp ứng phó với tình hình rét đậm, rét hại; hướng dẫn người chăn nuôi dự trữ thức ăn cho đàn vật nuôi. TRẦN HẢO …
| Tin mới | admin | 30/12/2020 | | Ngành Chăn nuôi làm được điều mà thế giới chưa làm được | Năm 2020 mặc dù gặp khó khăn thách thức đủ bề, nhưng ngành Chăn nuôi đã làm được những điều mà thế giới chưa làm được. Phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác chỉ đạo ngành Chăn nuôi năm 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021 ngày 26/11 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến cho rằng, dù vẫn còn nhiều lĩnh vực, nhiều nhiệm vụ chưa hoàn thành như kỳ vọng nhưng trên tổng thể nền kinh tế, trong năm 2020 ngành Chăn nuôi đã đạt được những thành tựu to lớn chưa từng có trong lịch sử, đóng góp to lớn cho ngành nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế chung của đất nước. Thành tựu nổi bật trong năm 2020 theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến là Việt Nam đã khống chế thành công bệnh dịch tả lợn Châu Phi nguy hiểm sớm hơn gần nửa năm so với Trung Quốc. Đặc biệt, chỉ trong vòng 1 năm, ngành Chăn nuôi đã bằng nhiều giải pháp từ nhập khẩu thịt lợn, nhập khẩu lợn sống, đẩy mạnh hỗ trợ chăn nuôi an toàn sinh học đã tái đàn với tốc độ nhanh kỷ lục, qua đó góp phận hạ nhiệt giá lợn từ cuối quý 3, đầu quý 4 năm 2020 theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Đến nay, tổng đàn lợn nái đã hồi phục về xấp xỉ 3 triệu con, tổng đàn lợn cả nước đạt trên 26 triệu con, bằng 85% tổng đầu lợn so với lức trước khi xảy ra dịch tả lợn Châu Phi. Với chăn nuôi gia cầm, năm 2020 tiếp tục tăng trưởng trên 10%, tổng đàn gia cầm cả nước lần đầu tiên đạt 500 triệu con. Vui hơn nữa là những ngày cuối năm 2020 ngành Chăn nuôi đón hàng loạt dự án đầu tư lớn vào lĩnh vực giết mổ chế biến gia súc, gia cầm và chuẩn bị có sản phẩm vacxin dịch tả lợn Châu Phi. Qua sự kiện này, Việt Nam đã chứng minh, những gì thế giới chưa làm được không đồng nghĩa với việc Việt Nam cũng không làm được. Một điểm nhấn với ngành Chăn nuôi năm 2020 theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến là lần đầu tiên ngành chăn nuôi có được một hành lang pháp lý hoàn thiện khi Luật Chăn nuôi cùng các Nghị định hướng dẫn chính thức có hiệu lực. Do đó, trong năm 2021, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến giao ngành chăn nuôi coi việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực chăn nuôi là một nhiệm vụ trọng tâm cần được ưu tiên. Một nhiệm vụ quan trọng khác trong năm 2021 với ngành chăn nuôi theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến là phải hoàn thiện xây dựng 5 đề án chiến lược cho ngành chăn nuôi Việt Nam theo Đề án Chiến lược Phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Để hoàn thiện 5 đề án này, Thứ trưởng giao năm 2021 Cục Chăn nuôi cần phải tổ chức được ít nhất 4 hội nghị, hội thảo chuyên đề về chăn nuôi lợn, chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi đại gia súc ăn cỏ và một hội nghị về thức ăn chăn nuôi. Bên cạnh đó, năm 2021 ngành chăn nuôi cần vận dụng tối đa các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn ODA và đặc biệt là nguồn vốn xã hội hóa tập trung cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chương trình giống, bởi nói gì thì nói con giống vẫn là yếu tố quan trọng đầu tiên, căn bản với ngành chăn nuôi. Song song với việc tiếp tục xây dựng các cơ sở, vùng chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đề nghị trong năm 2021 ngành chăn nuôi cần đẩy mạnh xây dựng, thu hút các mô hình chăn nuôi công nghệ cao, chăn nuôi hiện địa, khép kín, tự động để tối ưu hóa sản xuất, tạo ra sản phẩm chăn nuôi có giá thành cạnh tranh, chất lượng cao để hướng tới xuất khẩu, tiếp tục duy trì chăn nuôi trở thành mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch tỷ USD của cả nước. Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi, tổng kết năm 2020 tổng đàn lợn cả nước đạt 26,17 triệu con (tăng khoảng 5%); tổng số bò 5,87 triệu con (tăng 4,2%); tổng số gia cầm xấp xỉ 500 triệu con (tăng 6,2%); sản lượng trứng đạt 14,5 tỷ quả, tăng khoảng 9,5% so với năm 2019. Sản lượng thịt bò hơi đạt khoảng 372,5 ngàn tấn, tăng khoảng 4,8%, so với năm 2019; tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi năm 2020 ước đạt 20 triệu tấn, tăng 5,6% so với năm 2019. Tổng giá trị chăn nuôi ước cả năm 2020 tăng khoảng 5,5% so với năm 2019. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2020, cả nước nhập khẩu 41.500 con lợn giống (kim ngạch 24,7 triệu USD), 301.000 con lợn thịt (kim ngạch 84,6 triệu USD); hơn 3,4 triệu con gia cầm giống (kim ngạch 17,9 triệu USD) và lượng trâu bò sống giết thịt là 518.000 con (kim ngạch 556 triệu USD). Tổng lượng thịt nhập khẩu các loại (thịt lợn, gà, gia súc, dê, cừu) là trên 321.000 tấn (bằng 6% so với tổng sản lượng thịt hơi sản xuất trong nước). Năm 2020 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi ước đạt khoảng 1,2 tỷ USD. Trong đó, thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh khoảng 28,5 triệu USD; Thịt và phụ phẩm gia cầm sau giết mổ khoảng 25,1 triệu USD; Trứng gia cầm đã bảo quản hoặc làm chín khoảng 1,4 triệu USD; Mật ong tự nhiên khoảng 71,3 triệu USD; Xúc xích và các sản phẩm tương tự, phụ phẩm dạng thịt khoảng 0,3 triệu USD; Thịt và phụ phẩm dạng thịt đã chế biến khoảng 28,1 triệu USD. Thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu khoảng 789 triệu USD. Năm 2021, Cục chăn nuôi đặt mục tiêu tăng trưởng giá trị sản xuất chăn nuôi bình quân năm 2021 đạt khoảng 5-6%. Sản lượng thịt các loại đạt khoảng 5,7 triệu tấn, trong đó, thịt lợn đạt khoảng 3,67 triệu tấn (tăng 6,1%), thịt gia cầm đạt khoảng 1,5 triệu tấn (tăng 5,8%), thịt bò đạt khoảng 395 ngàn tấn (tăng 6%). Sản lượng trứng đạt khoảng 15,6 tỷ quả (tăng 7,5%) và sản lượng sữa đạt khoảng 1,21 triệu tấn (tăng 11,5%). Nguyên …
| Tin mới | admin | 28/12/2020 | | Việt Nam có nhà máy chế biến thịt gà xuất khẩu lớn nhất Đông Nam Á | TTO – Với tổng công suất 100 triệu con gà thịt/năm, tổ hợp nhà máy CPV Food tại khu công nghiệp Becamex Bình Phước kỳ vọng đem về nguồn ngoại tệ 200 triệu USD/năm, tạo ra bước đột phá mạnh mẽ cho nghành chăn nuôi Việt Nam. Trứng gà được phân loại, ấp nở bằng công nghệ tự động, hiện đại tại nhà máy CPV Food Bình Phước – ẢNH: N.TRÍ Ngày 23-12, Hội nghị xúc tiến đầu tư tỉnh Bình Phước với sự tham dự của Phó thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình và hàng trăm doanh nghiệp đã diễn ra. Khuôn khổ chương trình có lễ khánh thành tổ hợp nhà máy CPV Food – dự án trọng điểm trong thu hút đầu tư tỉnh Bình Phước. Phát biểu tại hội nghị, bà Trần Tuệ Hiền – chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước – cho biết nhờ cam kết tạo môi trường đầu tư thuận lợi nên số lượng doanh nghiệp đầu tư vào Bình Phước ngày càng tăng, nhiều dự án đi vào hoạt động hiệu quả. Riêng dự án CPV Food sau hai năm xúc tiến đến nay đã khánh thành. Theo ông Nguyễn Xuân Cường – bộ trưởng Bộ NN&PTNT – với công suất thiết kế 100 triệu con gà thịt/năm (sau năm 2023), chiếm khoảng 20% tổng lượng gà cả nước, CPV Food Bình Phước đi vào vận hành sẽ đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia sản xuất thực phẩm từ gia cầm lớn trên thế giới, giúp thúc đẩy mạnh sự phát triển ngành chăn nuôi trong nước. Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Phó thủ tướng Trương Hòa Bình đánh giá cao sự chủ động của tỉnh Bình Phước, Bình Dương và của các nhà đầu tư đã có những cách làm sáng tạo trong bối cảnh bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 nhưng vẫn hoàn thành nhà máy, xuất khẩu những lô hàng đầu tiên đi nước ngoài, tạo ra sự tăng trưởng. Phó thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tham gia hội nghị – ẢNH: NGUYỄN TRÍ Phó thủ tướng yêu cầu cơ quan chức năng của địa phương và các doanh nghiệp cần tích cực chuẩn bị, hoàn thiện cơ sở hạ tầng và mở rộng các khu công nghiệp để đón nhận các nhà đầu tư, trong đó chú trọng ưu tiên các nhà máy đầu tư thông minh, mang lại giá trị gia tăng cao. “Các nhà đầu tư cần triển khai dự án đúng tiến độ, tránh việc đăng ký “dự án ảo” và trong sự phát triển dự án phải gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội tại địa phương”, Phó thủ tướng nhấn mạnh. UBND tỉnh Bình Phước trao chứng nhận cho các nhà đầu tư tại hội nghị – ẢNH: NGUYỄN TRÍ Tại hội nghị xúc tiến đầu tư, UBND tỉnh Bình Phước đã trao quyết định chủ trương đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 35 nhà đầu tư, thực hiện 46 dự án đầu tư (trong KCN Minh Hưng – Sikico 11 dự án; KCN Becamex – Bình Phước 15 dự án; 20 dự án hạ tầng cụm công nghiệp và ngoài KCN) với tổng vốn đăng ký đầu tư 46.276 tỉ đồng, tương đương gần 2 tỉ USD; tăng gần gấp đôi so với Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2018. Riêng dự án CPV Food với số vốn đầu tư ban đầu 250 triệu USD – là nhà máy chế biến thịt gà có qui mô lớn nhất Đông Nam Á – kỳ vọng sẽ cung cấp sản phẩm thịt gà chất lượng cao, an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu: Nhật Bản (45%), châu Âu (35%), châu Á (10%) và Trung Đông (10%). Thực hiện trên vùng an toàn dịch bệnh đầu tiên của Việt Nam Tổ hợp nhà máy CPV Food Bình Phước (nằm tại KCN Becamex Bình Phước) chia thành 2 giai đoạn. Trong đó, giai đoạn 1 (từ năm 2019-2023) được thực hiện trên 6 địa phương thuộc tỉnh Bình Phước gồm: TP.Đồng Xoài, thị xã Bình Long, huyện Đồng Phú, huyện Chơn Thành, huyện Hớn Quản, huyện Bù Đăng. Hiện nay, 6 địa phương trên đã được Tổ chức thú y thế giới OIE công nhận là vùng an toàn dịch bệnh đầu tiên tại Việt Nam. Sau lễ khánh thành, CPV Food Bình Phước đã xuất khẩu lô thịt gà đầu tiên sang Hong Kong. Thu hút đầu tư trong nước vào Bình Phước tăng mạnh Theo UBND tỉnh Bình Phước, năm 2020 tỉnh thu hút đầu tư trong nước 120 dự án, với số vốn đăng ký 120.000 tỷ đồng, tăng 17%; thu hút đầu tư nước ngoài 36 dự án, vốn đăng ký 432 triệu USD; lũy kế đến nay Bình Phước có 272 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là 2 tỉ 718 triệu …
| Tin mới | admin | 24/12/2020 | | Video hướng dẫn khai báo hệ thống một cửa gia tại Cục Chăn nuôi | Thủ tục Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu. Thủ tục Miễn giảm kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập …
| Thông báo | admin | 23/12/2020 | | Môi trường đầu tư nông nghiệp cải thiện vượt bậc sau 10 năm cải cách | Bộ NN-PTNT có sự cải thiện vị trí một cách mạnh mẽ trên bảng xếp hạng Cải cách hành chính khi tăng mạnh từ vị trí thứ 13 lên vị trí thứ 4. Thứ trưởng Thường trực Bộ NN-PTNT Hà Công Tuấn cho biết, định hướng cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030 của ngành NN-PTNT là tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm xây dựng nền hành chính phát triển, xây dựng nhà nước kiến tạo, hành động, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình. Ảnh: Nguyên Huân. Tại hội nghị tổng kết 10 năm Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 và triển khai định hướng cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030 diễn ra chiều 21/12 tại tỉnh Ninh Bình, Thứ trưởng Thường trực Bộ NN-PTNT Hà Công Tuấn khẳng định, cải cách hành chính luôn là nội dung trọng tâm thường xuyên được quan tâm, đây là động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển lĩnh vực NN-PTNT thời gian tới. Kết quả cải cách hành chính thực hiện trong 10 năm qua của ngành NN-PTNT đựợc thể hiện toàn diện trên cả 7 nội dung về cải cách thể chế trong lĩnh vực NN-PTNT như: Cải cách thủ tục hành chính; cải cách bộ máy; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; Cải cách tài chính công; Hiện đại hóa hành chính… Qua đó tạo sự chuyển biến trong quản lý, điều hành của Bộ, góp phần thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Chỉ số cải cách hành chính của Bộ NN-PTNT, từ xếp hạng thứ 13 năm 2016 lên vị trí thứ 7 năm 2017 và giữ vị trí thứ 4 trong 2 năm liên tiếp được đánh giá gần đây là năm 2018 và 2019. Với phương châm quyết liệt thực hiện đảm bảo đơn giản, công khai, minh bạch và cắt giảm các thủ tục hành chính không cần thiết nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước do Bộ quản lý, đến tháng 12 năm nay, lĩnh vực NN-PTNT đã có 390 thủ tục hành chính được công khai trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng thông tin điện tử của Bộ và Cổng thông tin điện tử của các đơn vị theo đúng quy định. So với thời điểm tháng 1/2016, Bộ đã cắt giảm được 118 thủ tục hành chính. Về rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính kiểm tra chuyên ngành đã đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa 32 trong tổng số 63 thủ tục hành chính, đạt 50,7% kế hoạch đề ra, đã đạt yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… Thứ trưởng Thường trực Hà Công Tuấn nhấn mạnh, cải cách hành chính muốn hiệu quả phải luôn bám sát chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ. Theo đó, phải cập nhật kịp thời xu hướng quản lý tiên tiến của thời đại, đó là vận hành nền hành chính nhưng phải đảm bảo vận hành theo cơ chế thị trường. Bộ NN-PTNT coi cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm và là nguồn lực khai thác để phát triển lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Công cuộc cải cách hành chính gắn liền với sự phát triển của Nhà nước, thời gian tới việc cải cách hành chính của Bộ tiếp tục phải làm một cách đồng bộ. Trong đó trọng tâm là cắt giảm tối thiểu những thủ tục hành chính rườm rà trên quan điểm chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm trên cơ sở đánh giá rủi ro. “Để làm được điều này đột phá tới đây là phải ứng dụng công nghệ thông tin, làm tốt chương trình Chính phủ điện tử mà Chính phủ đã có Đề án và kế hoạch, chỉ có điều chúng ta làm cho tốt hơn để công dân có thể tiếp xúc với Chính phủ, tham gia với Chính phủ một cách công khai, minh bạch”, Thứ trưởng Thường trực Hà Công Tuấn chia sẻ. Thứ trưởng Thường trực Bộ NN-PTNT Hà Công Tuấn tặng Bằng khen của Bộ trưởng cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác cải cách hành chính 10 năm qua. Ảnh: Nguyên Huân. Ông Nguyễn Trọng Thừa, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó trưởng ban Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ đánh giá cao những nỗ lực của Bộ NN-PTNT về cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn vừa qua. Theo ông Nguyễn Trọng Thừa, là một đơn vị siêu bộ và quản lý lĩnh vực vô cùng rộng lớn, nhưng đến nay có thể khẳng định Bộ NN-PTNT đã làm rất tốt, rất sáng tạo và rất quyết liệt công tác cải cách hành chính, cải cách thể chế và bộ máy. Nỗ lực của Bộ NN-PTNT được các bộ, ngành, doanh nghiệp, người dân, Chính phủ và Quốc hội ghi nhận và được thể hiện rõ nét nhất quả việc giữ vững vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng cải cách hành chính trong hai năm qua. Trong thời gian tới, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa đề nghị Bộ NN-PTNT tiếp tục phát huy những kết quả đạt được. Trong cải cách về thể chế cần tập trung xây dựng những văn bản quy phạm pháp luật chất lượng và lượng hóa để tránh chồng chéo về 1 việc mà nhiều đơn vị cùng làm như trong lĩnh vực đất đai, lâm nghiệp. Định hướng cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030 của ngành NN-PTNT là tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm xây dựng nền hành chính phát triển, xây dựng nhà nước kiến tạo, hành động, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình; xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; hệ thống cơ quan hành chính tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân. Nguyên …
| Tin mới | admin | 22/12/2020 | | KDI Holdings chi 2.000 tỷ đồng xây dựng trang trại nuôi lợn công nghệ cao | Bên cạnh 100ha chuối công nghệ cao, Tập đoàn KDI Holdings còn đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng vào dự án nuôi lợn, trồng ngô ở vùng Tây Nguyên sỏi đá khô cằn Trong những năm qua, tình hình dịch bệnh bùng phát, đặc biệt là dịch tả châu Phi đã gây ra những tác động tiêu cực đến ngành chăn nuôi trong nước nói chung và thế giới nói riêng. Chính phủ đã và đang ra sức chỉ đạo tái tạo, khôi phục tổng đàn lợn cũng như ổn định nguồn cung thực phẩm thiếu hụt, bình ổn thị trường kinh tế. Chung tay đóng góp cho sự phát triển nền chăn nuôi nước nhà, Tập đoàn KDI Holdings đầu tư dự án liên hợp nông nghiệp công nghệ cao Phước An ở huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Krông Pắc là huyện cao nguyên có địa hình tương đối bằng phẳng nằm ở phía Đông tỉnh Đắk Lắk, nơi có các tuyến quốc lộ chạy dọc huyện nối liền với thành phố du lịch Nha Trang đồng thời kết nối ra quốc lộ 14 chạy về TP.HCM. Khí hậu Krông Pắc tương đối mát mẻ, phù hợp với ngành trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn. Bên cạnh đó, bản thân địa phương cũng định hướng phát triển chăn nuôi lợn. Từ đó, chủ trương phát triển của Công ty TNHH HTV Lâm nghiệp Phước An (Tập đoàn KDI Holdings đầu tư vốn) trong những năm tới là tập trung nghiên cứu, triển khai hệ thống quy mô trang trại chăn nuôi khép kín ứng dụng công nghệ cao. Xã Vụ Bổn, huyện Krông Pắc được chọn làm trang trại chăn nuôi lợn nái. Quy mô dự án gồm trại lợn giống bố mẹ với 10.000 con, trại lợn giống ông bà cụ kị 2.000 con, trại lợn thịt thương phẩm 144.000 con, khu sản xuất ngô nguyên liệu thức ăn chăn nuôi 30.000 tấn mỗi năm, nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ từ phế thải trang trại. Tháng 9-2020, dự án được Tập đoàn KDI Holdings bắt đầu triển khai và dự kiến hoàn thành xây dựng cơ bản trong 18 tháng với tổng diện tích đất cho trang trại khoảng 750ha. Theo quy hoạch mô hình trang trại sinh thái khép kín ứng dụng công nghệ cao với tổng giá trị dự trù đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng. Mô hình khép kín từ khu quy hoạch, trồng ngô, xây dựng nhà máy và cung cấp thức ăn trong khu. Hệ thống cấp thức ăn cho lợn hoàn toàn tự động. Từ vùng trồng ngô sẽ tiến vào nhà máy sản xuất thức ăn, xe bồn vận chuyển tới silo chứa cám trung tâm trang trại, phân phối tới các silo đầu chuồng và từ đó tự động cấp tới máng ăn từng con theo tiêu chuẩn. Ông Kiều Hữu Long – Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH HTV Lâm nghiệp Phước An cho biết, công ty đã tính toán kỹ lưỡng từng giai đoạn đầu tư xây dựng cụ thể. Ở giai đoạn đầu, chủ đầu tư sẽ làm đường giao thông nội bộ khu vực xây dựng trang trại, khoan giếng lắp hệ thống nước sạch, xây hàng rào, cổng, bốt bảo vệ, khu ăn ở sinh hoạt cho cán bộ, công nhân. Tiếp đó, việc lắp trạm biến thế điện, nhà làm việc của ban quản lý xây dựng trại, xây dựng bể biogas, đào ao xử lý chất thải cân bằng môi trường sinh thái, san lấp mặt bằng, làm mương máng thoát chất thải, xây dựng chuồng nuôi lợn của các khu vực, lợn bố mẹ, đực giống, dự bị, lợn sữa, lợn cai sữa, lợn thịt, khu cách ly, khu xuất bán, xây dựng xưởng cơ điện, trạm khử trùng, xây dựng trạm cân điện tử, cân ô tô… sẽ được hoàn thành. Việc xây dựng chuồng trại cũng được chia theo từng phân khu. Trong đó, quy mô trại nái đủ nuôi 12.000 con nái, 200 con đực giống được lập thành 4 phân khu riêng tương đương 40ha khuôn viên xây dựng chuồng trại. Giai đoạn 1 năm 2020, công ty đầu tư chuồng trại nuôi 3000 lợn nái và 50 lợn đực giống, năm 2021 thả nuôi 9000 lợn nái và 150 lợn đực. Quy mô trại heo thương phẩm 144.000 con cũng được đầu tư trong hai giai đoạn 2020 và 2021. Dự kiến, cuối năm 2021 dự án hoàn thành toàn bộ đầu tư và đưa vào hoạt động 100% công suất chuồng trại. Theo lãnh đạo Tập đoàn KDI Holdings, mục tiêu của dự án không chỉ nâng cao hiệu quả sử dụng đất, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất thực phẩm sạch, chất lượng bằng phương pháp khoa học kỹ thuật, công nghệ cao mà còn tạo việc làm nâng cao thu nhập trực tiếp cho khoảng 200 lao động trong năm đầu tiên, và tăng dần khi sản xuất kinh doanh đi vào ổn định. Với quy mô của trang trại có 12.200 con lợn nái, đực sinh sản và 144.000 con thương phẩm, vấn đề vệ sinh môi trường, phòng tránh dịch bệnh được công ty đưa lên hàng đầu. Theo giải pháp dự án đưa ra, chất thải phát sinh trong quá trình chăn nuôi là phân được máy cào gom về khu chế biến phân vi sinh. Nước sau khi ép lọc chảy vào bể biogas tạo khí gas làm chất đốt dùng cho trang trại như nấu nướng, sưởi ấm cho trang trại về mùa lạnh. Nước sau khi qua hố biogas được xử lý nuôi cấy men vi sinh phân hủy hoàn toàn chất hữu cơ tồn đọng và khử mùi. Sau đó, nước tiếp tục chảy vào các hồ thủy sinh lắng đọng có thời gian và nuôi cá. Từ đây nước sạch đảm bảo không có mùi hôi thối, đạt tiêu chí, tiêu chuẩn cos B về vệ sinh môi trường của Sở Tài nguyên – Môi trường quy định. Nước sạch được dùng để tưới cho hệ thống trang trại trồng ngô khép kín của công ty… Tổng Giám đốc Tập đoàn KDI Holdings Đỗ Tuấn Anh cho biết, có rất nhiều cột mốc quan trọng trong lộ trình phát triển các dự án tiếp theo của KDI, từ bất động sản, giáo dục, nội thất, nông nghiệp… Và ở địa hạt đầu tư nào, KDI cũng hướng đến những cơ hội, ngành nghề đóng góp cho xã hội, nền kinh tế. Từ việc đầu tư vào trồng chuối công nghệ cao, đến giờ là hoạch định chiến lược nuôi lợn công nghệ cao ở vùng Tây Nguyên, KDI muốn đổi thay đời sống của người dân khu vực, “khai phá” cho người dân nơi đây hướng đi mới làm thế nào để tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn trên mảnh đất họ sinh sống bao đời với chính nông sản họ làm ra. P.V (Báo Tiền …
| Tin mới | admin | 14/12/2020 | | Nghệ An: Kiểm tra việc khắc phục tồn tại của Công ty Đại Thành Lộc | (Chinhphu.vn) – Qua Cổng TTĐT Chính phủ, ông Bùi Xuân Định đề nghị cơ quan chức năng có biện pháp xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường tại xã Nam Hưng, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An do hoạt động chăn nuôi lợn của Công ty TNHH Đại Thành Lộc gây ra. Theo phản ánh của ông Định, Công ty TNHH Đại Thành Lộc thành lập năm 2007, có địa chỉ tại xóm 10, xã Nam Hưng, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Công ty có trại chăn nuôi lợn siêu nạc, quy mô 4.000 con. Trại lợn nằm ở thượng nguồn hồ Tràng Đen. Toàn bộ chất thải, chất tẩy rửa từ trại đều xả thẳng xuống hồ. Hồ Tràng Đen là nguồn nước chính của hàng ngàn hộ dân xã Nam Hưng. Hàng chục năm qua, hoạt động của trại lợn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Gần đây, khi Sở Tài nguyên và Môi trường lấy mẫu nước giếng để kiểm tra thì các chỉ số đều vượt mức an toàn. Ông Định đề nghị cơ quan chức năng có biện pháp giải quyết để bảo đảm an toàn cho người dân trên địa bàn. Về kiến nghị của ông Bùi Xuân Định, UBND tỉnh Nghệ An có ý kiến như sau: Ngày 11/8/2020, UBND tỉnh Nghệ An đã có Văn bản số 451/TB-UBND thông báo ý kiến kết luận của Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lê Hồng Vinh tại cuộc họp giải quyết vấn đề về môi trường tại trang trại lợn của Công ty TNHH Đại Thành Lộc (xã Nam Hưng, huyện Nam Đàn). Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nghệ An và các sở, ngành, UBND các cấp đã tiếp tục triển khai các nội dung công việc được giao. Ngày 16/9/2020, Sở Tài nguyên và Môi trường có Văn bản số 4735/BC-STNMT báo cáo về việc giải quyết vấn đề môi trường trại lợn Công ty TNHH Đại Thành Lộc và hồ Tràng Đen. Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường, Công ty TNHH Đại Thành Lộc đã triển khai các nội dung để khắc phục tình trạng ô nhiễm như sau: Tiến hành xử lý xác lợn chết, phun khử trùng, tiêu độc, thực hiện phòng chống dịch bệnh, hoàn thành ngày 4/8/2020. Lắp thêm hệ thống xử lý mùi tại chuồng trại, hoàn thành ngày 14/8/2020. Thay thế, sửa chữa bạt chống thấm tại hồ lắng nước thải, hoàn thành ngày 16/8/2020. Thay thế mương dẫn nước thải bằng đường ống nhựa PVC, hoàn thành ngày 17/8/2020. Đã tiến hành đào đắp đê quai ngăn nước mưa từ khu vực xung quanh không cho chảy vào hệ thống xử lý nước thải, hoàn thành ngày 14/9/2020. Đồng thời, Công ty đang triển khai xử lý nước mặt ô nhiễm tại hồ gom nước mặt của trang trại, cải tạo thành hồ xử lý nước thải không cho nước mưa chảy vào hồ. Nghiên cứu thay đổi công nghệ hệ thống xử lý nước thải bảo đảm tuần hoàn tái sử dụng 100% nước thải phục vụ chăn nuôi không thải ra ngoài môi trường, lập hồ sơ xác nhận hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường. Trong thời gian khắc phục các tồn tại, hạn chế về bảo vệ môi trường, Sở đã yêu cầu Công ty TNHH Đại Thành Lộc thực hiện giảm tổng đàn phù hợp với quy mô, công suất và đáp ứng hệ thống xử lý nước thải hiện có, đồng thời có giải pháp không cho nước thải xả ra ngoài môi trường. Hiện nay Công ty giảm tổng đàn xuống 6.600 con/6.830 con và đang thực hiện tuần hoàn tái sử dụng nước thải, không thải ra ngoài môi trường. Để tiếp tục giải quyết các kiến nghị của người dân, cũng như giải quyết các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường của Công ty TNHH Đại Thành Lộc, Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp tục đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các nội dung sau: – Yêu cầu Công ty TNHH Đại Thành Lộc thực hiện nghiêm chỉnh quyết định xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền. – Giao Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp tục phối hợp với UBND huyện Nam Đàn, UBND xã Nam Hưng và các cơ quan có liên quan đôn đốc, kiểm tra, giám sát quá trình khắc phục các tồn tại của Công ty TNHH Đại Thành Lộc và quyết định xử phạt vi phạm hành chính của UBND tỉnh. – Giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, đề xuất và báo cáo UBND tỉnh các nội dung: Chỉ đạo sản xuất nước khu vực nông thôn các xóm Tràng Đen, Bắc Sơn, Cao Hùng, Đình Long, Phòng Sơn thuộc xã Nam Hưng bảo đảm theo đúng quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành; Chỉ đạo Công ty TNHH MTV Thủy lợi Nam Nghệ An triển khai nạo vét lòng hồ Tràng Đen để làm sạch hồ, cải thiện chất lượng nước hồ. – Giao UBND huyện Nam Đàn, UBND xã Nam Hưng tiếp tục tuyên truyền, giải thích, vận động người dân bình tĩnh, ổn định đời sống, bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn. Giám sát quá trình khắc phục các tồn tại của Công ty TNHH Đại Thành Lộc. Kiểm tra, xử lý nghiêm các nguồn thải của cơ sở/hộ gia đình sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh, dịch vụ có xả chất thải chưa xử lý vào hồ Tràng Đen. Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong sản xuất nước cho các xóm bảo đảm đúng quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành, cũng như nạo vét làm sạch hồ Tràng Đen để cải thiện chất lượng nước hồ. Trên cơ sở đề nghị của Sở Tài nguyên và Môi trường tại Công văn số 4735/BC-STNMT nêu trên, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lê Hồng Vinh có ý kiến như sau: Giao các Sở: Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND huyện Nam Đàn tiếp tục rà soát để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao và các nội dung theo đề nghị của Sở Tài nguyên và Môi trường để tổng hợp, tham mưu. Giao Sở Tài nguyên và Môi trường đôn đốc, kiểm tra, giám sát quá trình khắc phục các tồn tại của Công ty TNHH Đại Thành Lộc; trên cơ sở kết quả khắc phục các tồn tại của Công ty và báo cáo kết quả thực hiện của các Sở, UBND huyện Nam Đàn để chủ động tham mưu UBND tỉnh, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định các vấn đề có liên quan theo quy định của pháp luật. …
| Tin mới | admin | 10/12/2020 | | Thực hành quản lý tốt và an toàn sinh học trong chăn nuôi gia cầm | Đó là chủ đề hội thảo do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN-PTNT Hải Phòng vừa tổ chức. Khái lược kết quả đạt được trong công tác truyền thông tài liệu thời gian qua, TS. Hạ Thúy Hạnh – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyên nông Quốc gia cho biết: Được sự hỗ trợ của FAO (Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hợp Quốc) từ năm 2015 đến nay, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã xây dựng và tuyên truyền được 5 bộ tài liệu về an toàn sinh học (ATSH) trong chăn nuôi gia cầm, các bộ tài liệu này đang đăng tải trên Website www.khuyennongvn.gov.vn. Đồng thời còn tổ chức được 02 Hội thảo tuyên truyền các bộ tài liệu nói trên tại miền Bắc và miền Nam; 01 Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm về Mô hình cải thiện điều kiện ATSH trong chăn nuôi gia cầm; 02 diễn đàn nâng cao nhận thức quản lý vịt chạy đồng xuyên biên giới giữa Việt Nam và Campuchia; 01 Diễn đàn Sản xuất Giống và ATSH trong chăn nuôi gia cầm; Tổ chức được 48 lớp tập huấn thực hành tốt và ATSH trong cơ sở chăn nuôi gia cầm cho cán bộ khuyến nông, cán bộ chuyên môn, giảng viên nguồn và nông dân các tỉnh thành, các trường đại học, cao đẳng nông nghiệp về chăn nuôi, thú y; Xây dựng 01 cuốn phim kỹ thuật về thực hành tốt và ATSH để giảm thiểu kháng sinh, cùng một số công cụ truyền thông về giảm thiểu nguy cơ đối với bệnh cúm gia cầm,… Theo đó, hiện có 29 hệ thống khuyến nông của tỉnh và 10 trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, tổ chức hội đang sử dụng tài liệu của FAO để tập huấn/ tư vấn cho nông dân thông qua cán bộ được cử đi tham gia các lớp tập huấn. Qua khảo sát các học viên nguồn (trong số cán bộ khuyến nông được đào tạo từ các lớp TOT), cho thấy: Tỷ lệ sử dụng toàn bộ hoặc một phần tài liệu của FAO để tập huấn cho nông dân hoặc khuyến nông viên cơ sở là 100%. Các học viên đều đánh giá rất cao các tài liệu này, vì nội dung súc tích, dễ hiểu, nhiều sinh viên cho rằng tài liệu của FAO dễ tiếp thu hơn so với các giáo trình hiện hành trong trường đại học. Các sự kiện tuyên truyền và tập huấn về kháng kháng sinh của khuyến nông, bước đầu đã tạo dựng được nhận thức của người chăn nuôi, cán bộ khuyến nông, cán bộ thú y các địa phương, về một hậu quả to lớn nếu lạm dụng hoặc sử dụng kháng sinh không đúng cách, bên cạnh đó ATSH còn là chìa khoá giúp giảm thiểu sử dụng kháng sinh trong các trang trại chăn nuôi, tạo ra các sản phẩm an toàn, sạch phục vụ sức khoẻ cộng đồng. …
| Tin mới | admin | 10/12/2020 | | Tài liệu Hướng dẫn sử dụng phần mềm một cửa quốc gia tại BNN&PTNT năm 2020 | …
| Thông báo | admin | 06/11/2020 | | Công văn số 7562/BNN-PC ngày 30/10/2020 về việc hưởng ứng Cuộc thi Tìm hiểu pháp luật trực tuyến“Pháp luật với mọi người” | Thiết thực hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam, ngày 05/10/2020, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch số 3695/KH-BTP về việc tổ chức Cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Cuộc thi) và thành lập Ban Tổ chức Cuộc thi. Ngày 15/10/2020,Ban Tổ chức Cuộc thi đã ban hành Thể lệ số 3819/TL-BTC. Căn cứ nội dung nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ quan tâm thực hiện các nội dung sau đây: 1. Vận động, khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc phạm vi quản lý tích cực hưởng ứng, tham gia Cuộc thi. 2. Đẩy mạnh công tác truyền thông về Cuộc thi trên Cổng/Trang Thông tin điện tử hoặc hình thức phù hợp khác; có thể đăng tải đường link của Cuộc thi trên Cổng/Trang Thông tin điện tử của các cơ quan, đơn vị; chủ động cập nhật tin, bài truyền thông về Cuộc thi và gửi về Ban Tổ chức (email: ) để theo dõi, đăng tải trên trang chủ của Cuộc thi. 3. Cuộc thi sẽ diễn ra đến hết ngày 20/11/2020. Để tham gia Cuộc thi, người thi truy cập vào Chuyên mục Cuộc thi trực tuyến “Pháp luật với mọi người” trên Cổng Thông tin điện tử BộTư pháp; Trang tin Phổ biến, giáo dục pháp luật -Bộ Tư pháp và Báo Pháp luật Việt Nam điện tử hoặc website của Cuộc thi theo đường dẫn:https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/cuocthi/Pages/home.aspx./. Trân trọng cảm ơn sự phối hợp của Quý cơ quan, đơn …
| Công văn, Thông báo | admin | 05/11/2020 | | THÔNG BÁO MỜI THAM GIA NUÔI GIỮ GIỐNG GỐC VÀ CUNG ỨNG SẢN PHẨM GIỐNG GỐC VẬT NUÔI NĂM 2020 ĐỢT 3 | Cục chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao đầu mối triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi năm 2020, xin thông báo mời đợt 3 tham gia Chương trình giống gốc vật nuôi gồm 18 chủng loại, số lượng và địa điểm nuôi giữ cụ thể như sau: TT Loại giống gốc ĐVT Số lượng Khu vực thực hiện 1 Lợn VCN nái GGP SS con 350 Miền Bắc 2 Lợn đực VCN KTNS phục vụ sản xuất con 50 Miền Bắc 3 Lợn YS, LR và DR hoặc Pi nái GGP SS con 150 Miền Bắc 4 Lợn đực KTNS phục vụ sản xuất con 150 Miền Bắc 5 Lợn Móng Cái nái thuần SS con 100 Miền Bắc 6 Lợn Móng Cái nái thuần SS con 140 Miền Bắc 7 Gà H’Mông mái thuần SS con 1.700 Miền Bắc 8 Vịt biển mái thuần SS con 1.500 Miền Nam 9 Vịt biển mái thuần SS con 1.000 Miền Bắc 10 Vịt biển mái thuần SS con 600 Miền Bắc 11 Vịt SM2 mái dòng thuần SS con 3.000 Miền Bắc 12 Trâu đầm lầy cái thuần SS con 60 Miền Bắc 13 Bò đực giống nhập khẩu sản xuất tinh con 30 Miền Bắc 14 Bò đực giống nhập khẩu sản xuất tinh con 22 Miền Bắc 15 Dê Boer cái thuần SS con 60 Miền Nam 16 Dê Boer cái thuần SS con 150 M/Bắc và M/Trung 15 Dê bách thảo cái thuần SS con 200 M/Bắc và M/Trung 18 Dê bách thảo cái thuần SS con 140 Miền Nam Xin mời các cơ sở chăn nuôi có đủ điều kiện năng lực về con người, cơ sở vật chất và đàn giống gốc vật nuôi đáp ứng Quyết định số 2317/QĐ-BNN-CN ngày 07/6/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt tiêu chí đối với cơ sở nuôi giữ giống gốc, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi và giống gốc thủy sản, Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN ngày 4/4/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTN đăng ký tham gia thực hiện việc nuôi giữ đàn giống gốc và cung ứng sản phẩm giống gốc từ 1/1 đến 31/12/2020. Đăng ký tham gia bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu gửi về Cục Chăn nuôi – Bộ nông nghiệp và PTNT, số 16, Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội từ 09 giờ ngày 29/10 đến 09 giờ ngày 05/11/2020. (Liên hệ chi tiết với bà Trần Thị Ngọc Lan, Phòng giống vật nuôi – Cục Chăn nuôi, Điện Thoại: 0961186668, E.mail: ) Hà Nội, Ngày 28 tháng 10 năm 2020 CỤC CHĂN …
| Thông báo, Tin mới | admin | 29/10/2020 | | THÔNG BÁO MỜI THAM GIA NUÔI GIỮ GIỐNG GỐC VÀ CUNG ỨNG SẢN PHẨM GIỐNG GỐC VẬT NUÔI NĂM 2020 ĐỢT 2 | Cục chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao đầu mối triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi năm 2020 đợt 2 gồm 8 chủng loại và số lượng cụ thể như sau: TT Loại giống gốc ĐVT Số lượng Khu vực thực hiện 1 Lợn YS, LR và DR nái GGP SS con 300 Miền Nam 2 Lợn đực KTNS phục vụ sản xuất con 200 Miền Nam 3 Lợn YS, LR và DR nái GGP SS con 350 Miền Bắc 4 Lợn đực KTNS phục vụ sản xuất con 350 Miền Bắc 5 Gà Ninh Hòa mái dòng thuần SS con 1.200 Miền Trung 6 Bò Red Angus cái thuần SS con 20 Miền Nam 7 Bò Droughmaster cái thuần SS con 20 Miền Nam 8 Bò Brahman cái thuần SS con 60 Miền Nam Xin mời các cơ sở chăn nuôi có đủ điều kiện năng lực về con người, cơ sở vật chất và đàn giống gốc vật nuôi đáp ứng Quyết định số 2317/QĐ-BNN-CN ngày 07/6/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt tiêu chí đối với cơ sở nuôi giữ giống gốc, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi và giống gốc thủy sản, Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN ngày 4/4/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTN đăng ký tham gia thực hiện việc nuôi giữ đàn giống gốc và cung ứng sản phẩm giống gốc từ 1/1 đến 31/12/2020. Đăng ký tham gia bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu gửi về Cục Chăn nuôi – Bộ nông nghiệp và PTNT, số 16, Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội từ 13 giờ ngày 15/10 đến 13 giờ ngày 29/10/2020. (Liên hệ chi tiết với bà Trần Thị Ngọc Lan, Phòng giống vật nuôi – Cục Chăn nuôi, Điện Thoại: 0961186668, E.mail: ) Hà Nội, Ngày 15 tháng 10 năm 2020 CỤC CHĂN …
| Thông báo, Tin mới | admin | 15/10/2020 | | THÔNG BÁO triển khai chương trình giống gốc vật nuôi năm 2020 | THÔNG BÁO Cục chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao đầu mối triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi năm 2020 gồm 46 chủng loại và số lượng cụ thể như sau: TT Loại giống gốc ĐVT Số lượng Khu vực thực hiện 1 Lợn YS, LR và DR nái GGP SS con 400 Miền Nam 2 Lợn đực KTNS phục vụ sản xuất con 400 Miền Nam 3 Lợn YS, LR và DR nái GGP SS con 500 Miền Bắc 4 Lợn đực KTNS phục vụ sản xuất con 500 Miền Bắc 5 Lợn VCN nái GGP SS con 550 Miền Bắc 6 Lợn đực VCN KTNS phục vụ sản xuất con 50 Miền Bắc 7 Lợn Móng cái thuần SS con 240 Miền Bắc 8 Lợn hương cái thuần SS con 240 Miền Bắc 9 Gà màu VLV1, VLV2 mái dòng thuần SS con 2.500 Miền Nam 10 Gà Ai Cập mái thuần SS con 1.600 Miền Bắc 11 Gà H’Mông mái thuần SS con 1.800 Miền Bắc 12 Gà mía mái thuần SS con 600 Miền Bắc 13 Gà Đông Tảo mái thuần SS con 600 Miền Bắc 14 Gà LV mái dòng thuần SS con 2.800 Miền Bắc 15 Gà LMT1, LMT2 mái dòng thuần SS con 1.200 Miền Trung 16 Gà ri mái thuần SS con 1.200 Miền Bắc 17 Gà Móng mái thuần SS con 1.500 Miền Bắc 18 Gà Tiên Yên mái thuần SS con 2.000 Miền Bắc 19 Gà Ninh Hòa mái dòng thuần SS con 2.500 Miền Trung 20 Gà chọi mái thuần SS con 500 Miền Trung 21 Vịt TC mái dòng thuần SS con 2.000 Miền Nam 22 Vịt biển mái thuần SS con 3.100 Cả nước 23 Vịt V2, V7, V12, V17 mái dòng thuần SS con 3.500 Miền Nam 24 Vịt SM2 mái dòng thuần SS con 3.500 Miền Bắc 25 Vịt SM3 mái dòng thuần SS con 2.200 Miền Bắc 25 Ngan R51, R71 mái dòng thuần SS con 3.600 Miền Bắc 27 Ngan RT7, RT8 mái dòng thuần SS con 1.000 Miền Bắc 28 Trâu đầm lầy cái thuần SS con 80 Miền Bắc 29 Trâu Muhra, đầm lầy cái thuần SS con 90 Miền Nam 30 Bò đực giống nhập ngoại sản xuất tinh con 57 Miền Bắc 31 Bò Senepol cái thuần SS con 30 Miền Bắc 32 Bò Red Angus cái thuần SS con 30 Miền Nam 33 Bò Droughmaster cái thuần SS con 50 Miền Nam 34 Bò Brahman cái thuần SS con 80 Miền Nam 35 Ngựa nội cái thuần SS con 20 Miền Bắc 36 Dê Boer cái thuần SS con 210 Cả nước 37 Dê Saanen cái thuần SS con 150 Cả nước 38 Dê bách thảo cái thuần SS con 150 Cả nước 39 Cừu Phan Rang cái thuần SS con 600 Cả nước 40 Ong ngoại (Apis mellifera) thuần đàn 2.200 Cả nước 41 Ong mật nội thuần đàn 2.000 Cả nước 42 Ong Apis Cerana indica thuần đàn 600 Cả nước 43 Ong mật HN, ĐN, LĐ, TG thuần đàn 600 Cả nước 44 Tằm thầu dầu lá sắn thuần ổ 6.500 Tây Nguyên 45 Tằm lưỡng hệ thuần ổ 4.000 Miền Bắc 46 Tằm đa hệ thuần ổ 5.500 Miền Bắc Xin mời các cơ sở chăn nuôi có đủ điều kiện năng lực về con người, cơ sở vật chất và đàn giống gốc vật nuôi đáp ứng Quyết định số 2317/QĐ-BNN-CN ngày 07/6/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt tiêu chí đối với cơ sở nuôi giữ giống gốc, sản xuất và cung ứng sản phẩm giống gốc vật nuôi và giống gốc thủy sản, Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN ngày 4/4/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTN đăng ký tham gia thực hiện việc nuôi giữ đàn giống gốc và cung ứng sản phẩm giống gốc từ 1/1 đến 31/12/2020. Đăng ký tham gia bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu gửi về Cục Chăn nuôi – Bộ nông nghiệp và PTNT, số 16, Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội từ 8 giờ ngày 29/9 đến 14 giờ 30 ngày 10/10/2020. (Liên hệ chi tiết với bà Trần Thị Ngọc Lan, Phòng giống vật nuôi – Cục Chăn nuôi, Điện Thoại: 0961186668, E.mail: ) Hà Nội, Ngày 28 tháng 9 năm 2020 CỤC CHĂN NUÔI ĐÍNH CHÍNH THÔNG BÁO MỜI THAM GIA NUÔI GIỮ VÀ CUNG ỨNG GIỐNG GỐC VẬT NUÔI NĂM 2020 Cục chăn nuôi xin đính chính lại Thông báo ngày 28/9/2020 thay đổi số lượng một số đối tượng giống gốc vật nuôi triển khai Chương trình giống gốc vật nuôi năm 2020 cụ thể như sau: TT Loại giống gốc ĐVT Số lượng đã TB 28/9/2020 Số lượng đính chính lại Khu vực thực hiện 1 Lợn hương cái thuần SS con 240 100 Miền Bắc 2 Gà ri mái thuần SS con 1.200 1.500 Miền Bắc 3 Gà Móng mái thuần SS con 1.500 1.800 Miền Bắc 4 Dê bách thảo cái thuần SS con 150 340 Cả nước 5 Các nội dung khác không thay đổi./. Hà Nội, Ngày 01 tháng 10 năm 2020 CỤC CHĂN …
| Thông báo, Tin mới | admin | 29/09/2020 | | Chiến lược chăn nuôi đến năm 2030: Duy trì đàn lợn 29-30 triệu con | TPO – Theo dự thảo Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2040 của Bộ NN&PTNT, đến năm 2030, tổng đàn lợn có mặt thường xuyên ở quy mô khoảng 29-30 triệu con, trong đó đàn lợn nái khoảng 2,5-2,8 triệu con, đàn lợn nuôi trang trại, công nghiệp chiếm trên 70%. Bộ NN&PTNT vừa chức hội nghị “Đánh giá kết quả chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2008-2018 định hướng phát triển chăn nuôi giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2040”. Ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cho biết, sau 10 năm triển khai Chiến lược, ngành chăn nuôi đã đạt được sự tăng trưởng khá cao và ổn định với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 5-6%/năm, trong đó giai đoạn 2011-2015 đạt 4,5-5%, giai đoạn 2016-2018 đạt trung bình 6%/năm. Kết quả này đã góp phần duy trì mức tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp, đáp ứng cơ bản nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong nước, thay thế nhập khẩu và bước đầu cho xuất khẩu một số sản phẩm. Chăn nuôi chuyển dịch nhanh theo hướng trang trại, công nghiệp chiếm trên 45% về quy mô và trên 60% về sản lượng. Đến năm 2018, sản lượng thịt các loại trên 5,3 triệu tấn (trong đó thịt lợn đạt trên 3,8 triệu tấn, thịt gia cầm 1,2 triệu tấn) tương đương 220.000-230.000 tỷ đồng, riêng giá trị ngành hàng thịt lợn đã ngang bằng với ngành lúa gạo. Trên 11,5 tỷ quả trứng (tương đương khoảng 23.000 tỷ đồng) và trên 960.000 tấn sữa tươi nguyên liệu (tương đương với trên 12.000 tỷ đồng). Doanh số ngành TACN công nghiệp hằng năm đạt gần 20 triệu tấn (tương đương với trên 200.000 tỷ đồng)… Có thể nói trong nông nghiệp hiện nay, chăn nuôi là lĩnh vực thu hút đầu tư xã hội lớn nhất mà phần lớn đều do tư nhân đầu tư, nhất là lĩnh vực sản xuất TACN với trên 99% vốn đầu tư là của tư nhân. Cùng với toàn ngành nông nghiệp, lĩnh vực chăn nuôi đã tạo sinh kế cho 6 – 6,5 triệu hộ trong 8,6 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, góp phần thay đổi bộ mặt của khu vực nông thôn… Tuy nhiên, theo Cục Chăn nuôi, tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi trong giai đoạn 2011-2015 vẫn thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu của Chiến lược đề ra là 6-7%, giai đoạn 2016-2018 cơ bản đạt so với mục tiêu 5-6%. Đáng lưu ý, đến năm 2018, đàn lợn còn 28,1 triệu con. Nhưng đầu năm 2019, Việt Nam đã xuất hiện bệnh dịch tả lợn châu Phi, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi, đàn lợn bị tiêu hủy khoảng 6 triệu con, giảm khoảng trên 20% số đầu con và chưa có dấu hiệu dừng lại… Như vậy, thực tế tăng trưởng về quy mô đàn lợn giai đoạn 2008 – 2018 là thấp hơn khá nhiều so với định hướng của Chiến lược, lý do chính là ảnh hưởng của dịch bệnh, sử dụng chất cấm và thị trường… Để đáp ứng tình hình mới, Bộ NN&PTNT đang dự thảo về chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2040. Theo đó, đặt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi. Đến năm 2030 sản xuất chăn nuôi nước ta thuộc nhóm các quốc gia tiên tiến trong khu vực. Đến năm 2030, sẽ phát triển chăn nuôi lợn với các giống cao sản theo hướng trang trại công nghiệp, đồng thời mở rộng quy mô đàn lợn chăn nuôi theo hướng hữu cơ, truyền thống với các giống lợn bản địa, lợn lai giữa giống cao sản và giống bản địa. Tổng đàn lợn có mặt thường xuyên ở quy mô khoảng 29-30 triệu con, trong đó đàn lợn nái khoảng 2,5-2,8 triệu con; đàn lợn nuôi trang trại, công nghiệp chiếm trên 70%. Đối với gia cầm, phát triển theo phương thức công nghiệp. Tổng đàn gà có mặt thường xuyên khoảng 400-450 triệu con, trong đó ít nhất 60% nuôi theo phương thức công nghiệp… Sẽ ổn định quy mô công suất thiết kế các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp đến năm 2030 khoảng 40-45 triệu tấn, sản lượng thực tế khoảng 30-32 triệu tấn, chiếm khoảng 70% thức ăn tinh tổng số… Về tầm nhìn đến năm 2040, chăn nuôi Việt Nam là ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại và được công nghiệp ở hầu hết các khâu từ sản xuất, chế biến đến kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trình độ và năng lực sản xuất ngành chăn nuôi Việt Nam thuộc nhóm đầu của các nước trong khu vực ASEAN. Khống chế và kiểm soát tốt một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tới 100% sản phẩm chăn nuôi hàng hóa được giết mổ tập trung, công nghiệp và trên 70 % khối lượng sản phẩm chăn nuôi chính được qua chế biến, trong đó có 30% được chế biến sâu… Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho rằng, quy mô ngành chăn nuôi còn nhỏ lẻ, triển khai Luật Chăn nuôi cũng như Chiến lược chăn nuôi giai đoạn mới phải có bước đi từng giai đoạn. Tuy nhiên, có những vướng mắc phải quyết liệt trong tháo gỡ để đảm bảo cơ cấu và tổng sản lượng thực phẩm phù hợp với từng năm và từng giai đoạn. Dự thảo chiến lược đề ra 4 đề án liên quan đến các lĩnh vực cần tập trung nguồn lực để thực hiện thời gian tới: Công nghiệp sản xuất giống vật nuôi và công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi; công nghiệp giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi theo chuỗi; nâng cao năng lực kiểm soát soát dịch bệnh và xử lý chất thải trong chăn nuôi; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng lực quản lý Nhà nước, đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ và xúc tiến thương mại ngành chăn nuôi thú y. Tổng số kinh phí dự kiến cho việc thực hiện các đề án mà Chiến lược đề ra trong giai đoạn 2020-2030 khoảng 66.000 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách nhà nước khoảng 14.600 tỷ đồng chiếm 22% còn lại huy động các nguồn lực xã hội để triển khai thực …
| Tin mới | admin | 21/09/2020 | | Hội nghị tuyên truyển, phổ biến Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành | Luật Chăn nuôi được Quốc hội thông qua ngày 19/11/2018 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành và trình Chính phủ ban hành 04 thông tư, 01 Nghị định hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. Nhằm tuyên truyền, phổ biến hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, gắn kết quy định của Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành với các nội dung giảng dạy, điều hành sản xuất, kinh doanh trong chăn nuôi, ngày 18/7/2020, được sự đồng ý của Đảng ủy, Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, Chi đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Cục Chăn nuôi đã phối hợp với Đoàn thanh niên Khoa Chăn nuôi – Học viện nông nghiệp Việt Nam, Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị “Tuyên truyền Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành”. Đây là hoạt động nằm trong chuỗi hoạt động Chiến dịch thanh niên tình nguyện năm 2020 của Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi. Tham dự Hội nghị có TS. Phạm Thị Kim Dung, Phó Bí thư Đảng ủy Cục Chăn nuôi; PGS. TS Phạm Kim Đăng, Trưởng Khoa Chăn nuôi; PGS.TS Bùi Trần Anh Đào, Trưởng Khoa Thú y; Thạc sĩ Đỗ Thị Kim Hương, Bí thư Đoàn thanh niên Học viện Nông nghiệp Việt Nam; Đ/c Nguyễn Hồng Sơn, Phó Bí thư Đoàn thanh niên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Anh Nguyễn Văn Chiến, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam và hơn 300 đoàn viên thanh niên đến từ Chi đoàn Cục Chăn nuôi, Vụ Pháp chế, Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam, Khoa Chăn nuôi, Khoa Thú y, Khoa Môi trường – Học viện nông nghiệp Việt Nam. Phát biểu khai mạc Hội nghị, Đồng chí Nguyễn Văn Tình, Bí thư Chi đoàn Cục Chăn nuôi đã khái quát lại những thành tựu mà ngành chăn nuôi nước ta đã đạt được hơn 10 năm qua và cho rằng Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn là cơ sở pháp lý quan trọng, tạo động lực mới để phát triển chăn nuôi Việt Nam hiện đại và bền vững hơn, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm chăn nuôi Việt Nam. Đồng thời, Đồng chí cũng nhấn mạnh rằng việc tham dự Hội nghị hôm nay là cơ hội quý báu đối với tổ chức, cá nhân hoạt động chăn nuôi, đặc biệt là những đoàn viên thanh niên là sinh viên năm cuối để tìm hiểu, trao đổi và áp dụng những quy định của pháp luật về chăn nuôi trong thực tiễn sản xuất. Hội nghị đã nghe các báo cáo viên là đoàn viên thanh niên Cục Chăn nuôi giới thiệu quy định của pháp luật về hoạt động chăn nuôi, sản xuất thức ăn chăn nuôi. Đồng thời, giải đáp những câu hỏi, làm rõ những nội dung về quy định của pháp luật về chăn nuôi mà các bạn đoàn viên thanh niên quan tâm. Phát biểu kết thúc Hội nghị, PGS. TS Phạm Kim Đăng, Trưởng khoa Chăn nuôi – Học viện nông nghiệp Việt Nam cảm ơn Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi, Công ty Cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam đã phối hợp tổ chức thành công Hội nghị và coi đây là cơ hội quý báu để học tập, tìm hiểu quy định pháp luật cho các bạn sinh viên năm cuối trước khi bước vào ngành. Thầy Đăng cũng yêu cầu về hiểu biết đối với Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn là nội dung bắt buộc trong xem xét kết quả thực tập giáo trình của sinh viên. Anh Nguyễn Văn Chiến, Phó Giám đốc Công ty chăn nuôi C.P Việt Nam cho rằng Hội nghị đã cung cấp hết sức toàn diện, đầy đủ và sâu sắc về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chăn nuôi. Đây là cơ hội giúp doanh nghiệp hiểu đúng để thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong sản xuất kinh doanh. Hội nghị cũng đã kiến tạo môi trường học tập, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước, giảng dạy, quản trị sản xuất. Đồng thời, tạo cầu nối giữa sinh viên, nhà tuyển dụng và cơ quan quản lý nhà nước. Anh Chiến mong muốn Đoàn thanh niên Cục Chăn nuôi, Khoa Chăn nuôi – Học viên nông nghiệp tiếp tục quan tâm, phối hợp để tổ chức nhiều hội nghị, diễn đàn chuyên sâu hơn nữa trong thời gian tới. Nguyễn Văn Tình – Cục Chăn …
| Chi đoàn Cục Chăn nuôi, Tin mới | admin | 23/08/2020 | | QCVN01-39:2011/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh nước dùng trong chăn nuôi | …
| Môi trường chăn nuôi | admin | 20/07/2020 | | Tổng đàn lợn nái cả nước còn trên 2,8 triệu con | Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi, tính đến hết tháng 4/2020, tổng đàn lợn nái cả nước đạt trên 2,86 triệu con, tăng hơn 100.000 con so với cuối năm 2019. Theo số liệu thống kê, đàn lợn nái năm 2015 là 4 triệu con, cao nhất năm 2016 là trên 4,2 triệu con, các năm 2017 và 2018 ổn định xung quanh 4 triệu con. Đến năm 2019, do dịch tả lợn Châu Phi đàn nái giảm mạnh còn trên 2,72 triệu con (theo báo cáo từ các địa phương). Trong đó, đàn nái cụ kỵ và ông bà tương đối ổn định qua nhiều năm, mặc dù năm 2019 dịch tả lợn Châu Phi nhưng đàn nái cụ kỵ và ông bà vẫn giữ được khoảng 109.000 con (chỉ giảm 9% tương đương 11.000 con). Đây là đàn nái quyết định việc sản xuất giống bố mẹ và sản xuất con giống cho sản xuất, dự kiến tăng trưởng đàn nái năm 2020 là 0,5%/tháng (6%/năm). Tính đến hết tháng 4/2020, theo báo cáo của các địa phương, tổng đàn nái của cả nước là gần 2,86 triệu con, tăng 5% so với cuối 2019, đạt trên 90% so với kế hoạch của Quý II/2020 (trong đó có 115.000 con cụ kỵ, ông bà). Cùng với đàn nái, đến tháng 4/2020, cả nước có trên 64.000 con lợn đực giống, đủ để sản xuất tinh và phối giống cho tổng đàn nái. Với đàn lợn cụ kỵ, ông bà hiện tại, Cục Chăn nuôi tính toán và dự báo đến cuối năm 2020 tổng đàn nái của Việt Nam sẽ tăng lên 3 triệu con, tổng đàn lợn khoảng 29 – 30 triệu, qua đó từng bước hạ nhiệt và ổn định cung, cầu thịt lợn. Nguyên …
| Tin mới, Uncategorized | admin | 08/05/2020 | | SỬ DỤNG PHẦN MỀM PC DAIRY VN 2019 ĐỂ PHỐI HỢP KHẨU PHẦN CHO BÒ SỮA | Chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam có trên 60 năm lịch sử phát triển nhưng chỉ thực sự phát triển nhanh chóng, toàn diện từ sau khi có Quyết định 167/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 26/10/2001 của Thủ tướng chính phủ về “Một số biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001- 2010”. Sau 20 năm, ngành chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa ở nước ta đã có năng lực sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa cao, hiện đại hóa và đạt được nhiều thành tựu to lớn về tổng đàn, năng suất, chất lượng, an toàn thực phẩm, năng lực đầu tư công nghệ cao, năng lực chế biến, đa dạng hóa sản phẩm, xây dựng lên các thương hiệu quốc gia nổi tiếng của các doanh nghiệp chế biến sữa lớn. Những thành tựu này của ngành sữa Việt đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là dẫn đầu vùng Đông Nam Á về quy mô chăn nuôi, công nghệ áp dụng và thương mại hóa sản phẩm. Trong giai đoạn từ 2001-2018, tổng đàn bò sữa tăng trưởng 12,18%/năm, sản lượng sữa tăng 17,02%/năm, cao nhất trong tất cả các lĩnh vực của ngành chăn nuôi. Cùng với những thành tựu trên, chăn nuôi nuôi bò sữa đã, đang và sẽ là một hướng ưu tiên phát triển nhanh trong quá trình tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao chất lượng và phát triển bền vững ở cả quy mô quốc gia và địa phương có điều kiện chăn nuôi bò sữa. Nhằm nắm bắt được những cơ hội phát triển to lớn hơn khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình sữa học đường cải thiện tình trạng dinh dưỡng góp phần nâng cao tầm vóc trẻ em mẫu giáo và tiểu học đến năm 2020” tại Quyết định số 1340/QĐ-TTg ngày 8/7/2016 và sau đó là Nghị định thư về yêu cầu thú y và sức khỏe cộng đồng đối với sản phẩm sữa xuất khẩu từ Việt Nam sang Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã được hai nước Việt Nam và Trung Quốc ký kết Ngày 26/4/2019, một số tỉnh tiên phong đã tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp lớn về chăn nuôi và chế biến sữa đầu tư thành công những dự án chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa quy mô lớn, hiện đại tại địa phương. Những cơ hội này sẽ tạo động lực quan trọng cho chăn nuôi bò sữa trong nước phát triển lên một tầm cao mới, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, giảm nhập khẩu, tăng cường xuất khẩu đối với sữa, sản phẩm sữa và góp phần to lớn cho việc hiện thực hóa vấn đề tái cơ cấu trong chăn nuôi. Với những cơ hội nêu trên cùng với vai trò đầu tầu của các doanh nghiệp chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa trong chuỗi giá trị, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn như Vinamilk, TH Milk, Mộc Châu, chăn nuôi bò sữa Việt Nam có tiềm năng phát triển cao trong những năm tới và đóng góp quan trọng cho việc cải thiện sinh kế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân, doanh nghiệp. Song hành cùng với cải tiến chất lượng giống bò sữa và quy trình quản lý đàn, việc nâng cao chất lượng khẩu phần thức ăn cho bò sữa là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất chăn nuôi và tăng hiệu quả kinh tế, bởi chi phí thức ăn thường chiếm tới 70% tổng chi phí sản xuất chăn nuôi. Do đó, việc nghiên cứu để tối ưu hóa hiệu quả sử dụng thức ăn sẽ tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi nói chung và trong chăn nuôi bò sữa nói riêng. Trên cơ sở tiếp cận này, với sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ và Trường Đại học California Davis (UC Davis), Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) đã phối hợp với Học viện Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi xây dựng cơ sở dữ liệu và chuyển giao phần mềm thiết lập khẩu phần ăn cho bò sữa “PC Dairy VN 2019” trong khuôn khổ dự án “Hoàn thiện cơ sở dữ liệu sử dụng cho thiết lập khẩu phần thức ăn và quản lý chăn nuôi bền vững”. Dự án đã thiết lập được cơ sở dữ liệu về thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn cho bò sữa, những hướng dẫn kỹ thuật và công cụ cần thiết để phối hợp khẩu phần thức ăn cho bò sữa. Các thông tin này có trong Chương trình phần mềm “PC Dairy VN 2019” và trên website của Cục Chăn nuôi (www.cucchannuoi.gov.vn). Phần mềm phối hợp khẩu phần thức ăn cho bò sữa PC Dairy do các nhà khoa học của Trường Đại học California Davis Hoa Kỳ phát triển để thiết lập và đánh giá khẩu phần thức ăn cho bò sữa. Phần mềm này đã được sử dụng hơn 30 năm qua tại Hoa KỳHoHoaHoa kyH. Từ 2013 đến nay, phần mềm này đã được phát triển, sửa đổi, Việt hóa để phù hợp hơn với điều kiện chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam. Mục tiêu chính của PC Dairy VN là giúp nông dân chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam xây dựng khẩu phần cân bằng dinh dưỡng dựa trên nguồn thức ăn sẵn có ở nước ta để đạt năng suất sữa cao hơn nhưng lại giảm thiểu lượng phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khí Mê-tan (CH4) được tạo ra trong dạ cỏ gắn với quá trình nhai lại của bò sữa. Cân bằng khẩu phần cũng sẽ ổn định chất lượng sữa nhằm đáp ứng tiêu chuẩn thu mua của các công ty chế biến sữa. “PC Dairy VN 2019” là phiên bản cập nhật mới nhất của phần mềm PC Dairy tại Việt Nam để thiết lập khẩu phần cho bò sữa ở các giai đoạn khác nhau (bò tơ, tiết sữa, cạn sữa) với giá thành thấp nhất của khẩu phần dựa trên các thông số: khối lượng bò, giai đoạn sinh trưởng, sản xuất, sản lượng sữa, tỷ lệ mỡ sữa, sự thay đổi khối lượng, giá thức ăn và giá sữa… Đồng thời, phần mềm có thể ước tính giá trị dinh dưỡng của khẩu phần so với khẩu phần tiêu chuẩn, ước tính sản lượng sữa có thể đạt được với lượng thức ăn cung cấp tối thiểu và ước tính được lượng khí Mê-tan phát thải. Phần mềm “PC Dairy VN 2019”, hướng dẫn cài đặt, sử dụng phần mềm và hướng dẫn phối hợp khẩu phần cho bò sữa có thể truy cập tại website của Cục Chăn nuôi: www.cucchannuoi.gov.vn (Chi tiết liên hệ: hoặc 0913307019)/. Hướng dẫn sử dụng PC DAIRY VN 2019 tải về tại đây. TS. Tống Xuân Chinh, Phó Cục …
| Tin mới, Uncategorized | admin | 07/05/2020 | | Tái đàn nhanh nhưng phải thật an toàn | Đó là chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường tại Hội nghị thúc đẩy phát triển chăn nuôi lợn diễn ra sáng 6/5 tại Hà Nội. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm với loài người ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt qua đại dịch Covid-19 vừa qua càng cho thấy vấn đề an ninh lương thực có vai trò sống còn với mỗi quốc gia. Bộ trưởng NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, đẩy mạnh tái đàn chăn nuôi nhưng phải an toàn. Ảnh: Tùng Đinh. Với dân số xấp xỉ 100 triệu người, diện tích đất canh tác hạn chế, để đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, những năm gần đây mới có khẩu hiệu đưa chăn nuôi lên thành ngành chính, không chỉ bao hàm ý nghĩa về kinh tế mà còn an ninh dinh dưỡng. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, cao điểm trước khi xảy ra dịch tả lợn Châu Phi, chăn nuôi lợn chiếm 65 – 70% rổ thực phẩm do thói quen tiêu dùng của đại bộ phận người dân. Tháng 2/2019, Việt Nam ghi nhận ổ dịch dịch tả lợn Châu Phi đầu tiên tại Hưng Yên, sau 4 tháng lan ra toàn quốc, đỉnh điểm tháng 5 năm 2019 hầu hết các xã, huyện, tỉnh đều bị nhiễm dịch tả lợn Châu Phi. Trong khi đó, tổng đàn lợn của thế giới cũng giảm 13%, đặc biệt Trung Quốc số liệu cuối năm 2019 chỉ còn 50% tổng đàn so với trước dịch. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, đến nay Việt Nam đã làm tốt nhất có thể để giảm thiệt hại khi phải đối phó, đối mặt với dịch tả lợn Châu Phi, loại dịch bệnh nguy hiểm chưa từng có trong lịch sử, chưa có vắc xin, chưa thuốc đặc trị, dịch đi đến đâu tàn phá ngành chăn nuôi lợn của thế giới đến đó. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản giữ được an toàn đàn lợn cụ kỵ, ông bà xấp xỉ 100.000 con, toàn là những tổ hợp gen tốt hàng đầu thế giới. Nhưng với số lượng lợn tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi khoảng 6 triệu con cộng việc giảm tổng đàn theo tự nhiên ngoài dịch, đến nay Việt Nam đã phục hồi được khoảng 80% tổng đàn so với trước lúc xảy ra dịch tả lợn Châu Phi. Bộ trưởng nhấn mạnh, bài học rút ra trong quá trình phòng, chống dịch tả lợn Châu Phi đến nay là phải chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh. Nếu làm tốt công tác an toàn sinh học dịch bệnh rất khó để xâm nhập vào chuồng trại hoặc nếu có xâm nhập vẫn đủ thời gian và biện pháp để xử lý, khắc phục để giảm thiệt hại xuống mức thấp nhất. Do đó, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường lưu ý, hiện nay các địa phương đang được khuyến khích tăng đàn, tái đàn, song quan điểm của Bộ NN-PTNT phải đảm bảo đáp ứng an toàn sinh học mới được phép tái đàn, bởi thực tế mầm bệnh dịch tả lợn Châu Phi vẫn còn rất nhiều ngoài môi trường, nếu không làm tốt công tác an toàn sinh học, dịch bệnh ngay lập tức sẽ xâm nhập vào trang trại gây thiệt hại rất lớn. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường (giữa), Thứ trưởng Phùng Đức Tiến (phải) và Thứ trưởng Trần Thanh Nam chủ trì Hội nghị thúc đẩy phát triển chăn nuôi lợn sáng 6/5. Ảnh: Tùng Đinh. “Nếu không thực hiện nhanh, hiệu quả việc tái đàn, chúng ta sẽ mất một góc thị phần của ngành chăn nuôi lợn. Chắc chắn không thể để giá lợn cao mãi như này được, sẽ phải có nhiều giải pháp để điều hành, trong đó có những giải pháp khi áp dụng rồi sau này không bao giờ rút lại được. Do đó, ngoài 15 doanh nghiệp nòng cốt chiếm khoảng 35% thị phần rất cần sự vào cuộc, chung tay của các trang trại, gia trại, chăn nuôi lợn nông hộ”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường ghi nhận và đánh giá cao một số địa phương trong thời gian qua đã tiên phong có chính sách hỗ trợ tái đàn, tăng đàn rất hiệu quả, điển hình như Hà Nội, hiện hỗ trợ tới 5 triệu đồng/đầu lợn nái. Bên cạnh đó, Hà Nội cũng là địa phương chi trả hỗ trợ tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi sớm nhất trong cả nước. Bên cạnh đó, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, chưa bao giờ ngành gia cầm phát triển mạnh như thời điểm này với tổng đàn gần 500 triệu con, trong đó chủ yếu là gà ta, gà lông màu bản địa chất lượng cao, thịt thơm ngon nên cần tiếp tục vận động, tuyên truyền người dân thay đổi dần thói quen theo hướng giảm cơ cấu thịt lợn, tăng thịt gia cầm và thủy sản. Nguyên Huân – Tùng …
| Tin mới | admin | 06/05/2020 | | Tăng cường kiểm soát vi phạm đầu cơ, định giá với mặt hàng thịt lợn | Tổng cục Quản lý thị trường yêu cầu các Cục Quản lý thị trường tăng cường quản lý địa bàn, triển khai các biện pháp nghiệp vụ để nắm bắt tình hình thị trường, diễn biến cung-cầu, giá bán của mặt hàng. Người chăn nuôi ở thị trấn Hòa Thuận, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng tái đàn sau dịch tả lợn châu Phi. (Ảnh: TTXVN) Nhằm thực hiện quyết liệt sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương về giải pháp bình ổn giá thịt lợn, Tổng cục Quản lý thị trường đã có công văn số 785/TCQLTT-CNV về việc tăng cường kiểm ra, xử lý vi phạm về đầu cơ, găm hàng, định giá bất hợp lý đối với mặt hàng thịt lợn. Theo đó, Tổng cục Quản lý thị trường yêu cầu các Cục Quản lý thị trường tăng cường quản lý địa bàn, triển khai các biện pháp nghiệp vụ để nắm bắt tình hình thị trường, diễn biến cung-cầu, giá bán của mặt hàng thịt lợn và các sản phẩm từ lợn để xây dựng phương án kiểm tra và đề xuất các giải pháp góp phần nhằm ổn định thị trường. Ngoài ra, Tổng cục Quản lý thị trường yêu cầu các Cục Quản lý thị trường địa phương cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trên địa bàn kiểm tra, kiểm soát các cơ sở chăn nuôi, giết mổ, cơ sở kinh doanh, đầu mối bán buôn, bán lẻ, các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, các kho lạnh nhằm kiểm soát nguồn cung, giá bán, ngăn chặn các hành vi vi phạm về niêm yết giá, đầu cơ, găm hàng, định giá mua, giá bán bất hợp lý đối với mặt hàng thịt lợn. Mặt khác, tăng cường kiểm tra, ngăn chặn việc vận chuyển, kinh doanh lợn thịt và thịt lợn không rõ nguồn gốc hoặc chưa qua kiểm dịch lưu thông trên thị trường; xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm. Đặc biệt, Cục Quản lý thị trường tại các tỉnh biên giới phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trên địa bàn kiểm tra, kiểm soát trên khâu lưu thông, các tuyến đường lên khu vực biên giới, khu vực giáp cửa khẩu, đường mòn, lối mở nhằm ngăn chặn việc vận chuyển, thu mua, buôn bán lợn sống và thịt lợn trái phép qua khu vực Thời gian qua, người tiêu dùng đang phải mua thịt lợn với mức giá cao gần như kỷ lục của một năm đại dịch nghiêm trọng, mặc dù đây là mặt hàng thực phẩm thiết yếu. Hàng loạt các giải pháp như tăng nhập khẩu, kêu gọi doanh nghiệp giảm giá… dường như chưa mang lại kết quả như ý khi giá thịt lợn vẫn ở mức rất cao, có sản phẩm lên đến 240.000 đồng/kg tùy loại./. Uyên Hương …
| Tin mới | admin | 27/04/2020 | | GIÁ SẢN PHẨM CHĂN NUÔI (TẠI TRẠI) CẢ NƯỚC NGÀY 21/04/2020 | Thitruong chan nuoi ca nuoc …
| Giá SP chăn nuôi | admin | 27/04/2020 | | 2. Cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng | 2.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi theo Mẫu số 06.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 2.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 2.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (theo Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Tài liệu chứng minh nội dung thay đổi đối với trường hợp thay đổi thông tin có liên quan đến tổ chức, cá nhân (tên cơ sở, tên địa chỉ cơ sở sản xuất, địa chỉ trụ sở) trong Giấy chứng nhận. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 2.4. Thời hạn giải quyết: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 2.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 2.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Không. 2.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 2.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 2.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): 2.10.1. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Địa điểm cơ sở sản xuất không nằm trong khu vực bị ô nhiễm bởi chất thải nguy hại, hóa chất độc hại; b) Thiết kế khu sản xuất, bố trí thiết bị theo quy tắc một chiều từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra, bảo đảm tách biệt giữa các khu sản xuất để tránh nhiễm chéo; c) Có dây chuyền, trang thiết bị phù hợp để sản xuất thức ăn chăn nuôi: Dây chuyền sản xuất, trang thiết bị tiếp xúc với thức ăn chăn nuôi phải được làm bằng vật liệu dễ vệ sinh, không gây nhiễm chéo, không thôi nhiễm chất độc hại từ thiết bị sang thức ăn chăn nuôi; khu vực chứa thức ăn chăn nuôi bảo đảm thông thoáng, có đủ ánh sáng để quan sát bằng mắt thường, có giải pháp chống ẩm để không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; cơ sở sản xuất sinh khối vi sinh vật phải có thiết bị tạo môi trường, lưu giữ và nuôi cấy vi sinh vật; d) Có biện pháp bảo quản nguyên liệu thức ăn chăn nuôi theo khuyến cáo của tổ chức, cá nhân cung cấp; đ) Có biện pháp kiểm soát sinh vật gây hại, tạp chất, chất thải gây nhiễm bẩn để không ảnh hưởng đến an toàn, chất lượng thức ăn chăn nuôi: Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi phải có biện pháp để kiểm soát tạp chất (cát sạn, kim loại, bụi) gây nhiễm bẩn vào sản phẩm; có biện pháp kiểm soát, phòng, chống động vật xâm nhập vào khu vực sản xuất, khu lưu trữ sản phẩm; có biện pháp phòng, chống mối mọt; có biện pháp thu gom và xử lý chất thải để tránh nhiễm bẩn cho sản phẩm và bảo đảm vệ sinh môi trường; có biện pháp bảo hộ, vệ sinh cho người lao động và khách tham quan khu vực sản xuất; e) Có trang thiết bị, dụng cụ đo lường được kiểm định, hiệu chỉnh theo quy định; g) Có hoặc thuê phòng thử nghiệm để phân tích chất lượng thức ăn chăn nuôi trong quá trình sản xuất; h) Người phụ trách kỹ thuật có trình độ từ đại học trở lên về một trong các chuyên ngành chăn nuôi, thú y, sinh học, công nghệ thực phẩm, công nghệ sau thu hoạch; i) Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải có biện pháp kiểm soát bảo đảm không phát tán, gây nhiễm chéo giữa các loại kháng sinh khác nhau, giữa thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh và thức ăn chăn nuôi không chứa kháng sinh; k) Có biện pháp bảo vệ môi trường đáp ứng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. 2.10.2. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi tiêu thụ nội bộ phải đáp ứng các điều kiện quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, i và k khoản 1 Điều này. (Điều 38 Luật Chăn nuôi; Điều 9 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi) 2.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn …
| Thủ tục hành chính cấp Tỉnh | admin | 23/04/2020 | | 1. Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng | 1.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (kể cả trường hợp cơ sở đã được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi mà thay đổi địa điểm cơ sở sản xuất). – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Đối với cơ sở sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn đậm đặc: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, cơ quan có thẩm quyền thẩm định nội dung hồ sơ. Trường hợp hồ sơ chưa đạt yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp hồ sơ đạt yêu cầu, trong thời hạn 20 ngày làm việc, cơ quan có thẩm quyền thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi theo nội dung quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi và lập Biên bản theo Mẫu số 05.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. Trường hợp cơ sở không đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày lập biên bản đánh giá, tổ chức, cá nhân khắc phục và gửi báo cáo kết quả khắc phục bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để được thẩm định và đánh giá lại điều kiện thực tế (nếu cần thiết). Trường hợp cơ sở đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi theo Mẫu số 06.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. + Đối với cơ sở sản xuất (sản xuất, sơ chế, chế biến) thức ăn chăn nuôi truyền thống nhằm mục đích thương mại, theo đặt hàng: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, cơ quan có thẩm quyền thẩm định nội dung hồ sơ; trường hợp hồ sơ đạt yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi theo Mẫu số 06.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do; + Trường hợp nước nhập khẩu yêu cầu phải đánh giá điều kiện thực tế để cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 10 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. 1.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 1.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (theo Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Bản thuyết minh điều kiện sản xuất (theo Mẫu số 02.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Quy trình kiểm soát chất lượng của cơ sở sản xuất (theo Mẫu số 03.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Bản tóm tắt quy trình sản xuất thức ăn chăn nuôi đối với cơ sở sản xuất thức ăn truyền thống và nguyên liệu đơn. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 1.4. Thời hạn giải quyết: a) Đối với cơ sở sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn đậm đặc: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. + Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. + Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế. b) Đối với cơ sở sản xuất (sản xuất, sơ chế, chế biến) thức ăn chăn nuôi truyền thống nhằm mục đích thương mại, theo đặt hàng: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 1.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 1.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 1.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Không. 1.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 1.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Mẫu Thuyết minh điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 02.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Mẫu Quy trình kiểm soát chất lượng của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 03.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 1.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): 1.10.1. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Địa điểm cơ sở sản xuất không nằm trong khu vực bị ô nhiễm bởi chất thải nguy hại, hóa chất độc hại; b) Thiết kế khu sản xuất, bố trí thiết bị theo quy tắc một chiều từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra, bảo đảm tách biệt giữa các khu sản xuất để tránh nhiễm chéo; c) Có dây chuyền, trang thiết bị phù hợp để sản xuất thức ăn chăn nuôi: Dây chuyền sản xuất, trang thiết bị tiếp xúc với thức ăn chăn nuôi phải được làm bằng vật liệu dễ vệ sinh, không gây nhiễm chéo, không thôi nhiễm chất độc hại từ thiết bị sang thức ăn chăn nuôi; khu vực chứa thức ăn chăn nuôi bảo đảm thông thoáng, có đủ ánh sáng để quan sát bằng mắt thường, có giải pháp chống ẩm để không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; cơ sở sản xuất sinh khối vi sinh vật phải có thiết bị tạo môi trường, lưu giữ và nuôi cấy vi sinh vật; d) Có biện pháp bảo quản nguyên liệu thức ăn chăn nuôi theo khuyến cáo của tổ chức, cá nhân cung cấp; đ) Có biện pháp kiểm soát sinh vật gây hại, tạp chất, chất thải gây nhiễm bẩn để không ảnh hưởng đến an toàn, chất lượng thức ăn chăn nuôi: Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi phải có biện pháp để kiểm soát tạp chất (cát sạn, kim loại, bụi) gây nhiễm bẩn vào sản phẩm; có biện pháp kiểm soát, phòng, chống động vật xâm nhập vào khu vực sản xuất, khu lưu trữ sản phẩm; có biện pháp phòng, chống mối mọt; có biện pháp thu gom và xử lý chất thải để tránh nhiễm bẩn cho sản phẩm và bảo đảm vệ sinh môi trường; có biện pháp bảo hộ, vệ sinh cho người lao động và khách tham quan khu vực sản xuất; e) Có trang thiết bị, dụng cụ đo lường được kiểm định, hiệu chỉnh theo quy định; g) Có hoặc thuê phòng thử nghiệm để phân tích chất lượng thức ăn chăn nuôi trong quá trình sản xuất; h) Người phụ trách kỹ thuật có trình độ từ đại học trở lên về một trong các chuyên ngành chăn nuôi, thú y, sinh học, công nghệ thực phẩm, công nghệ sau thu hoạch; i) Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải có biện pháp kiểm soát bảo đảm không phát tán, gây nhiễm chéo giữa các loại kháng sinh khác nhau, giữa thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh và thức ăn chăn nuôi không chứa kháng sinh; k) Có biện pháp bảo vệ môi trường đáp ứng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. 1.10.2. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi tiêu thụ nội bộ phải đáp ứng các điều kiện quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, i và k khoản 1 Điều này. (Điều 38 Luật Chăn nuôi; Điều 9 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi) 1.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chỉ tiết Luật Chăn …
| Thủ tục hành chính cấp Tỉnh | admin | 23/04/2020 | | 3. Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn | 3.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, cơ quan có thẩm quyền thẩm định nội dung hồ sơ. Trường hợp hồ sơ chưa đạt yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp hồ sơ đạt yêu cầu, trong thời hạn 20 ngày làm việc cơ quan có thẩm quyền thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở chăn nuôi. Trường hợp cơ sở không đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày lập biên bản đánh giá, tổ chức, cá nhân khắc phục và gửi báo cáo kết quả khắc phục bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để được thẩm định và đánh giá lại điều kiện thực tế (nếu cần thiết). Trường hợp cơ sở đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi theo Mẫu số 05.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 3.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 3.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn (theo Mẫu số 01.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Bản thuyết minh về điều kiện chăn nuôi (theo Mẫu số 02.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 3.4. Thời hạn giải quyết: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi: Trong thời hạn 25 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi: Trong thời hạn 25 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 3.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 3.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 3.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi: Không. 3.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 3.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi (Mẫu số 01.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Mẫu Bản thuyết minh về điều kiện chăn nuôi (Mẫu số 02.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 3.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): – Chăn nuôi trang trại phải đáp ứng các điều kiện sau đây: + Vị trí xây dựng trang trại phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, vùng, chiến lược phát triển ngành chăn nuôi; đáp ứng yêu cầu về mật độ chăn nuôi quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 53 của Luật Chăn nuôi. + Có đủ nguồn nước bảo đảm chất lượng cho hoạt động chăn nuôi và xử lý chất thải chăn nuôi. + Có biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. + Có chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi phù hợp với từng loại vật nuôi. + Có hồ sơ ghi chép quá trình hoạt động chăn nuôi, sử dụng thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, vắc-xin và thông tin khác để bảo đảm truy xuất nguồn gốc; lưu giữ hồ sơ trong thời gian tối thiểu là 01 năm sau khi kết thúc chu kỳ chăn nuôi. + Có khoảng cách an toàn từ khu vực chăn nuôi trang trại đến đối tượng chịu ảnh hưởng của hoạt động chăn nuôi và từ nguồn gây ô nhiễm đến khu vực chăn nuôi trang trại. – Chăn nuôi trang trại quy mô lớn: Từ 300 đơn vị vật nuôi trở lên. (Điều 55 Luật Chăn nuôi; điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi) 3.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn …
| Thủ tục hành chính cấp Tỉnh | admin | 23/04/2020 | | 4. Cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn | 4.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn theo Mẫu số 05.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 4.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 4.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn (theo Mẫu số 01.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Tài liệu chứng minh nội dung thay đổi đối với trường hợp thay đổi thông tin có liên quan đến tổ chức, cá nhân trong Giấy chứng nhận. – Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đã được cấp, trừ trường hợp Giấy chứng nhận bị mất. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 4.4. Thời hạn giải quyết: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 4.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 4.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 4.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi: Không. 4.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 4.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi (Mẫu số 01.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 4.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): – Chăn nuôi trang trại phải đáp ứng các điều kiện sau đây: + Vị trí xây dựng trang trại phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, vùng, chiến lược phát triển ngành chăn nuôi; đáp ứng yêu cầu về mật độ chăn nuôi quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 53 của Luật Chăn nuôi. + Có đủ nguồn nước bảo đảm chất lượng cho hoạt động chăn nuôi và xử lý chất thải chăn nuôi. + Có biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. + Có chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi phù hợp với từng loại vật nuôi. + Có hồ sơ ghi chép quá trình hoạt động chăn nuôi, sử dụng thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, vắc-xin và thông tin khác để bảo đảm truy xuất nguồn gốc; lưu giữ hồ sơ trong thời gian tối thiểu là 01 năm sau khi kết thúc chu kỳ chăn nuôi. + Có khoảng cách an toàn từ khu vực chăn nuôi trang trại đến đối tượng chịu ảnh hưởng của hoạt động chăn nuôi và từ nguồn gây ô nhiễm đến khu vực chăn nuôi trang trại. – Chăn nuôi trang trại quy mô lớn: Từ 300 đơn vị vật nuôi trở lên. (Điều 55 Luật Chăn nuôi; điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi) 3.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn …
| Thủ tục hành chính cấp Tỉnh | admin | 23/04/2020 | | 1. Chỉ định đơn vị đủ điều kiện đào tạo, tập huấn về kỹ thuật phối giống nhân tạo gia súc | 1.1. Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ. Đối với hồ sơ đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi ban hành Quyết định chỉ định. 1.2. Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. 1.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: Đơn (theo mẫu tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 09/2015/TT-BNNPTNT ngày 03/3/2015) có chữ ký, tên của người đại diện theo pháp luật và đóng dấu. Bản sao chứng thực hoặc bản sao (kèm bản chính để đối chiếu) chức năng hoạt động hoặc được phép đào tạo, tập huấn (hoặc huấn luyện) trong lĩnh vực chăn nuôi. Chương trình và tài liệu đào tạo, tập huấn. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 1.4. Thời hạn giải quyết: Trong thời gian không quá 10 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Chăn nuôi tổ chức thẩm định hồ sơ và kiểm tra thực tế tại cơ sở. Trong thời gian không quá 05 ngày làm việc sau khi có kết quả đánh giá đủ điều kiện, Cục Chăn nuôi ban hành quyết định chỉ định. 1.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức. 1.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 1.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định chỉ định. Thời hạn hiệu lực của Quyết định chỉ định: Không. 1.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 1.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu đơn đăng ký tổ chức đào tạo, tập huấn về kỹ thuật phối giống nhân tạo gia súc (Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 09/2015/TT-BNNPTNT ngày 03 tháng 3 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện điểm a khoản 1 Điều 6 Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2015-2020). 1.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính: Các đơn vị được chỉ định phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Có chức năng hoạt động hoặc được phép đào tạo, tập huấn (hoặc huấn luyện) trong lĩnh vực chăn nuôi. – Có chương trình và tài liệu đào tạo, tập huấn phù hợp: Thời gian đào tạo, tập huấn tối thiểu là 21 ngày, trong đó thời gian học lý thuyết tối thiểu là 7 ngày và thời gian thực hành tối thiểu 14 ngày. Tài liệu về lý thuyết gồm các nội dung: Giống và công tác giống gia súc trong chăn nuôi; Đặc điểm sinh lý sinh sản của gia súc; Giải phẫu cơ quan sinh sản gia súc; Phát hiện động dục và thời điểm phối giống thích hợp; Lý thuyết về phối giống nhân tạo gia súc và một số vấn đề cần chú ý trong phối giống nhân tạo gia súc; Phương pháp phát hiện phối giống có chửa; Phương pháp ghi chép quản lý phối giống nhân tạo gia súc; ngoài ra, nếu có thời gian có thể bổ sung các nội dung về quy trình chăn nuôi và các nội dung khác nhằm nâng cao năng suất sinh sản cho gia súc. Thực hành gồm các nội dung: Kỹ năng sử dụng thiết bị, vật tư phối giống nhân tạo cho gia súc; Kỹ năng thực hành phối giống nhân tạo cho gia súc; ngoài ra, nếu có thời gian có thể bổ sung các nội dung phát hiện gia súc có chửa, khám thai và các nội dung khác có liên quan trong thực tế sinh sản gia súc tại các địa phương. (Khoản 2 Điều 7 Thông tư số 09/2015/TT-BNNPTNT ngày 03 tháng 3 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện điểm a khoản 1 Điều 6 Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2015-2020). 1.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: + Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2015-2020. + Thông tư số 09/2015/TT-BNNPTNT ngày 03 tháng 3 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện điểm a khoản 1 Điều 6 Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 2. Cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa (lĩnh vực chăn nuôi) | 2.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức chứng nhận theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 2.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 2.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký hoạt động chứng nhận theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. – Bản sao Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. – Danh sách chuyên gia đánh giá theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp và các chứng chỉ, tài liệu liên quan đối với mỗi chuyên gia gồm: Bản sao Quyết định tuyển dụng hoặc Hợp đồng lao động; bản sao các bằng cấp, chứng chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; tóm tắt quá trình công tác, kinh nghiệm hoạt động đánh giá theo Mẫu số 03 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp và tài liệu chứng minh kinh nghiệm hoạt động đánh giá của chuyên gia đánh giá. – Tài liệu chứng minh năng lực hoạt động chứng nhận đáp ứng các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp, cụ thể như sau: + Trường hợp tổ chức chứng nhận đã được tổ chức công nhận quy định tại Điều 21 Nghị định này hoặc tổ chức công nhận quy định tại Điều 25 Nghị định này công nhận hoạt động chứng nhận, tổ chức chứng nhận nộp bản sao Chứng chỉ công nhận kèm theo phạm vi được công nhận. + Trường hợp tổ chức chứng nhận chưa được công nhận, tổ chức chứng nhận nộp các tài liệu, quy trình đánh giá và các tài liệu liên quan khác để chứng minh năng lực hoạt động phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. – Mẫu Giấy chứng nhận và Dấu chứng nhận. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 2.4. Thời hạn giải quyết: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức chứng nhận theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 2.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức. 2.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 2.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: 05 năm. 2.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 2.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đăng ký hoạt động chứng nhận (theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). – Mẫu Danh sách chuyên gia đánh giá (theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). – Mẫu Tóm tắt quá trình công tác, kinh nghiệm hoạt động đánh giá (theo Mẫu số 03 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). 2.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Điều kiện kinh doanh dịch vụ chứng nhận sản phẩm: – Là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật. – Có hệ thống quản lý và năng lực hoạt động đáp ứng các yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế và hướng dẫn quốc tế cho mỗi loại hình tương ứng sau đây: Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17065:2013 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17065:2012 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với chứng nhận chuyên ngành và các hướng dẫn liên quan của Diễn đàn Công nhận Quốc tế (IAF) hoặc tiêu chuẩn tương ứng với yêu cầu của chương trình chứng nhận đặc thù đối với hoạt động chứng nhận sản phẩm, hàng hóa; – Có ít nhất 04 chuyên gia đánh giá chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn), đáp ứng các điều kiện sau: + Có trình độ tốt nghiệp đại học trở lên và chuyên môn phù hợp đối với chương trình chứng nhận. + Được đào tạo và cấp chứng chỉ hoàn thành khóa đào tạo về kỹ năng đánh giá chứng nhận tương ứng tại cơ sở đào tạo do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố hoặc thừa nhận theo quy định của pháp luật. Được đào tạo và cấp chứng chỉ hoàn thành khóa đào tạo về kỹ thuật chứng nhận sản phẩm chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành trong trường hợp có quy định. + Có kinh nghiệm làm việc 03 năm trở lên (kể từ thời điểm tốt nghiệp đại học) và kinh nghiệm làm việc phù hợp với yêu cầu quy định của chương trình chứng nhận tương ứng. + Có kinh nghiệm đánh giá 04 cuộc trở lên, với ít nhất 20 ngày công đánh giá đối với chương trình chứng nhận tương ứng. Trường hợp bổ sung lĩnh vực hoạt động chứng nhận, phải có ít nhất 02 chuyên gia chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn) tương ứng với mỗi lĩnh vực chứng nhận đăng ký bổ sung, đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản này. (Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp) 2.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 3. Cấp bổ sung, sửa đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa (lĩnh vực chăn nuôi) | 3.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức chứng nhận theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 3.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 3.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký bổ sung, sửa đổi hoạt động chứng nhận theo Mẫu số 05 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. – Danh sách bổ sung, sửa đổi chuyên gia đánh giá theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp và các chứng chỉ, tài liệu liên quan đối với mỗi chuyên gia gồm: Bản sao Quyết định tuyển dụng hoặc Hợp đồng lao động; bản sao các bằng cấp, chứng chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; tóm tắt quá trình công tác, kinh nghiệm hoạt động đánh giá theo Mẫu số 03 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp và tài liệu chứng minh kinh nghiệm hoạt động đánh giá của chuyên gia đánh giá. – Tài liệu chứng minh năng lực hoạt động chứng nhận bổ sung, sửa đổi đáp ứng các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp, cụ thể như sau: + Trường hợp tổ chức chứng nhận đã được tổ chức công nhận quy định tại Điều 21 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp hoặc tổ chức công nhận quy định tại Điều 25 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp công nhận hoạt động chứng nhận, tổ chức chứng nhận nộp bản sao Chứng chỉ công nhận kèm theo phạm vi được công nhận. + Trường hợp tổ chức chứng nhận chưa được công nhận, tổ chức chứng nhận nộp các tài liệu, quy trình đánh giá và các tài liệu khác liên quan để chứng minh năng lực hoạt động phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 3.4. Thời hạn giải quyết: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức chứng nhận theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 3.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức. 3.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 3.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: Theo thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận đã được cấp. 3.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 3.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đăng ký bổ sung, sửa đổi hoạt động chứng nhận (theo Mẫu số 05 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). – Mẫu Danh sách bổ sung, sửa đổi chuyên gia đánh giá (theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). 3.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Điều kiện kinh doanh dịch vụ chứng nhận sản phẩm: – Là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật. – Có hệ thống quản lý và năng lực hoạt động đáp ứng các yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế và hướng dẫn quốc tế cho mỗi loại hình tương ứng sau đây: Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17065:2013 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17065:2012 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với chứng nhận chuyên ngành và các hướng dẫn liên quan của Diễn đàn Công nhận Quốc tế (IAF) hoặc tiêu chuẩn tương ứng với yêu cầu của chương trình chứng nhận đặc thù đối với hoạt động chứng nhận sản phẩm, hàng hóa; – Có ít nhất 04 chuyên gia đánh giá chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn), đáp ứng các điều kiện sau: + Có trình độ tốt nghiệp đại học trở lên và chuyên môn phù hợp đối với chương trình chứng nhận. + Được đào tạo và cấp chứng chỉ hoàn thành khóa đào tạo về kỹ năng đánh giá chứng nhận tương ứng tại cơ sở đào tạo do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố hoặc thừa nhận theo quy định của pháp luật. Được đào tạo và cấp chứng chỉ hoàn thành khóa đào tạo về kỹ thuật chứng nhận sản phẩm chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành trong trường hợp có quy định. + Có kinh nghiệm làm việc 03 năm trở lên (kể từ thời điểm tốt nghiệp đại học) và kinh nghiệm làm việc phù hợp với yêu cầu quy định của chương trình chứng nhận tương ứng. + Có kinh nghiệm đánh giá 04 cuộc trở lên, với ít nhất 20 ngày công đánh giá đối với chương trình chứng nhận tương ứng. Trường hợp bổ sung lĩnh vực hoạt động chứng nhận, phải có ít nhất 02 chuyên gia chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn) tương ứng với mỗi lĩnh vực chứng nhận đăng ký bổ sung, đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản này. (Điều 17 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp) 3.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 4. Cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa (lĩnh vực chăn nuôi) | 4.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Chăn nuôi cấp lại Giấy chứng nhận cho tổ chức chứng nhận. Trường hợp không đáp ứng yêu cầu, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. 4.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 4.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận theo Mẫu số 06 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. – Bản chính Giấy chứng nhận bị hư hỏng (nếu có) đối với trường hợp Giấy chứng nhận bị hư hỏng. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 4.4. Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Chăn nuôi cấp lại Giấy chứng nhận cho tổ chức chứng nhận. Trường hợp không đáp ứng yêu cầu, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. 4.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức. 4.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 4.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: Theo thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận đã được cấp. 4.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 4.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận (theo Mẫu số 06 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). 4.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Giấy chứng nhận được cấp lại áp dụng đối với trường hợp tổ chức chứng nhận có Giấy chứng nhận còn hiệu lực nhưng bị mất, hư hỏng hoặc thay đổi tên, địa chỉ của tổ chức. (Điểm a khoản 3 Điều 30 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp) 4.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 5. Cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa (lĩnh vực chăn nuôi) | 5.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức thử nghiệm theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 5.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 5.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký hoạt động thử nghiệm theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. – Bản sao Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. – Danh sách thử nghiệm viên theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp và các chứng chỉ, tài liệu liên quan đối với mỗi thử nghiệm viên gồm: Bản sao Quyết định tuyển dụng hoặc Hợp đồng lao động; bản sao chứng chỉ đào tạo tương ứng quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. – Danh sách máy móc, thiết bị, dụng cụ thử nghiệm, đo lường phục vụ hoạt động thử nghiệm đối với lĩnh vực thử nghiệm đăng ký theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; – Tài liệu chứng minh năng lực hoạt động thử nghiệm đáp ứng các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp, cụ thể như sau: + Trường hợp tổ chức thử nghiệm đã được tổ chức công nhận quy định tại Điều 21 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp hoặc tổ chức công nhận nước ngoài quy định tại Điều 25 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp công nhận hoạt động thử nghiệm, tổ chức thử nghiệm nộp bản sao Chứng chỉ công nhận kèm theo phạm vi được công nhận. + Trường hợp tổ chức thử nghiệm chưa được công nhận, tổ chức thử nghiệm nộp các tài liệu, quy trình thử nghiệm và các tài liệu khác liên quan để chứng minh năng lực hoạt động phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. – Mẫu Phiếu kết quả thử nghiệm. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 5.4. Thời hạn giải quyết: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức thử nghiệm theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 5.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức. 5.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 5.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: 05 năm. 5.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 5.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đăng ký hoạt động thử nghiệm (theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). – Mẫu Danh sách thử nghiệm viên (theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). – Mẫu Danh sách máy móc, thiết bị, dụng cụ thử nghiệm, đo lường phục vụ hoạt động thử nghiệm đối với lĩnh vực thử nghiệm đăng ký (theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). 5.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Điều kiện kinh doanh dịch vụ thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa: – Là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật. – Có hệ thống quản lý và năng lực hoạt động đáp ứng các yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2007 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với thử nghiệm chuyên ngành. – Có ít nhất 04 thử nghiệm viên chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn), được đào tạo về tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2007 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với thử nghiệm chuyên ngành. Trường hợp bổ sung lĩnh vực hoạt động thử nghiệm, phải có ít nhất 02 thử nghiệm viên chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn) tương ứng với lĩnh vực thử nghiệm đăng ký bổ sung, được đào tạo về tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2007 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với thử nghiệm chuyên ngành. – Có máy móc, thiết bị, dụng cụ thử nghiệm, đo lường phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp, với lĩnh vực hoạt động thử nghiệm tương ứng. (Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp) 5.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 6. Cấp bổ sung, sửa đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa (lĩnh vực chăn nuôi) | 6.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức thử nghiệm theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 6.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 6.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký bổ sung, sửa đổi hoạt động thử nghiệm theo Mẫu số 05 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; – Danh sách bổ sung, sửa đổi thử nghiệm viên theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp và các chứng chỉ, tài liệu liên quan đối với mỗi thử nghiệm viên gồm: Bản sao Quyết định tuyển dụng hoặc Hợp đồng lao động; bản sao chứng chỉ đào tạo tương ứng quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; – Danh sách bổ sung, sửa đổi máy móc, thiết bị, dụng cụ thử nghiệm, đo lường phục vụ hoạt động thử nghiệm đối với lĩnh vực đăng ký theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; – Các tài liệu chứng minh năng lực hoạt động thử nghiệm bổ sung, sửa đổi đáp ứng các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp, cụ thể như sau: + Trường hợp tổ chức thử nghiệm đã được tổ chức công nhận quy định tại Điều 21 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp hoặc tổ chức công nhận nước ngoài quy định tại Điều 25 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp công nhận hoạt động thử nghiệm, tổ chức thử nghiệm nộp bản sao Chứng chỉ công nhận kèm theo phạm vi được công nhận. + Trường hợp tổ chức thử nghiệm chưa được công nhận, tổ chức thử nghiệm nộp các tài liệu, quy trình thử nghiệm và các tài liệu khác liên quan để chứng minh năng lực hoạt động phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 6.4. Thời hạn giải quyết: Trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức chứng nhận sửa đổi, bổ sung. Trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức thử nghiệm theo Mẫu số 10 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp. 6.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức. 6.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 6.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: Theo thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thử nghiệm đã được cấp. 6.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 6.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đăng ký bổ sung, sửa đổi hoạt động thử nghiệm (theo Mẫu số 05 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). – Mẫu Danh sách bổ sung, sửa đổi thử nghiệm viên (theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). – Mẫu Danh sách bổ sung, sửa đổi máy móc, thiết bị, dụng cụ thử nghiệm, đo lường phục vụ hoạt động thử nghiệm đối với lĩnh vực đăng ký (theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). 6.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Điều kiện kinh doanh dịch vụ thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa: – Là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật. – Có hệ thống quản lý và năng lực hoạt động đáp ứng các yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2007 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với thử nghiệm chuyên ngành. – Có ít nhất 04 thử nghiệm viên chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn), được đào tạo về tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2007 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với thử nghiệm chuyên ngành. Trường hợp bổ sung lĩnh vực hoạt động thử nghiệm, phải có ít nhất 02 thử nghiệm viên chính thức của tổ chức (viên chức hoặc lao động ký hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc lao động ký hợp đồng không xác định thời hạn) tương ứng với lĩnh vực thử nghiệm đăng ký bổ sung, được đào tạo về tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17025:2007 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 hoặc tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế đối với thử nghiệm chuyên ngành. – Có máy móc, thiết bị, dụng cụ thử nghiệm, đo lường phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp, với lĩnh vực hoạt động thử nghiệm tương ứng. (Điều 5 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp) 6.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 7. Cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa (lĩnh vực chăn nuôi) | 7.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Chăn nuôi cấp lại Giấy chứng nhận cho tổ chức thử nghiệm. Trường hợp không đáp ứng yêu cầu, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. 7.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 7.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận theo Mẫu số 06 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; – Bản chính Giấy chứng nhận bị hư hỏng (nếu có) đối với trường hợp Giấy chứng nhận bị hư hỏng. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 7.4. Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Chăn nuôi cấp lại Giấy chứng nhận cho tổ chức thử nghiệm. Trường hợp không đáp ứng yêu cầu, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. 7.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức. 7.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 7.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: Theo thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thử nghiệm đã được cấp. 7.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 7.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận (theo Mẫu số 06 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp). 7.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Giấy chứng nhận được cấp lại áp dụng đối với trường hợp tổ chức thử nghiệm có Giấy chứng nhận còn hiệu lực nhưng bị mất, hư hỏng hoặc thay đổi tên, địa chỉ của tổ chức. (Điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp) 7.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 8. Cấp Giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS) đối với hàng hóa xuất khẩu (lĩnh vực chăn nuôi) | 8.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, đúng quy định, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo để thương nhân hoàn thiện hồ sơ. Thời hạn cấp CFS không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày thương nhân nộp hồ sơ đầy đủ, đúng quy định. Trường hợp không cấp CFS, Cục Chăn nuôi có văn bản trả lời nêu rõ lý do. 8.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 8.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Văn bản đề nghị cấp CFS nêu rõ tên hàng, mã HS của hàng hóa, số chứng nhận tiêu chuẩn sản phẩm hoặc số đăng ký, số hiệu tiêu chuẩn (nếu có), thành phần hàm lượng hợp chất (nếu có), nước nhập khẩu hàng hóa: 1 bản chính, thể hiện bằng tiếng Việt và tiếng Anh. – Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp: 1 bản sao có đóng dấu của thương nhân. – Danh Mục các cơ sở sản xuất (nếu có), bao gồm tên, địa chỉ của cơ sở, các mặt hàng sản xuất để xuất khẩu: 1 bản chính. – Bản tiêu chuẩn công bố áp dụng đối với sản phẩm, hàng hóa kèm theo cách thể hiện (trên nhãn hàng hóa hoặc trên bao bì hàng hóa hoặc tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hóa): 1 bản sao có đóng dấu của thương nhân. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 8.4. Thời hạn giải quyết: Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, đúng quy định, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Cục Chăn nuôi thông báo để thương nhân hoàn thiện hồ sơ. Thời hạn cấp CFS không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày thương nhân nộp hồ sơ đầy đủ, đúng quy định. Trường hợp không cấp CFS, Cục Chăn nuôi có văn bản trả lời nêu rõ lý do. 8.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Thương nhân. 8.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 8.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: Không. 8.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 8.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 8.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Cục Chăn nuôi cấp CFS đối với hàng hóa xuất khẩu theo các quy định sau: – Có yêu cầu của thương nhân xuất khẩu về việc cấp CFS cho hàng hóa. – Hàng hóa có tiêu chuẩn công bố áp dụng phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. (Khoản 1 Điều 11 Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương) 8.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 9. Điều chỉnh, cấp lại Giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS) đối với hàng hóa xuất khẩu (lĩnh vực chăn nuôi) | 9.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, đúng quy định, Cục Chăn nuôi xem xét điều chỉnh, cấp lại CFS cho thương nhân. 9.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua đường bưu điện. 9.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: Văn bản đề nghị và các giấy tờ liên quan. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 9.4. Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, đúng quy định, Cục Chăn nuôi xem xét điều chỉnh, cấp lại CFS cho thương nhân. 9.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Thương nhân. 9.6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 9.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: Không. 9.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 9.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 9.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Cục Chăn nuôi cấp CFS đối với hàng hóa xuất khẩu theo các quy định sau: – Có yêu cầu của thương nhân xuất khẩu về việc cấp CFS cho hàng hóa. – Hàng hóa có tiêu chuẩn công bố áp dụng phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. (Khoản 1 Điều 11 Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương) 9.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 10. Trao đổi nguồn gen giống vật nuôi quý, hiếm | 10.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì phải có văn bản yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ; Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, thẩm định và quyết định trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, trường hợp từ chối phải nêu rõ lý do. 10.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 10.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký trao đổi nguồn gen giống vật nuôi quý, hiếm theo mẫu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi; – Lý lịch nguồn gen giống vật nuôi quý, hiếm cần trao đổi theo mẫu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi; – Các văn bản có liên quan đến trao đổi nguồn gen giống vật nuôi quý, hiếm. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 10.4. Thời hạn giải quyết: – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ. – Thẩm định hồ sơ và quyết định trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ: Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 10.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 10.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 10.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Văn bản chấp thuận. Thời hạn hiệu lực của Văn bản chấp thuận: Không. 10.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 10.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đăng ký trao đổi nguồn gen giống vật nuôi quý, hiếm (theo mẫu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). – Mẫu Lý lịch nguồn gen giống vật nuôi quý, hiếm đăng ký trao đổi (theo mẫu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). 10.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. 10.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 11. Nhập khẩu lần đầu đực giống, tinh, phôi, giống gia súc | 11.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) kiểm tra, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì phải có văn bản yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) trả lời bằng văn bản, trường hợp từ chối phải phải nêu rõ lý do. 11.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 11.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Thành phần hồ sơ: – Đơn đăng ký nhập khẩu đực giống, tinh, phôi giống gia súc (theo mẫu quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). – Lý lịch đực giống, tinh, phôi giống gia súc nhập khẩu (theo mẫu quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). – Văn bản của cơ quan có thẩm quyền hoặc tổ chức được cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu ủy quyền xác nhận về nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng giống, mục đích sử dụng (văn bản là bản chính hoặc bản sao chứng thực kèm theo bản dịch tiếng Việt có xác nhận của đơn vị nhập khẩu). b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 11.4. Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 18 ngày làm việc. – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ. – Thẩm định hồ sơ: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 11.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 11.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). 11.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Văn bản chấp thuận. Thời hạn hiệu lực của Văn bản chấp thuận: Không. 11.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 11.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đăng ký nhập khẩu lần đầu đực giống, tinh, phôi giống gia súc (theo mẫu quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). – Lý lịch đực giống, tinh, phôi giống gia súc nhập khẩu (theo mẫu quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). 11.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): – Yêu cầu đối với giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi lưu thông trên thị trường: + Đã công bố tiêu chuẩn áp dụng. + Có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng. + Đáp ứng yêu cầu kiểm dịch theo quy định của pháp luật về thú y. (Điều 18 Luật Chăn nuôi) – Giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi nhập khẩu phải được cơ quan có thẩm quyền hoặc tổ chức được cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu ủy quyền xác nhận bằng văn bản về nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng giống, mục đích sử dụng để nhân giống, tạo giống (khoản 1 Điều 20 Luật Chăn nuôi). 11.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 12. Xuất khẩu giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi trong Danh mục giống vật nuôi cấm xuất khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, triển lãm, quảng cáo | 12.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì phải có văn bản yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, trường hợp từ chối phải nêu rõ lý do. 12.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 12.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Thành phần hồ sơ: – Đơn đăng ký xuất khẩu giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi trong Danh mục giống vật nuôi cấm xuất khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, triển lãm, quảng cáo (theo mẫu quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). – Lý lịch giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi xuất khẩu trong Danh mục giống vật nuôi cấm xuất khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, triển lãm, quảng cáo (theo mẫu quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). – Bản chính hoặc bản sao chứng thực thỏa thuận hợp tác nghiên cứu khoa học, triển lãm, quảng cáo về giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi trong Danh mục giống vật nuôi cấm xuất khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, triển lãm, quảng cáo. – Các văn bản khác có liên quan đến xuất khẩu giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi (nếu có). b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 12.4. Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 33 ngày làm việc. – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ. – Thẩm định hồ sơ: Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 12.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 12.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 12.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Văn bản chấp thuận. Thời hạn hiệu lực của Văn bản chấp thuận: Không. 12.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 12.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đăng ký xuất khẩu giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi trong Danh mục giống vật nuôi cấm xuất khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, triển lãm, quảng cáo (theo mẫu quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). – Lý lịch giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi xuất khẩu trong Danh mục giống vật nuôi cấm xuất khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, triển lãm, quảng cáo (theo mẫu quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi). 12.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. 12.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Luật Chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 13. Công nhận dòng, giống vật nuôi mới | 13.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) kiểm tra, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì phải có văn bản yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ; Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) tổ chức thẩm định, đánh giá hồ sơ. Trường hợp kết quả thẩm định, đánh giá đạt yêu cầu thì Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục trưởng Cục Chăn nuôi) quyết định công nhận dòng, giống vật nuôi mới; trường hợp không đạt yêu cầu phải nêu rõ lý do. 13.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 13.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị công nhận dòng, giống vật nuôi mới, ghi rõ tên dòng, giống vật nuôi, nguồn gốc, xuất xứ; – Kết quả khảo nghiệm hoặc kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp quốc gia đã được công nhận hoặc được cơ quan có thẩm quyền cho phép. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 13.4. Thời hạn giải quyết: – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ. – Thẩm định hồ sơ: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 13.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 13.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). 13.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định hành chính. Thời hạn hiệu lực của Quyết định hành chính: Không. 13.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 13.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 13.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): – Mỗi dòng, giống vật nuôi mới chỉ được đặt một tên phù hợp bằng tiếng Việt. – Việc đặt tên dòng, giống vật nuôi mới phải bảo đảm không thuộc các trường hợp sau đây: + Trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên dòng, giống vật nuôi đã được công nhận; + Chỉ bao gồm chữ số; + Vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. + Trùng với cách đọc hoặc cách viết tên của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân; + Sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó. (Điều 29 Luật Chăn nuôi) 13.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 14. Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng | 14.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi (kể cả trường hợp cơ sở đã được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi mà thay đổi địa điểm cơ sở sản xuất). – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Cục Chăn nuôi kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Cục Chăn nuôi thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Đối với cơ sở sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn đậm đặc, thức ăn bổ sung: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, cơ quan có thẩm quyền thẩm định nội dung hồ sơ. Trường hợp hồ sơ chưa đạt yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp hồ sơ đạt yêu cầu, trong thời hạn 20 ngày làm việc, cơ quan có thẩm quyền thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi theo nội dung quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi và lập Biên bản theo Mẫu số 05.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. Trường hợp cơ sở không đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày lập biên bản đánh giá, tổ chức, cá nhân khắc phục và gửi báo cáo kết quả khắc phục bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để được thẩm định và đánh giá lại điều kiện thực tế (nếu cần thiết). Trường hợp cơ sở đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi theo Mẫu số 06.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. + Đối với cơ sở sản xuất (sản xuất, sơ chế, chế biến) thức ăn chăn nuôi truyền thống nhằm mục đích thương mại, theo đặt hàng: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, cơ quan có thẩm quyền thẩm định nội dung hồ sơ; trường hợp hồ sơ đạt yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi theo Mẫu số 06.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do; + Trường hợp nước nhập khẩu yêu cầu phải đánh giá điều kiện thực tế để cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 10 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. 14.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 14.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (theo Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chỉ tiết Luật Chăn nuôi). – Bản thuyết minh điều kiện sản xuất (theo Mẫu số 02.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chỉ tiết Luật Chăn nuôi). – Quy trình kiểm soát chất lượng của cơ sở sản xuất (theo Mẫu số 03.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chỉ tiết Luật Chăn nuôi). – Bản tóm tắt quy trình sản xuất thức ăn chăn nuôi đối với cơ sở sản xuất thức ăn truyền thống và nguyên liệu đơn. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 14.4. Thời hạn giải quyết: a) Đối với cơ sở sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn đậm đặc, thức ăn bổ sung: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. + Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. + Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế. b) Đối với cơ sở sản xuất (sản xuất, sơ chế, chế biến) thức ăn chăn nuôi truyền thống nhằm mục đích thương mại, theo đặt hàng: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 14.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 14.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 14.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Không. 14.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 14.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Mẫu Thuyết minh điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 02.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Mẫu Quy trình kiểm soát chất lượng của cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 03.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 14.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): 14.10.1. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Địa điểm cơ sở sản xuất không nằm trong khu vực bị ô nhiễm bởi chất thải nguy hại, hóa chất độc hại; b) Thiết kế khu sản xuất, bố trí thiết bị theo quy tắc một chiều từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra, bảo đảm tách biệt giữa các khu sản xuất để tránh nhiễm chéo; c) Có dây chuyền, trang thiết bị phù hợp để sản xuất thức ăn chăn nuôi: Dây chuyền sản xuất, trang thiết bị tiếp xúc với thức ăn chăn nuôi phải được làm bằng vật liệu dễ vệ sinh, không gây nhiễm chéo, không thôi nhiễm chất độc hại từ thiết bị sang thức ăn chăn nuôi; khu vực chứa thức ăn chăn nuôi bảo đảm thông thoáng, có đủ ánh sáng để quan sát bằng mắt thường, có giải pháp chống ẩm để không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; cơ sở sản xuất sinh khối vi sinh vật phải có thiết bị tạo môi trường, lưu giữ và nuôi cấy vi sinh vật; d) Có biện pháp bảo quản nguyên liệu thức ăn chăn nuôi theo khuyến cáo của tổ chức, cá nhân cung cấp; đ) Có biện pháp kiểm soát sinh vật gây hại, tạp chất, chất thải gây nhiễm bẩn để không ảnh hưởng đến an toàn, chất lượng thức ăn chăn nuôi: Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi phải có biện pháp để kiểm soát tạp chất (cát sạn, kim loại, bụi) gây nhiễm bẩn vào sản phẩm; có biện pháp kiểm soát, phòng, chống động vật xâm nhập vào khu vực sản xuất, khu lưu trữ sản phẩm; có biện pháp phòng, chống mối mọt; có biện pháp thu gom và xử lý chất thải để tránh nhiễm bẩn cho sản phẩm và bảo đảm vệ sinh môi trường; có biện pháp bảo hộ, vệ sinh cho người lao động và khách tham quan khu vực sản xuất; e) Có trang thiết bị, dụng cụ đo lường được kiểm định, hiệu chỉnh theo quy định; g) Có hoặc thuê phòng thử nghiệm để phân tích chất lượng thức ăn chăn nuôi trong quá trình sản xuất; h) Người phụ trách kỹ thuật có trình độ từ đại học trở lên về một trong các chuyên ngành chăn nuôi, thú y, sinh học, công nghệ thực phẩm, công nghệ sau thu hoạch; i) Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải có biện pháp kiểm soát bảo đảm không phát tán, gây nhiễm chéo giữa các loại kháng sinh khác nhau, giữa thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh và thức ăn chăn nuôi không chứa kháng sinh; k) Có biện pháp bảo vệ môi trường đáp ứng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. 14.10.2. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi tiêu thụ nội bộ phải đáp ứng các điều kiện quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, i và k khoản 1 Điều này. (Điều 38 Luật Chăn nuôi; Điều 9 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi) 14.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 15. Cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng | 15.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Cục Chăn nuôi kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Cục Chăn nuôi thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi theo Mẫu số 06.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 15.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 15.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (theo Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Tài liệu chứng minh nội dung thay đổi đối với trường hợp thay đổi thông tin có liên quan đến tổ chức, cá nhân (tên cơ sở, tên địa chỉ cơ sở sản xuất, địa chỉ trụ sở) trong Giấy chứng nhận. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 15.4. Thời hạn giải quyết: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 15.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 15.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 15.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi: Không. 15.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 15.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (Mẫu số 01.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 15.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): 15.10.1. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi thương mại, thức ăn chăn nuôi theo đặt hàng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Địa điểm cơ sở sản xuất không nằm trong khu vực bị ô nhiễm bởi chất thải nguy hại, hóa chất độc hại; b) Thiết kế khu sản xuất, bố trí thiết bị theo quy tắc một chiều từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra, bảo đảm tách biệt giữa các khu sản xuất để tránh nhiễm chéo; c) Có dây chuyền, trang thiết bị phù hợp để sản xuất thức ăn chăn nuôi: Dây chuyền sản xuất, trang thiết bị tiếp xúc với thức ăn chăn nuôi phải được làm bằng vật liệu dễ vệ sinh, không gây nhiễm chéo, không thôi nhiễm chất độc hại từ thiết bị sang thức ăn chăn nuôi; khu vực chứa thức ăn chăn nuôi bảo đảm thông thoáng, có đủ ánh sáng để quan sát bằng mắt thường, có giải pháp chống ẩm để không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; cơ sở sản xuất sinh khối vi sinh vật phải có thiết bị tạo môi trường, lưu giữ và nuôi cấy vi sinh vật; d) Có biện pháp bảo quản nguyên liệu thức ăn chăn nuôi theo khuyến cáo của tổ chức, cá nhân cung cấp; đ) Có biện pháp kiểm soát sinh vật gây hại, tạp chất, chất thải gây nhiễm bẩn để không ảnh hưởng đến an toàn, chất lượng thức ăn chăn nuôi: Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi phải có biện pháp để kiểm soát tạp chất (cát sạn, kim loại, bụi) gây nhiễm bẩn vào sản phẩm; có biện pháp kiểm soát, phòng, chống động vật xâm nhập vào khu vực sản xuất, khu lưu trữ sản phẩm; có biện pháp phòng, chống mối mọt; có biện pháp thu gom và xử lý chất thải để tránh nhiễm bẩn cho sản phẩm và bảo đảm vệ sinh môi trường; có biện pháp bảo hộ, vệ sinh cho người lao động và khách tham quan khu vực sản xuất; e) Có trang thiết bị, dụng cụ đo lường được kiểm định, hiệu chỉnh theo quy định; g) Có hoặc thuê phòng thử nghiệm để phân tích chất lượng thức ăn chăn nuôi trong quá trình sản xuất; h) Người phụ trách kỹ thuật có trình độ từ đại học trở lên về một trong các chuyên ngành chăn nuôi, thú y, sinh học, công nghệ thực phẩm, công nghệ sau thu hoạch; i) Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải có biện pháp kiểm soát bảo đảm không phát tán, gây nhiễm chéo giữa các loại kháng sinh khác nhau, giữa thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh và thức ăn chăn nuôi không chứa kháng sinh; k) Có biện pháp bảo vệ môi trường đáp ứng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. 15.10.2. Tổ chức, cá nhân sản xuất thức ăn chăn nuôi tiêu thụ nội bộ phải đáp ứng các điều kiện quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, i và k khoản 1 Điều này. (Điều 38 Luật Chăn nuôi; Điều 9 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi) 15.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 16. Công bố thông tin sản phẩm thức ăn bổ sung sản xuất trong nước | 16.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) kiểm tra thành phần hồ sơ, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì phải thông báo trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) thẩm định hồ sơ và công bố thông tin sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do. 16.2. Cách thức thực hiện: Qua môi trường mạng. 16.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị công bố thông tin sản phẩm. – Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi. – Hợp đồng thuê, gia công thức ăn chăn nuôi đối với trường hợp tổ chức, cá nhân thuê, gia công tại cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi đã được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi. – Tiêu chuẩn công bố áp dụng, văn bản thông báo tiếp nhận công bố hợp quy của sản phẩm. – Phiếu kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu chất lượng và an toàn của sản phẩm trong tiêu chuẩn công bố áp dụng và trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng được cấp bởi các phòng thử nghiệm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định hoặc thừa nhận. – Mẫu của nhãn sản phẩm. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 16.4. Thời hạn giải quyết: – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. – Thẩm định hồ sơ và công bố thông tin sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 16.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 16.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). 16.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Thông tin sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thời hạn hiệu lực của thông tin sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: 05 năm. 16.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 16.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 16.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Thức ăn chăn nuôi thương mại trước khi lưu thông trên thị trường phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Công bố tiêu chuẩn áp dụng và công bố hợp quy theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa. – Có chất lượng phù hợp tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. – Sản xuất tại cơ sở có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. – Công bố thông tin sản phẩm trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Nhãn hoặc tài liệu kèm theo thức ăn chăn nuôi thực hiện theo quy định tại Điều 46 của Luật Chăn nuôi. (Điều 32 Luật Chăn nuôi) 16.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 17. Công bố thông tin sản phẩm thức ăn bổ sung nhập khẩu | 17.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) kiểm tra thành phần hồ sơ, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì phải thông báo trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) thẩm định hồ sơ và công bố thông tin sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do. 17.2. Cách thức thực hiện: Qua môi trường mạng. 17.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị công bố thông tin sản phẩm. – Giấy chứng nhận lưu hành tự do hoặc văn bản có giá trị tương đương do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp. – Một trong các giấy chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng (ISO), Thực hành sản xuất tốt (GMP), Phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) hoặc giấy chứng nhận tương đương của cơ sở sản xuất. – Bản thông tin sản phẩm do nhà sản xuất cung cấp bao gồm thành phần nguyên liệu, công dụng, hướng dẫn sử dụng; chỉ tiêu chất lượng, chỉ tiêu an toàn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bản tiêu chuẩn công bố áp dụng của tổ chức, cá nhân đăng ký theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa; nhãn phụ của sản phẩm thể hiện bằng tiếng Việt theo quy định. – Phiếu kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu chất lượng và an toàn sản phẩm được cấp bởi phòng thử nghiệm do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ chỉ định hoặc được công nhận bởi tổ chức công nhận quốc tế hoặc tổ chức công nhận khu vực hoặc phòng thử nghiệm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định hoặc thừa nhận. – Mẫu của nhãn sản phẩm do nhà sản xuất cung cấp. Hồ sơ là bản chính hoặc bản sao có chứng thực và bản dịch ra tiếng Việt có chứng thực. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 17.4. Thời hạn giải quyết: – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. – Thẩm định hồ sơ và công bố thông tin sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 17.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 17.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). 17.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Thông tin sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thời hạn hiệu lực của thông tin sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: 05 năm. 17.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 17.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 17.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Thức ăn chăn nuôi thương mại trước khi lưu thông trên thị trường phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Công bố tiêu chuẩn áp dụng và công bố hợp quy theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa. – Có chất lượng phù hợp tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. – Sản xuất tại cơ sở có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. – Công bố thông tin sản phẩm trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Nhãn hoặc tài liệu kèm theo thức ăn chăn nuôi thực hiện theo quy định tại Điều 46 của Luật Chăn nuôi. (Điều 32 Luật Chăn nuôi) 17.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 23/04/2020 | | 18. Công bố lại thông tin sản phẩm thức ăn bổ sung | 18.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Trong thời gian 06 tháng trước khi hết hạn lưu hành, tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi kiểm tra thành phần hồ sơ, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì phải thông báo trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ và công bố thông tin sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do. 18.2. Cách thức thực hiện: Qua môi trường mạng. 18.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị công bố thông tin sản phẩm. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 18.4. Thời hạn giải quyết: – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. – Thẩm định hồ sơ và công bố thông tin sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 18.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 18.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). 18.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Thông tin sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thời hạn hiệu lực của thông tin sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: 05 năm. 18.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 18.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 18.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Thức ăn chăn nuôi thương mại trước khi lưu thông trên thị trường phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Công bố tiêu chuẩn áp dụng và công bố hợp quy theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa. – Có chất lượng phù hợp tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. – Sản xuất tại cơ sở có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. – Công bố thông tin sản phẩm trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Nhãn hoặc tài liệu kèm theo thức ăn chăn nuôi thực hiện theo quy định tại Điều 46 của Luật Chăn nuôi. (Điều 32 Luật Chăn nuôi) 18.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 18/04/2020 | | 19. Thay đổi thông tin sản phẩm thức ăn bổ sung | 19.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân có nhu cầu thay đổi thông tin của sản phẩm thức ăn bổ sung về tên nhà sản xuất, địa chỉ cơ sở sản xuất, tên sản phẩm, ký hiệu tiêu chuẩn công bố áp dụng, dạng, màu sắc sản phẩm, hướng dẫn sử dụng, thời hạn sử dụng sản phẩm nộp hồ sơ trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) kiểm tra, trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ; Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi) xác nhận và công bố thông tin thay đổi của sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do. 19.2. Cách thức thực hiện: Qua môi trường mạng. 19.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị thay đổi thông tin. – Bản tiêu chuẩn công bố áp dụng. – Bản tiếp nhận công bố hợp quy (nếu có). – Mẫu của nhãn sản phẩm. Đối với thức ăn bổ sung nhập khẩu phải bổ sung thêm bản chính hoặc bản sao chứng thực giấy xác nhận nội dung thay đổi của nhà sản xuất; bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp đổi tên cơ sở sản xuất, tên thương mại thức ăn chăn nuôi nhập khẩu. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 19.4. Thời hạn giải quyết: – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. – Thẩm định hồ sơ và công bố thông tin sản phẩm trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 19.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 19.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Chăn nuôi). 19.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Thông tin thay đổi của sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thời hạn hiệu lực của thông tin thay đổi của sản phẩm được công bố trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: đến thời điểm sản phẩm thức ăn bổ sung hết hạn lưu hành. 19.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 19.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 19.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Thức ăn chăn nuôi thương mại trước khi lưu thông trên thị trường phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Công bố tiêu chuẩn áp dụng và công bố hợp quy theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa. – Có chất lượng phù hợp tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. – Sản xuất tại cơ sở có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. – Công bố thông tin sản phẩm trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Nhãn hoặc tài liệu kèm theo thức ăn chăn nuôi thực hiện theo quy định tại Điều 46 của Luật Chăn nuôi. (Điều 32 Luật Chăn nuôi) 19.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 18/04/2020 | | 20. Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi chưa được công bố thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | 20.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Cục Chăn nuôi kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Cục Chăn nuôi thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, Cục Chăn nuôi cấp giấy phép nhập khẩu thức ăn chăn nuôi theo Mẫu số 09.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 20.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 20.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: * Hồ sơ nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để giới thiệu tại hội chợ, triển lãm bao gồm: – Đơn đề nghị nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để giới thiệu tại hội chợ, triển lãm (theo Mẫu số 07.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Văn bản chứng minh về việc tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm tại Việt Nam. * Hồ sơ nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để nuôi thích nghi bao gồm: – Đơn đề nghị nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để nuôi thích nghi (theo Mẫu số 07.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Bản kê khai của cơ sở đăng ký về đối tượng, số lượng vật nuôi nuôi thích nghi, thời gian nuôi, địa điểm nuôi và mục đích nuôi. * Hồ sơ nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để phục vụ nghiên cứu, khảo nghiệm bao gồm: – Đơn đề nghị nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để phục vụ nghiên cứu hoặc khảo nghiệm (theo Mẫu số 07.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Đề cương nghiên cứu hoặc khảo nghiệm. * Hồ sơ nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để làm mẫu phân tích tại phòng thử nghiệm bao gồm: – Đơn đề nghị nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để làm mẫu phân tích tại phòng thử nghiệm (theo Mẫu số 07.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Văn bản thỏa thuận sử dụng dịch vụ phân tích giữa một bên là phòng thử nghiệm hoặc doanh nghiệp trong nước với một bên là phòng thử nghiệm hoặc doanh nghiệp hoặc cơ quan quản lý về thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu, trong đó có cam kết mẫu sản phẩm nhập khẩu không dùng cho hoạt động thương mại. * Hồ sơ nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để sản xuất, gia công nhằm mục đích xuất khẩu bao gồm: – Đơn đề nghị nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để sản xuất, gia công nhằm mục đích xuất khẩu (theo Mẫu số 07.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Hợp đồng sản xuất, gia công thức ăn chăn nuôi nhằm mục đích xuất khẩu phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam về nhập khẩu hàng hóa để sản xuất, gia công nhằm mục đích xuất khẩu. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 20.4. Thời hạn giải quyết: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và cấp giấy phép nhập khẩu thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và cấp giấy phép nhập khẩu thức ăn chăn nuôi: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 20.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 20.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 20.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy phép nhập khẩu thức ăn chăn nuôi. Thời hạn hiệu lực của giấy phép nhập khẩu thức ăn chăn nuôi: Không. 20.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 20.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Đơn đề nghị nhập khẩu thức ăn chăn nuôi chưa được công bố thông tin (Mẫu số 07.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 20.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. 20.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 17/04/2020 | | 21. Thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu | 21.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Cục Chăn nuôi kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Cục Chăn nuôi thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ và tổ chức đánh giá thực tế tại phòng thử nghiệm (nếu cần thiết). Trường hợp kết quả thẩm định, đánh giá đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi ban hành quyết định thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 21.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 21.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu (theo Mẫu số 10.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Giấy chứng nhận phòng thử nghiệm của nước xuất khẩu được công nhận hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025 hoặc văn bản chỉ định, thừa nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu. – Danh mục máy móc, thiết bị thử nghiệm phù hợp với phương pháp thử nghiệm bao gồm các thông tin: Tên máy móc, thiết bị; thời gian đưa vào sử dụng và thời gian kiểm định, hiệu chuẩn kèm theo Giấy chứng nhận kiểm định, hiệu chuẩn còn hiệu lực do phòng thử nghiệm của nước xuất khẩu cung cấp. – Quy trình thử nghiệm và hồ sơ thẩm định, xác nhận giá trị sử dụng của phương pháp thử nghiệm trên nền mẫu thức ăn chăn nuôi do phòng thử nghiệm của nước xuất khẩu cung cấp. – Kết quả thử nghiệm thành thạo hoặc so sánh liên phòng (nếu có) do phòng thử nghiệm của nước xuất khẩu cung cấp. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 21.4. Thời hạn giải quyết: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và quyết định thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu: Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và quyết định thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu: Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 21.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 21.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 21.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu. Thời hạn hiệu lực của quyết định thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu: 03 năm. 21.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 21.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Đơn đề nghị thừa nhận phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu (Mẫu số 10.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 21.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi của phòng thử nghiệm nước xuất khẩu được thừa nhận khi đáp ứng các điều kiện sau đây: – Được tổ chức công nhận quốc gia hoặc tổ chức công nhận quốc tế công nhận hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025 hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại nước xuất khẩu chỉ định, thừa nhận, trong đó có phạm vi công nhận là thức ăn chăn nuôi hoặc thực phẩm. – Có máy móc, thiết bị, dụng cụ phù hợp với phương pháp thử nghiệm và tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025. – Có phương pháp thử nghiệm thức ăn chăn nuôi được thẩm định, xác nhận giá trị sử dụng. (Khoản 1 Điều 14 Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi) 21.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 17/04/2020 | | 22. Thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu | 22.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: + Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ, Cục Chăn nuôi kiểm tra thành phần hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ đầy đủ thành phần; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thành phần thì trả lại tổ chức, cá nhân để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định thì Cục Chăn nuôi thông báo cho tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. + Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ và tổ chức đánh giá tại nước xuất khẩu (nếu cần thiết). Trường hợp kết quả thẩm định, đánh giá đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi ban hành quyết định thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 22.2. Cách thức thực hiện: – Trực tiếp. – Qua dịch vụ bưu chính. – Qua môi trường mạng. 22.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đề nghị thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu (theo Mẫu số 11.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Bản mô tả về năng lực của cơ sở khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi theo quy định tại khoản 3 Điều 37 của Luật Chăn nuôi do cơ sở khảo nghiệm của nước xuất khẩu cung cấp. – Quy trình khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi theo nội dung quy định tại Mẫu 08.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi do cơ sở khảo nghiệm của nước xuất khẩu cung cấp. – Báo cáo kết quả khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi theo các nội dung trong quy trình khảo nghiệm và các tài liệu kỹ thuật khác có liên quan do cơ sở khảo nghiệm của nước xuất khẩu cung cấp. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 22.4. Thời hạn giải quyết: – Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ. + Thẩm định hồ sơ và quyết định thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu: Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. – Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: + Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Trong thời hạn 03 ngày làm việc. + Thẩm định hồ sơ và quyết định thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu: Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. 22.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 22.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 22.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu. Thời hạn hiệu lực của quyết định thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu: Không. 22.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 22.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): – Mẫu Đơn đề nghị thừa nhận quy trình khảo nghiệm và công nhận thức ăn chăn nuôi của nước xuất khẩu (Mẫu số 11.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Quy trình khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi theo nội dung quy định tại Mẫu 08.TACN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. 22.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. 22.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chỉ tiết Luật Chăn …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 17/04/2020 | | 23. Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu | 23.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. + Cục Chăn nuôi: Tiếp nhận nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật hoặc kiểm dịch thực vật. + Cục Thú y: Tiếp nhận nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc động vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật. + Cục Bảo vệ thực vật: Tiếp nhận nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc thực vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch thực vật. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn 01 ngày làm việc, cơ quan kiểm tra xác nhận người nhập khẩu đã đăng ký kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu trên bản đăng ký của người nhập khẩu. 23.2. Cách thức thực hiện: Qua môi trường mạng. 23.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Giấy đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu (theo Mẫu số 12.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). – Hợp đồng mua bán; phiếu đóng gói (Packing list); hóa đơn mua bán (Invoice); phiếu kết quả phân tích chất lượng của nước xuất khẩu cấp cho lô hàng (Certificate of Analysis); nhãn sản phẩm của cơ sở sản xuất; bản tiêu chuẩn công bố áp dụng của tổ chức, cá nhân nhập khẩu. – Giấy chứng nhận lưu hành tự do hoặc văn bản có giá trị tương đương do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp đối với nguyên liệu đơn, thức ăn truyền thống. – Một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng (ISO), Giấy chứng nhận thực hành sản xuất tốt (GMP), Giấy chứng nhận phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) hoặc giấy chứng nhận tương đương của cơ sở sản xuất đối với nguyên liệu đơn. Thành phần hồ sơ bằng tiếng Anh thì không phải kèm theo bản dịch ra tiếng Việt. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 23.4. Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 01 ngày làm việc. 23.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 23.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. – Cục Chăn nuôi: Tiếp nhận nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật hoặc kiểm dịch thực vật. – Cục Thú y: Tiếp nhận nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc động vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật. – Cục Bảo vệ thực vật: Tiếp nhận nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc thực vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch thực vật. 23.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Xác nhận vào Giấy đăng ký kiểm tra. Thời hạn hiệu lực của Xác nhận vào Giấy đăng ký kiểm tra: Không. 23.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 23.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Giấy đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu (Mẫu số 12.TĂCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). 23.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. 23.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. – Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa. …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 17/04/2020 | | 24. Miễn giảm kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu | 24.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. + Cục Chăn nuôi: Tiếp nhận nhận hồ sơ đề nghị miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật hoặc kiểm dịch thực vật. + Cục Thú y: Tiếp nhận nhận hồ sơ đề nghị miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc động vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật. + Cục Bảo vệ thực vật: Tiếp nhận nhận hồ sơ đề nghị miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc thực vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch thực vật. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Cơ quan kiểm tra có văn bản xác nhận miễn kiểm tra nhà nước về chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu trong thời hạn 01 năm. 24.2. Cách thức thực hiện: Qua môi trường mạng. 24.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: Văn bản đề nghị miễn kiểm tra với các thông tin sau: Tên hàng hóa, nhãn hiệu, kiểu loại; đặc tính kỹ thuật; xuất xứ, nhà sản xuất; số lượng, khối lượng nhập khẩu theo đăng ký; đơn vị tính; kết quả đánh giá phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của 03 lần liên tiếp. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 24.4. Thời hạn giải quyết: Chưa quy định. 24.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 24.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. + Cục Chăn nuôi: Tiếp nhận nhận hồ sơ đề nghị miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật hoặc kiểm dịch thực vật. + Cục Thú y: Tiếp nhận nhận hồ sơ đề nghị miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc động vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch động vật. + Cục Bảo vệ thực vật: Tiếp nhận nhận hồ sơ đề nghị miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có nguồn gốc thực vật và thuộc đối tượng phải kiểm dịch thực vật. 24.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Văn bản chấp thuận. Thời hạn hiệu lực của Văn bản chấp thuận: 01 năm. 24.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 24.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 24.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Miễn giảm kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu áp dụng đối với lô hàng nhập khẩu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: Có cùng tên gọi, công dụng, nhãn hiệu, kiểu loại, đặc tính kỹ thuật của cùng một cơ sở sản xuất, xuất xứ do cùng một người nhập khẩu, sau 03 lần nhập khẩu liên tiếp, có kết quả đánh giá phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. 24.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi. – Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật chất lượng sản phẩm, hàng …
| TTHC cấp T.Ư - lĩnh vực CN | admin | 17/04/2020 | | Sẵn sàng các điều kiện để xuất khẩu thịt gà sang Nga | Cục Thú y và cơ quan thú y của Liên bang Nga đã thống nhất được mẫu chứng nhận kiểm dịch, cùng với các điều kiện thú y, an toàn thực phẩm được nêu rất rõ. Dây chuyền chế biến thịt gà của nhà máy Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN) Ông Nguyễn Văn Long, Phó Cục trưởng Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết sau khi Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga thông báo chính thức cho phép nhập khẩu sản phẩm thịt gà chế biến từ Việt Nam, Cục Thú y đang phối hợp với các doanh nghiệp chuẩn bị điều kiện cho các lô hàng để có thể xuất khẩu sang thị trường này sớm nhất. Hiện Cục Thú y và cơ quan thú y của Liên bang Nga đã thống nhất được mẫu chứng nhận kiểm dịch, cùng với các điều kiện thú y, an toàn thực phẩm được nêu rất rõ. Việt Nam hiện có nhiều doanh nghiệp lớn như Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn Kyou & Unitex… đã và đang đầu tư chuỗi sản xuất, chế biến thịt gà an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm, đáp ứng tiêu chí của Liên bang Nga. Cục Thú y đã làm việc với các doanh nghiệp có tiềm năng đáp ứng được các tiêu chuẩn của Nga để sắp tới có thể xuất khẩu thịt gà sang thị trường này. [Việt Nam nhập gần 66.000 tấn thịt để phục vụ thị trường trong nước] Ông Nguyễn Văn Long cho biết từ năm 2019, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền của Liên bang Nga xem xét cho phép Việt Nam được xuất khẩu thịt gà đã qua chế biến vào thị trường này. Sản phẩm tuân thủ, đáp ứng các yêu cầu theo thông lệ chung của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) và thú y của Liên bang Nga. Trên cơ sở đáp ứng tiêu chí, Nga đã đồng ý cho phép nhập khẩu thịt gà từ Việt Nam. Tháng 10/2019, đoàn công tác của Nga đã sang Việt Nam và có tham quan một số chuỗi sản xuất, chế biến thị gà của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam đã xuất khẩu được thịt gà vào thị trường Nhật Bản cho thấy, Việt Nam đều đã đáp ứng các tiêu chí về an toàn dịch bệnh và an toàn thực phẩm của thế giới cũng như của Nga. “Hiện các thị trường rất bình đẳng, đều có các yêu cầu về đảm bảo an toàn dịch bệnh theo OIE và an toàn thực phẩm của Codex (Tiêu chuẩn của Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế). Ngoài 2 tiêu chuẩn chung của thế giới, các nước; trong đó có Nga cũng đưa ra các tiêu chuẩn tương đồng,” ông Nguyễn Văn Long cho biết. Là doanh nghiệp đầu tiên được Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga cấp phép cho xuất khẩu các sản phẩm thịt gà chế biến sang thị trường Nga, đại diện Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam cho biết, Việt Nam được phép xuất khẩu thịt gà chế biến sang thị trường Liên bang Nga cũng đồng nghĩa sản phẩm này được phép xuất khẩu sang các nước trong Liên minh kinh tế Á-Âu. Để có thể xuất khẩu được thịt gà chế biến vào các thị trường khó tính này, Việt Nam phải đáp ứng được tiêu chuẩn chăn nuôi, giết mổ, chế biến thịt gà theo chuỗi, bảo đảm an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm, có truy xuất nguồn gốc. Theo Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam, việc thị trường xuất khẩu thịt gà chế biến được mở rộng thêm sang nhiều nước không những giúp nâng cao giá trị gia tăng của ngành chăn nuôi gia cầm Việt Nam, mà còn mở ra hướng đi mới cho người chăn nuôi gà, giảm bớt phụ thuộc vào thị trường trong nước. Từ đó, nâng cao vị thế của ngành chăn nuôi Việt Nam với công nghệ cao, bảo đảm an toàn dịch bệnh và an toàn thực phẩm. Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam hiện đang có chi nhánh Nhà máy chế biến sản phẩm thịt gà tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội, được xuất khẩu vào thị trường Nga. Công ty hiện đang đầu tư dự án xuất khẩu gà chế biến theo mô hình khép kín tại Khu công nghiệp Becamex, tỉnh Bình Phước. Dự án công suất đạt 50 triệu con/năm. Ông Montri Suwanposri, Tổng giám đốc Công ty cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam kỳ vọng, với sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng, dự án sẽ nhanh chóng đi vào hoạt động và có thể xuất khẩu sản phẩm gà chế biến trong năm nay và đưa Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia sản xuất thực phẩm quan trọng trong nền công nghiệp thực phẩm thế giới./. Bích Hồng …
| Tin mới | admin | 16/03/2020 | | Bộ trưởng Bộ NN&PTNT: Chuẩn bị để sẵn sàng tăng tốc sau dịch | (Chinhphu.vn) – Lương thực và thực phẩm trong nước đang dồi dào, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và thậm chí vẫn đạt chỉ tiêu xuất khẩu trong tình hình dịch COVID-19 như hiện nay Hội nghị trực tuyến tại điểm cầu TPHCM – Ảnh: VGP/Băng Tâm Đây là khẳng định của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường tại Hội nghị trực tuyến với 63 điểm cầu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trong điều kiện dịch bệnh COVID-19, được tổ chức chiều ngày 12/3 tại TPHCM. Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, khi Hà Nội thông tin về trường hợp đầu tiên dương tính với COVID-19, đã xuất hiện những tin đồn thất thiệt dẫn đến hiện tượng người dân đổ xô mua lương thực, thực phẩm tích trữ. Nhưng cũng ngay lập tức, sau chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hàng hóa, nhu yếu phẩm lại đầy ắp trong các siêu thị, thậm chí hệ thống các nhà bán lẻ mở cửa bán gạo đến 23h hằng ngày phục vụ nhu cầu mua bán của nhân dân Thủ đô. Thực tế, hàng hóa nông sản trong nước hiện đang rất dồi dào, báo cáo của Bộ NN&PTNT và các doanh nghiệp tham gia Hội nghị trực tuyến chiều 12/3 đã minh chứng điều này. Ngay cả thịt lợn, dù chịu ảnh hưởng dịch tả lợn châu Phi suốt năm 2019 nhưng tổng đàn trên cả nước vẫn đạt gần 24 triệu con. Ông Nguyễn Văn Việt, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT) nhận định, với tốc độ tăng đàn, tái đàn như hiện nay, chăn nuôi sẽ là “cứu cánh” cho ngành nông nghiệp trong năm 2020 và bảo đảm thị trường nội địa sẽ không thiếu nguồn cung các loại thịt. Tuy nguồn cung đã xấp xỉ so với thời điểm trước dịch nhưng giá thịt lợn hiện vẫn ở mức cao. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt và Bộ NN&PTNT kêu gọi các doanh nghiệp chăn nuôi đồng hành kìm, giảm giá thịt lợn. Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết, nếu không kìm được giá thịt lợn ở mức có lợi cho cả doanh nghiệp chăn nuôi, nhà phân phối, người tiêu dùng thì Chính phủ sẽ mở cửa thị trường, cho phép nhập khẩu thịt lợn từ nhiều nguồn. Khi đó, có thể doanh nghiệp chăn nuôi trong nước lại phải kêu gọi giải cứu thịt lợn. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT kêu gọi 17 tập đoàn nông nghiệp, ngay sau Hội nghị, đưa giá thịt lợn về mức 70.000 đồng/kg để ổn định thị trường. Các doanh nghiệp chăn nuôi lớn như Dafaco, CP, Masan đã cam kết thực hiện. Trong 3 tháng qua, dịch COVID-19 đã gây ra những tác động tiêu cực cho ngành nông nghiệp. Minh chứng rõ nhất là nhiều mặt hàng nông sản không thể xuất khẩu, tiếp tục sử dụng giải pháp tình thế là kêu gọi người tiêu dùng giải cứu. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, Bộ cùng với các bộ, ngành liên quan sẽ sát cánh cùng các địa phương phát triển thị trường mới cho các mặt hàng nông sản chủ lực, có khả năng cạnh tranh như vải Bắc Giang, tôm Bạc Liêu… Riêng với dưa hấu của tỉnh Bình Định, Bộ trưởng đề nghị địa phương này chuyển đổi sang trồng cỏ phục vụ chăn nuôi bò, thực tế cũng rất cần nguồn cỏ chăn nuôi, trong khi dưa hấu nhiều năm qua đều rơi vào tình cảnh phải kêu gọi giải cứu. Khẳng định ngành nông nghiệp còn đối mặt với nhiều thách thức do dịch bệnh, thiên tai nhưng Bộ trưởng Bộ NN&PTNT lạc quan cho rằng, dù trong hoàn cảnh nào thì con người vẫn có nhu cầu về lương thực, thực phẩm. Do vậy, ngành nông nghiệp phải chuẩn bị các kịch bản để sẵn sàng tăng tốc sản xuất khi dịch bệnh được kiểm soát. Cần tập trung thúc đẩy sản xuất, khắc phục khó khăn, cung ứng thực phẩm trong mọi hoản cảnh; tập trung các biện pháp khống chế dịch bệnh không để phát sinh, không để thực phẩm leo giá và đặc biệt, không để tình trạng trục lợi. Chuẩn bị điều kiện tốt nhất để thúc đẩy sản xuất, tìm thị trường mới cho các mặt hàng xuất khẩu sau dịch bệnh được kiểm soát. Băng …
| Tin mới | admin | 13/03/2020 | | Công văn số 76/CN-TACN ngày 14 tháng 02 năm 2020 về việc quy định mới về kiểm tra nhà nước chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu | …
| Công văn, Tin mới | admin | 25/02/2020 | | Giá cả dịp trong và sau Tết ổn định theo đúng kịch bản | Ngày 29/1, Cục quản lý giá thuộc Bộ Tài chính cho biết, tình hình cung cầu giá cả thị trường trước và trong Tết Nguyên đán Canh Tý 2020 cơ bản bình ổn nằm trong kiểm soát và diễn biến theo đúng với kịch bản công tác điều hành giá trong dịp trước Tết do Ban Chỉ đạo điều hành giá đã chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan quản lý Nhà nước về giá đề ra. Giá thịt lợn ổn định Theo Cục quản lý giá, tại các chợ truyền thống, giá các mặt hàng thiết yếu như rau củ quả, thịt tươi, đồ phục vụ cúng lễ chỉ tăng theo quy luật vào các ngày cận Tết, một vài ngày đầu năm mới và đã dần trở lại bình thường vào ngày 5, 6 Tết. Tại các Siêu thị, trung tâm thương mại, mức giá cơ bản được giữ ổn định; đối với cửa hàng trực thuộc của các doanh nghiệp tham gia Chương trình bình ổn thị trường, doanh số bán ra tăng cao so bình thường. Một số dịch vụ trông giữ xe, dịch vụ ăn uống có mức tăng nhẹ vào các ngày đầu năm. Cụ thể, diễn biến giá cả một số mặt hàng thiết yếu tại một số địa phương trọng điểm như lương thực, hầu hết các địa phương trong cả nước đã có kế hoạch dự trữ hàng hóa chuẩn bị Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020; trong đó, mặt hàng gạo luôn được chú trọng và được các hộ kinh doanh, doanh nghiệp tích cực chuẩn bị, bảo đảm lượng dự trữ và cung ứng cho thị trường. Trước Tết từ đầu tháng Một đến ngày Ông Công Ông Táo giá gạo chất lượng cao, gạo nếp tăng nhẹ từ 5-10% so với ngày thường, giá gạo tẻ thường ổn định. Tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường dao động phổ biến từ 6.200-8.200 đồng/kg. Giá gạo tẻ thường ở mức 11.000-13.500 đồng/kg; gạo xi dẻo 13.500-15.500 đồng/kg; gạo Bắc Hương có giá 16.000-18.000 đồng/kg; gạo tám thơm Điên Biên có giá 20.500-24.500 đồng/kg. Tại miền Nam, giá bán lẻ trên thị trường gạo trắng thường 25% tấm ở mức 11.000-14.000đ/kg, gạo thơm chợ Đào 16.000-22.000 đồng/kg. Trong các ngày nghỉ lễ Tết giao dịch mua bán gạo không nhiều nên mức giá không biến động và bắt đầu từ ngày mùng 5 giá gạo các loại sẽ có xu hướng giảm dần trở về mức giá ngày thường. [Người tiêu dùng mạnh tay chi tiêu 448.100 tỷ đồng trong dịp Tết] Giá ổn định trước Tết do nguồn cung dồi dào nhưng thực phẩm tươi sống vẫn tăng nhẹ trong những ngày giáp Tết do sức mua tăng. So với ngày thường, giá thịt bò tăng khoảng 20.000-40.000 đ/kg tùy từng thị trường địa phương do nhu cầu tăng; giá gà sống tăng khoảng 10.000-30.000 đ/kg trong các ngày cận Tết do nhu cầu người dân tăng cao để cúng tất niên và giao thừa. Trong các ngày Tết đến ngày mùng 5 giá các mặt hàng thực phẩm tươi sống vẫn giữ ở mức như cận Tết và cục bộ một số chợ dân sinh có tăng giá nhẹ trong ngắn hạn một vài mặt hàng như thịt bò, thủy hải sản do người bán vẫn ít và các chợ đầu mối hầu hết chưa hoạt động. Riêng mặt hàng thịt lợn, nguồn cung trên thị trường tiếp tục được tăng lên trong tháng 1 và dự kiến cả quý 1 này từ nguồn cung ứng theo kế hoạch của các doanh nghiệp nhằm phục vụ Tết và nguồn nhập khẩu tiếp tục gia tăng để bù phần thiếu hụt nguồn cung thời gian qua. Đồng thời, nhiều địa phương triển khai chương trình bình ổn thị trường đều có sự chú trọng bình ổn mặt hàng thịt lợn, đảm bảo nguồn cung và giá cả ổn định. Theo báo cáo của các địa phương, nguồn cung thịt lợn trong dịp Tết Nguyên đán về cơ bản đủ cung cấp cho thị trường, chủ yếu đến từ hệ thống chăn nuôi nhỏ và các công ty chăn nuôi lớn. Do đó, không xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung và tăng giá đột biến như những tháng trước Tết. Bên cạnh đó, một số địa phương xác định các nhóm hàng thực phẩm được người dân ưu tiên sử dụng thay thế cho thịt lợn như: thịt gia cầm; thịt trâu, bò, ngựa; thủy hải sản tươi sống, đông lạnh… tương đối dồi dào. Bởi, hoạt động chăn nuôi các mặt hàng này đang tăng trưởng tốt có giá bán tương đối hợp lý, phù hợp với khả năng thu nhập, chi trả của đại đa số người dân góp phần ổn định giá thịt lợn trong dịp Tết Nguyên đán. Về cơ bản, giá cước vận chuyển hành khách bằng ôtô ổn định trong dịp Tết, nhiều bến xe lượng khách vắng hơn mọi năm do thời gian nghỉ trước Tết dài nên người dân dễ dàng chủ động việc đi lại hơn, cũng như các nhà xe đã chủ động tăng chuyến vào các thời điểm cao điểm trước Tết để đảm bảo đủ nhu cầu đi lại của người dân. Tại một số tỉnh vào giai đoạn cao điểm Tết, một số tuyến có mức phụ thu từ 20-60% tùy từng tuyến và từng thời điểm để để tăng cường chuyến và bù đắp chi phí phương tiện chạy rỗng một chiều. Các doanh nghiệp vận tải cơ bản tuân thủ các quy định về niêm yết giá và bán đúng giá vận chuyển hành khách đã đăng ký, kê khai. Các cơ quan chức năng cũng tăng cường xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về tăng giá vé chui, tăng giá bất hợp lý trong các ngày Tết. Không điều chỉnh giá với các mặt hàng do Nhà nước định giá Theo Cục quản lý giá Bộ Tài chính, sau Tết là thời điểm của Lễ hội diễn ra trên cả nước, nhu cầu đi lại, tiêu dùng thực phẩm, ăn uống ngoài gia đình, đồ mua sắm phục vụ lễ hội đầu năm có khả năng sẽ có xu hướng tăng. Để tiếp tục bình ổn thị trường tháng sau Tết và quý 1 này, Cục quản lý giá cho biết, tiếp tục theo dõi sát diễn biến cung cầu thị trường, giá cả để có giải pháp bình ổn thị trường phù hợp. Đồng thời, thực hiện kiểm soát chặt chẽ và bình ổn giá cả thị trường sau Tết nhất là đối với mặt hàng thịt lợn, dịch vụ vui chơi, giải trí, ăn uống, đi lại phục vụ dịp lễ, Tết; thực hiện chế độ báo cáo giá thị trường sau Tết theo quy định. Đối với các địa phương khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, các khu công nghiệp chế xuất… Cục quản lý giá đã đề nghị Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố tiếp tục làm tốt công tác hỗ trợ, cung ứng kịp thời nhu yếu phẩm, hàng hóa, vật tư để đảm bảo cung cấp đầy đủ cho nhân dân. Đặc biệt, không thực hiện điều chỉnh giá trong quý 1 này đối với các mặt hàng do Nhà nước định giá; trường hợp điều chỉnh phải có phương án giá cụ thể, tính toán mức độ tác động vào CPI, trên cơ sở đó báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt thận trọng. Bên cạnh đó, Cục quản lý giá cũng nhấn mạnh, cần tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc điều hành giá của một số mặt hàng thiết yếu theo các giải pháp đã được đề ra theo nguyên tắc điều hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát; thận trọng trong việc điều hành giá những tháng đầu năm để đảm bảo dư địa điều hành cho CPI cả năm. Đồng thời, tăng cường quản lý, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về giá gắn với kiểm tra chấp hành pháp luật về thuế, phí (nhất là dịch vụ tham quan, du lịch, dịch vụ trông giữ xe đạp, xe máy, ôtô). Quản lý chặt việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết các mặt hàng có nhu cầu tăng cao sau Tết. Tăng cường kiểm tra các quy định về đảm bảo an toàn giao thông, chỉ đạo các doanh nghiệp vận tải tổ chức tốt công tác vận tải để phục vụ đủ nhu cầu đi lại cho người dân trong dịp lễ hội đầu năm; yêu cầu đơn vị kinh doanh vận tải công bố và niêm yết công khai mức giá cước theo đúng quy định hiện hành./. Thùy Dương …
| Tin mới, Uncategorized | admin | 30/01/2020 | | Các ‘ông lớn’ đồng loạt tăng nguồn cung thịt lợn | Các doanh nghiệp (DN) hàng đầu về chăn nuôi lợn tại Việt Nam cho biết đã và đang đẩy mạnh tăng đàn lợn. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường phát biểu tại hội nghị triển khai một số giải pháp thúc đẩy chăn nuôi đảm bảo an toàn dịch bệnh. Bên cạnh đó, tình hình tái đàn lợn tại nhiều tỉnh cũng đang diễn ra thuận lợi. Dự báo, nguồn cung thịt lợn sẽ cải thiện đáng kể để cung cấp cho thị trường trong thời gian tới, nhất là việc đáp ứng nhu cầu cho dịp Tết Nguyên đán. Đây là thông tin mà các DN lớn trong ngành chăn nuôi lợn của Việt Nam cũng như lãnh đạo ngành nông nghiệp của các địa phương chăn nuôi lợn trọng điểm đã khẳng định tại hội nghị triển khai một số giải pháp thúc đẩy chăn nuôi đảm bảo an toàn dịch bệnh do Bộ NN-PTNT tổ chức ngày 26/12. Trước băn khoăn của dư luận thời gian qua về có hay không việc các DN lớn trong ngành chăn nuôi “găm” hàng để đẩy giá lợn thời gian qua, ông Vũ Anh Tuấn, Phó Tổng giám đốc Cty CP Chăn nuôi CP Việt Nam (CP Việt Nam) thẳng thắn khẳng định: Khi dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) nổ ra đầu năm 2019, thị trường thịt lợn đã một phen chao đảo rớt giá thảm hại. Nhờ sự vào cuộc hỗ trợ của Bộ NN-PTNT, các cơ quan truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền “không quay lưng với thịt lợn”, giá thịt lợn đã dần nhích lên, giúp các DN chăn nuôi lợn lấy lại được thế thăng bằng. Vì vậy kể từ khi giá lợn tăng cao thời gian qua, CP Việt Nam đã chủ trương đồng hành với người tiêu dùng, cung cấp tối đa có thể nguồn cung thịt lợn. Thậm chí trọng lượng lợn xuất chuồng trung bình đạt 95 – 96 kg/con, non hơn bình thường Cty cũng đã xuất chuồng. Giá lợn của CP Việt Nam bán ra ngày 26/12 đang ở mức 84.000 đồng/kg, giảm 1.000 đồng/kg so với ngày 25/12, và đây cũng là mức giá thấp nhất so với các Cty khác. Ông Tuấn khẳng định thời gian tới, CP Việt Nam sẽ họp bàn, nhằm tiếp tục hạ thêm giá bán ở mức thấp nhất có thể so với mặt bằng thị trường. Tháng 12/2019, CP Việt Nam đã cung cấp ra thị trường Việt Nam khoảng 500 nghìn lợn thịt xuất chuồng, tương đương khoảng 16.000 con/ngày, cao hơn đáng kể so với cùng kỳ năm 2018 và vẫn sẽ duy trì việc tăng nguồn cung một cách ổn định trong thời gian tới. Đại diện Cty CP Tập đoàn DABACO cũng tiết lộ: Hiện tại, tổng đàn nái của tập đoàn đã nâng lên mức 43 nghìn con nái, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2018. Theo kế hoạch thời gian tới, DABACO sẽ tiếp tục đẩy mạnh tăng đàn nái lên khoảng 45.600 con, theo đó sẽ tăng khá mạnh về tổng đàn lợn thịt so với hiện tại. Ông Đào Mạnh Lương, Tổng GĐ Cty CP Tập đoàn MAVIN, một “ông lớn” khác trong ngành chăn nuôi lợn cũng tiết lộ tổng đàn nái của Cty thời điểm này đã được nâng lên ở mức 23 nghìn con, và sẽ tiếp tục tăng quy mô đàn nái ngay từ đầu năm 2020. Với tổng đàn nái như hiện tại, MAVIN đang tung ra thị trường khoảng 1.000 lợn thịt/ngày. Ông Lương cho biết, theo kế hoạch từ trong tháng 12/2019 và tháng 1/2020 (Âm lịch), Cty sẽ tăng lượng lợn xuất chuồng thêm khoảng 20%/ngày so với hiện nay. Đồng thời khẳng định việc MAVIN tăng mạnh lượng lợn thịt xuất chuồng vào dịp Tết Nguyên đán 2020 không phải là tăng quy mô đột xuất, mà là do việc tăng quy mô đàn nái, cụ kỵ ông bà đã đặt ra từ trước. Theo ông Lương, trong khoảng 2 tuần trở lại đây, khảo sát cho thấy nguồn cung lợn ra thị trường đã đi vào ổn định. Vì vậy rất khó hiểu khi nhiều nơi giá thịt lợn lên tới 200 nghìn đồng/kg như báo chí phản ánh. “Hiện chỉ còn 1 tháng nữa là đến Tết Nguyên đán. Nếu nguồn cung thực sự thiếu hụt quá nhiều, giá thịt lợn sẽ theo đà tăng mạnh. Hiện chúng tôi đang bán ra với giá lợn 84.000 đồng/kg. Với giá này thì thịt lợn ngoài thị trường không thể cao tới mức 200 nghìn đồng/kg được. Có chăng chỉ là do khâu trung gian, thương lái tự đẩy giá lên mà thôi”, ông Lương nhận định. Cũng theo vị này, cùng với việc các Tập đoàn, Cty lớn tăng mạnh nguồn cung thịt lợn trong thời gian tới, việc giá thịt lợn trên thị trường tự do duy trì quá cao thời gian qua cũng sẽ khiến “cầu” tụt giảm, do đó giá lợn thời gian tới nhiều khả năng sẽ tiếp tục giảm chứ ít có khả năng tăng cao hơn nữa. QUỲNH …
| Tin mới | admin | 27/12/2019 | | Bộ trưởng NN-PTNT: Cẩn thận gậy ông đập lưng ông nếu găm hàng, ‘thổi’ giá lợn | Bộ trưởng NN-PTNT đưa ra cảnh báo những hậu quả người nuôi hay các công ty chăn nuôi phải đối mặt nếu có ý định găm hàng, thổi giá lợn lên cao. Bộ trưởng NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cảnh báo các hậu quả nếu găm hàng, ‘thổi’ giá lợn. Sáng 22/12, sau khi thăm một số trang trại nuôi lợn, gà tiêu biểu ở tỉnh Bắc Giang, Bộ trưởng NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường đã có những chia sẻ về nhu cầu thực phẩm, đặc biệt là thịt lợn trong dịp Tết âm lịch sắp tới. “Qua quá trình kiểm tra công tác chăn nuôi, các địa phương đang thực hiện rất nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng về tập trung tăng cường sản xuất đa dạng các loại thực phẩm, gia cầm tăng 15%, thủy sản tăng hơn 6% và đại gia súc tăng 4,5%”, người đứng đầu ngành nông nghiệp cho biết. Riêng về lợn, Bộ trưởng cho biết sau khi dịch giảm xuống mức có thể kiểm soát được thì công tác tái đàn đang được đẩy mạnh, tín hiệu đáng mừng là tái đàn ở công ty lớn hay trang trại quy mô gia đình đều đảm bảo rất nghiêm ngặt quá trình đảm bảo an toàn sinh học. Để đối mặt với nhu cầu thực phẩm sắp tăng cao vào cuối năm, ông Nguyễn Xuân Cường đưa ra 3 giải pháp, đầu tiên là tăng cường sản xuất, tăng sản lượng, không chỉ về lợn mà còn là nhiều nguồn thực phẩm khác như gia cầm, thủy sản hay gia súc. Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu. Thứ hai, các cơ quan chức năng cần vào cuộc mạnh mẽ, ngăn chặn tình trạng xuất lậu lợn sang Trung Quốc. Công tác này vừa có thể ổn định thị trường trong nước, vừa ngăn chặn được nguy cơ lây lan dịch tả. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường thăm trang trại gà thả vườn quy mô hàng ngàn con ở Tân Yên, Bắc Giang. Cuối cùng, quan trọng nhất, Bộ trưởng NN-PTNT nhấn mạnh công tác thương mại cần được đảm bảo, không để xảy ra tình trạng trục lợi, găm hàng. Theo ông, nếu găm hàng, người chịu hậu quả trước tiên là người nuôi vì khi quá lứa thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm. Thứ hai, thời tiết cuối đông đầu xuân cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ dịch bệnh và cuối cùng nếu khi thị trường quay lưng, không dùng thịt lợn nữa do giá cao thì chắc chắn sẽ lỗ. Bộ trưởng cho rằng, các công ty chăn nuôi lớn, giữ được nhiều lợn cần làm hạt nhân, dẫn dắt thị trường theo hướng tích cực, không được để giá tăng quá cao vì nếu không sẽ ‘gậy ông đập lưng ông’, người tiêu dùng quay lưng, nguồn hàng nhập tràn về và các doanh nghiệp khi đó sẽ thua ngay trên sân nhà. Một giải pháp nữa mà bộ trưởng đưa ra là cần tìm cách giảm các khâu trung gian, rút ngắn khoảng cách từ sản xuất đến tiêu dùng để giảm giá thành. Ông Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, ngoài các giải pháp như trên, điều cần thiết là tìm ra một giải pháp lâu dài, từ năm 2020 trở đi để đối mặt với các nguy cơ xảy ra các đợt dịch lớn như vừa qua. Bên cạnh đó, cần có chiến dịch lâu dài để phát triển hài hòa các nhóm thực phẩm, vừa đảm bảo an toàn chăn nuôi, an toàn kinh tế vừa cân đối dinh dưỡng được bữa ăn cho người Việt. Bộ trưởng biểu dương các chủ trại gà đã nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi sau khi gặp dịch tả lợn châu Phi. Mô hình trang trại lợn của bà Hoàng Thị Thái mà Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đến thăm ở xã Ngọc Châu, huyện Tân Yên, Bắc Giang đang có khoảng 8.000 lợn thịt, dự kiến sản lượng bán ra thị trường từ nay đến Tết vào khoảng 300 tấn. Theo bà Thái, giá lợn cao như hiện nay chỉ mang tính thời điểm và điều người chăn nuôi như bà mong muốn là mức giá ổn định chứ không phải cao. Chủ trang trại này cho rằng, nếu giá cao sẽ nhiều người ồ ạt đầu tư, dễ dẫn đến tình trạng khủng hoảng thừa như năm 2017. Bà cũng khẳng định trang trại mình không có tình trạng găm hàng, chờ giá tăng vì phải đối mặt với nguy cơ dịch bệnh, hết bảo hộ vắc xin và tốn kém thức ăn, chuồng trại. Sáng 22/12, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng đến thăm 2 mô hình trang trại gà với quy mô hàng ngàn con tại huyện Tân Yên. Chủ trại đều là những gia đình từng chăn nuôi lợn nhưng sau khi xảy ra dịch tả lợn châu Phi thì nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu, chuyển sang nuôi gà và đã sẵn sàng xuất bán phục vụ thị trường Tết. Tái đàn lợn, tái cơ cấu chăn nuôi Bắc Giang là tỉnh trọng điểm về chăn nuôi lợn của cả nước với tổng đàn có khi lên đến 1,3 triệu con, đứng thứ 3 của cả nước. Vào lúc cao điểm dịch tả, đàn lợn của tỉnh bị giảm mạnh nhưng đến nay tình hình đã được kiểm soát, có 220 xã đã qua 30 ngày không tái dịch, chỉ có 9 xã chưa qua 30 ngày. “Theo chỉ đạo của Bộ NN-PTNT, sở tham mưu cho tỉnh, chỉ đạo các địa phương thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn trước khi tái đàn. Sở NN-PTNT Bắc Giang tổ chức 10 đoàn công tác về các huyện, thành phố hướng dẫn cho người dân công tác tái đàn, nhất là các trang trại, hộ chăn nuôi lớn”, ông Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở NN-PTNT Bắc Giang cho biết. Giám đốc Sở NN-PTNT Bắc Giang Dương Thanh Tùng chia sẻ về cơ cấu chăn nuôi của tỉnh sau dịch tả lợn châu Phi. Qua thời gian tái đàn, lượng lợn của Bắc Giang đã tăng trở lại với số lượng hiện nay vào khoảng 900.000 con, đảm bảo tốt cho nhu cầu thực phẩm cho người dân trong tỉnh. Ngoài ra, mỗi ngày Bắc Giang đang xuất khoảng 400-500 con lợn cho các tỉnh lân cận. Hiện nay, giá lợn cao và người chăn nuôi có thu nhập lớn nhưng cơ quan quản lý vẫn khuyến khích chủ trại xuất bán khi đạt trọng lượng hợp lý, khoảng 120-130 kg để vừa có hiệu quả kinh tế vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Giám đốc Sở NN-PTNT Bắc Giang thông tin, quá trình tái đàn được kiểm soát rất nghiêm ngặt, đơn vi tổ chức thẩm định và hướng dẫn kỹ các điều kiện cần thiết cho các cơ sở chăn nuôi có khả năng tái đàn. Trong khi đó, với các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, mặc dù có nhiều nhu cầu nhưng sở vẫn khuyến cáo chuyển sang loại hình chăn nuôi khác như trâu bò, gà, vịt, dê… Theo ông Tùng, trước tình hình dịch tả, tỉnh đã sớm chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi, trong đó tập trung vào phát triển đàn gia cầm với số lượng xấp xỉ 17 triệu con, tăng 7-8% so với cùng kỳ 2018. Trong đó, nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh vào khoảng 40%, phần còn lại được xuất đi các tỉnh ở miền Bắc. Việc vỗ béo đàn trâu bò cũng được quan tâm, toàn tỉnh có hàng trăm mô hình chăn nuôi gia súc với quy mô từ 20-100 con. Đàn bồ câu thương phẩm của tỉnh đạt 50.000 con, sản lượng cá cũng đạt 40.000 tấn, góp phần vào nguồn thực phẩm phục vụ thị trường dịp cuối năm. TÙNG …
| Tin mới | admin | 22/12/2019 | | Đề xuất không hỗ trợ thiệt hại cho những hộ dân tự ý tái đàn lợn | Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, thống nhất chủ trương không hỗ trợ thiệt hại đối với các hộ dân tự ý tái đàn lợn khi xảy ra dịch bệnh. Lực lượng chức năng tiến hành tiêu hủy lợn bệnh. (Ảnh: Công Mạo/TTXVN) Theo Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau, dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh đang bùng phát mạnh và không có dấu hiệu dừng lại trong khi giá lợn hơi ở Cà Mau đang tăng lên. Đây là nguyên nhân khiến ngày càng nhiều hộ chăn nuôi trong tỉnh tự ý tái đàn lợn, gây nhiều khó khăn trong quản lý, kiểm soát dịch bệnh. Trước thực trạng này, mới đây Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau đã có Công văn số 7905/UBND-NNT đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, thống nhất chủ trương không hỗ trợ thiệt hại đối với các hộ dân tự ý tái đàn lợn khi xảy ra dịch bệnh bị tiêu hủy. Liên quan đến vấn đề trên, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lê Thanh Triều cho hay cơ quan chức năng tỉnh đang đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến cáo đến các hộ chăn nuôi lợn trong tỉnh, nếu không đảm bảo điều kiện chăn nuôi an toàn sinh học và chưa được chính quyền địa phương cho phép thì không được tự ý tái đàn, nhằm góp phần ngăn chặn có hiệu quả dịch tả lợn châu Phi lây lan ra diện rộng. Trước mắt, chính quyền các địa phương tích cực vận động, hướng dẫn hộ dân tạm thời chuyển đổi từ mô hình nuôi lợn sang đối tượng nuôi khác phù hợp để tạo việc làm, ổn định nguồn thu nhập. Tính đến giữa tháng 11/2019, Cà Mau có 81 xã trong số 101 xã, phường và thị trấn của tỉnh xuất hiện bệnh dịch tả lợn châu Phi, với số lượng lợn buộc phải tiêu hủy gần 10.000 con, tương đương 664 tấn lợn. Thời gian qua, Ủy ban Nhân dân tỉnh đã xuất ngân sách gần 40 tỷ đồng phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi; đồng thời, thực hiện chính sách hỗ trợ thiệt hại cho nhiều hộ chăn nuôi có đàn lợn mắc bệnh buộc phải tiêu hủy theo quy định./. Kim Há …
| Tin mới | admin | 22/11/2019 | | Công văn số 1737/CN-GSL ngày 22/11/2019 về việc chủ động phòng chống đói, rét cho vật nuôi | …
| Công văn | admin | 22/11/2019 | | Ồ ạt nuôi gia cầm, đối mặt thua lỗ | Sau thời gian dài bị dịch tả heo Châu Phi hoành hành, nhiều hộ chăn nuôi heo ở thành phố Sa Đéc (Đồng Tháp) đã tận dụng chuồng trại chuyển sang chăn nuôi gia cầm. Tuy nhiên, thời gian gần đây, giá thịt gia cầm và giá trứng liên tục giảm mạnh đã khiến nhiều hộ chăn nuôi thua lỗ nặng. Người dân cần thận trọng tái đàn gia cầm đón tết. Dự đoán giá vịt thịt sẽ tăng do nguồn cung thịt heo đang khan hiếm nên hộ ông Võ Văn Chính ở xã Tân Phú Đông, thành phố Sa Đéc đã mạnh dạn đầu tư hơn 30 triệu đồng để mở rộng chuồng trại nuôi trên 3 ngàn con vịt thịt và lấy trứng. Tuy nhiên, giá trứng vịt giảm mạnh chỉ còn 1.500 đồng/trứng còn giá vịt thịt chỉ dao động từ 45.000 – 50.000 đồng/kg đã đẩy gia đình ông vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Bởi với giá trứng vịt hiện tại, mỗi ngày chỉ tính tiền thức ăn, chưa tính tiền công chăm sóc, gia đình ông đã phải chịu cảnh thua lỗ hơn 300.000 đồng. Mặc dù đang thua lỗ nhưng ông Chính không còn cách nào khác để cầm cự bởi giá vịt thịt cũng đang quá thấp nếu bán vịt thịt sẽ lỗ càng lỗ nặng. Ông Võ Văn Chính lo lắng nói: “Không biết làm sao, mọi năm mùa này trứng giá hơn 2.000 đồng, năm nay chỉ còn có 1.500 đồng. Mình đoán dịch tả heo châu Phi hoành hành thì có thể hột vịt, thịt vịt tăng giá, ai ngờ đâu giảm quá trời. Bây giờ ráng duy trì tới tết coi giá có tăng lên gỡ gạc lại chút đỉnh chứ bây giờ bán ra thì lỗ nặng”. Cách đó không xa, sau khi bán tháo bầy vịt hơn 2 ngàn con vịt thịt để thoát cảnh thua lỗ, ông Phạm Văn Yên, xã Tân Phú Đông cũng vừa bắt thêm 500 con vịt về nuôi đón tết vì trong đầu cứ nghĩ rằng giá vịt thịt sẽ tăng những tháng cận tết. Ông Yên nói: “Tôi mới bán bầy vịt đẻ tuy không có lời nhưng mà mọi năm thời điểm này trở lên là vịt thịt với trứng luôn có giá nên bây giờ thấy giá vịt con đang rẻ mình hốt đại vô nuôi thử coi thời vận thế nào chứ chuồng trại đâu có để trống được”. Theo Phòng Kinh tế thành phố Sa Đéc, hiện tổng đàn gia cầm trên địa bàn thành phố đã lên trên 70 ngàn con, tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ và nằm ngoài dự đoán của ngành chuyên môn. Việc tự ý tăng đàn gia cầm ồ ạt của người chăn nuôi không chỉ làm cho nguồn cung vượt cầu, giá cả bấp bênh mà còn đặt ra mối lo về quản lý dịch bệnh trên gia cầm. Những tháng cuối năm, khi không khí lạnh xuất hiện cũng là lúc dịch cúm gia cầm dễ bùng phát. Ông Đỗ Văn Thậm, Trưởng phòng Kinh tế thành phố Sa Đéc cho biết thêm: “Do tình hình chăn nuôi tự phát sau dịch tả heo châu Phi, do đó những hộ không chăn nuôi gia cầm truyền thống tận dụng những chuồng nuôi gia súc trước đây bỏ hoang sau khi dịch bệnh để nuôi gia cầm. Do đó, chuồng trại nuôi gia cầm không đồng nhất như các vùng chuyên chăn nuôi gia cầm ở trong tỉnh. Để quản lý dịch bệnh trên đàn gia cầm, chúng tôi phải tăng cường kiểm soát chặt chẽ hơn ở các vùng nuôi, theo dõi tình hình dịch bệnh và hướng dẫn kịp thời cho người dân phòng trị”. Trước việc đàn gia cầm tăng nhanh, thú ý địa phương đang tăng cường phòng chống dịch bệnh. Ông Thậm cũng khuyến cáo người dân nên thận trọng khi tái đàn gia cầm, cần đảm bảo điều kiện an toàn vệ sinh chuồng trại và nên nắm bắt nhu cầu của thị trường để có sự tái đàn phù hợp. Thực tế hiện nay cho thấy, phần lớn người chăn nuôi gia cầm đều tự ý tái đàn và chỉ dựa vào kinh nghiệm của những năm trước mà ít có ai phân tích về nhu cầu của thị trường, tìm đầu ra ổn định cho gia cầm. Chính việc chăn nuôi tự phát một cách ồ ạt như thế đã làm cho giá thịt gia cầm và trứng gia cầm rớt giá không phanh trong những ngày qua. Mặc dù nhu cầu thực phẩm luôn tăng cao vào thời điểm cuối năm nhưng bất kỳ một sản phẩm nào khi sản xuất không theo nhu cầu của thị trường thì luôn đối mặt với cảnh bấp bênh và thực tế những ngày qua chính là bài học nhãn tiền. THIÊN …
| Tin mới | admin | 21/11/2019 | | Cục Chăn nuôi: Giá lợn thịt lên cao không phải do thiếu nguồn cung | Ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, giá lợn tăng cao không phải do thiếu nguồn cung mà có dấu hiệu do lưu thông và thông tin không rõ ràng. Người dân mua thịt lợn bán tại chợ thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên. (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN) Chiều 14/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Báo Nông thôn ngày nay tổ chức tọa đàm “Áp dụng chăn nuôi an toàn sinh học, đẩy mạnh tái đàn lợn, đảm bảo cung – cầu thực phẩm dịp Tết.” Trước tình hình giá lợn thịt mấy ngày qua tăng nhanh, ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, giá lợn tăng cao không phải do thiếu nguồn cung mà có dấu hiệu do lưu thông và thông tin không rõ ràng. Giá chủ lưu (các doanh nghiệp lớn bán ra) vẫn dao động 65.000 68.000 đồng/kg, cá biệt có vùng cao hơn. Điển hình giá lợn của Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam bán ra khoảng 65.000 đồng/kg. Theo ông Nguyễn Xuân Dương, hiện tượng tăng giá trên một phần do thương lái trước kia thu mua của nông hộ, giờ họ không có nguồn này trong khi đó lại không tiếp cận được các nguồn của doanh nghiệp nên xảy ra hiện tượng đẩy giá. Bên cạnh đó, nhiều đơn vị thông tin truyền thông lại chỉ quan tâm đến thông tin giá cao nên vô hình chung đẩy giá lợn lên. Do đó, những hiện tượng cá biệt này lại trở thành thông tin chính. Giá lợn lên cao cá biệt vừa qua không phải là giá chủ lưu. Sản lượng thịt lợn có thiếu hụt nhưng không thiếu đến mức đẩy giá lợn như vừa qua. Song song với chống dịch, ngành nông nghiệp đã tuyên truyền, hướng dẫn đẩy chăn nuôi các đối tượng khác như gia cầm, thủy sản… nên tổng nguồn cung thực phẩm không thiếu. Do đó, người tiêu dùng hoàn toàn yên tâm về nguồn cung thực phẩm. Ông Nguyễn Xuân Dương cho biết, xu hướng nhu cầu thịt lợn cuối năm sẽ tăng, trong tháng Tết thường tăng từ 20-25% so với tháng khác. Nếu thực hiện tốt các giải pháp sẽ không có đột biến về giá. Thời gian tới cần có sự chung tay của cả ngành nông nghiệp và công thương trong sản xuất, lưu thông và bình ổn giá; trong đó ưu tiên bình ổn giá cho mặt hàng thịt lợn. Đại diện doanh nghiệp đang cung cấp cho thị trường từ 3.500-4.000 con lợn thịt/ngày, ông Kiều Đình Thép, Giám đốc Kinh doanh Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam cho biết, công ty luôn đồng hành với người dân và kêu gọi của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc bình ổn giá lợn thịt từ tháng 8 đến nay. Những ngày gần đây giá lợn của công ty bán ra dao động 59.000-67.000 đồng/kg, tùy thuộc vào loại lợn và từng địa phương. Công ty luôn ưu tiên cung cấp lợn với những khách hàng đã liên kết lâu năm, với đơn vị mới công ty chỉ phục vụ ở mức độ vừa phải. Công ty cũng không bán lợn ồ ạt ra thị trường bởi nếu bán ồ ạt sẽ xảy ra tình trạng thương lái thu gom và tổ chức bán qua nhiều nấc thang và có thể đẩy giá lên. Nguồn cung của công ty so với cùng kỳ năm ngoái đang tăng khoảng gần 10% về sản lượng. Doanh nghiệp sẽ cung cấp ổn định đến cuối năm. Góp phần bình ổn thị trường, ông Kiều Đình Thép cũng cho biết, ngoài cung cấp lợn thịt cho các đơn vị đang liên kết, công ty cũng có trên 200 điểm bán hàng Porkshop cùng với hệ thống phân phối ở các cửa hàng tiện ích, siêu thị… Để tăng nguồn cung, Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam đang tăng năng suất lợn nái; đẩy mạnh tái đàn cùng với thực hiện bằng được “an ninh sinh học” để giữ đàn; kéo dài thời gian nuôi lợn thịt, giúp tăng năng suất, sản lượng thịt. Các cơ quan chức năng cần tuyên truyền, định hướng người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thay thế như gia cầm, thủy cầm, thủy sản, trâu bò…; cố gắng tiếp cận khâu sản xuất và tiêu dùng, hạn chế các nấc thang bắc cầu ở khâu lưu thông. Khi làm tốt hai yếu tố trên thì giá cả sẽ đi đến ổn định và hợp lý, ông Kiều Đình Thép nhận định. Ông Nguyễn Văn Long, Phó Cục trưởng Cục Thú y cho biết, tính đến ngày 13/11, bệnh dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra trên 8.400 xã, tiêu hủy 5,8 triệu con lợn, với sản lượng khoảng 330.000 tấn, chiếm 8,5% tổng sản lượng lợn cả nước. Dịch bệnh đang được kiểm soát tốt trên cả nước. Hiện cả nước có trên 60% số xã đã qua 30 ngày không có dịch tái phát; đặc biệt 10 tỉnh, thành phố có trên 85% xã đã qua 30 ngày không có dịch. Đây là điều kiện để các hộ có thể tái đàn. Các địa phương cần nhân rộng mô hình chăn nuôi an toàn sinh học đã có kết quả trên thực tế, đây là giải pháp then chốt để phát triển chăn nuôi an toàn. Những địa phương đã qua 30 ngày không có dịch, có thể tái đàn kết hợp với chăn nuôi an toàn sinh học. Bên cạnh đó, địa phương cần kiểm soát tốt việc vận chuyển lợn sản phẩm thịt lợn giữa các địa phương, giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh. Ông Nguyễn Quang Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Thú y Hưng Yên cho biết, tỉnh định hướng chỉ tái đàn có trọng điểm, với hộ chăn nuôi khép kín; quản lý được phương tiện, con người ra vào; khử trùng tiêu độc định kỳ, nhập con giống có nguồn gốc. Các trang trại tái đàn từng bước, không ồ ạt, thời gian đầu chỉ tái đàn từ 10-20% số lượng, sau một thời gian kiểm tra âm tính với bệnh dịch tả lợn châu Phi mới tăng thêm đàn. Nếu người chăn nuôi chạy theo lợi nhuận để tái đàn mà không kết hợp với chăn nuôi an toàn sinh học sẽ rất nguy hiểm, dễ dẫn đến dịch bệnh, thiệt hại nặng hơn, ông Nguyễn Quang Tuấn khuyến cáo. Tuy nhiên, hiện một số địa phương có tư tưởng ngại, né tránh tái đàn, ông Nguyễn Xuân Dương cho rằng, địa phương phải có trách nhiệm hướng dẫn người dân tái đàn để đảm bảo thu nhập cho người dân cũng như nguồn cung thực phẩm thời gian tới. Địa phương không nên chờ đợi hết dịch mới tái đàn mà nên mạnh dạn tái đàn có kiểm soát./. Bích Hồng …
| Tin mới | admin | 15/11/2019 | | Trang trại khai thác 13 tấn sữa bò hữu cơ ở Lâm Đồng | Mỗi ngày, đàn bò Organic tại Trang trại bò sữa Vinamilk Đà Lạt cho khai thác 12-13 tấn sữa. Trang trại này đã thực hiện quy trình hữu cơ theo tiêu chuẩn Trung Quốc để chuẩn bị xuất khẩu sữa sang quốc gia này. Trang trại bò sữa Vinamilk Đà Lạt được xây dựng tại xã Tu Tra (huyện Đơn Dương, Lâm Đồng). Đây là trang trại hữu cơ đầu tiên của Vinamilk ở Việt Nam và thực hiện quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn châu Âu (EU). Tại đây đang chăn nuôi khoảng 1.000 con bò và trong đó có 50% tổng đàn cho khai thác sữa. Theo nhân viên làm việc tại đây, các khâu chăm sóc đều được cơ giới hóa và mọi hoạt động, chế độ ăn uống của bò đều được theo dõi khoa học, sát sao. Do vậy, năng suất sữa đạt khoảng 23 lít/con/ngày, đây là năng suất cao hơn nhiều so với những trang trại khác. “Hiện nay, thị trường có chuyển biến mạnh thiên về các sản phẩm hữu cơ và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Hồi tháng 9, các chuyên gia Trung Quốc đã kiểm tra chất lượng sữa Organic của trại, kiểm tra quy trình chăn nuôi và đánh giá cao. Ngoài việc sản xuất theo tiêu chí Organic EU, chúng tôi cũng thực hiện theo quy trình hữu cơ của Trung Quốc để chuẩn bị cho việc xuất khẩu sữa qua thị trường này”, ông Hoàng Văn Trường, Giám đốc trang trại bò sữa Vinamilk Đà Lạt, chia sẻ. Hiện nay, ngoài việc sản xuất dòng sữa hữu cơ, Vinamilk Đà Lạt cũng sản xuất sữa thường. Ngoài lượng sữa từ trang trại, Vinamilk Đà Lạt cũng nhập 85 tấn sữa/ngày từ đàn bò trong dân để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho chế biến. MINH HẬU – ĐỨC …
| Tin mới | admin | 13/11/2019 | | Sữa Việt bước vào thị trường Trung Quốc | TTO – Xu hướng ngày càng nhiều doanh nghiệp xúc tiến xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc (“Bớt rồng rắn chờ bán hàng sang Trung Quốc”, Tuổi Trẻ ngày 14-10). Nhưng thị trường hơn 1 tỉ dân đang đòi hỏi gì? Câu chuyện của NutiFood phần nào trả lời được những khó khăn mà doanh nghiệp Việt phải trải qua. Trả lời Tuổi Trẻ, ông Lê Nguyễn Hòa, phó chủ tịch hội đồng quản trị NutiFood, nói: – Dự kiến từ giữa tháng 10-2019, những lô sữa đầu tiên của VN được xuất khẩu qua đường chính ngạch sang Trung Quốc, thị trường nhập khẩu sữa lớn nhất thế giới. Hồ sơ của 5 doanh nghiệp sữa VN đã được Trung Quốc chấp thuận và hải quan nước này đã xét duyệt, chỉ còn chờ bước cuối cùng cấp mã số xuất khẩu. Đây là kết quả của nỗ lực không mệt mỏi của Bộ NN&PTNT cũng như sự chủ động của các doanh nghiệp. Mở cửa cho sữa Việt * Hàng Trung Quốc ở VN quá nhiều. Nhưng quá trình để sữa Việt vào Trung Quốc lại rất dài, chúng ta đã phải làm gì, thưa ông? – Với mặt hàng sữa, về cơ bản sản phẩm sữa VN từ trước đến nay chưa thể vào thị trường Trung Quốc, thậm chí cả đường tiểu ngạch. Nếu cơ quan hải quan nước này bắt được lô hàng sữa sẽ lập tức hủy ngay. Trong suốt các năm 2016-2017, các đoàn lãnh đạo của VN hội đàm trực tiếp với phía Trung Quốc để bàn cách mở cửa cho sữa cùng các nông sản vào Trung Quốc. Đến năm 2018, Trung Quốc hứa xem xét chấp nhận cho sữa VN và lúc này mới bắt đầu hành trình đánh giá chất lượng sữa VN. Thời gian qua Bộ NN&PTNT đã xây dựng hướng dẫn chi tiết các yêu cầu về mặt kỹ thuật của phía Trung Quốc, thậm chí mời cả chuyên gia Trung Quốc sang cùng thẩm định. Phía Trung Quốc đã tới kiểm tra các vùng chăn nuôi của VN đảm bảo an toàn về dịch bệnh, họ muốn sữa VN xuất sang Trung Quốc phải đến từ các vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh. Đến tháng 4-2019 hai nước mới ký nghị định thư xuất khẩu. Các lô hàng này có thể được xem như là bước mở đường cho các sản phẩm sữa của VN xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Những doanh nghiệp sữa được lựa chọn trong giai đoạn đầu phải uy tín, theo đến cùng chất lượng sản phẩm. * Bộ hồ sơ có thể nói là “kinh khủng” mà phía Trung Quốc yêu cầu cụ thể là gì, thưa ông? – Ngoài các yêu cầu của Bộ NN&PTNT, phía Trung Quốc cũng yêu cầu doanh nghiệp đăng ký xuất khẩu phải hoàn thiện bộ hồ sơ, đúng là có thể nói “kinh khủng” vì tính chi tiết và đầy đủ quy trình sản xuất. Bộ hồ sơ này bao gồm thông tin từ nông trại đến sản phẩm cuối cùng như xuất xứ con bò, quy trình kiểm soát thú y, tiêm phòng, danh mục thuốc thú y, lấy mẫu, hồ sơ kiểm nghiệm, sau đó mới là thông tin về trang trại, nhà máy… Tất cả đều phải bằng hai thứ tiếng Anh và Trung. Tiếp theo, danh mục sản phẩm xuất khẩu phải đăng ký kèm theo tiêu chuẩn chất lượng, tự công bố gắn với các kiểm nghiệm. Cho đến nay có 4/5 doanh nghiệp hoàn thiện và chỉ đánh giá có 2 hồ sơ tốt, trong đó có NutiFood. Nói thật, chúng tôi cũng mừng vì kết quả sau cả quá trình chuẩn bị công phu. Chúng tôi đang chờ cấp mã số xuất khẩu và đó là bước thủ tục cuối cùng để thâm nhập chính ngạch vào thị trường Trung Quốc. Những yêu cầu rất khắt khe, nhưng cũng giúp cho những doanh nghiệp khác đánh giá đúng năng lực sản xuất của ngành sữa VN. Không mua đứt bán đoạn * Cơ hội nhiều nhưng làm sao để thị trường Trung Quốc là cơ hội khẳng định thương hiệu, phát triển chứ không chỉ là cuộc dạo chơi cho các công ty sữa VN? – Chúng tôi đã đáp ứng được những yêu cầu nghiêm ngặt đó nhờ có nguồn nguyên liệu, trang trại cao nguyên có khí hậu rất phù hợp để nuôi bò sữa… Sau gần 2 năm theo đuổi, NutiFood đã có “visa” xuất khẩu sang Mỹ khi đáp ứng hàng trăm tiêu chuẩn khắt khe của Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Thực tế, dù mặt hàng sữa chưa vào được Trung Quốc nhưng các sản phẩm dinh dưỡng của Nuti cũng đã có mặt tại Trung Quốc, ngoài ra còn có cà phê. Hiện các sản phẩm của chúng tôi đã có mặt tại 3.388 cửa hàng, siêu thị. Kinh nghiệm là chú trọng phân phối. Chúng tôi đã chọn phát triển cùng đối tác địa phương chứ không mua đứt bán đoạn. * Thị trường Mỹ và Trung Quốc rất khác nhau, vào được rồi cũng còn nhiều việc phải làm, thách thức cho các sản phẩm sữa Việt? – Trong danh mục các sản phẩm được cấp phép xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc lần này có cả sữa bột nguyên kem, sữa công thức… Để chinh phục một thị trường, quan trọng là phải cung ứng những dòng sản phẩm phù hợp khẩu vị, thị hiếu. Dựa trên các sản phẩm đã thâm nhập được, có thể thấy lợi thế của sữa VN là được người dùng Trung Quốc đón nhận khá tốt, hợp khẩu vị. Vấn đề là chúng ta phải điều chỉnh bao bì theo quy định, quy cách quy định của thị trường Trung Quốc. Với thị trường Mỹ, sữa Việt mới chỉ đang đáp ứng một phân khúc, phục vụ một cộng đồng nào đó. Nhưng với thị trường Trung Quốc nhu cầu đa dạng, với 1,4 tỉ dân, có nhiều phân khúc, đây là dạng thị trường tiềm năng. Trung Quốc có những loại sữa rẻ như nước nhưng cũng tồn tại một thị trường sữa cao cấp nhập khẩu cạnh tranh gay gắt. Sữa VN đang có lợi thế về địa lý, dễ dàng vận chuyển, chi phí logistics không quá cao… Chúng tôi tin sữa VN hoàn toàn có cơ hội nếu doanh nghiệp bám sát, tìm được ngách thị trường phù …
| Tin mới | admin | 21/10/2019 | | Cục Chăn nuôi lấy ý kiến của các cá nhân, tổ chức Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về chăn nuôi | Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về: Phòng Thanh tra, Pháp chế Cục Chăn nuôi Phòng 103, Tòa nhà số 2, Khu Liên cơ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Số 16 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội. Điện thoại: 02437331225 Email: …
| Thông báo | admin | 07/10/2019 | | Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2017-2020 | Thực hiện Quyết định số2640/QĐ-BNVngày 10 tháng 10 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt Đề án “Đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2017-2020”, Bộ Nông nghiệp và PTNTđã ban hành Quyết định số 3545/QĐ-BNN-TCCB ngày 13/9/2019 ban hành Kế hoạch thíđiểm triển khai khảo sát sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và PTNTnăm 2019.Theo đó, Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ khảo sát sự hài lòng củangười dân, doanh nghiệpđã trực tiếp thực hiệnthủ tục hành chính và nhận kết quả giải quyết thủ tục hành chính thông qua Cơ chế một cửa quốc gia và Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ trong năm 2019. Phương pháp khảo sát trực tuyến thông quaBiểu mẫu “Phiếu khảo sát sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với chất lượng dịch vụ công trực tuyến do Bộ Nông nghiệp và PTNT cung cấp” tại địa chỉ: Phiếu khảo sát sự hài lòng Thời gian tiến hành khảo sát đến hết ngày …
| Tin mới | admin | 25/09/2019 | | Nuôi trùn quế lãi “khủng” | Mô hình chăn nuôi, trồng trọt khép kín của anh Nguyễn Công Vinh ở huyện Châu Thành, Tiền Giang cho thu lãi tới 500 triệu đồng/tháng. Nuôi trùn quế công nghệ cao Sau khi tốt nghiệp ngành Công nghệ thông tin, ĐH An Giang, anh Vinh đã có việc làm ở TP.HCM với mức lương hàng chục triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, nắm bắt xu thế sản xuất nông nghiệp sạch, anh đã mạnh dạn từ bỏ công việc nơi đô thị để về miền Tây khởi nghiệp. Anh Vinh từ bỏ công việc mức lương hàng chục triệu đồng ở TP.HCM để về quê khởi nghiệp nuôi trùn quế. Nhận thấy trùn quế là vật nuôi cải tạo môi trường tốt, anh Vinh dành nhiều thời gian nghiên cứu tìm hiểu. Qua thông tin mà anh có được, nghề nuôi trùn quế đã có từ nhiều năm nay nhưng đại đa số người nuôi đều thất bại hoặc không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Theo anh có nhiều nguyên nhân như phân trùn kém chất lượng không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, trại nuôi không có thị trường để liên kết bao tiêu đầu ra… Để khắc phục vấn đề này anh đã cùng bạn bè nghiên cứu kỹ lưỡng và lập cho mình một dự án nuôi trùn quế sạch, áp dụng công nghệ cao, hướng bao tiêu đầu ra. Anh Vinh phân tích, bà con mình nuôi trùn quế thường cho ăn chất thải hữu cơ như phân bò, một vài trại có kết hợp men vi sinh nhưng hiệu quả không cao. Mỗi mét vuông nuôi trong ba tuần chỉ đạt khoảng 1 kg trùn thương phẩm. Với công nghệ nuôi của Israel, năng suất nuôi trùn quế từ trang trại của anh Vinh đạt gấp đôi so với phương pháp nuôi truyền thống. Riêng công nghệ của anh Vinh rất khác biệt, anh sử dụng không chỉ phân bò, mà cả phế phẩm thực vật như rau quả dập hư, phân động vật, phế phẩm sau biogas… Qua xử lý bằng công nghệ Lignin anh thu được đạm thực vật. Từ đó lấy đạm nuôi trùn quế. Trong quá trình nuôi anh sử dụng một loại men được nhập khẩu từ Israel để cho ăn, giúp trùn phát triển khỏe mạnh, hiệu suất chăn nuôi từ công nghệ này lên đến 2kg trùn sinh khối trên 1m2, gấp 2 lần phương pháp nuôi thông thường. Tính riêng trang trại ở Tiền Giang với 3.000m2 nuôi cho gần 6 tấn trùn thương phẩm. Loại men đặc biệt này gồm 3 nguyên liệu từ Israel và mật mía đường của Việt Nam. Men được ủ trong hơn ba tuần mới cho ra sản phẩm dùng cho trùn ăn. Với loại men này, phân trùn quế có chứa các chất đa trung vi lượng, axit amin. Đặc biệt là hệ vi sinh vật qua ruột trùn giúp cải tạo đất rất tốt. Một chi tiết rất đáng ý là phân trùn quế không chứa hàm lượng kim loại nặng như phân gà, rất phù hợp cho nông nghiệp sạch ứng dụng công nghệ cao, xuất khẩu. Vì vậy sản phẩm từ trang trại của anh Vinh được rất nhiều bà con đặt mua. Hàng sản xuất ra không đủ bán Hiện trùn quế từ trang trại của anh sản xuất ra không đủ bán. Để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng anh Vinh đã liên kết với hơn 200 hộ nông dân nuôi trùn quế ở khắp các tỉnh thành miền Tây. Anh còn mở thêm chi nhánh ở Hậu Giang, Long An, Tiền Giang với quy mô hàng chục ha mỗi trang trại. Anh dự kiến mở thêm trang trại quy mô 10 ha ở Bến Tre. Hiện mỗi tháng trang trại của anh Vinh xuất bán trên 300 tấn phân trùn quế với giá từ 3.000-4.500đ/kg, trên 50 tấn trùn sinh khối với giá từ 10.000-15.000 đ/kg, 6 tấn trùn thịt với giá bán từ 50.000 đ/kg thu về trên 1,7 tỷ đồng, lãi ước tính trên 500 triệu đồng. Ấp ủ mô hình trồng trọt chăn nuôi khép kín Với quyết tâm làm nông nghiệp sạch, anh Vinh đã xây dựng mô hình trồng trọt chăn nuôi sạch dựa trên những thành quả đạt được từ nuôi trùn. Anh mong muốn mình sẽ tạo ra được nhiều sản phẩm sạch hơn nữa. Vườn dừa 2 ha, vườn rau anh đều lấy phân trùn bón, không tốn chút chi phí nào. Dưới mương dừa anh thả nuôi cá tai tượng, cá diêu hồng, lấy trùn thịt làm thức ăn cho cá. Vừa qua, anh xuất bán trên 3 tấn cá tai tượng với giá bán 86.000 đồng/kg, cao gấp đôi giá thương lái mua cá nuôi bằng thức ăn công nghiệp. Lấy trùn nuôi cá, giá bán cao gấp đôi so với nuôi bằng thức ăn công nghiệp. Anh Vinh nói: “Mình lấy chất thải hữu cơ nuôi trùn, rồi lấy trùn bán, nuôi cá, nuôi gà, vịt. Phân trùn bán thương phẩm, trồng cây. Chất thải trong các hoạt động đó lại tiếp tục nuôi trùn, không có thứ gì bỏ ra khỏi vòng khép kín này”. Chia sẻ về bí quyết thành công của mô hình anh Vinh cho biết: “Điều quan trọng nhất là mình phải hướng dẫn chăn nuôi một cách tốt nhất để bà con có sản phẩm liên kết, đáp ứng thị trường. Thời gian đầu mình làm hết cho bà con thấy, giá cả con giống cũng bán rẻ hơn các trại khác để họ dễ tiếp cận. Cái gì bà con tự làm được thì mình chỉ hết chứ không giấu nghề. Bà con có thành công thì mình mới thịnh vượng được với nghề này”. “Tôi chỉ có mong ước, bà con nào liên kết với mình cũng đều sống khỏe. Một trăm mét vuông thôi, mỗi tháng bà con có hơn 100 kg trùn sinh khối và thịt, vài tấn phân trùn thì thu nhập lên đến chục triệu đồng rồi. Hoặc bà con lấy nuôi gà vịt, trồng cây trái thì cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao”, anh Nguyễn Công Vinh, Giám đốc Trang Trại Sạch (Châu Thành, Tiền Giang). MINH …
| Tin mới | admin | 22/08/2019 | | Cập nhật tiến bộ kỹ thuật chăn nuôi mới | Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông Hậu Giang tổ chức buổi tập huấn nhằm cập nhật các TBKT chăn nuôi mới cho hơn 100 cán bộ khuyến nông tỉnh, trạm khuyến nông huyện và các khuyến nông viên xã. Giảng viên đến từ Văn phòng Nam bộ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Những tiến bộ chăn nuôi năm nay tập trung vào công nghệ để phát triển ngành chăn nuôi hiệu quả, bền vững như các phần mềm quản lý, chọn tạo trong chăn nuôi, TBKT về giống, giải pháp thay thế kháng sinh bổ sung trong thức ăn chăn nuôi gồm Acid hữu cơ, Enzyme, chế phẩm trợ sinh (probiotic) và tiền sinh (prebiotic), chế phẩm giàu kháng thể, kháng sinh thảo dược… Công nghệ xử lý môi trường tập trung vào hệ thống biogas quy mô lớn, công nghệ ép tách phân, đệm lót sinh học, công nghệ giun đất; những ứng dụng trong việc thực hiện chăn nuôi theo chuỗi, chăn nuôi theo VietGAHP bao gồm việc nhận diện và truy xuất nguồn gốc thịt heo áp dụng công nghệ thông tin, phương pháp kiểm tra nhanh chất cấm… NGUYỄN VĂN …
| Tin mới | admin | 21/08/2019 | | Quyết định số 342/QĐ-CN-GSN ngày 12 tháng 8 năm 2019 về việc công nhận tiến bộ kỹ thuật lĩnh vực chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 12/08/2019 | | “Ốc đảo” ngựa bạch giữa cao nguyên | “Ốc đảo Ia Rsai” là nơi chàng trai Nguyễn Văn Hậu ấp ủ mô hình nuôi ngựa bạch lớn nhất khu vực Tây Nguyên. Anh Hậu tự hào về con ngựa bạch Tây Tạng do mình chăm sóc. “Ốc đảo Ia Rsai” (huyện Krông Pa, Gia Lai) được bao bọc bởi con sông Ba huyền thoại. Phương tiện duy nhất để qua “ốc đảo” là những chiếc xuồng máy. Việc chọn nơi đây để nuôi ngựa bạch được chàng trai trẻ Nguyễn Văn Hậu (SN 1989, trú tại phường Đoàn Kết, thị xã A Yun Pa) giải thích, nơi đây có sông có núi, phong cảnh hữu tình sẽ làm cho mọi con vật có thể sinh trưởng và phát triển tốt. Nuôi ngựa bạch trên “chảo lửa” Từ chân đèo Tô Na, men theo con đường mòn sỏi đá xuống bến sông Ba, chúng tôi được chàng trai Nguyễn Văn Hậu chờ sẵn. Sau 15 phút di chuyển bằng xuồng máy, cả đoàn cũng đến được với “ốc đảo Ia Rsai”. Gọi là “ốc đảo” bởi nơi đây khá biệt lập và không có nhiều người biết đến. Từ bờ sông, đi qua hàng dừa xanh mát, hình ảnh về những chú ngựa bạch cũng dần hiện ra, khung cảnh thật bình yên và thơ mộng. Hơn chục con ngựa bạch đang nhởn nhơ gặm cỏ. Thỉnh thoảng một, hai con cất tiếng vó giòn tan làm cho nhiều người thích thú. Chỉ tay về phía xa hướng bờ sông, anh Hậu khoe với chúng tôi về con ngựa bạch Tây Tạng được anh mua về từ Trung Quốc. Anh Hậu cho biết, ngựa bạch Tây Tạng là loài vật quý hiếm, sống trên độ cao trên 3.000m, ăn các loại thảo dược quý, nên thịt và xương đều có giá trị cực cao. Trong đàn ngựa bạch đang nuôi hiện có 2 con Tây Tạng được anh Hậu nuôi dùng để nhân giống, còn lại là những con ngựa bạch giống Việt Nam. Khi được hỏi, cơ duyên nào đưa anh đến với mô hình nuôi ngựa bạch? Anh Hậu tâm sự, trước đây anh bươn trải nhiều nơi, kinh qua nhiều nghề để mưu sinh nhưng cuộc sống vẫn rất cơ cực. Tình cờ anh lên mạng tìm hiểu và thấy mô hình nuôi ngựa bạch khá hay, nhất là cao ngựa bạch được biết đến như một loại thần dược có thể chữa được rất nhiều bệnh. Bản thân bố anh cũng bị tai biến nhiều năm rất cần thuốc để điều trị. Từ những suy nghĩ đó, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Hậu quyết tâm đem giống ngựa bạch về nuôi tại vùng “chảo lửa” Krông Pa. Để hiện thực hóa giấc mơ ấy, anh tìm đến các địa phương trong cả nước, nơi nào có nuôi ngựa bạch là anh đến học hỏi. Rồi anh ra Hà Nội, Thái Nguyên, Cao Bằng tìm các chuyên gia để “tầm sư học đạo” cách thuần phục, nuôi dưỡng ngựa bạch. Trang trại ngựa bạch của anh Hậu là mô hình đầu tiên ở Gia Lai. Đến năm 2016, khi kinh nghiệm đã vững vàng, anh quyết định sang Trung Quốc mua 1 con ngựa bạch đực Tây Tạng với giá hơn 200 triệu đồng và 2 con ngựa bạch cái Tây Tạng để nhân giống với giá hơn 200 triệu đồng. Chưa dừng lại, anh tiếp tục đến các trung tâm giống ngựa bạch lớn trong cả nước để mua thêm 5 con ngựa giống Việt Nam với giá mỗi con khoàng 70 -80 triệu đồng. “Lúc đó, nhiều người tỏ vẻ nghi ngờ tôi vì chưa có mô hình ngựa bạch nào được nuôi ở Gia Lai. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và được sự hướng dẫn của các chuyên gia ở Viện Chăn nuôi, tôi đã nuôi và cho sinh sản thành công giống ngựa bạch ngay trên vùng “chảo lửa” Krông Pa này” – anh Hậu tâm sự. Sau 3 năm nuôi dưỡng và nhân giống, đến nay đàn ngựa bạch của anh Hậu đã phát triển lên gần 20 con. Nhân rộng mô hình để nhiều người biết đến Sau khi đưa ngựa bạch về vùng “chảo lửa” cao nguyên, anh Hậu đã dành nhiều thời gian chăm sóc và gần gũi đàn ngựa xem có biểu hiện gì khác thường do thay đổi về khí hậu, môi trường. Anh Hậu cho biết, nuôi ngựa bạch không khó nhưng phải dành hết tâm trí và tình cảm cho chúng vì giống này rất khôn. Thức ăn dành cho ngựa đơn giản, chỉ cần ăn cỏ và uống nước. Với những con ngựa cái đang mang thai thì cho ăn thêm cám và mật mía. Đàn ngựa bạch của anh Hậu được nuôi dưỡng trong môi trường tự nhiên. Trong quá trình nuôi, ngựa bạch thường mắc phải bệnh đau bụng. Đây là bệnh nguy hiểm nhất vì ngựa có ruột thẳng. “Khi nó đau bụng, việc đơn giản nhất là ngừng cho ăn, tiêm thuốc liều cao. Phần lớn người nuôi lầm tưởng bệnh đau bụng của ngựa là cảm, nên càng bồi dưỡng cho ăn nhiều. Điều này rất nguy hiểm vì khi con ngựa đang đau bụng mà ăn vào, bụng càng trướng to và chết càng nhanh” anh Hậu chia sẻ. Đến nay, sau 3 năm chăm sóc, đàn ngựa của anh Hậu phát triển khá tốt. Các con ngựa bạch cái Tây Tạng cũng được anh nhân giống thành công khi đẻ thêm nhiều con ngựa con. Ông Dương Ngọc Thanh, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Gia Lai cho biết, ông hơi bất ngờ khi anh Nguyễn Văn Hậu là người đâu tiên đem mô hình này về Gia Lai. Điều đáng khích lệ là nuôi trên vùng “chảo lửa” Krông Pa. Tuy nhiên qui trình nấu cao ngựa đòi hỏi qui trình nghiêm ngặt. Nếu anh Hậu làm được sẽ tạo dựng được thương hiệu uy tín thì hiệu quả kinh tế rất cao. Theo tính toán của anh Hậu, ngựa cái đẻ mỗi năm một lứa, giá thị trường hiện nay 1 con ngựa bạch con khoảng 25 triệu đồng, sau một năm thì có giá 40 triệu đồng, từ 2 năm trở lên thì giá trên 60 triệu. Nếu nấu cao, một con ngựa Tây Tạng trưởng thành có thể nấu được 7kg cao, trong khi ngựa bạch giống Việt Nam chỉ nấu được 4kg cao. Hiện 1 kg cao ngựa bạch trên thị trường có giá 20 triệu đồng. Anh Hậu cho biết, mình đã bước đầu nấu thành công hơn 30 kg cao ngựa để đem ra thị trường tiêu thụ và làm quà biếu. Thấy mô hình có hiệu quả, nhiều người đã đến trang trại của anh mua ngựa về gây giống. Tuy nhiên, anh chưa bán vì muốn nhân giống đàn ngựa lên nhiều hơn nữa nhằm biến trang trại thành điểm du lịch sinh thái để du khách có thể ngắm nhìn đàn ngựa, hòa mình vào thiên nhiên thơ mộng. Anh Hậu cho biết, trong thời gian tới anh sẽ nuôi thêm một số loài động vật như cừu, lạc đà, hươu, nai… Đồng thời trồng thêm cây ăn quả ở để làm sinh động hơn cho điểm du lịch sinh thái của mình. “Còn gì tuyệt vời hơn cho các gia đình vào mỗi dịp cuối tuần, đến ốc đảo đắm mình vào thiên nhiên, cỏ cây và muông thú”, anh Hậu chia sẻ. TUẤN …
| Tin mới | admin | 12/08/2019 | | Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm và thủy sản 7 tháng tăng 2% | Bảy tháng qua, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 23,03 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ; đến nay, có 8 nhóm sản phẩm đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong tháng Bảy vừa qua, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt 3,55 tỷ USD; trong đó, nông sản chính ước đạt 1,64 tỷ USD, lâm sản chính 893 triệu USD, thủy sản 785 triệu USD, sản phẩm chăn nuôi ước đạt 63 triệu USD. Như vậy, 7 tháng qua, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 23,03 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ. Đến nay, có 8 nhóm sản phẩm đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Cụ thể, nhóm nông sản chính xuất khẩu đạt 10,84 tỷ USD; trong đó, 5 nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD là: càphê đạt 1,8 tỷ USD, cao su đạt 1,1 tỷ USD, gạo đạt 1,73 tỷ USD, hạt điều đạt gần 1,8 tỷ USD, rau quả đạt 2,3 tỷ USD. Mặc dù nhiều sản phẩm có khối lượng xuất khẩu tăng so với cùng kỳ như: cao su tăng 10,7%, gạo 2,1%, điều 13,3%, tiêu 32,5% nhưng do giá xuất khẩu một số sản phẩm giảm sâu như điều giảm 20,6%, tiêu giảm 25,2%, càphê giảm 12%, gạo giảm 16%… nên kim ngạch xuất khẩu nhóm nông sản vẫn giảm 8,2% so với cùng kỳ. Tuy là một trong nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, nhưng xuất khẩu thủy sản giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái (1%), đạt 4,68 tỷ USD. Nguyên nhân bởi hai mặt hàng chủ lực của thủy sản xuất khẩu đã có sự sụt giảm khá mạnh. Đó là, cá tra đạt 1,16 tỷ USD, giảm 3,2%; tôm các loại đạt 1,73 tỷ USD, giảm 10,4%. Trong 7 tháng qua, xuất khẩu lâm sản chính đạt gần 6,01 tỷ USD, tăng 17,3%; trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt hơn 5,6 tỷ USD, tăng 16,1%; sản phẩm mây, tre, cói đạt 264 triệu USD, tăng 46,6%. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng cho biết trong tháng Bảy vừa qua, giá trị nhập khẩu nông lâm thủy sản và vật tư nông nghiệp đạt 2,5 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu 7 tháng đạt khoảng 18 tỷ USD, giảm nhẹ so với cùng kỳ. [Doanh nghiệp nội tăng tốc, xuất khẩu 7 tháng vượt 145 tỷ USD] Như vậy, thặng dư thương mại nông lâm thủy sản 7 tháng đạt gần 5 tỷ USD, tăng gần 12% so với cùng kỳ năm ngoái. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nhận định, thời gian tới xuất khẩu nông sản dự báo tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức và khó có thể đạt mức tăng trưởng cao như cùng kỳ. Nguyên nhân do ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế thế giới 2019 dự báo giảm và các nước trên thế giới đều quay lại tập trung đầu tư cho phát triển nông nghiệp. Các mặt hàng nông sản Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt trong xuất khẩu, khiến cho giá giảm sâu trong khi đó các nước nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều gia tăng bảo hộ hàng hóa nông sản thông qua các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, yêu cầu truy xuất nguồn gốc. Ban Chỉ đạo thị trường Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, Bộ sẽ phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp theo dõi sát diễn biến cung cầu thị trường lương thực, thực phẩm, tình hình xuất nhập khẩu; tăng cường kiểm soát chặt tình hình nhập lậu vào thị trường nội địa. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng sẽ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tích cực đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu, giữ ổn định các thị trường truyền thống, tìm kiếm và mở rộng các thị trường tiềm năng, hạn chế thấp nhất sự phụ thuộc vào một thị trường nhất định. Ngành cũng sẽ phối hợp, hướng dẫn các địa phương tổ chức sản xuất, đáp ứng các yêu cầu của nước nhập khẩu về truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm nông, lâm, thủy sản xuất khẩu. Cùng với đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đẩy mạnh giới thiệu sản phẩm và xây dựng thương hiệu nông sản, nhất là đối với các nông sản chủ lực vào thị trường Trung Quốc. Các đơn vị chức năng nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp với Tổng cục Hải quan Trung Quốc để xử lý các vấn đề phát sinh trong thương mại nông sản giữa hai nước./. Bích Hồng …
| Tin mới | admin | 06/08/2019 | | Quảng Ninh làm chủ cuộc chiến với dịch tả lợn | Trước diễn biến phức tạp của dịch tả lợn Châu Phi, bên cạnh việc triển khai những giải pháp kiểm soát, ngăn chặn bệnh dịch, các địa phương trên địa bàn Quảng Ninh đang có cách riêng để thay đổi cục diện kinh tế chăn nuôi. Đầu tháng 3/2019, TX Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ghi nhận trường hợp đầu tiên của tỉnh bị mắc dịch tả lợn châu Phi (DTLCP). Ngay sau khi nhận được thông tin xuất hiện DTLCP tại địa phương, chính quyền sở tại đã tiến hành kiểm tra trực tiếp tại hiện trường và yêu cầu các địa phương: Đông Triều, Uông Bí, Quảng Yên – giáp ranh với các địa phương đang có dịch là Hải Phòng, Hải Dương phải tăng cường kiểm tra thực tế, thực hiện ngay việc phun khử trùng, tiêu độc tuyến giáp ranh. Đặc biệt, tại khu vực xảy ra dịch phải kiểm soát chặt chẽ, không để xảy ra việc vận chuyển, buôn bán lợn và các sản phẩm từ lợn chưa được kiểm dịch. Tuy nhiên, DLTCP đã nhanh chóng lây lan sang nhiều địa phương lân cận với tốc độ chóng mặt. Theo thống kê của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Ninh, đàn lợn toàn tỉnh giảm do ảnh hưởng của bệnh DTLCP: Thống kê tổng đàn lợn tại địa phương tính đến ngày 30/6/2019 là 158.037 con (trong đó lợn nái, đực giống 16.129 con; lợn thịt, lợn con các loại là 142.178 con). Toàn tỉnh có 14.915 hộ tại 14/14 huyện, thị với hơn 137.000 con lợn ốm, chết và buộc phải tiêu hủy (chiếm hơn 35% tổng đàn). Hiện tại, các địa phương đang triển khai đồng bộ giải pháp phòng chống DLTCP, song song với đó hỗ trợ kịp thời cho người chăn nuôi có lợn bị nhiễm dịch buộc tiêu hủy. Bà Chu Thị Thu Thủy, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Ninh cho biết: DTLCP tiếp tục có nguy cơ phát tán, lây lan nhanh đến các địa bàn chưa bị bệnh; tái phát các ổ dịch cũ (qua 30 ngày); bệnh xâm nhiễm vào cơ sở chăn nuôi tập trung, quy mô lớn và 5/5 cơ sở chăn nuôi sản xuất, lưu giữ lợn Móng Cái. Trước tình hình đó, đơn vị đã khuyến cáo các địa phương tiếp tục phòng chống DTLCP. Đặc biệt sau khi nhận tiền hỗ trợ thiệt hại, người chăn nuôi lợn không nên tái đàn vào thời điểm này nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh. Thay vào đó, người chăn nuôi lợn cần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và công việc khác phù hợp. Cùng với đó, các địa phương cần phối hợp chặt chẽ hoàn thiện thủ tục hồ sơ đảm bảo nhanh, chính xác, minh bạch qua đó sớm giải ngân tiền cho nông dân. Không để người nông dân bị bỏ lại, nhiều cơ chế hỗ trợ chăn nuôi cũng được tỉnh hỗ trợ. Đặc biệt, tại thị xã Quảng Yên, nhiều hộ gia đình không bị thiệt hại sau khi phải tiêu hủy hàng loạt tổng đàn lợn nhiễm bệnh. Thay vì để chuồng trống, được sự hướng dẫn của chính quyền, nhiều gia đình chuyển sang nuôi gia cầm thương phẩm. Chị Nguyễn Thị Ngân, phường Đông Mai, thị xã Quảng Yên cho biết: Để chuồng trống không chăn nuôi lâu quá, khiến gia đình không yên tâm. Gia đình tôi đã rất lo lắng khi đàn lợn 250 con nhiễm dịch tả lợn, phải tiêu hủy. Được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ chính quyền, tôi tiến hành nuôi vịt, ngan ngay trong chuồng nuôi lợn, cũng bù lại được một phần vốn. Chuyển đổi vật nuôi để duy trì sản xuất là một việc làm kịp thời, vừa giảm bớt gánh nặng kinh tế, tạo nguồn thu tạm thời cho những hộ nhiễm DTLCP phải tiêu hủy hàng loạt. Cùng với đó, lồng ghép hỗ trợ cho người chăn nuôi sau dịch giúp đỡ người dân ổn định kinh tế, giúp đỡ một phần vốn đầu tư phát triển. Nhằm kịp thời hỗ trợ người chăn nuôi bị thiệt hại do DTLCP, tỉnh Quảng Ninh đã yêu cầu các phương rà soát, tổng hợp niêm yết công khai chính sách, danh sách hỗ trợ thiệt hại để người dân nắm bắt kịp thời. Công tác triển khai khử trùng tiêu độc được thực hiện đầy đủ, tập trung và liên tục. Bà Nguyễn Thị Lụa (thôn Tân Lập, xã Hồng Thái Đông, TX Đông Triều) cho biết: Tháng 3/2019, sau khi đàn lợn xét nghiệm bị nhiễm DTLCP, địa phương đã cắt cử cán bộ trực tiếp đến hỗ trợ chúng tôi tiêu hủy toàn bộ 17 con lợn trong chuồng. Ngay sau đó, cán bộ thú y xã còn hướng dẫn gia đình kiểm đếm đầy đủ số lượng, trọng lượng lợn tiêu hủy để có phương án hỗ trợ. Đến nay chúng tôi đã được nhận tiền hỗ trợ, qua đó có vốn chuyển đổi sang một số công việc, ngành nghề khác… ANH THẮNG – VĂN …
| Tin mới | admin | 06/08/2019 | | Thông báo số 5542/TB-BNN-VP ngày 05/8/2019 Ý kiến kết luận của Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tại Hội nghị “Triển khai các giải pháp tổng hợp phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi” | …
| Thông báo | admin | 06/08/2019 | | Quy trình chăn nuôi lợn an toàn sinh học ‘cùng vào cùng ra’ | Bộ NN-PTNT vừa ban hành Công văn số 5329/BNN-CN gửi các địa phương về việc tăng cường một số biện pháp kỹ thuật tổng hợp về an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn để phòng, chống bệnh dịch tả lợn Châu Phi. Lãnh đạo Bộ NN-PTNT kiểm tra mô hình chăn nuôi lợn Một số biện pháp kỹ thuật tổng hợp Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày ngày 18/6/2019 của Chính phủ về việc triển khai một số giải pháp cấp bách trong phòng, chống bệnh dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) theo tinh thần chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 20/5/2019, để phòng chống bệnh DTLCP, Bộ NN-PTNT khuyến cáo một số biện pháp kỹ thuật tổng hợp về an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn để phòng, chống bệnh (DTLCP) như sau: Với chuồng trại và trang thiết bị chăn nuôi, công văn số 5329 do Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến ký, yêu cầu kiểm soát chặt chẽ người và động vật ra vào khu vực chăn nuôi. Chuồng nuôi phải dễ thực hiện các biện pháp vệ sinh, sát trùng, tiêu độc, phòng bệnh. Có lưới bao xung quanh chuồng nuôi và biện pháp khác ngăn chặn côn trùng và vật chủ trung gian khác truyền bệnh, như chuột, chim, ruồi, muỗi… Tại lối ra vào chuồng nuôi phải bố trí hố khử trùng, thay bảo hộ lao động cho người ra, vào khu vực chăn nuôi. Nên có ô chuồng nuôi cách ly nuôi lợn mới nhập hoặc nuôi lợn bị bệnh. Có khu vực thu gom và xử lý chất thải, nếu có điều kiện thì nuôi theo phương pháp cách ô (mỗi ô chuồng có khoảng trống 0,8-1m) để giảm thiểu lợn giữa các ô chuồng tiếp xúc với nhau. Không sử dụng chung dụng cụ chăn nuôi giữa các chuồng. Đường thoát nước thải từ chuồng nuôi đến khu xử lý chất thải đảm bảo kín. Nước thải ô chuồng nào thoát riêng ô chuồng đó ra đường thoát nước chung. Yêu cầu về con giống, lợn nhập về nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng, khoẻ mạnh. Đối với lợn nhập từ ngoài tỉnh phải có Giấy kiểm dịch, trước khi nhập đàn, nuôi cách ly ít nhất 2 tuần. Với thức ăn và nước uống, sử dụng thức ăn có nguồn gốc rõ ràng, không bị hỏng, mốc và còn hạn sử dụng, đảm bảo chất lượng và an toàn. Trường hợp sử dụng thức ăn tận dụng phải được xử lý nhiệt trước khi cho ăn. Không sử dụng thức ăn thừa trong máng ăn của đàn lợn đã xuất chuồng và thức ăn của đàn lợn đã bị dịch bệnh cho đàn lợn mới. Phải sử dụng thức ăn có nguồn gốc rõ ràng cho lợn Nguồn nước cho chăn nuôi lợn phải đảm bảo an toàn. Nên bổ sung chế phẩm sinh học trong thức ăn để tăng khả năng tiêu hóa, sức đề kháng cho lợn. Chăm sóc, nuôi dưỡng, áp dụng phương thức quản lý “cùng vào-cùng ra” theo thứ tự ưu tiên: dãy chuồng, ô chuồng. Có quy trình chăn nuôi phù hợp với từng loại lợn theo các giai đoạn sinh trưởng, phát triển. Nên áp dụng phương thức nuôi khô, không sử dụng nước tắm cho lợn. Sử dụng các chế phẩm sinh học trong nước uống, độn chuồng và định kỳ phun sương trong chuồng nuôi theo hướng dẫn của nhà sản xuất để tăng cường phòng, chống dịch. Vệ sinh chăn nuôi và kiểm soát người ngoài ra, vào chuồng nuôi theo hướng hạn chế tối đa người ngoài ra, vào khu vực chuồng nuôi. Trước và sau khi vào, ra khu chăn nuôi phải thay bảo hộ lao động, sát trùng tay, nhúng ủng hoặc giầy, dép vào hố khử trùng. Chất sát trùng tại các hố sát trùng ở cổng ra vào khu chăn nuôi, chuồng nuôi phải bổ sung hoặc thay hàng ngày, cần thay đổi các loại chất sát trùng để tăng hiệu quả sát trùng. Định kỳ phun thuốc sát trùng xung quanh khu chăn nuôi, chuồng nuôi ít nhất 2 lần/tuần; Phun thuốc sát trùng trong chuồng nuôi ít nhất 1 lần/tuần khi không có dịch bệnh, và ít nhất 2 lần/tuần khi có dịch bệnh; Phun thuốc sát trùng trên lợn ít nhất 2 lần/tuần khi có dịch bệnh bằng các dung dịch sát trùng thích hợp theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Định kỳ phát quang bụi rậm, khơi thông và vệ sinh cống rãnh ngoài chuồng nuôi ít nhất 2 lần/tháng. Phải vệ sinh máng ăn, máng uống hàng ngày. Thiết bị, dụng cụ và phương tiện phục vụ trong chăn nuôi phải được tiêu độc khử trùng thường xuyên. Sau mỗi đợt nuôi phải làm vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng, dụng cụ chăn nuôi và để trống chuồng ít nhất 7 ngày trước khi đưa lợn vào nuôi. Trong trường hợp chuồng bị dịch, nếu tái đàn nên để trống chuồng ít nhất 30 ngày và được sự đồng ý của chính quyền địa phương. Kiểm soát phương tiện vận chuyển, trang thiết bị, dụng cụ chăn nuôi không để các phương tiện như xe máy, xe đạp, xe đẩy, xe thồ… trong khu chuồng nuôi lợn. Phương tiện vận chuyển trước và sau khi vào chuồng nuôi phải được khử trùng, tiêu độc. Đặc biệt, không để phương tiện vận chuyển của thương lái, phương tiện vận chuyển thức ăn đến khu vực nuôi lợn. Phương tiện vận chuyển phải dừng ở bên ngoài để vệ sinh, sát trùng, tiêu độc và sử dụng xe nội bộ của khu chuồng nuôi để vận chuyển. Nên có phương tiện vận chuyển chuyên dụng, trường hợp dùng chung thì phải vệ sinh, tiêu độc, khử trùng trước khi sử dụng. Chất thải được gom để xử lý phải để cuối chuồng, xa khu chuồng nuôi, xa nơi cấp nước. Chất thải phải được thu gom hàng ngày, chuyển đến nơi tập trung và xử lý bằng nhiệt, hoặc bằng hoá chất, hoặc xử lý bằng sinh học phù hợp. Chất thải rắn trước khi đưa ra ngoài phải được xử lý đảm bảo vệ sinh theo quy định hiện hành của thú y. Các chất thải lỏng phải được dẫn trực tiếp từ các chuồng nuôi đến khu xử lý bằng đường thoát riêng. Chất thải lỏng phải được xử lý bằng hoá chất hoặc bằng phương pháp xử lý sinh học phù hợp. Với quản lý dịch bệnh, có quy trình phòng bệnh phù hợp từng loại lợn và thực hiện đúng quy trình. Trong trường hợp có dịch, phải khai báo chính quyền địa phương và thực hiện đầy đủ các quy định hiện hành về phòng, chống dịch. Cách ly lợn ốm để có biện pháp xử lý kịp thời, ngừng xuất lợn giống và kiểm soát chặt việc xuất sản phẩm, vật tư trong khu chăn nuôi lợn ra ngoài theo quy định. Khi xảy ra dịch tại ô chuồng hay cả chuồng cần tiêu độc, khử trùng tại chỗ: Cần che bạt, bao vây kín ô chuồng hoặc cả chuồng, với lợn nuôi con loại ngay nái và toàn bộ lợn con, đối với các loại lợn khác loại toàn bộ ô chuồng hoặc cả chuồng nếu dịch xảy ra cả chuồng hoăc cả ô chuồng, lợn bệnh phải tiêu hủy theo hướng dẫn của cơ quan thú y. Không rửa ngay ô chuồng hoặc chuồng lợn bị bệnh, tiến hành che bạt, bao vây kín, phun chất sát trùng đẫm gấp 2 lần bình thường liên tục 3-4 ngày, sau đó rửa lại bằng nước sạch, tránh làm bắn nước sang ô chuồng hoặc chuồng kế bên, tiếp tục phun sát trùng 2-3 ngày. Bao bì, dụng cụ đựng thức ăn của đàn lợn bị dịch bệnh phải được tiêu độc, khử trùng. Thực hiện ghi chép và lưu giữ nhật ký chăn nuôi. Trang trại chăn nuôi lợn phải lập sổ, ghi chép theo dõi và lưu trữ các thông tin trong quá trình chăn nuôi. Chủ trang trại phải tổ chức tiến hành kiểm tra việc thực hiện công tác an toàn sinh học định kỳ. Kiểm soát chặt chẽ người ra vào tại trang trại chăn nuôi lợn an toàn sinh học Khuyến cáo sử dụng chế phẩm vi sinh Nguyên tắc sử dụng thức ăn có bổ sung chế phẩm vi sinh, bao gồm chế phẩm probiotic (lợi khuẩn) và enzyme. Khi bổ sung chế phẩm vi sinh là probiotic thì không nên dùng kháng sinh vì kháng sinh làm mất tác dụng của vi sinh vật và giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Cơ sở chăn nuôi có thể tự trộn thức ăn tại trại hoặc sử dụng thức ăn công nghiệp mua từ cơ sở sản xuất có uy tín, đảm bảo chất lượng và có thể truy xuất nguồn gốc. Các biện pháp an toàn sinh học phải luôn đảm bảo theo quy trình hướng dẫn của cơ quan chuyên môn hoặc nhà cung cấp sản phẩm. Hướng dẫn sử dụng thức ăn có bổ sung chế phẩm vi sinh. Giai đoạn 1 (lợn có khối lượng dưới 20 kg): Ở giai đoạn này, cơ sở chăn nuôi nên sử dụng thức ăn công nghiệp mua từ những cơ sở sản xuất có uy tín, đảm bảo chất lượng và an toàn được được bổ sung sẵn chế phẩm vi sinh theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Giai đoạn 2 (lợn có khối lượng từ 20 kg trở lên): Ở giai đoạn này có thể sử dụng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh hoặc thức ăn tự phối trộn. Thức ăn tự phối trộn từ những nguyên liệu thông dụng, sẵn có tại địa phương, không nên sử dụng nguyên liệu thức ăn có nguồn gốc động vật (ngoại trừ bột cá). Trước khi chế biến, cơ sở cần lập công thức thức ăn (khẩu phần cơ sở) theo từng giai đoạn sinh trưởng đảm bảo đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho lợn. Dưới đây là hướng dẫn các bước tự sản xuất thức ăn chăn nuôi (khẩu phần cơ sở) và sử dụng chế phẩm vi sinh trong thức ăn chăn nuôi tại cơ sở chăn nuôi: Quy trình khuyến cáo khẩu phần ăn cho lợn của Bộ NN-PTNT. Bước 1: Lựa chọn nguyên liệu thức ăn trước khi sản xuất – Cần chọn nguyên liệu đảm bảo chất lượng, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Nguyên liệu phải mới, khô, không bị mốc. Không mua quá nhiều nguyên liệu để dự trữ tại cơ sở chăn nuôi. – Nguyên liệu bảo quản ở nơi khô ráo, cách xa chuồng nuôi. Kiểm tra chất lượng nguyên liệu theo định kỳ. Bước 2: Phối trộn thức ăn (khẩu phần cơ sở) Tùy theo loại nguyên liệu thức ăn sử dụng, cơ sở lập công thức thức ăn theo nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi theo các giai đoạn sinh trưởng và phát triển phù hợp hoặc từ khi bắt đầu cho ăn thức ăn có bổ sung chế phẩm vi sinh đến khi xuất chuồng. Bước 3: Sử dụng chế phẩm vi sinh trong khẩu phần cơ sở, tùy theo khuyến cáo của nhà sản xuất về sử dụng chế phẩm vi sinh trong khẩu phần cơ sở mà cơ sở chăn nuôi có thể áp dụng quy trình ủ thức ăn trước khi cho ăn hoặc cho ăn trực tiếp. Sử dụng chế phẩm vi sinh là nấm men hoạt tính Saccharomyces trong khẩu phần cơ sở: Thức ăn hỗn hợp được trộn đều với nước sạch và chế phẩm theo tỷ lệ 800 kg thức ăn hỗn hợp + 200 kg nước sạch + 2 kg chế phẩm vi sinh Fodder Yeast. Hỗn hợp này sau đó được đưa vào thùng nhựa hoặc thùng phuy đậy kín (trường hợp không có thùng nhựa/phuy thì dùng túi ni long buộc kín) để ủ trong nhà thông thoáng, đảm bảo tránh mưa, nắng. Sau khi ủ ít nhất 07 ngày (mùa hè) và 10 ngày (mùa đông) thì bắt đầu sử dụng. Sản phẩm sau khi ủ có thể sử dụng trong 03 – 06 tháng. Yêu cầu thức ăn sau khi ủ: Thức ăn đảm bảo đồng đều, ẩm, tơi xốp, giữ được màu sắc ban đầu và có mùi thơm. Người chăn nuôi có thể sử dụng chế phẩm sinh học trong thức ăn chăn nuôi để tăng đề kháng cho lợn Sử dụng chế phẩm sinh học là vi khuẩn Lactic trong khẩu phần cơ sở: Thức ăn hỗn hợp theo công thức ở Bảng 1 được trộn đều với chế phẩm vi sinh “Lacto Powder T” theo tỷ lệ 2 kg/tấn. Bảo quản thức ăn ở nơi khô thoáng tối đa là 02 tháng. Hằng ngày trộn thức ăn hỗn hợp (đã bổ sung chế phẩm vi sinh) với nước sạch theo tỷ lệ 20 kg thức ăn với 10 kg nước sạch, sau đó đặt vào thùng, ủ 24 – 36 giờ trước khi sử dụng. Sản phẩm sau khi ủ nên sử dụng trong ngày và yêu cầu đồng đều, giữ được màu sản phẩm, có mùi thơm. Sử dụng chế phẩm sinh học là bào tử Bacillus trong khẩu phần cơ sở: Nguyên tắc sử dụng chế phẩm vi sinh có chứa bào tử Bacillus theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Dưới đây là ví dụ một số chế phẩm vi sinh chứa bào tử Bacillus: Chế phẩm “Powerzyme 100”: có nguồn gốc từ Korea, bổ sung 0,5 kg/tấn. Một số chế phẩm vi sinh chứa bào tử Bacillus được sản xuất trong nước: Chế phẩm “Bacillus Weaner”: bổ sung 0,2-0,4 kg/tấn; Chế phẩm “NeoPig Top Gold”: bổ sung 0,5 kg/tấn; Chế phẩm “NeoEnvi”: bổ sung 0,5 kg/tấn. Sử dụng chế phẩm sinh học là enzyme trong khẩu phần cơ sở: Chế phẩm Kangjuntai chứa enzyme Lysozym cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, bổ sung 1-2 kg/tấn; Chế phẩm enzyme tiêu hóa: Ví dụ, sản phẩm “Natuzyme Feed Enzyme for Pig and poultry”, bổ sung 0,5 kg/tấn. Ngoài các chế phẩm vi sinh, các cơ sở chăn nuôi có thể tìm mua các sản phẩm vi sinh khác được phép lưu hành tại Việt Nam, đảm bảo chất lượng và có nguồn gốc rõ ràng. Chế phẩm vi sinh ngoài việc bổ sung vào thức ăn còn có thể sử dụng bổ sung vào nước uống, đệm lót và phun trong không khí chuồng nuôi khi có dịch bệnh theo khuyến cáo của nhà sản xuất. NGUYÊN …
| Tin mới | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 20/QĐ-CN-TĂCN ngày 30 tháng 1 năm 2019 cuả Cục trưởng Cục Chăn nuôi về việc chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 118 /QĐ-CN-TĂCN ngày 19 tháng 4 năm 2019 cuả Cục trưởng Cục Chăn nuôi về việc chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 276 /QĐ-CN-TĂCN ngày 03 tháng 7 năm 2019 cuả Cục trưởng Cục Chăn nuôi về việc chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 239 /QĐ-CN-TĂCN ngày 10 tháng 6 năm 2019 cuả Cục trưởng Cục Chăn nuôi về việc chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 254/QĐ-CN-TĂCN ngày 20 tháng 6 năm 2019 của Cục trưởng Cục Chăn nuôi về việc chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 16 /QĐ-CN-TĂCN ngày 25 tháng 01 năm 2019 của Cục trưởng Cục Chăn nuôi Về việc chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 292 /QĐ-CN-TĂCN ngày 10 tháng 7 năm 2019 của Cục trưởng Cục Chăn nuôi Về việc bổ sung phạm vi chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 295 /QĐ-CN-TĂCN của Cục trưởng Cục Chăn nuôi về việc bổ sung phạm vi chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Quyết định số 20 /QĐ-CN-TĂCN ngày 30 tháng 01 năm 2019 Về việc chỉ định phòng thử nghiệm trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 31/07/2019 | | Tài liệu phục vụ hội thảo kỹ thuật lĩnh vực thức ăn chăn nuôi | Tài liệu phục vụ hội thảo kỹ thuật lĩnh vực thức ăn chăn …
| Thông báo | admin | 30/07/2019 | | Hướng dẫn số 4249/HD-BNN-TY ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn Kiểm soát vận chuyển lợn để nuôi làm giống, nuôi thương phẩm trong và ngoài vùng có bệnh Dịch tả lợn Châu Phi | …
| Văn bản khác | admin | 19/06/2019 | | Hướng dẫn số 4178/HD-BNN-TY ngày 14 tháng 6 năm 2019 Hướng dẫn Biện pháp xử lý, tiêu hủy lợn mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi bằng phương pháp đốt | …
| Văn bản khác | admin | 19/06/2019 | | Một số biện pháp khẩn cấp quản lý giết mổ, tiêu thụ sản phẩm từ lợn khi có Dịch tả lợn Châu Phi | Trước diễn biến ngày càng phức tạp của dịch tả lợn Châu Phi, Bộ NN-PTNT ngày 28/5 ban hành công văn số 3708/HD-BNN-TY hướng dẫn một số biện pháp khẩn cấp về quản lý giết mổ lợn, tiêu thụ sản phẩm từ lợn khi dịch tả lợn Châu Phi. Bộ NN-PTNT đã hướng dẫn một số biện pháp khẩn cấp về quản lý giết mổ lợn, tiêu thụ sản phẩm từ lợn khi có bệnh DTLCP Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) là bệnh truyền nhiễm rất nguy hiểm, có thể gây chết 100% số lợn mắc bệnh, hiện chưa có thuốc điều trị, chưa có vắc xin phòng bệnh. Từ tháng 2/2019 đến nay, bệnh đã xuất hiện và lây lan nhanh trên nhiều tỉnh, thành phố của nước ta, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển chăn nuôi lợn, gây tổn thất lớn về kinh tế, ảnh hưởng lớn đến môi trường. Trong thời gian tới, nguy cơ bệnh DTLCP tiếp tục phát sinh và lây lan tại địa bàn các tỉnh, thành phố là rất cao. Bộ NN-PTNT cảnh báo trong thời gian tới tình hình dịch bệnh có thể phát triển theo 3 hướng sau. Thứ 1, dịch bệnh dễ dàng phát tán, lây lan nhanh và lan tỏa đến các địa bàn chưa bị. Thứ 2, tái phát các ổ dịch cũ qua 30 ngày. Thứ 3, đặc biệt nguy hiểm hơn là bệnh có khả năng xâm nhiễm vào các cơ sở chăn nuôi tập trung, quy mô lớn. Thực hiện Thông báo số 192/TB-VPCP ngày 17/5/2019 của Văn phòng Chính phủ về việc thông báo ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng tại Hội nghị trực tuyến đánh giá tình hình và triển khai các giải pháp phòng, chống bệnh DTLCP. Để giảm áp lực về nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh từ đó giảm số lượng lợn bệnh phải tiêu hủy, góp phần giảm thiểu tổn thất về kinh tế và ô nhiễm môi trường, Bộ NN-PTNT hướng dẫn một số biện pháp khẩn cấp về quản lý giết mổ lợn, tiêu thụ sản phẩm từ lợn khi có bệnh DTLCP dưới sự giám sát của cơ quan thú y như sau: CƠ SỞ ĐƯỢC PHÉP GIẾT MỔ LỢN Cơ sở được phép giết mổ lợn bao gồm: Cơ sở giết mổ tập trung bảo đảm các yêu cầu vệ sinh thú y theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thú y và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia yêu cầu vệ sinh thú y đối với cơ sở giết mổ động vật tập trung (QCVN 01 -150: 2017/BNNPTNT ban hành kèm theo Thông tư số 13/2017/TT-BNNPTNT ngày 20/6/2017 của Bộ NN-PTNT). Cơ sở giết mổ nhỏ lẻ bảo đảm các yêu cầu vệ sinh thú y theo quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật Thú y. Lợn được đưa vào cơ sở giết mổ phải bảo đảm theo quy định tại Điều 4 Thông tư 09/2016/TT-BNNPTNT ngày 1/6/2016 của Bộ NN-PTNT VẬN CHUYỂN, GIẾT MỔ, TIÊU THỤ SẢN PHẨM TỪ LỢN Đối với cơ sở giết mổ lợn tập trung trong vùng dịch: Được phép tiếp nhận, giết mổ lợn khỏe và có kết quả xét nghiệm âm tính với mầm bệnh DTLCP từ cơ sở chăn nuôi lợn ở trong vùng dịch, ngoài vùng dịch thuộc phạm vi trong và ngoài địa bàn cấp tỉnh. Lợn được đưa vào cơ sở giết mổ phải bảo đảm theo quy định tại Điều 4 Thông tư 09/2016/TT-BNNPTNT ngày 1/6/2016 của Bộ NN-PTNT quy định về kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y. Lợn được vận chuyển bằng phương tiện chuyên dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 70 Luật Thú y và QCVN 01-100:2012/BNNPTNT (ban hành kèm theo Thông tư số 30/2012/TT-BNNPTNT ngày 3/7/2012 của Bộ NN-PTNT) từ cơ sở chăn nuôi đến trực tiếp cơ sở giết mổ lợn; không vận chuyển lợn đến các điểm thu gom tập trung để giảm thiểu nguy cơ lây lan mầm bệnh. Đối với lợn xuất phát từ cơ sở thu gom, kinh doanh phải có kết quả xét nghiệm âm tính với mầm bệnh DTLCP trước khi vận chuyển đến cơ sở giết mổ. Cơ sở thu gom được vệ sinh, khử trùng tiêu độc trước và sau mỗi lần thu gom; chất thải, nước thải được xử lý đảm bảo không lây lan mầm bệnh. Trường hợp lợn có nguồn gốc từ tỉnh khác vận chuyển đến cơ sở giết mổ, ngoài yêu cầu kiểm tra âm tính với mầm bệnh DTLCP, lợn phải được kiểm dịch và cấp giấy chứng nhận kiểm dịch vận chuyển ra khỏi địa bàn cấp tỉnh theo quy định tại Thông tư số 25/2016/TT-BNNPTNT ngày 30/6/2016 của Bộ NN-PTNT. Lợn phải được kiểm soát giết mổ theo quy định tại Điều 65 Luật Thú y và Thông tư số 09/2016/TT-BNNPTNT ngày 1/6/2016 của Bộ NN-PTNT. Sản phẩm từ lợn sau giết mổ phải xét nghiệm âm tính với mầm bệnh DTLCP và được vận chuyển bằng phương tiện chuyên dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Luật Thú y, để tiêu thụ trong và ngoài vùng dịch thuộc phạm vi trong và ngoài địa bàn cấp tỉnh. Phương tiện vận chuyển phải được vệ sinh, khử trùng tiêu độc trước khi ra khỏi cơ sở chăn nuôi, trước khi vào và ra khỏi cơ sở giết mổ lợn. Với cơ sở giết mổ lợn tập trung ngoài vùng dịch: Trường hợp lợn được đưa vào cơ sở giết mổ có nguồn gốc từ vùng dịch: thực hiện theo khoản 1 mục II nêu trên. Trường hợp lợn được đưa vào cơ sở giết mổ có nguồn gốc ngoài vùng dịch: thực hiện theo quy định của pháp luật về thú y. Đối với cơ sở giết mổ nhỏ lẻ trong vùng dịch: Được phép tiếp nhận, giết mổ lợn khoẻ và có kết quả xét nghiệm âm tính với mầm bệnh DTLCP từ cơ sở chăn nuôi lợn ở trong vùng dịch và ngoài vùng dịch thuộc phạm vi địa bàn cấp tỉnh. Lợn được đưa vào giết mổ phải bảo đảm theo quy định tại Điều 4 Thông tư 09/2016/TT-BNNPTNT ngày 1/6/2016 của Bộ NN-PTNT quy định về kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y. Lợn được vận chuyển bằng phương tiện theo quy định tại khoản 1 Điều 70 Luật thú y, bảo đảm yêu cầu vệ sinh thú y từ cơ sở chăn nuôi trực tiếp đến cơ sở giết mổ; không vận chuyển lợn đến các điểm thu gom tập trung để giảm thiểu nguy cơ lây lan mầm bệnh. Lợn phải được kiểm soát giết mổ theo quy định tại Điều 65 Luật Thú y và Thông tư số 09/2016/TT-BNNPTNT ngày 01/6/2016 của Bộ NN-PTNT. Sản phẩm từ lợn sau giết mổ được vận chuyển bằng phương tiện theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Luật Thú y và phải lấy mẫu sản phẩm xét nghiệm âm tính với mầm bệnh DTLCP để tiêu thụ trong và ngoài vùng dịch thuộc phạm vi địa bàn cấp tỉnh. Phương tiện vận chuyển phải được vệ sinh, khử trùng tiêu độc trước khi ra khỏi cơ sở chăn nuôi, trước khi vào và ra khỏi cơ sở giết mổ lợn. Đối với cơ sở giết mổ nhỏ lẻ ngoài vùng dịch: Trường hợp lợn được đưa vào cơ sở giết mổ có nguồn gốc từ vùng dịch: thực hiện theo khoản 3 mục II nêu trên và phải lấy mẫu sản phẩm xét nghiệm âm tính với mầm bệnh DTLCP để tiêu thụ trong và ngoài vùng dịch. Trường hợp lợn được đưa vào cơ sở giết mổ có nguồn gốc ngoài vùng dịch: thực hiện theo quy định của pháp luật về thú y. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn, vướng mắc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi văn bản về Bộ NN-PTNT hoặc Cục Thú y để phối hợp giải quyết LẤY MẪU VÀ XÉT NGHIỆM MẪU Việc lấy mẫu, bảo quản mẫu và vận chuyển mẫu phải tuân thủ theo QCVN 01 – 83: 2011/BNNPTNT (ban hành kèm theo Thông tư số 71/2011/TT-BNNPTNT ngày 25/10/2011 của Bộ NN-PTNT). Cơ quan thú y địa phương tổ chức thực hiện việc giám sát, lấy mẫu và gửi mẫu đến phòng thử nghiệm có thẩm quyền để xét nghiệm mầm bệnh DTLCP. Trước khi vận chuyển lợn đến cơ sở giết mổ, chủ cơ sở chăn nuôi lợn phải báo cho cơ quan thú y địa phương để tổ chức giám sát và lấy mẫu xét nghiệm mầm bệnh DTLCP: Đối với trường hợp xuất bán, vận chuyển dưới 100 con lợn: Lấy mẫu máu của 5 con lợn để gộp thành 1 mẫu xét nghiệm. Trường hợp cơ sở chăn nuôi có dưới 5 con lợn, thì phải lấy mẫu tất cả lợn và gộp thành 1 mẫu xét nghiệm; Đối với trường hợp xuất bán, vận chuyển từ 100 đến 300 con: Lấy mẫu máu của 15 con lợn để gộp thành 3 mẫu xét nghiệm; Đối với trường hợp xuất bán, vận chuyển trên 300 con: Lấy mẫu máu của 30 con lợn để gộp thành 6 mẫu xét nghiệm. Trước khi vận chuyển lợn đến cơ sở giết mổ, chủ cơ sở thu gom, kinh doanh phải báo cho cơ quan thú y địa phương để tổ chức giám sát và lấy mẫu xét nghiệm mầm bệnh DTLCP: Đối với trường hợp xuất bán, vận chuyển dưới 100 con lợn: Lấy mẫu máu của 10 con lợn để gộp thành 2 mẫu xét nghiệm. Trường hợp cơ sở thu gom, kinh doanh có dưới 10 con lợn, thì phải lấy mẫu tất cả lợn và gộp 5 mẫu thành 1 mẫu xét nghiệm; Đối với trường hợp xuất bán, vận chuyển từ 100 đến 300 con: Lấy mẫu máu của 30 con lợn để gộp thành 06 mẫu xét nghiệm; Đối với trường hợp xuất bán, vận chuyển trên 300 con: Lấy mẫu máu của 60 con lợn để gộp thành 12 mẫu xét nghiệm. Đối với cơ sở giết mổ tập trung, cơ sở bảo quản sản phẩm lợn sau giết mổ: cơ quan thú y có thẩm quyền tổ chức lấy ngẫu nhiên 15 mẫu sản phẩm từ lợn để gộp thành 3 mẫu xét nghiệm từ mỗi lô sản xuất. Đối với cơ sở giết mổ nhỏ lẻ: cơ quan thú y có thẩm quyền tổ chức lấy ngẫu nhiên 5 mẫu sản phẩm từ lợn để gộp thành 1 mẫu xét nghiệm từ mỗi lô sản xuất. Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm chỉ có giá trị với lô hàng đã đăng ký vận chuyển để giết mổ và có giá trị trong vòng 10 ngày kể từ ngày trả lời kết quả. Chủ cơ sở chăn nuôi lợn, chủ cơ sở có sản phẩm từ lợn chi trả chi phí lấy mẫu, gửi mẫu và xét nghiệm theo quy định. XỬ LÝ LỢN VÀ SẢN PHẨM TỪ LỢN DƯƠNG TÍNH VỚI MẦM BỆNH DTLCP Tiêu hủy ngay toàn bộ lợn tại ô chuồng nuôi, cơ sở thu gom, khu vực cách ly dương tính với mầm bệnh DTLCP; đồng thời thực hiện các biện pháp xử lý ổ dịch, phòng, chống dịch bệnh theo đúng quy định. Cơ sở giết mổ lợn, cơ sở bảo quản sản phẩm từ lợn có kết quả dương tính với mầm bệnh DTLCP phải thực hiện việc tiêu hủy lợn, sản phẩm từ lợn của lô sản xuất dương tính với mầm bệnh DTLCP; ngừng sản xuất và thực hiện việc tổng vệ sinh, sát trùng liên tục trong vòng 05 ngày trước khi giết mổ, kinh doanh trở lại. TỔ CHỨC THỰC HIỆN Căn cứ văn bản hướng dẫn này, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo tổ chức thực hiện phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của địa phương, bảo đảm không lây lan dịch bệnh. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn, vướng mắc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi văn bản về Bộ NN-PTNT (Cục Thú y, địa chỉ số 15/78 đường Giải Phóng, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội) để phối hợp giải quyết. NGUYÊN …
| Tin mới | admin | 30/05/2019 | | Các tỉnh miền Nam xây dựng kịch bản ứng phó với dịch tả lợn châu Phi | Dịch tả lợn châu Phi đang diễn biến phức tạp, tốc độ lây lan nhanh ở các tỉnh phía Nam, vì vậy 18 tỉnh, thành phố ở Đông Nam Bộ và ĐBSCL phải gấp rút xây dựng kịch bản ứng phó dịch tả lợn châu Phi. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường phát biểu khai mạc hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN) Dịch tả lợn châu Phi đang diễn biến phức tạp, tốc độ lây lan nhanh ở các tỉnh phía Nam, vì vậy 18 tỉnh, thành phố thuộc hai vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long phải gấp rút xây dựng kịch bản ứng phó với dịch tả lợn châu Phi theo từng tình huống cụ thể. Đây là chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường tại hội nghị triển khai các giải pháp cấp bách phòng chống bệnh dịch tả lợn châu phi các tỉnh phía Nam do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25/5. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, cho tới nay dịch tả lợn châu Phi là dịch bệnh nguy hiểm nhất và gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngành chăn nuôi thế giới và cả Việt Nam. Mặc dù virus dịch tả lợn châu Phi đã xuất hiện gần 100 năm, gây bệnh ở cả 5 châu lục trên trái đất nhưng cho đến nay vẫn chưa có vắcxin phòng bệnh và thuốc điều trị. Thêm vào đó, virus dịch tả lợn châu Phi có thể tồn tại rất lâu trong môi trường, lây lan qua nhiều hình thức phức tạp nên việc kiểm soát dịch bệnh rất khó khăn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã định hình trước mức độ nguy hiểm và chủ động thực hiện phòng, chống dịch sớm nhưng diễn biến dịch tả lợn châu Phi ngày càng khó lường. [Cần Thơ đã xuất hiện dịch tả châu Phi, trên 100 con lợn bị tiêu hủy] Những ngày gần đây dịch tiếp tục lan nhanh ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, các ổ dịch tuy xuất hiện nhỏ lẻ tại các hộ chăn nuôi nhưng trải rộng ở nhiều tỉnh khiến công tác khoanh vùng, dập dịch khó khăn và làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên quy mô vùng. “Tất cả tỉnh, thành phía Nam đã xảy ra hay chưa có dịch tả lợn châu Phi đều phải theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình dịch bệnh trên địa bàn, xây dựng kịch bản ứng phó phù hợp với tình hình cụ thể ở địa phương cho từng giai đoạn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại do dịch bệnh gây ra. Mỗi địa phương phải xác định: phòng dịch hơn dập dịch, dập dịch như diệt giặc để thực hiện hiệu quả các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi và xử lý ổ dịch. Địa phương nào phát hiện có lợn chết thì lập tức tiêu hủy ngay mà không cần đợi xét nghiệm hay báo cáo cấp trên và người đứng đầu các địa phương phải trực tiếp chịu trách nhiệm về công tác phòng chống, xử lý dịch bệnh ở địa phương mình. Kinh nghiệm của các tỉnh, thành phố đã giao trách nhiệm cụ thể cho người đứng đầu thì công tác phòng chống dịch được triển khai rất hiệu quả,” Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh. Quang cảnh Hội nghị triển khai các giải pháp cấp bách phòng chống bệnh dịch tả lợn châu Phi các tỉnh phía Nam. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN) Ông Bạch Đức Lữu, Chi Cục trưởng Chi cục Thú y vùng 6 nhận định, nguy cơ bệnh dịch tả lợn châu Phi tiếp tục phát sinh và lây lan tại các tỉnh, thành phố phía Nam, bao gồm Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là rất cao do đang ở thời điểm giao mùa từ nắng sang mưa, các địa phương thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch dày đặc, giao thông đường thủy và đường bộ đan xen, khó kiểm soát. Vì vậy, mầm bệnh có thể dễ dàng phát tán và lây lan nhanh sang tất cả các địa phương chưa có dịch trong toàn khu vực. Đặc biệt nguy hiểm hơn là bệnh có khả năng xâm nhiễm vào các cơ sở chăn nuôi tập trung, quy mô và số lượng lợn lớn mà chỉ xâm nhập vào các cơ sở không áp dụng triệt để các biện pháp an toàn sinh học. Điều này có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển chăn nuôi lợn, gây tổn thất lớn về kinh tế, xã hội, ảnh hưởng lớn đến môi trường. Theo ông Bạch Đức Lữu, khu vực phía Nam là một trong những khu vực trọng yếu của ngành chăn nuôi lợn cả nước với tổng đàn lợn lên tới gần 6,5 triệu con, chiếm 23% tổng đàn lợn cả nước. Tuy nhiên, phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ, chuồng nuôi lợn xen lẫn trong khu dân cư vẫn phổ biến, mật độ chăn nuôi rất cao, gây khó khăn rất lớn cho phòng, chống dịch bệnh. Số cơ sở chăn nuôi lợn an toàn dịch bệnh còn thấp so với tổng số trang trại chăn nuôi lợn trong khu vực (chỉ chiếm 13,1%) và so với tổng đàn lợn trong khu vực (chỉ chiếm 18,5%). Một số hộ chăn nuôi lợn vẫn sử dụng thức ăn dư thừa chưa qua xử lý nhiệt, đặc biệt là sử dụng trong chăn nuôi lợn rừng. Thêm vào đó, một số địa phương vẫn chưa làm tốt việc kiểm soát giết mổ; vẫn để tình trạng giết mổ lậu diễn ra thường xuyên, đặc biệt cơ sở giết mổ lậu chuyên thu gom lợn chết không rõ nguyên nhân và nguồn gốc để giết mổ, đưa vào các quán ăn để tiêu thụ khiến lây lan mầm bệnh. Việc kiểm dịch vận chuyển động vật chưa đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh; điều kiện cơ sở vật chất của hệ thống các trạm kiểm dịch đầu mối giao thông còn thiếu; không có khu vực nuôi nhốt cách ly động vật và nơi lưu giữ sản phẩm động vật. Một số địa phương trong khu vực đã thực hiện việc sáp nhập hệ thống thú y các cấp khiến nguồn nhân lực bị cắt giảm, dẫn đến tình trạng không có đủ công chức, viên chức để thực hiện việc phòng, chống dịch bệnh và các hoạt động thú y khác. Để ứng phó với những diễn biến phức tạp của dịch tả lợn châu Phi thời gian tới, Chi cục Thú y vùng 6 khuyến cáo các địa phương phải theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình dịch bệnh, tăng cường tần suất tiêu độc, sát trùng khu vực chăn nuôi, đường giao thông, làm sạch môi trường nhằm hạn chế lây lan mầm bệnh. Các địa phương, đặc biệt là các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long chú ý rà soát các tuyến đường thủy có thể vận chuyển lợn ra, vào địa bàn để thành lập các tổ kiểm tra lưu động hoặc các chốt kiểm tra, kiểm soát trong địa bàn; kịp thời phát hiện các trường hợp vận chuyển trái phép lợn và sản phẩm thịt lợn có nguy cơ mang gây bệnh. Mặt khác, công tác truyền thông cần thông tin rộng rãi và kịp thời những chính sách hỗ trợ cho chủ chăn nuôi có lợn bị tiêu hủy theo quy định để người dân chủ động thông báo cho chính quyền, cơ quan thú y khi lợn có biểu hiện bệnh, góp phần thực hiện phòng chống dịch bệnh có hiệu quả. Về lâu dài, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh và xây dựng các chuỗi sản xuất sản phẩm chăn nuôi bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm. Cập nhật mới nhất của Cục Thú y, đến sáng ngày 25/5, cả nước có 42 tỉnh, thành phố ghi nhận trường hợp nhiễm dịch tả lợn châu Phi, số lợn phải tiêu hủy là hơn 1,7 triệu con, chiếm hơn 5% tổng số đàn lợn cả nước; riêng khu vực phía Nam đã có 8 tỉnh xảy ra dịch tả lợn châu Phi, tiêu hủy hơn 4.800 con lợn./. Xuân Anh …
| Tin mới | admin | 27/05/2019 | | Mỹ công bố gói hỗ trợ thứ hai trị giá 16 tỷ USD cho nông dân | Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 23/5 đã công bố gói viện trợ mới trị giá 16 tỷ USD để giúp những nông dân bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến thương mại với Trung Quốc. Khách hàng mua rau củ quả tại một chợ nông trại ở Washington, DC. (Ảnh: AFP/TTXVN) Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 23/5 đã công bố gói viện trợ mới trị giá 16 tỷ USD để giúp những nông dân bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến thương mại với Trung Quốc. Phát biểu họp báo tại Nhà Trắng, Tổng thống Trump cho biết nhiều nông dân đang bị Trung Quốc “tấn công,” nhưng Washington sẽ giúp những người nông dân Mỹ vượt qua khó khăn và mang lại cho họ sân chơi công bằng. Tổng thống Trump cho biết một phần của khoản tiền thu được từ việc đánh thuế 25% đối với lượng hàng hóa nhập khẩu 200 tỷ USD của Trung Quốc sẽ được trao cho người nông dân để giúp họ vượt qua tình huống khó khăn trong giai đoạn (cạnh tranh) thương mại không công bằng với họ. Bộ trưởng Nông nghiệp Mỹ Sonny Perdue cho biết phần lớn nguồn thu thuế này sẽ được chi trực tiếp cho những nông dân chăn nuôi và trồng trọt, trong khi một phần nhỏ sẽ được chi để mua thực phẩm cho các chương trình cứu trợ của Mỹ như các ngân hàng lương thực và các chương trình bữa trưa học đường. Theo ông Perdue, kế hoạch hỗ trợ nói trên được đưa ra nhằm đảm bảo người nông dân không phải chịu gánh nặng thuế trả đũa không công bằng từ Trung Quốc và các đối tác thương mại khác của Mỹ. [Mỹ thanh toán hơn 8,5 tỷ USD cho nông dân ứng phó với “thương chiến”] Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ tính toán những thiệt hại do thuế trả đũa gây ra, và các quan chức Mỹ cho biết đợt thanh toán đầu tiên trong ba đợt của gói hỗ trợ này được dự đoán sẽ được giải ngân vào tháng Bảy hoặc tháng Tám tới. Các quan chức này không nói rõ quy mô của các đợt thanh toán, nhưng ông Perdue cho biết đợt đầu tiên sẽ lớn nhất, trong khi các đợt còn lại sẽ phụ thuộc vào thị trường cũng như diễn biến của các cuộc đàm phán thương mại. Các quan chức của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết số tiền mà mỗi người nông dân nhận được sẽ dựa trên những thiệt hại được tính ra đối với mỗi hạt của Mỹ, và tất cả nông dân sẽ nhận được các khoản tiền bằng nhau dựa trên diện tích canh tác, không phân biệt loại cây trồng, để tránh ảnh hưởng đến quyết định gieo trồng của họ. Những loại cây trồng được hỗ trợ bao gồm cỏ linh lăng, lúa mạch, cải dầu, ngô, cây đậu lăng, lúa, lạc, đậu gà, lúa miến, đậu tương, hướng dương và lúa mì. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất thịt lợn và các sản phẩm về sữa, cũng như người trồng quả anh đào, việt quất và các loại hạt cũng sẽ được nhận hỗ trợ. Kế hoạch nói trên là gói hỗ trợ thứ hai dành cho nông dân Mỹ, sau kế hoạch trị giá 12 tỷ USD của Bộ Nông nghiệp Mỹ hồi năm ngoái, nhằm bù đắp cho sự sụt giảm trong giá hàng nông sản và doanh thu do căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc và các nước khác. Nông dân Mỹ, nhóm cử tri quan trọng đối với Tổng thống Trump, nằm trong những đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong căng thẳng thương mại giữa nước này với Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu đậu tương của Mỹ sang Trung Quốc đã giảm 75% xuống mức thấp nhất trong 16 năm qua trong năm 2018, và xuất khẩu mặt hàng này sang các thị trường khác cũng không thể bù đắp được cho sự sụt giảm nghiêm trọng này./. Khánh Ly …
| Tin mới | admin | 24/05/2019 | | Nhiều ý kiến xoay quanh nghị định hướng dẫn Luật Chăn nuôi | Luật Chăn nuôi có nhiều nội dung mới đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh trong nước và hội nhập quốc tế; quản lý chăn nuôi theo chuỗi từ con giống, thức ăn chăn nuôi… Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến phát biểu chỉ đạo hội nghị (Ảnh: mard.gov.vn) Tại Hội nghị “Lấy ý kiến cho dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết và biện pháp thi hành Luật Chăn nuôi” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chiều 16/5 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, đây là nghị định rất quan trọng. Do đó, Cục Chăn nuôi cần lắng nghe, ghi nhận và cân nhắc tiếp thu kỹ lưỡng mọi ý kiến góp ý để khi nghị định được ban hành. Luật Chăn nuôi có hiệu lực phải có hiệu quả, đi vào cuộc sống, thúc đẩy sản xuất, ngành chăn nuôi phát triển bền vững, nhất là trong bối cảnh dịch tả lợn châu Phi đang diễn ra phức tạp. Luật Chăn nuôi đánh dấu một bước tiến mới tạo khung pháp lý cho ngành chăn nuôi. Luật có nhiều nội dung mới đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh trong nước và hội nhập quốc tế; quản lý chăn nuôi theo chuỗi từ con giống, thức ăn chăn nuôi, điều kiện chăn nuôi đến thị trường; chú trọng đến vấn đề môi trường trong chăn nuôi. Luật cũng xã hội hóa một số dịch vụ công, đa dạng cách thức thực hiện thủ tục hành chính để đáp ứng yêu cầu cải cách của Chính phủ. Dự thảo Nghị định Hướng dẫn chi tiết và biện pháp thi hành Luật Chăn nuôi quy định về quản lý thức ăn chăn nuôi; trong đó có quy định chi tiết 4/10 điều kiện sản xuất; việc cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất; quy định trình tự kiểm tra nhà nước, việc miễn kiểm tra và giám sát lô hàng được miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu… Dự thảo nghị định quy định về điều kiện chăn nuôi như quy mô, mật độ đối với các vùng sinh thái; việc cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận điều điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn; việc quản lý nuôi chim yến, nuôi hươu sao; danh mục động vật khác được phép chăn nuôi; nhập khẩu vật nuôi sống và sản phẩm chăn nuôi; sản phẩm xử lý chất thải… Góp ý cho dự thảo, ông Hoàng Kim Giao, Chủ tịch Hiệp hội Gia súc lớn Việt Nam cho rằng, ban soạn thảo cần xem xét lại quy định về mật độ chăn nuôi. Ngoài căn cứ vào đất nông nghiệp cần xem xét thêm những yếu tố khác vì khu vực đồng bằng hiện dân cư đã đông nếu chăn nuôi với mật độ cao có thể không đảm bảo môi trường và con người. Về danh mục giống vật nuôi cần bảo tồn, giống quý hiếm phải bảo tồn và nghiêm cấm buôn bán, giết thịt… nhưng bên cạnh đó cần có quy định để phát triển những vật nuôi này. Về quy định thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh, Ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cho rằng, chưa nên quy định đến 31/12/2020 bỏ kháng sinh trong thức ăn giai đoạn con non với mục đích phòng bệnh, đặc biệt là với tình hình dịch bệnh như hiện nay. Bên cạnh đó, việc quản lý chất lượng thức ăn bổ sung nên để Cục Chăn nuôi quản lý, không nên giao cho địa phương, địa phương chỉ nên quản lý thức ăn hỗn hợp. (Ảnh: mard.gov.vn) Tại hội nghị, các đại biểu đã góp ý chi tiết về nhiều nội dung như mật độ chăn nuôi và quy mô; quy trình, thủ tục cấp phép chăn nuôi; quản lý chất thải chăn nuôi; cảng nhập khẩu vật nuôi; quy định về nuôi chim yến… Ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, Nghị định sẽ được ban hành trong tháng 10/2019 để đến 01/01/2020, Luật Chăn nuôi có hiệu lực đảm bảo Luật Chăn nuôi được triển khai đồng bộ ngay khi có hiệu lực thi hành. Luật Chăn nuôi đã được thông qua tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2020. Dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết và biện pháp thi hành Luật Chăn nuôi có 8 chương, 31 điều kèm theo 7 phụ lục và 16 biểu mẫu quy định chi tiết các nội dung luật./. Bích …
| Tin mới | admin | 17/05/2019 | | Hết thời nghe ‘bài ca’ ô nhiễm môi trường | Hơn 200 mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học đã ra đời chỉ sau gần 1 năm triển khai. Giờ đây, người chăn nuôi nông hộ ở huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) không còn lo lắng làng trên, xóm dưới ca thán mùi xú uế phát ra từ đàn lợn, đàn bò của gia đình. Nhân rộng toàn huyện Năm 2015 mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học được triển khai thí điểm tại xã Cẩm Bình, Cẩm Sơn, Cẩm Thành, huyện Cẩm Xuyên. Mỗi xã có 3 hộ tham gia, hộ nhỏ nhất vài con bò, hộ lớn nhất lên đến 200 con lợn. Xử lý chất thải trên đệm lót sinh học đã giải quyết được bài toán ô nhiễm môi trường do chăn nuôi nông hộ. Theo đánh giá của ông Lê Ngọc Hà, Trưởng phòng NN- PTNT huyện Cẩm Xuyên, mô hình không chỉ hiệu quả về mặt kinh tế mà còn hạn chế sử dụng nước, hạn chế ô nhiễm môi trường. Toàn bộ phân gia súc thải ra được phân huỷ hoàn toàn và giữ chuồng nuôi luôn sạch sẽ, không có mùi hôi thối, không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh khu vực nuôi; gia súc ít bị dịch bệnh, sinh trưởng và phát triển ổn định ở các giai đoạn. “Bà con chỉ cần chú trọng làm nền chuồng cao lên; có phần lòng chuồng láng bằng xi măng sâu tối thiểu 60cm, sau đó phủ đệm lót lên là có thể giảm được rất nhiều công vệ sinh chuồng trại. Nhất là với những hộ chăn nuôi 1 – 2 con trâu, bò; có khi đến 5, 6 tháng mới phải vệ sinh chuồng một lần”, ông Hà nói. Anh Phong, xã Cẩm Bình là một trong những hộ đầu tiên thực hiện thành công mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học. Trước năm 2015, hầu như ngày nào anh cũng phải phun nước vệ sinh chuồng, hầm biogas chẳng mấy chốc đầy, chảy tràn ra môi trường xung quanh. Tuy nhiên, sau khi áp dụng kỹ thuật chăn nuôi trên đệm lót sinh học, 200 con lợn cả tháng khô ráo, sạch sẽ dù không được tắm, mùi hôi thối giảm hẳn. Đặc biệt, phân lợn trộn chế phẩm Balasa, trấu, cám gạo sau khi xử lý được tận dụng làm phân hữu cơ sản xuất nông nghiệp sạch rất hiệu quả. Hỗ trợ 100.000đ/m2 Được đánh giá là thành công nhưng khoảng năm 2016 – 2017 mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học phát triển không đáng kể. Đến năm 2018, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng xã NTM nâng cao, huyện Cẩm Xuyên triển khai mô hình này trên diện rộng. Chất thải còn được sử dụng hiệu quả khi bón cho cây trồng. “Đầu năm 2019, chúng tôi có chính sách hỗ trợ hộ dân tham gia mô hình 100.000đ/1m2 chuồng trại. Giao cho Hội Phụ nữ các xã “cầm tay chỉ việc”, hướng dẫn thực hiện. Nhờ đó, đến thời điểm này đã có hơn 200 hộ, chủ yếu ở các xã Cẩm Dương, Cẩm Hòa, Cẩm Trung, Cẩm Sơn, Cẩm Quan… áp dụng vào thực tiễn”, ông Lê Ngọc Hà thông tin. Tháng 3/2019, gia đình chị Đoàn Thị Thu, thôn Thanh Sơn, xã Cẩm Quan được huyện Cẩm Xuyên hỗ trợ 700.000đ thực hiện mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học. Dựa trên nền chuồng bò cũ, chị sửa sang lại theo đúng quy chuẩn rồi phủ đệm lót lên. Theo chị Thu, 2 con bò của gia đình chị trước đây không thích ở trong chuồng vì nền ẩm ướt, nhưng bây giờ, trời chập choạng tối không cần người “lùa” về, bò cũng tự vào chuồng. Đặc biệt, công tác vệ sinh chuồng giảm được khoảng 70%, mùi hôi thối dù còn cũng không đáng kể. “Trước đây, ngày nào tôi cũng phải dọn chuồng bò nhưng nay một tuần tôi đảo phân một lần. Lớp phân sau khi náo đảo được dùng bón cho cây ăn quả, lúa và các loại cỏ rất hiệu quả”, chị Thu khẳng định. Được biết, tại xã Cẩm Quan đã có 5 hộ thực hiện mô hình. Hội Phụ nữ xã đang tiếp tục vận động người dân tham gia, giảm thiểu ô nhiễm môi trường do chăn nuôi nông hộ. Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Cẩm Quan Trần Thị Ngọc: “Thực ra làm đệm lót sinh học chỉ mất vài trăm ngàn đồng mua gói chế phẩm Balasa và cám gạo. Còn trấu người dân có thể đi xin ở các cơ sở xay xát lúa. Đối với nền chuồng, dù không áp dụng quy trình chăn nuôi trên đệm lót sinh học người dân vẫn phải xây dựng chuồng cho bò ở nên chi phí này có thể tính hoặc không tính vào tổng mức đầu tư một mô hình chăn nuôi trên đệm lót”. THANH …
| Tin mới | admin | 16/05/2019 | | Gia súc ăn cỏ là lợi thế để thích ứng với biển đổi khí hậu | Biến đổi khí hậu ngày một khốc liệt theo hướng hạn hán nên tương lai không thể đủ nước để duy trì 3,8 triệu ha đất lúa và 1,5 triệu ha ngô được. Do đó, chăn nuôi đại gia súc ăn cỏ đang là lợi thế rất lớn để tái cơ cấu ngành chăn nuôi. Biến đổi khí hậu ngày một khốc liệt theo hướng hạn hán nên tương lai không thể đủ nước để duy trì 3,8 triệu ha đất lúa và 1,5 triệu ha ngô được. Do đó, chăn nuôi đại gia súc ăn cỏ đang là lợi thế rất lớn để tái cơ cấu ngành chăn nuôi. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường phát biểu tại Hội nghị Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Phát triển gia súc ăn cỏ sáng 15/5 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và dịch bệnh như hiện nay đòi hỏi ngành chăn nuôi phải tái cơ cấu lại căn bản theo hướng đẩy mạnh phát triển các loài gia súc ăn cỏ để phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và cũng là xu thế chung của thế giới. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, kể cả không xảy ra dịch tả lợn Châu Phi, ngành chăn nuôi cũng phải tái cơ cấu lại chứ hiện tỷ trọng lợn đang lớn quá gây mất cân đối, trong khi đại gia súc mới chỉ chiếm xung quanh 7%. Đặc biệt, biến đổi khí hậu ngày một khốc liệt theo hướng hạn hán nên tương lai không thể đủ nước để duy trì 3,8 triệu ha đất lúa và 1,5 triệu ha ngô được. Do đó, chăn nuôi đại gia súc ăn cỏ đang là lợi thế rất lớn để tái cơ cấu ngành chăn nuôi. Theo Bộ trưởng, so với thế giới thì hiện sản lượng tiêu thụ sữa và thịt đỏ của Việt Nam còn rất thấp khi chỉ bình quân 3 kg thịt bò và 20 lít sữa/người/năm trong khi thế giới là 9kg thị bò và 80 lít sữa/người/năm. Đặc biệt, so với cây lúa và ngô thì cỏ là loại cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu tốt nhất, khô cũng trồng được mà nước cũng trồng được. Cỏ không chỉ cung cấp nguyên liệu đầu vào cho bò sữa, bò thịt mà còn rất nhiều loài vật nuôi tiềm năng phát triển hàng hóa như hươu, nai, dê, thỏ, cừu… Chăn nuôi đại gia súc ăn cỏ đang là lợi thế rất lớn để tái cơ cấu ngành chăn nuôi Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, hiện so với ngành khác chăn nuôi vẫn là ngành có kim ngạch xuất khẩu khiêm tốn nhất, trong khi thực tế cho thấy nếu không xuất khẩu được thì không tạo ra được động lực phát triển, không thúc đẩy được ngành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao giá trị. Vì vậy, trong đề án tái cơ cấu căn bản toàn diện ngành nông nghiệp trong tương lai Chính phủ, Bộ NN-PTNT đặt mục tiêu Việt Nam phải là quốc gia mạnh trên thế giới về nông nghiệp và chăn nuôi phải đóng vai trò chính. NGUYÊN HUÂN …
| Tin mới | admin | 15/05/2019 | | Thủ tướng dự lễ khởi công Dự án chăn nuôi bò, chế biến sữa ở Thanh Hóa | Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp ở Thanh Hóa có tổng vốn 3.800 tỷ đồng, quy mô nuôi khoảng 20.000 bò sữa và nhà máy chế biến sữa tập trung công suất 300 tấn/ngày. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các đại biểu thực hiện nghi thức khởi công dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN) Chiều 8/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cùng lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, địa phương và đông đảo nông dân đã tham dự Lễ khởi công “Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp tại hai xã Yên Mỹ và Công Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.” Đây là một trong những dự án có quy mô và tổng mức đầu tư lớn ở lĩnh vực chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam. Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp tại hai xã Yên Mỹ và Công Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa” do Công ty Trách nhiệm hữu hạn hai thành viên ứng dụng công nghệ cao nông nghiệp và thực phẩm sữa Yên Mỹ (Tập đoàn TH) đầu tư, có tổng số vốn 3.800 tỷ đồng, quy mô nuôi khoảng 20.000 bò sữa và nhà máy chế biến sữa tập trung công suất 300 tấn/ngày. Dự án quy hoạch sử dụng 1.354ha đất; trong đó đất trang trại và xây dựng nhà máy chế biến sữa 165ha, đất trồng cỏ 1.189ha. Ngoài ra, Tập đoàn TH cũng phát triển vùng nguyên liệu ở các huyện Cẩm Thủy, Thọ Xuân, Thạch Thành…; liên kết cùng các huyện hỗ trợ máy thu hoạch lúa để sau thu hoạch có nguyên liệu rơm bán cho Tập đoàn nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cung cấp cho bò sữa. Dự án được đầu tư sẽ tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng lớn. Ngoài ra, dự án còn tạo việc làm trực tiếp và thu nhập ổn định cho hàng ngàn lao động tham gia vào quy trình sản xuất thức ăn chăn nuôi bò, chế biến sữa, tăng thu ngân sách Nhà nước, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh, nâng cao đời sống của người chăn nuôi. Dự án này cũng áp dụng công nghệ tiên tiến cho quy trình xử lý chất thải, khí thải; tăng cường diện tích cây xanh trong khuôn viên nhà máy và trang trại để giảm thiểu tác động đến môi trường. [Thủ tướng dự ký kết phát triển thị trường sữa Việt Nam ở Trung Quốc] Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa Nguyễn Đình Xứng đề nghị: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Ban Quản lý Khu Kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp, Huyện ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân các huyện: Nông Cống, Như Thanh, Như Xuân và cấp ủy, chính quyền, đoàn thể nhân dân các xã trong vùng dự án đồng hành, phối hợp với chủ đầu tư là Công ty Trách nhiệm hữu hạn hai thành viên ứng dụng công nghệ cao nông nghiệp và thực phẩm sữa Yên Mỹ và nhà thầu với trách nhiệm cao nhất để giải quyết kịp thời khó khăn vướng mắc về giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính trong quá trình thực hiện dự án. Trước mắt, các cơ quan, đơn vị có liên quan cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề về cấp điện, nước, đảm bảo an ninh, trật tự, thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư và điều kiện cần thiết khác để chủ đầu tư, nhà thầu triển khai dự án đúng tiến độ, sớm hoàn thành, đưa dự án vào hoạt động. Đối với chủ đầu tư, cần tập trung huy động nguồn lực, triển khai đồng bộ các giải pháp kinh tế, kỹ thuật, đặc biệt là đảm bảo vệ sinh, môi trường để dự án phát triển bền vững. Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường xác định, lễ khởi công “Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp tại hai xã Yên Mỹ và Công Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa” là một trong những sự kiện quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, bởi thị phần của trường sữa tại Việt Nam còn rất lớn. các cơ sở chế biến mới đáp ứng 50% nhu cầu sữa cho gần 100 triệu người. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng biểu dương tỉnh Thanh Hóa trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với đó, Bộ trưởng đề nghị Tập đoàn TH đồng hành cùng người dân, chính quyền địa phương sản xuất ra dòng sữa sạch không chỉ cung cấp cho người dân Việt Nam mà còn xuất khẩu ra thế giới. Bộ trưởng cho biết, sau khi hoàn thành, cùng với các dự án chăn nuôi bò sữa của một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thì dự án này sẽ nâng tổng đàn bò sữa công nghiệp tập trung tại tỉnh Thanh Hóa lên trên 42.000 con, sản lượng sữa dự kiến cung cấp 166.000 tấn/năm. Đây cũng là dự án của ngành nông nghiệp được chọn khởi công chào mừng kỷ niệm 990 năm danh xưng Thanh Hóa. Cùng ngày, Thủ tướng Nguyễn Xuân đã đến thăm Bệnh viện Ung bướu Thanh Hóa./. Trịnh Duy Hưng …
| Tin mới | admin | 09/05/2019 | | Dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết và biện pháp thi hành Luật Chăn nuôi | …
| Thông báo | admin | 09/05/2019 | | Thiếu hụt thịt lợn thế giới không thể bù đắp | Công ty dịch vụ tài chính Rabobank ước tính Trung Quốc có thể phải tiêu hủy tới 200 triệu con lợn và “cả thế giới gộp lại” cũng không đủ để bù đắp nguy cơ thiếu hụt này. SCMP dẫn lời Đường Khoa, trưởng phòng thông tin kinh tế và thị trường, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc, cho biết giá thịt lợn đã tăng mạnh trong tháng 3 và có thể tăng thêm tới 70% trong nửa cuối năm nay. Giá thịt lợn bán buôn trung bình trong tháng 3 tăng 6,3% so với tháng 2, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2018. Người tiêu dùng Trung Quốc tranh mua thịt lợn Trong khi đó, quy mô đàn đang giảm, số lượng lợn tại các trang trại trong tháng 3 thấp hơn 18,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Con số này đối với lợn nái là giảm 21%. Nếu không được kiểm soát, ASF sẽ hủy hoại ngành chăn nuôi, giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc. CPI tháng 3 Trung Quốc tăng 2,3% và vẫn dưới mục tiêu 3% của chính phủ nước này. “Giá thịt lợn sẽ là nguyên nhân chính làm tăng CPI trong năm nay”, Lục Đình, chuyên gia kinh tế về Trung Quốc tại Viện nghiên cứu kinh tế Nomura, Nhật Bản, nhận định. Nguồn cung trong nước giảm, Trung Quốc buộc phải nhập khẩu thêm thịt lợn từ bên ngoài. Trong hai tháng đầu năm, khối lượng thịt lợn nhập khẩu đã tăng 10% lên 207.000 tấn, theo Bộ Nông nghiệp Trung Quốc. Giá thịt lợn nhảy vọt “Một phần thịt lợn thường tới Mỹ giờ lại chuyển hướng sang Trung Quốc bởi họ trả giá cao hơn”, Jens Munk Ebbesen, giám đốc an toàn thực phẩm và các vấn đề thú y tại Hội đồng Lương thực và Nông nghiệp Đan Mạch, cho biết. ASF đang để lại những hệ quả nhất định, từ đẩy giá thực phẩm cho đến tăng nhu cầu sử dụng các loại thịt khác như gà và bò. Sản lượng thịt lợn tại Trung Quốc có thể giảm 30% trong năm nay, theo Rabobank International. Tình trạng dư cầu sẽ có lợi cho nông dân, những người có thể bán lợn với giá cao hơn. Các nhà sản xuất có thể tăng quy mô chăn nuôi nhưng quy trình này cần có thời gian. “Đây là một thời khắc tốt cho các nhà sản xuất”, Didier Delzescaux, giám đốc hội đồng thịt lợn Pháp Inaporc, nói. Tuy nhiên, 80% các trang trại lợn ở Trung Quốc lại chọn không tái đàn bởi ASF vẫn còn hoành hành. “Chưa bao giờ có sự hoảng loạn như vậy trong các trang trại”, Vương Quân Tấn, phó phòng chăn nuôi và dịch vụ thú y, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc, cho biết. “Nếu niềm tin không phục hồi, người tiêu dùng sẽ chịu thiệt”. Ông Vương cảnh báo giá thịt lợn có thể tăng hơn nữa trong năm 2020. Người Trung Quốc thích thịt lợn, chiếm 60% lượng thịt tiêu thụ. Chính “đam mê” này đang gây áp lực lên nhà chức trách trong việc đảm bảo đủ nguồn cung. Nguồn cung nội địa giảm 10%, Trung Quốc sẽ phải nhập thêm hơn 2 triệu tấn thịt lợn, Chu Tăng Dũng, nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, cho biết. Lượng thịt lợn thương mại hàng năm của thế giới là khoảng 9 triệu tấn, chỉ bằng 2 tháng tiêu thụ của Trung Quốc. Về sản phẩm thay thế, ngành chăn nuôi gia cầm cũng đang bị hạn chế mở rộng. Sản lượng thịt gà có thể tăng 2,4% trong năm nay nhưng sức tiêu thụ có thể tăng 2,6%. VĂN …
| Tin mới | admin | 08/05/2019 | | Đưa Sơn La trở thành trung tâm của ngành sữa | Đánh giá cao sự thành công trong SX, xem đây là hình mẫu điển hình về liên kết SX của ngành bò sữa cả nước, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, trong tương lai, Sơn La hoàn toàn có khả năng để trở thành một trung tâm lớn của ngành sữa cả nước. Từ ngày 5/5, đoàn công tác của Bộ NN-PTNT do Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường dẫn đầu đã bắt đầu chuyến công tác và làm việc tại tỉnh Sơn La về một số chương trình phát triển nông nghiệp trọng điểm của tỉnh Sơn La như phát triển chăn nuôi bò sữa, phát triển cây ăn quả… Trong ngày 5/5, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cùng lãnh đạo UBND tỉnh Sơn La đã thăm và làm việc với Cty CP Bò sữa Mộc Châu. Bước tiến vững chắc thông qua liên kết SX Theo Cty CP Bò sữa Mộc Châu, với định hướng trọng tâm là liên kết chuỗi khép kín giữa các hộ chăn nuôi với Cty và các đơn vị chăn nuôi lớn, quy mô hiện đại, gắn với chế biến và tổ chức tiêu thụ sản phẩm chế biến, giai đoạn 2010-2018, Cty CP Bò sữa Mộc Châu đã thể hiện được sự phát triển một cách bền vững trên nhiều mặt, cả về tổ chức chăn nuôi, mở rộng quy mô đàn bò, nâng cao sản lượng và năng suất sữa, mở rộng và hiện đại hóa chế biến, tổ chức thị trường tiêu thụ… Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường làm việc với UBND tỉnh Sơn La và Cty CP Bò sữa Mộc Châu Cụ thể, tổng đàn bò sữa của Cty từ khoảng 8.000 con năm 2010, đã tăng lên trên 25 nghìn con vào cuối năm 2018, đưa quy mô đàn bò/hộ từ mức bình quân chỉ 15 con/hộ lên mức trên 41 con/hộ. Nhờ áp dụng nhiều giải pháp tổng hợp vào chăn nuôi, nhất là cây ngô ủ ướp tăng sản lượng từ mức chỉ 37 nghìn tấn vào năm 2010 lên mức 176 nghìn tấn vào năm 2018, vì vậy năng suất sữa bình quân của đàn bò đã tăng bình quân từ 18 lít/con/ngày lên hơn 25 lít/con/ngày. Doanh thu của Cty giai đoạn 2010-2018 đã tăng hơn gấp 2 lần, từ 1.200 tỉ đồng lên trên 1.500 tỉ đồng. Tiền lương bình quân của Cty theo đó cũng được nâng lên từ 4,5 triệu đồng/người/tháng lên trên 8,5 triệu đồng/tháng. Bên cạnh đó, mức lợi tức hàng năm chi trả cho các cổ đông luôn đạt trên 20%… Đây là mức cổ tức đáng mơ ước đối với một DN trong ngành nông nghiệp hiện nay. Đến nay, nhờ sử dụng tinh phân định giới tính, tỉ lệ bò cái chửa đạt trên 56%, trong đó tỉ lệ bê cái đã được nâng lên tới trên 87%. Hiện Cty có 560 hộ chăn nuôi trực tiếp liên kết, trong đó 100% các hộ đã có máy vắt sữa. Cùng với sự nâng cấp đồng bộ cả về hạ tầng chăn nuôi, chuồng trại cho các hộ liên kết, Cty đã đầu tư 3 trại chăn nuôi tập trung công nghệ cao theo tiêu chuẩn Châu Âu với quy mô từ 500 đến 1.000 con/trại, đồng thời cũng đã xây dựng được cơ sở chăn nuôi bò sữa đạt tiêu chuẩn an toàn dịch bệnh đối với bệnh LMLM… Về chế biến, thời gian qua, Cty cũng đã đầu tư, cải tiến hàng loạt dây chuyền chế biến sữa hiện đại theo công nghệ Châu Âu, SX ra trên 30 sản phẩm sữa các loại. Từ năm 2010 đến 2018, Cty đã tiếp tục mở rộng quy mô SX, tăng thêm hơn 1.000 lao động (trong tổng số khoảng 2.600 lao động hiện tại), trong đó tạo việc làm cho nhiều lao động là đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, gắn với việc phát triển thêm hàng trăm trang rại vệ tinh. Bên cạnh đó, nhờ phát triển vùng nguyên liệu cho bò sữa, năm 2018, Cty đã mua của nông dân tổng cộng trên 176 nghìn tấn ngô thức ăn chăn nuôi cho nông dân với trị giá trên 300 tỉ đồng… Bò sữa Sơn La chưa tương xứng với tiềm năng Tại buổi làm việc với Cty CP Bò sữa Mộc Châu, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh: Trước đây, Việt Nam từng được đánh giá là quốc gia không có điều kiện về chăn nuôi bò sữa. Tuy nhiên những bước tiến dài của ngành sữa Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh chúng ta hoàn toàn có thể trở thành một cường quốc về ngành sữa, ít nhất là trong khu vực, trong đó, mô hình phát triển bò sữa của Mộc Châu (Sơn La) là một điển hình cho tiềm năng này. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường (thứ hai bên trái sang) cùng đoàn công tác thăm dây chuyền chế biến sữa tại Cty CP Bò sữa Mộc Châu Theo Bộ trưởng, hiện nay, với quy mô đàn bò sữa cả nước trên 290 nghìn còn, sản lượng sữa trên 1 triệu tấn/năm, mức tăng trưởng hàng năm đạt trên 15%, Việt Nam đã và đang trở thành quốc gia hàng đầu khu vực về ngành sữa. Vừa qua, với việc Trung Quốc đã chính thức cho phép NK chính ngạch sữa và các sản phẩm sữa, cơ hội và dư địa cho ngành sữa Việt Nam sẽ còn rất lớn, trong đó tỉnh Sơn La hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm lớn của ngành sữa cả nước. Bộ trưởng đánh giá: Mặc dù chương trình phát triển bò sữa của Mộc Châu trong chặng đường dài, đã tạo được những thành công và sự phát triển bền vững, là định hướng rất đúng và trúng, và là hình mẫu cho liên kết SX khép kín theo chuỗi, từ nông dân với nhà máy, giữa chế biến tới tổ chức thị trường, phân phối… Tuy nhiên, năng suất sữa bình quân của đàn bò Mộc Châu hiện nay vẫn còn ở mức thấp so với một số DN khác trong cả nước. Theo chiến lược của Cty CP Bò sữa Mộc Châu đến năm 2020, tổng đàn bò đạt từ 30-32 nghìn con, đến năm 2030 đạt 70 nghìn con. Theo Bộ trưởng, định hướng này vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh Sơn La vốn đang có rất nhiều dư địa. Lãnh đạo Cty CP Bò sữa Mộc Châu giới thiệu dây chuyền chế biến sữa với Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường (bìa phải) Bộ trưởng đề nghị UBND tỉnh Sơn La, phối hợp với Cty CP Bò sữa Mộc Châu, cần phải có chiến lược, đề án có tầm vóc đủ lớn, để Sơn La trong tương lai phải trở thành một trung tâm lớn của ngành bò sữa cả nước, để làm sao khi nhắc đến Sơn La, là phải nhắc tới sữa. Bên cạnh đó, phát triển bò sữa cần phải trên cơ sở phát đa dạng, hài hòa, đồng bộ nhiều loại hình, từ mở rộng đàn bò, mở rộng quy mô và công nghệ chế biến lẫn thị trường, gắn với dịch vụ, du lịch… Trong đó, cần đặc biệt lưu ý để hài hòa giữa phát triển mở rộng quy mô SX nhưng vẫn phải đảm đảm yếu tố môi trường. Theo đó thời gian tới, Bộ NN-PTNT cùng với một số DN, sẽ phối hợp với Sơn La để nghiên cứu, đẩy mạnh việc SX phân bón hữu cơ tận dụng chất thải trong chăn nuôi bò sữa nhằm đảm bảo môi trường, nhất là môi trường phục vụ du lịch. Đây cũng là kênh nhằm quay vòng khép kín theo hướng SX hữu cơ cho trồng trọt tại địa phương, đồng thời gia tăng nguồn thu cho chăn nuôi bò sữa. “Phát triển bò sữa tại Sơn La, cần phải gắn với việc đẩy mạnh một cách tổng thể nguyên tắc tuần hoàn, gắn với nông nghiệp hữu cơ bền vững. Bên cạnh đó, Cty CP Bò sữa Mộc Châu cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu SX giống, để trở thành trung tâm về giống, trung tâm về đào tạo, chuyển giao KH-CN có tầm vóc, gắn với hoạt động du lịch”- Bộ trưởng nhấn mạnh. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường gợi ý tỉnh Sơn La nói chung, Cty Bò sữa Mộc Châu nói riêng cần sớm nghiên cứu, tổng kết thêm về chính sách bảo hiểm cho bò sữa đã triển khai. Đồng thời, phối hợp với Bộ NN-PTNT để nghiên cứu SX một số mặt hàng mới như trồng nấm công nghệ cao của Nhật Bản trên cơ sở tận dụng nguồn phế thải của thức ăn xanh và chất thải trong chăn nuôi bò sữa. Nghiên cứu mở rộng, đa dạng hóa cuộc thi Hoa hậu Bò sữa hàng năm thành Ngày hội sữa, trên cơ sở kết hợp thêm đa dạng nhiều hoạt động văn hóa, du lịch, hoạt động tôn vinh điển hình trong SX sữa, các dịch vụ gắn với chăn nuôi, chế biến, ẩm thực về sữa… Về cơ hội XK sữa và sản phẩm sữa sang thị trường Trung Quốc, Bộ trưởng yêu cầu các đơn vị của Bộ NN-PTNT, do Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản chủ trì, thời gian tới nhanh chóng phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai tập huấn, phổ biến cụ thể, chi tiết các thủ tục cần thiết, giới thiệu các bạn hàng để Cty CP Bò sữa Mộc Châu tiếp cận, sớm đưa sản phẩm XK sang thị trường này nếu có điều kiện và mong muốn. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cùng đoàn công tác thăm và trao đổi về mô hình liên kết trong chăn nuôi bò sữa tại Mộc Châu (Sơn …
| Tin mới | admin | 06/05/2019 | | Đẩy mạnh chăn nuôi gia cầm | (Chinhphu.vn) – Tổng sản lượng thịt đạt đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và dành một phần cho xuất khẩu. Đặc biệt chăn nuôi gia cầm đã bước đầu tạo được hệ sinh thái từ giống cho đến quy trình chăn nuôi, phân khúc chăn nuôi… phù hợp với các tiểu vùng sinh thái. Ngày 12/4, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức Hôi nghị “Thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gia cầm” với sự tham gia của 32 địa phương có tổng đàn gia cầm lớn và các doanh nghiệp trong lĩnh vực chăn nuôi, chế biến xuất khẩu. Ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, những năm qua chăn nuôi gia cầm đã có những bước phát triển nhảy vọt. Từ chăn nuôi phân tán, quy mô nhỏ, tự phát, dần dần chuyển thành chăn nuôi tập trung với quy mô lớn hơn; năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng, cho lợi nhuận ngày càng nhiều; số đầu gia cầm tăng bình quân mỗi năm trên 6%; sản lượng thịt hơi của gia cầm đạt trên 1 triệu tấn, trứng đạt trên 11 tỷ quả. Việt Nam hiện đã xuất khẩu giống gia cầm đạt từ 1,25-1,5 triệu con. Đối với sản phẩm gia cầm đã qua chế biến xuất khẩu (trứng vịt muối) duy trì mỗi năm khoảng từ 10-15 triệu quả. Thịt gà qua chế biến bắt đầu xuất khẩu từ tháng 9/2017, năm 2018 đạt gần 8.000 tấn. Ngoài ra, còn xuất khẩu trứng chim cút đóng hộp, gà ác tiềm, lòng đỏ trứng vịt muối, trứng vịt muối luộc và bột trứng. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi gia cầm vẫn còn những bất cập như chưa có hệ thống đồng bộ quản lý nhà nước về giống vật nuôi từ Trung ương đến địa phương. Năng suất chất lượng con giống trong sản xuất chăn nuôi hiện nay còn hạn chế. Chất lượng giống của một số cơ sở giống không đảm bảo chất lượng. Các khâu trong sản xuất còn thiếu tính liên kết, chưa gắn sản xuất với giết mổ, chế biến với thị trường… Ông Nguyễn Quốc Toản, quyền Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, với dân số gần 100 triệu người và nền kinh tế tăng trưởng ổn định, Việt Nam là thị trường vô cùng tiềm năng của ngành chăn nuôi gia cầm. So với các nước trong khu vực, Việt Nam tiêu thụ thịt gà ở mức chưa nhiều và còn có xu hướng tăng cao. So với các nước trong khu vực và thế giới, sản lượng tiêu thụ trứng gà của người dân Việt Nam còn rất thấp, chỉ ở mức 110-120 quả/người/năm. Trong khi đó, ở các nước láng giềng như Thái Lan hay Indonesia, sản lượng này ở mức từ 250-340 quả/người/năm. Đối với thị trường thế giới, dựa trên lợi thế so sánh về ưu thế sản xuất, lợi thế về thương mại (có Hiệp định thương mại tự do, cự ly vận chuyển gần…) ngành thịt gia cầm của Việt Nam có thể xác định các thị trường quốc tế mục tiêu là: Nhật Bản, Trung Quốc, Philippines. Bên cạnh đó, các thị trường tiềm năng là: Saudi Arabia, Nam Phi, UAE. Đối với sản phẩm trứng gia cầm, cần tập trung cho thị trường truyền thống là các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Do đó, ông Toản cho rằng, cần chia phân khúc khi xác định thị trường mục tiêu cho sản xuất và kinh doanh sản phẩm gia cầm. Cụ thể, gia cầm ngoài gà (vịt, ngan, ngỗng) là nhóm sản phẩm chưa bị cạnh tranh bởi hàng nhập khẩu, gà lông màu là thế mạnh của sản xuất trong nước. Đối với phân khúc còn lại, cần phân loại sản phẩm để hướng tới các đối tượng tiêu dùng khác nhau. Cụ thể, các sản phẩm như: ức gà, lườn gà hướng tới xuất khẩu vì người tiêu dùng các nước ưa chuộng nên có giá cả rất cao; thịt đùi, cánh gà hướng tới người tiêu dùng trong nước). Bên cạnh đó, cần đầu tư nhiều hơn các nhà máy sản xuất và chế biến gia cầm theo tiêu chuẩn 3F (FEED – FARM – FOOD)… Đối với thị trường quốc tế, trước mắt phát triển các sản phẩm chế biến nhằm tránh các rào cản đối với các quốc gia có hàng rào kiểm dịch và an toàn vệ sinh thực phẩm cao như: trứng muối, thịt gà, thịt vịt đã qua chế biến nhiệt. Đồng thời, cần đầu tư nghiên cứu sâu nhằm gắn sản xuất với nhu cầu và yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đã có sản phẩm gia cầm xuất khẩu đi các thị trường trên thế giới mở rộng quy mô sản xuất, phát triển các sản phẩm. Cũng như, tiếp tục mở thị trường và xuất khẩu sản phẩm gia cầm vào các thị trường tiềm năng như Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines… Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho rằng: “Dư địa phát triển ngành chăn nuôi gia cầm còn tốt và cần phải tập trung thúc đẩy. Nhưng để đảm bảo hiệu quả bền vững thì cần phải chú tất cả các khâu trong chuỗi liên kết từ con giống, quy trình, tổ chức sản xuất, kiểm soát dịch bệnh, và tổ chức thị trường… làm sao để khai thác tốt lợi thế của ngành hàng gia cầm nói riêng và chăn nuôi nói chung”. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi đạt được những thành tựu to lớn. Cụ thể, tổng sản lượng thịt đạt trên 5 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và dành một phần cho xuất khẩu. “Chủ trương của Bộ tới đây là tiếp tục thúc đẩy phát triển ngành hàng chăn nuôi gia cầm, bởi ngành hàng này còn rất nhiều dư địa. Trong tổng số hơn 5 triệu tấn thịt các loại thì gia cầm chiếm khoảng 2% sản lượng; trong khi đó, bình quân tiêu dùng người Việt Nam so với thế giới đang ở mức thấp hơn. Do đó, xác định nhu cầu này có thể tăng lên được”, Bộ trưởng nói. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng đưa ra các giải pháp cho ngành chăn nuôi gia cầm như: trước mắt, đề nghị các địa phương phải kiểm soát thật chặt chẽ, kể cả trong các chuỗi chăn nuôi. Dứt khoát là con giống phải quản lý được, chất lượng tốt cho từng phân khúc, kể cả là nhu cầu thịt, trứng… Bên cạnh đó, quy trình chăn nuôi phải kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt đảm bảo an toàn về thú y. Một giải pháp nữa là tổ chức tốt khâu chế biến. Hai năm gần đây, nhiều doanh nghiệp lớn đã cùng với bà con nông dân các địa phương xây dựng được nhiều nhà máy chế biến có công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, so với tổng sản lượng thịt, so với yêu cầu, so với tổ chức thị trường theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, so với xuất khẩu thì số nhà máy chế biến đó là chưa đủ. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng lưu ý các nhà quản lý, doanh nghiệp cần cần chú ý hơn nữa về 2 thị trường (trong nước và xuất khẩu). Đặc biệt, gần đây thông qua nhóm tổ hợp của Tập đoàn Hùng Nhơn, De Heus đã xuất khẩu được sản phẩm thịt gà sang Nhật Bản. Trong năm 2019 sẽ có thêm một số doanh nghiệp nữa như Công ty cổ phần chăn nuôi CP tham gia xuất khẩu sản phẩm gia cầm. Đồng thời, phải coi trọng thị trường trong nước với gần 100 triệu dân. Đỗ Hương …
| Tin mới | admin | 22/04/2019 | | Việt Nam – Rumani ký Ghi nhớ Hợp tác nông nghiệp, thú y và an toàn thực phẩm | Hai bên cam kết tăng cường hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực nông nghiệp, thú y và an toàn thực phẩm, tập trung vào kỹ thuật canh tác, trồng trọt, chăn nuôi, kiểm dịch động thực vật, bảo đảm an toàn và chất lượng thực phẩm, đào tạo và nghiên cứu. Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Rumani của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từ ngày 14 – 16/4, ngày 15/4, tại Phủ Thủ tướng Rumani, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường và ngài Petre Dachau, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Rumani đã ký kết Bản ghi nhớ về Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, thú y và an toàn thực phẩm. Lễ ký có sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Rumani Viorica Dancila. Hai bên cam kết tăng cường hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực nông nghiệp, thú y và an toàn thực phẩm, tập trung vào kỹ thuật canh tác, trồng trọt, chăn nuôi, kiểm dịch động thực vật, bảo đảm an toàn và chất lượng thực phẩm, đào tạo và nghiên cứu. Hai bên cũng sẽ tăng cường giao lưu, trao đổi đoàn, tìm hiểu lẫn nhau nhằm thúc đẩy trao đổi thương mại các sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của mỗi nước cũng như hợp tác đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác song phương lên một tầm cao mới. …
| Tin mới | admin | 16/04/2019 | | Việt Nam – Hà Lan hợp tác chuyển đổi nông nghiệp | Nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam ngày 9-4 của Thủ tướng Hà Lan Mark Rutte, chính phủ hai nước đã ký kết bản ghi nhớ về hợp tác chuyển đổi nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long. Theo bản ghi nhớ này, Việt Nam sẽ sử dụng kiến thức và năng lực chuyên ngành hàng đầu của các trường đại học, đặc biệt là Đại học Wageningen, của Hà Lan để tiến hành hỗ trợ kỹ thuật có chất lượng cao và khởi động một số dự án phát triển chuỗi giá trị. Hai bên nhấn mạnh mối liên hệ giữa nguồn nước, chất lượng nước, chuyển đổi nông nghiệp và hoan nghênh sự hợp tác trên cơ sở hai thỏa thuận đối tác chiến lược ngành giữa Việt Nam và Hà Lan để đối phó với thách thức này. Hà Lan ủng hộ sớm ký EVFTA Chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Mark Rutte diễn ra đúng ngày hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao cách đây 46 năm (9-4-1973 – 9-4-2019). Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Mark Rutte cùng ngày tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và tăng cường quan hệ với Hà Lan. Về phần mình, Thủ tướng Mark Rutte khẳng định Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp Hà Lan mong muốn tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, thể hiện qua sự tham dự của hơn 70 doanh nghiệp hàng đầu của Hà Lan tới Việt Nam lần này. Theo tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, tại cuộc hội đàm, hai thủ tướng đánh giá quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan phát triển tích cực, hiệu quả và năng động trên tất cả các lĩnh vực. Lãnh đạo chính phủ hai nước nhất trí nâng cấp quan hệ Việt Nam – Hà Lan lên đối tác toàn diện nhằm khai thác tốt các tiềm năng hợp tác, đưa quan hệ hai nước phát triển sâu rộng và năng động trên tất cả các mặt trong thời gian tới. Hai nhà lãnh đạo đánh giá cao việc Việt Nam và Hà Lan đã trở thành đối tác quan trọng của nhau, khi Hà Lan là đối tác thương mại châu Âu lớn thứ hai của Việt Nam (kim ngạch hai chiều năm 2018 đạt 7,8 tỉ USD) và là nhà đầu tư châu Âu lớn nhất tại Việt Nam hiện nay (tổng số vốn FDI đăng ký đạt 9,55 tỉ USD). Thủ tướng hai bên cũng khẳng định còn nhiều tiềm năng phát triển hợp tác, nhấn mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác, nhất là trong các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, kinh tế biển, phát triển kinh tế tuần hoàn, quy hoạch và xây dựng thành phố thông minh… Hai thủ tướng đã nhất trí tầm quan trọng của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp đinh đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA), đáp ứng lợi ích của tất cả các bên. Thủ tướng Mark Rutte khẳng định ủng hộ việc sớm ký và phê chuẩn các hiệp định nói trên, góp phần thúc đẩy đầu tư, kinh doanh tại thị trường của nhau và tự do thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các nước thành viên EU, trong đó có các doanh nghiệp Hà Lan. Đẩy mạnh hợp tác nông nghiệp Hiện quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước về thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý nước, quan hệ đối tác về nông nghiệp bền vững và an ninh lương thực đang đi vào giai đoạn triển khai các chương trình, dự án cụ thể. Tại cuộc gặp, hai thủ tướng coi đây tiếp tục là những trọng tâm hợp tác của hai nước trong thời gian tới. Theo tuyên bố chung ký cùng ngày, hai nước nhất trí triển khai các chương trình hợp tác trên cơ sở các ưu tiên và thế mạnh của hai nước, trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, quản lý an toàn thực phẩm, nông nghiệp thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu, chất lượng nước…, trong đó có hợp tác phát triển các vùng nông nghiệp thông minh và hoàn thiện các chuỗi giá trị sản phẩm, ngành hàng nông nghiệp Việt Nam, chú trọng việc chuyển giao, hỗ trợ công nghệ từ các đối tác Hà Lan nhằm tăng cường cơ hội hợp tác kinh doanh. Nông nghiệp bền vững và tuần hoàn nằm trong các chương trình hợp tác của hai bên. Trong khuôn khổ chuyến thăm, Thủ tướng Mark Rutte đã hội kiến Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Tối cùng ngày, Thủ tướng Mark Rutte tham dự chương trình trình diễn thời trang bền vững do UBND thành phố Hà Nội và Đại sứ quán Hà Lan đồng tổ chức tại vườn hoa Lý Thái Tổ, trước khi lên đường về nước. DIỆU AN (Tuổi trẻ …
| Tin mới | admin | 10/04/2019 | | Hòa Bình thành tỉnh đầu tiên công bố hết dịch tả lợn châu Phi | Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết tỉnh Hòa Bình đến thời điểm này, qua kiểm tra, theo dõi đã đủ điều kiện hoàn tất để công bố hết dịch tả lợn châu Phi. Ngày 9/4, Ủy ban Nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình tổ chức Hội nghị công bố hết dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh. Trong tổng số 23 tỉnh, thành phố trên toàn quốc xảy ra dịch tả lợn châu Phi, Hòa Bình là tỉnh đầu tiên công bố hết dịch tả lợn châu Phi. Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến nêu rõ, theo quy định sau 30 ngày, kể từ khi tiêu hủy động vật cuối cùng mắc bệnh và không phát hiện thêm dịch bệnh, thì đủ điều kiện để công bố hết dịch. Tỉnh Hòa Bình đến thời điểm này, qua kiểm tra, theo dõi đã đủ điều kiện hoàn tất để công bố hết dịch tả lợn châu Phi. [Toàn cảnh nỗ lực phòng chống dịch tả lợn châu Phi của Việt Nam] Dịch tả lợn châu Phi nhanh chóng được khống chế là sự chỉ đạo kịp thời từ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng các bộ, ngành liên quan khác. “Ngay khi sớm phát hiện dịch bệnh, các cơ quan chức năng đã khẩn trương triển khai xử lý ngay, xử lý triệt để, xử lý đồng bộ theo những hướng dẫn và sự chỉ đạo từ các văn bản, đặc biệt là Chỉ thị 04 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản khác, tổ chức tốt các chốt phòng dịch. Đây là bài học tiêu biểu điển hình cần được nhân rộng trong ứng phó, dập dịch tả lợn châu Phi, cũng như các dịch bệnh khác,” Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định. Không chủ quan với dịch tả lợn châu Phi có thể tái phát, Trưởng phòng chăn nuôi, Chi cục Thú y tỉnh Hòa Bình, ông Nguyễn Văn Tuấn cho biết, trong thời gian tới, các cơ quan chức năng tỉnh Hòa Bình vẫn tiếp tục duy trì và chủ động phòng chống dịch bệnh. Khi chính quyền địa phương phát hiện có hiện tượng lợn ốm, chết đột xuất, khả nghi có dịch bệnh tả lợn châu Phi thì phải báo cáo ngay Chi cục Thú y tỉnh Hòa Bình để lấy mẫu xét nghiệm, sớm xử lý triệt để nếu như có ổ dịch phát sinh. Trước đó, ngày 6/3/2019, Ủy ban Nhân dân huyện Lương Sơn (Hòa Bình) đã công bố bệnh dịch tả lợn châu Phi đầu tiên trên địa bàn tại xã Hợp Thanh, sau đó là xã Thanh Lương. Ngay khi phát hiện ổ dịch, các cơ quan chức năng tỉnh Hòa Bình đã khẩn trương tiến hành tiêu hủy toàn bộ đàn lợn tại các hộ có lợn ốm, chết ở 2 xã trong vòng 24 giờ kể từ khi có kết quả xét nghiệm khẳng định dương tính với bệnh dịch tả lợn châu Phi theo đúng quy định tiêu hủy. Tỉnh đã tổ chức khoanh vùng dịch, vùng có nguy cơ lây bệnh, đồng thời kiểm tra chặt chẽ, không để người dân vận chuyện lợn và các sản phẩm lợn ra vào vùng dịch; dừng phương tiện giao thông thực hiện việc vệ sinh, khử trùng tiêu độc các phương tiện đi từ vùng dịch ra ngoài; tổ chức kiểm soát chặt chẽ việc giết mổ lợn, tiêu thụ lợn, sản phẩm thịt lợn dưới sự giám sát của chính quyền địa phương… Dự kiến, ngày 10/4, tỉnh Bắc Kạn sẽ là tỉnh thứ hai công bố hết dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn./. Thanh Hải …
| Tin mới | admin | 09/04/2019 | | Giá heo tại Bình Định đã lên 44.000 đồng/kg | Hiện các thương lái đang mua heo hơi siêu nạc tại các trang trại tại Bình Định với giá từ 43.000 – 44.000 đồng/kg; heo nuôi tại các gia trại được mua với giá từ 39.000 – 40.000 đồng/kg,cao hơn 10 giá so với tuần trước. Hiện nay, mỗi ngày người chăn nuôi ở Hoài Ân xuất bán đi khắp các thị trường khoảng từ 1.100 – 1.200 con heo thịt Sáng 9/4, ông Nguyễn Thanh Vương, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Hoài Ân (Bình Định), cho biết, những ngày gần đây giá heo hơi trên địa bàn đã tăng trở lại, lượng heo xuất bán cũng nhiều hơn, người chăn nuôi ở địa phương rất phấn khởi. Hiện các thương lái đang mua heo hơi siêu nạc tại các trang trại với giá từ 43.000 – 44.000 đồng/kg; heo nuôi tại các gia trại được mua với giá từ 39.000 – 40.000 đồng/kg,cao hơn 10 giá so với tuần trước. Đầu ra sản phẩm cũng tương đối thuận lợi, bình quân mỗi ngày các thương lái thu mua từ 1.100 – 1.200 con heo thịt để cung cấp cho thị trường Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế… Giá heo tăng trở lại, đầu ra sản phẩm thuận lợi là điều kiện để người chăn nuôi nâng cao thu nhập, tái sản xuất và quan tâm áp dụng các biện pháp bảo vệ đàn gia súc hơn. ĐÌNH …
| Tin mới | admin | 09/04/2019 | | Công văn số 190/CN-GSN ngày 20/02/2019 về việc áp dụng biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi | BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc CỤC CHĂN NUÔI Số: 190/CN-GSN Hà Nội, ngày 20 tháng 02 năm 2019 V/v áp dụng biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi Kính gửi: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố Trong tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh trên vật nuôi đặc biệt là dịch tả lợn Châu Phi. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về các biện pháp phòng, chống dịch trên đàn vật nuôi. Cục Chăn nuôi đề nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các cơ quan chức năng, chỉ đạo các đơn vị chuyên môn triển khai một số nội dung cụ thể sau: 1. Song song với việc phòng chống dịch bệnh theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, là việc tiếp tục duy trì, ổn định và phát triển chăn nuôi. 2. Tăng cường công tác tuyên truyền để người chăn nuôi thực hiện các biện pháp an toàn sinh học (tham khảo QCVN01-14:2010/BNNPTNT và QCVN 01-15:2010/BNNPTNT tại Thông tư số 04/2010/TT-BNNPTNT). 2. Chăn nuôi theo hướng áp dụng Quy trình thực hành chăn nuôi tốt theo Quyết định số 4653/QĐ-BNN-CN ngày 10/11/2015 và Quyết định số 2509/QĐ-BNN-CN ngày 22/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và PTNT. 3. Thường xuyên và định kỳ vệ sinh, khử trùng, tiêu độc tại các khu vực chăn nuôi, chợ, điểm buôn bán, giết mổ, kinh doanh thực phẩm và thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp cách ly khu vực chăn nuôi theo quy định của thú y; 4. Liên kết trong chăn nuôi, giết mổ, chế biến và tiêu thụ để hình thành sản xuất sản phẩm theo chuỗi có truy xuất nguồn gốc, đảm bảo an toàn thực phẩm. Cục Chăn nuôi xin tiếp nhận thông tin trên phạm vi toàn quốc, thông tin xin gửi về Cục Chăn nuôi, số 16 – Thụy Khuê – Tây Hồ – Hà Nội hoặc thư điện tử: ; Điện thoại: 024.37345447./. Nơi nhận: – Như trên; – Bộ trưởng (để b/c); – Thứ trưởng Phùng Đức Tiến (để b/c); – Cục trưởng (để b/c); – Lưu: VT, GSN. KT. CỤC TRƯỞNG PHÓ CỤC TRƯỞNG (Đã ký) Nguyễn Văn Trọng …
| Công văn | admin | 26/02/2019 | | Công văn số 23/CN-VP ngày 07 tháng 01 năm 2019 về việc triển khai chính thức thủ tục miễn, giảm kiểm tra chất lượng TĂCN nhập khẩu theo Cơ chế một cửa quốc gia từ ngày 09/01/2019 | BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CỤC CHĂN NUÔI Số: 23 /CN-VP V/v triển khai chính thức thủ tục miễn, giảm kiểm tra chất lượng TĂCN nhập khẩu theo Cơ chế một cửa quốc gia từ ngày 09/01/2019 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 07 tháng 01 năm 2019 Kính gửi: – Tổng cục Hải quan;- Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel;- Trung tâm Tin học và Thống kê Bộ NN&PTNT;- Tổ chức chứng nhận sự phù hợp chất lượng TĂCN;- Các Doanh nghiệp nhập khẩu thức ăn chăn nuôi. Thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai Quyết định số 2185/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2016 – 2020, Cục Chăn nuôi được giao thực hiện 02 thủ tục “Kiểm tra giảm chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có thời hạn”, “Miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có thời hạn” theo Cơ chế một cửa quốc gia. Đến nay, Cục Chăn nuôi đã phối hợp với Tổng Cục hải quan, Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel hoàn thiện phần mềm và triển khai vận hành chính thức từ ngày 09/01/2019. Cục Chăn nuôi đề nghị Tổng Cục hải quan, Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel, Trung tâm Tin học và Thống kê Bộ NN&PTNT, các Doanh nghiệp nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, các Tổ chức chứng nhận sự phù hợp chất lượng thức ăn chăn nuôi chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật để nộp, tiếp nhận, xử lý hồ sơ miễn, giảm kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu theo yêu cầu của hệ thống một cửa quốc gia./. Nơi nhận: – Như trên; – Bộ trưởng (để b/c); – Thứ trưởng Hà Công Tuấn (để b/c); – Vụ TCCB (VPTTCCHC); – Cục CNTT&TK Hải quan; – Lưu: VT. Q. CỤC TRƯỞNG (Đã ký) Nguyễn Xuân …
| Tin mới | admin | 08/01/2019 | | Lãnh đạo Bộ NN-PTNT kiểm tra công tác phòng, chống rét cho gia súc tại Yên Bái | Trước tình hình rét đậm, rét hại trên diện rộng ở các tỉnh phía Bắc, đoàn công tác của Bộ NN-PTNT do Thứ trưởng Phùng Đức Tiến dẫn đầu đã đi kiểm tra công tác phòng, chống rét trên đàn gia súc tại tỉnh Yên Bái. Chủ động chống rét Từ TP Yên Bái (tỉnh Yên Bái), đoàn công tác di chuyển hơn 100 km đến các xã Nậm Búng và Gia Hội (huyện Văn Chấn) trong cái lạnh cắt da cắt thịt. Nằm dưới chân đèo Khau Phạ (một trong “tứ đại đỉnh đèo” của Việt Nam), đời sống của đồng bào miền sơn cước nơi đây còn khá khó khăn. Đất đai cằn cỗi, các hộ dân tập trung phát triển đàn trâu để nâng cao sinh kế. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến (ngoài cùng bên phải) kiểm tra công tác phòng, chống rét cho đàn gia súc tại Yên Bái Tuy nhiên, trước sự khắc nghiệt của thời tiết những năm qua, tỷ lệ trâu chết vì đói, rét trong mùa đông khá cao. Ông Đặng Duy Hiển – Phó Chủ tịch UBND huyện Văn Chấn (tỉnh Yên Bái) thống kê: Đầu năm 2018, chỉ hai đợt rét đậm, rét hại kéo dài đã cướp đi sinh mạng của 154 con trâu, bò già yếu và bê, nghé mới sinh, khiến đời sống của một số hộ dân lâm vào cảnh khó khăn. Địa phương đã hỗ trợ mỗi con trâu, bò bị chết 6 triệu đồng. Còn trên địa bàn toàn tỉnh, chỉ tính riêng vụ đông xuân 2017 – 2018 đã có 1.264 con gia súc (trong đó có 831 con trâu; 181 con bò và 200 con dê) bị chết. Ông Trần Đức Lâm – Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Yên Bái thông tin: Gia súc bị thiệt hại do giá rét chủ yếu tập trung ở 3 huyện Trạm Tấu (538 con), Mù Căng Chải (397 con) và Văn Chấn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trâu chết phần lớn là do tập quán chăn thả dông gia súc của bà con. Bên cạnh đó, người dân cũng chưa tuân thủ các nguyên tắc chống rét, chống đói, phòng bệnh cho đàn vật nuôi. Người dân dự trữ rơm khô chống đói cho trâu Rất mừng là trong vụ đông xuân năm 2018 – 2019, đến nay tỉnh Yên Bái chưa ghi nhận trường hợp trâu, bò bị chết rét. Có được kết quả đó là do các cấp, chính quyền địa phương đã tập trung triển khai mạnh mẽ các giải pháp để bảo vệ đàn vật nuôi nhằm hạn chế tốt nhất thiệt hại do rét và dịch bệnh gây ra… Thay đổi nhận thức của người dân Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã đến thăm gia đình chị Lò Thị Hoà (thôn Nam Vai, xã Gia Hội). Hiện chị Hoà đang nuôi 10 con trâu. Năm ngoái, trong một đợt rét hại, 1 con trâu và 1 con nghé đã chết khiến kinh tế gia đình tổn thất lớn. Năm nay, được sự hỗ trợ (15 triệu đồng xây chuồng gia súc) của tỉnh Yên Bái, chị Hoà đã xây dựng một khu chuồng kiên cố, xung quanh được che chắn bạt, ni lông. Trước mùa đông, gia đình đã dự trữ sẵn thức ăn, không để đàn trâu bị đói. Những ngày nhiệt độ dưới 12oC, bà con không thả trâu, bò Nhìn thấy nền chuồng vẫn bị đọng nước, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến lưu ý, phải xử lý dứt điểm để nền chuồng thật khô ráo, vì trâu có tập tính nhai lại, khi chúng ăn xong sẽ thường nằm để nhai, nếu nền chuồng ướt thì trâu sẽ bị lạnh. Bên cạnh đó, với thời tiết khắc nghiệt ở khu vực miền núi phía Bắc trong mùa đông, vào những ngày nhiệt độ xuống quá thấp, ngoài che chắn bạt (ni lông) hai lớp xung quanh, cần đốt lửa xung quanh để sưởi ấm cho đàn trâu. Bà con cũng nên rắc vôi bột quanh chuồng để tiêu diệt các nguồn lây bệnh, đồng thời bổ sung thức ăn tinh với khẩu phần cho trâu 1 – 1,5 kg/con/ngày, cho trâu uống nước ấm pha muối, bổ sung vitamin và khoáng chất thiết yếu để tăng sức đế kháng cho cơ thể. Tốt nhất là nên nấu cháo để vật nuôi dễ tiêu hoá. Đoàn cũng đến thăm gia đình bà Hà Thị Vân, có hai con trâu đang được chăm sóc. Bà Vân cho biết, khi trời chuyển lạnh, bà lập tức lùa trâu về nhốt ở chuồng. Trước đó, bà đã dự trữ một kho rơm khô để đàn trâu chống đói. Đồng thời hàng ngày đều băm cây chuối, trộn bột ngô, sắn nấu cháo cho Trâu. Tuy nhiên, Thứ trưởng Tiến lưu ý chuồng nuôi trâu của bà Vân vẫn chưa đạt tiêu chuẩn, gió vẫn bị lùa và xung quanh chuồng nuôi vẫn chưa được vệ sinh sạch sẽ, có nhiều nước đọng, phân thải. Đây là nguy cơ lây bệnh. Tại địa bàn thôn Nậm Pươi, xã Nậm Búng, mấy năm trở lại đây phong trào nuôi trâu phát triển kinh tế khá sôi động. Đi kèm với đó, công tác phòng, chống đói rét cho vật nuôi cũng được các hộ chú trọng hơn. Gia đình anh Triệu A Nhị (thôn Nậm Pươi) có 5 con trâu cái, mỗi năm có 5 con nghé được sinh ra, ông nuôi vỗ rồi bán bớt 4 con trang trải sinh hoạt, mua máy nông cụ, tích luỹ xây nhà. Con còn lại được giữ để phát triển quy mô đàn. Nuôi trâu đang là hướng phát triển sinh kế của nhiều hộ dân ở huyện Văn Trấn Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đánh giá cao tỉnh Yên Bái đã có nhiều chính sách hỗ trợ người dân trong phát triển chăn nuôi (hỗ trợ 100% vacxin tiêm phòng các bệnh nguy hiểm trên đàn gia súc; 15 – 20 triệu đồng để bà con xây dựng chuồng nuôi; hỗ trợ thụ tinh nhân tạo cho trâu, bò; hỗ trợ 300.000 đồng/cây rơm cho các hộ chăn nuôi gia súc gặp khó khăn về diện tích chăn thả; tuyên truyền, phát động phong trào trồng cỏ, ngô sinh khối… Đồng thời, Thứ trưởng cũng lưu ý, tỉnh Yên Bái phải làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động các hộ dân đầu tư cơ sở vật chất phục vụ chăn nuôi. Bởi trong tổng số 42.000 hộ chăn nuôi trâu, bò trên địa bàn toàn tỉnh, vẫn còn khoảng 2.200 hộ chưa có chuồng đảm bảo chống rét (chiếm tỷ lệ 5%). Bên cạnh đó, số hộ có thức ăn dự trữ mới chỉ đạt 83%; Tổng diện tích trồng cỏ toàn tỉnh đạt khoảng 2.700 ha, sản lượng hàng năm ước khoảng 500.000 tấn, chỉ đáp ứng được khoảng 35% thức ăn xanh cho đàn gia súc lớn. Bổ sung thức ăn tinh cho đàn trâu ngày giá rét MINH …
| Tin mới | admin | 02/01/2019 | | Cải cách hành chính thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nông nghiệp | Ngày 19/12, Cổng thông tin Điện tử Chính phủ tổ chức Giao lưu trực tuyến “Cải cách hành chính – Thủ tục hành chính: Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nông nghiệp” Thực hiện Nghị định số 123/2018/NĐ-CP ngày 17/9/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, thời gian qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có những cải cách tích cực, quyết liệt nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí đáng kể cho cho người dân và doanh nghiệp. Năm 2018, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện cắt giảm 173/345 điều kiện (đạt tỷ lệ 50%). Bộ cũng đã cắt giảm, đơn giản hóa hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành từ 7.698 dòng hàng xuống còn 1.768 dòng hàng (tỷ lệ cắt giảm trên 77%). Việc cắt giảm, đơn giản hóa hàng hóa có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của người dân, doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục hành chính có liên quan tới nhập khẩu hàng hóa. Theo bà Nguyễn Kim Anh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc cắt giảm các điều kiện kinh doanh cũng như cắt giảm các thủ tục hành chính là một trong những công việc trọng tâm của Bộ nhiều năm gần đây. Tất cả các đơn vị liên quan đến thủ tục hành chính đều được giao thực hiện công việc này và đây là công việc thường xuyên, bắt buộc phải làm. Tất cả các thủ tục hành chính, các điều kiện cắt giảm đầu tư kinh doanh đều thể hiện trong văn bản pháp luật. Việc thực hiện cắt giảm này bắt đầu từ nhận thức của cán bộ công chức từ các cấp lãnh đạo sau đó được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật. Việc cắt giảm này có sự phản biện của xã hội, các cộng đồng doanh nghiệp để bảo đảm thực chất cũng như góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cho nông nghiệp cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Kim Anh, đây là công việc khó. Chặng đường này còn khá dài, ngành sẽ phải có sự nỗ lực hơn nữa trong duy trì và tiếp tục cải cách theo thực hiện chỉ đạo của Chính phủ. Đứng trước áp lực hội nhập, ông Nguyễn Xuân Dương, quyền Cục trưởng cục Chăn nuôi cho biết, ngành sẽ phải triệt để cải cách hành chính và áp dụng công nghệ thông tin. Sản phẩm chăn nuôi phải hướng đến xuất khẩu, vì nhu cầu trong nước đã đáp ứng đủ. Do vậy, phải thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi. Ông Dương cho biết, Quốc Hội cũng thông qua Luật Chăn nuôi trong đó quy định việc quản lý theo chuỗi, từ khâu giống đầu vào tới khâu thị trường, tổ chức theo các chuỗi liên kết, phát huy vai trò của hợp tác xã để nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm và truy suất nguồn gốc sản phẩm chăn nuôi. “Do vậy, cải cách hành chính sẽ tiếp tục phải được áp dụng, đồng thời thực hiện tốt Luật Chăn nuôi, kê khai chăn nuôi, áp dụng công nghệ thông tin để quản lý”, ông Nguyễn Xuân Dương nhấn mạnh. Bảo vệ thực vật là đơn vị thường xuyên làm việc với các doanh nghiệp thực hiện cấp giấy chứng nhận nhập khẩu và quá cảnh sản phẩm thực vật. Ông Nguyễn Quý Dương, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho biết, với trên 130.000 lô hàng/năm; trong đó trên 85% lô hàng thực hiện qua cơ chế 1 cửa quốc gia đã đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và lực lượng cán bộ. Cụ thể, về phía doanh nghiệp giảm được chi phí đi lại, công sức, về phía Cục Bảo vệ thực vật lực lượng cán bộ cũng được giảm áp lực vì số doanh nghiệp đến chi cục làm thủ tục giảm. Ông Nguyễn Quý Dương hi vọng, thời gian tới, việc thực hiện hải quan một cửa được áp dụng trên sản phẩm xuất khẩu và có sự công nhận lẫn nhau giữa các thị trường thì rất tốt. Khi các các nước có sự công nhận lẫn nhau sẽ tránh được hồ sơ giả. Như hiện nay, khi chưa có sự công nhận, có dấu hiệu giấy tờ giả, sẽ gây mất nhiều thời gian cho cả cán bộ và doanh nghiệp. Còn theo ông Nguyễn Xuân Dương, hội nhập là cả một quá trình cần có thời gian để có sự tương đồng. Thực tế, việc áp dụng hồ sơ giấy thì có thể biết được ngay đây là giấy tờ thật hay giả, còn giấy tờ điện tử thì khó phân biệt ngay. Do vậy, cần tăng cường hoạt động kiểm tra, đánh giá sự thừa lẫn nhau và tránh kiểm tra hai lần để tiết kiệm chi phí, hạn chế bất cập./. Bích …
| Tin mới | admin | 21/12/2018 | | Xuất khẩu nông, lâm và thủy sản 11 tháng qua tăng hơn 9% | Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 11 năm nay ước đạt 3,61 tỷ USD. Như vậy, tổng giá trị xuất khẩu 11 tháng qua đạt 36,3 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt gần 18,1 tỷ USD, tăng 3,1%; thủy sản đạt 8,1 tỷ USD, tăng 6,8%; chăn nuôi đạt 0,51 tỷ USD, tăng 13%; các mặt hàng lâm sản chính đạt 8,6 tỷ USD, tăng 18%. Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 11 này ước đạt 496.000 tấn với giá trị đạt 241 triệu USD. Như vậy, khối lượng xuất khẩu gạo 11 tháng qua ước đạt 5,7 triệu tấn với 2,9 tỷ USD, tăng 5,6% về khối lượng và tăng 17,7% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng gạo tuy xuất khẩu sang Trung Quốc giảm mạnh (30%) song Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam với 24,1% thị phần. Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản dự báo năm nay, gạo xuất khẩu giữ vững đà tăng trưởng, kỳ vọng có thể đạt 6,15 triệu tấn với kim ngạch đạt 3,15 tỷ USD, tăng 5,7% về lượng và 19,6% về trị giá so với năm ngoái. Mục tiêu này có thể đạt được bởi thị trường gạo trong những tháng cuối năm đang có tín hiệu nhập khẩu từ Indonesia và Philippines. Trong phiên mở thầu nhập 500.000 tấn gạo loại 25% tấm ngày 20/11 của Philippines, Việt Nam đã giành được hợp đồng xuất khẩu với khối lượng 118.000 tấn. [Infographics] 11 tháng năm 2018: Việt Nam xuất siêu hơn 6,8 tỷ USD Dự báo Ai Cập sẽ phải nhập khẩu 500.000 tấn gạo trong đầu năm tới do giảm diện tích canh tác. Trong phiên thầu mua gạo quốc tế đầu tiên của Ai Cập trong năm nay, có một mẫu gạo từ Việt Nam đã qua được vòng kiểm nghiệm. Về càphê, xuất khẩu mặt hàng này 11 tháng qua ước đạt 1,73 triệu tấn với 3,3 tỷ USD, tăng 23,4% về khối lượng và tăng 3,2% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 11 này, thị trường càphê trong nước biến động giảm theo xu hướng thị trường thế giới. Giá càphê vối nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm từ 700-900 đồng/kg với tháng trước, xuống còn 34.600-35.200 đồng/kg. Giá càphê giảm do thị trường càphê Robusta tiếp tục chịu sức ép từ hoạt động bán phòng hộ hàng vụ mới của các nước sản xuất. Bên cạnh đó, giá càphê còn giảm do các nhà đầu cơ và các quỹ đã quay lại bán ròng trên sàn London khi áp lực nguồn cung bắt đầu có dấu hiệu gia tăng. Dự báo, giá càphê thời gian tới sẽ khó khởi sắc do sản lượng vụ càphê Conilon Robusta mới năm nay của Brazil, sau khi đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước dự báo sẽ dư thừa khoảng 4-5 triệu bao cho xuất khẩu, đang chảy mạnh về sàn London để đăng ký bán đấu giá. Với hồ tiêu, do giá xuất khẩu hạt tiêu giảm liên tục (38%) nên dù xuất khẩu có tăng về sản lượng, đạt 220.000 tấn nhưng giá trị chỉ đạt 718 triệu USD, giảm 32,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá hạt tiêu thế giới được kỳ vọng sẽ tăng nhẹ trong thời gian tới nhờ thặng dư cung-cầu giảm. Năm 2019, dự báo sản lượng của một số nước sản xuất chính như Việt Nam và Ấn Độ đều không khả quan do ảnh hưởng từ dịch bệnh và thiên tai. Trong dài hạn, chất lượng sẽ là yếu tố quyết định lên giá hạt tiêu. Do đó nông dân, doanh nghiệp cần thúc đẩy sản xuất hạt tiêu theo hướng hữu cơ. Đồng thời, xây dựng và quảng bá thương hiệu tiêu của từng địa phương đến các thị trường trên thế giới. Tình hình tương tự cũng diễn ra với mặt hàng cao su. Khối lượng và giá trị xuất khẩu cao su 11 tháng qua ước đạt 1,37 triệu tấn với 1,87 tỷ USD, tăng 13,2% về khối lượng nhưng giảm 6,5% về giá trị do giá xuất khẩu giảm 20%. Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, hiện giá cao su trên thế giới đang chịu áp lực giảm do thị trường thiếu các yếu tố hỗ trợ giá cao su; giá dầu trên thị trường thế giới giảm mạnh. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ-Trung Quốc có tác động rõ hơn đối với xuất khẩu lốp xe của Trung Quốc. Trong ngắn hạn, giá cao su thế giới dự báo vẫn sẽ duy trì ở mức thấp do căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chưa được giải quyết và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại. Các doanh nghiệp xuất khẩu cao su của Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn trong thời gian tới do nhu cầu thấp từ thị trường xuất khẩu cao su chủ chốt là Trung Quốc. Do đó, các doanh nghiệp cần đa dạng thị trường để tránh phụ thuộc vào thị trường truyền thống. Cũng tăng về lượng nhưng giảm về giá trị trong xuất khẩu, mặt hàng điều xuất khẩu 11 tháng qua đạt 342.000 tấn với kim ngạch 3,1 tỷ USD. Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam với trên 60% thị phần. Trong 11 tháng qua, giá trị xuất khẩu rau quả đạt 3,5 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2017. Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cũng cho biết, ước giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản 11 tháng qua đạt 28,8 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm …
| Tin mới | admin | 03/12/2018 | | Hiệp định CPTPP tác động ra sao tới các ngành hàng nông, thủy sản? | Là quốc gia có lợi thế tương đối về nông nghiệp so với hầu hết các quốc gia trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như gỗ, sản phẩm gỗ và thủy sản. Tuy nhiên, những rào cản thuế quan được dỡ bỏ, Việt Nam cũng có những sản phẩm sẽ chịu sự cạnh tranh quyết liệt hơn ngay ở thị trường trong nước. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gỗ, sản phẩm gỗ, thủy sản, rau quả… chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp đều được xem là sẽ có nhiều lợi thế khi Việt Nam tham gia CPTPP. Điển hình gỗ, sản phẩm gỗ là nhóm hàng được đánh giá sẽ có lợi thế lớn nhờ CPTPP. Hầu hết các quốc gia trong CPTPP đều cam kết loại bỏ thuế quan đối với gỗ và sản phẩm từ gỗ của Việt Nam ngay khi CPTPP có hiệu lực. Điều này kỳ vọng sẽ có làn sóng tăng trưởng mới đối với các doanh nghiệp ngành này. Theo ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES), với CPTPP cơ hội đối với ngành gỗ nhiều hơn là thách thức. Trong số 10 nước còn lại trong CPTPP, ngành gỗ Việt Nam đã có quan hệ lâu đời và có thị trường mạnh như Nhật Bản, New Zealand, Australia, Singapore… Những năm gần đây, ngành gỗ Việt Nam cũng đã có quan hệ tốt với Canada, Peru, Chile… Kim ngạch xuất khẩu gỗ vào các nước này cũng rất lớn. Rất nhiều dòng thuế xuất nhập khẩu các sản phẩm gỗ về bằng 0 sẽ là lợi thế để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam. “Nhưng thuế với sản phẩm gỗ không quan trọng bằng các thiết bị chế biến gỗ cũng bằng 0. Đây chính là kỳ vọng lớn của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ với hiệp định này,” ông Quyền cho biết. Ngoài ra, với CPTPP dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ được mở ra mạnh hơn. Trước đây, thường các nguồn vốn đến với ngành gỗ từ Trung Quốc nhưng nay Nhật Bản đã bắt đầu tìm đến Việt Nam để đầu tư. Việc ký kết CPTPP cũng sẽ là cơ hội lớn để các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường mới như Canada, Peru, Mexico… Điển hình với mặt hàng cá ngừ, Thái Lan, Trung Quốc đang là hai đối thủ lớn nhất của Việt Nam nhưng không phải là thành viên của CPTPP. Như vậy, mặt hàng cá ngừ của Việt Nam có lợi thế về thuế so với hai nước trên tại thị trường lớn trong khối CPTPP. Với mặt hàng tôm, đối thủ đứng đầu là Ấn Độ cũng không phải thành viên CPTPP nên đây được xem là cơ hội để sản phẩm tôm xuất khẩu Việt Nam vươn lên cạnh tranh vị trí xuất khẩu hàng đầu. Bên cạnh những sản phẩm Việt Nam có thế mạnh, cũng có các sản phẩm như chăn nuôi sẽ phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt ngay chính tại thị trường trong nước. Các sản phẩm chăn nuôi của những nước có thế mạnh như Canada, Australia… sẽ khả năng ồ ạt vào Việt Nam. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến ngành sản xuất chăn nuôi trong nước. [Thực thi CPTPP: “Tránh tâm lý cộng đồng doanh nghiệp thụ động”] Theo ông Hoàng Thanh Vân, nguyên Cục trưởng Cục Chăn nuôi, nếu không nhanh cải tiến và lựa chọn những sản phẩm lợi thế, đặc trưng để tập trung phát triển thì ngành chăn nuôi sẽ gặp nhiều bất lợi. Bởi sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam hiện có chi phí sản xuất cao hơn so với các nước có ngành chăn nuôi phát triển. Bởi vậy, các doanh nghiệp trong nước bắt buộc phải thay đổi phương thức quản lý để hội nhập. Tận dụng việc giảm thuế các trang thiết bị phục vụ cho ngành chăn nuôi để làm giảm chi phí sản xuất. Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn cho rằng, một trong những thách thức lớn đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam là các nước tham gia có thể giảm thuế suất nhưng họ sẽ nâng cao các hàng rào phi thuế quan và có sự kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Để xâm nhập và chiếm lĩnh được những thị trường giá trị cao và quy mô lớn như Nhật Bản, Australia… những nông sản Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu như gạo, càphê, tiêu, điều, thủy sản… cần vượt qua được các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp kiểm dịch vệ sinh, an toàn thực phẩm để chiếm lĩnh được các thị trường này. Nếu không, dù thuế suất nhập khẩu của các thị trường này bằng 0%, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam cũng không thể tiếp cận, mở rộng thị trường. Theo các chuyên gia, với những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu cần thúc đẩy các hoạt động mở rộng thương mại, xúc tiến đầu tư giữa nhà đầu tư thuộc CPTPP với Việt Nam, giữa nhà đầu tư Việt Nam với đối tác thuộc các nước CPTPP để tìm kiếm cơ hội hợp tác, liên kết hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu. Các ngành chức năng cần rà soát kỹ các ngành hàng dễ bị tổn thương như chăn nuôi, mía đường… để có những chính sách hỗ trợ kịp thời, giúp người sản xuất giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. Đồng thời, giảm thấp nhất thiệt hại khi phải cạnh tranh với nông sản từ các nước CPTPP. Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn cho rằng, các điều kiện về kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và quy tắc xuất xứ sẽ là yêu cầu đầu tiên để nông sản Việt mở rộng thị trường. Do đó, ngành nông nghiệp cần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp; trong đó đẩy mạnh xây dựng các vùng sản xuất tập trung, ứng dụng khoa học công nghệ, gắn chặt với các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm và chất lượng theo các cam kết. Các doanh nghiệp cũng cần nâng cao năng lực phòng vệ trước sự thâm nhập hàng hóa, sự cạnh tranh với hàng ngoại thông qua việc đẩy mạnh liên kết sản xuất, xây dựng mạng lưới phân phối nội địa cũng như tận dụng môi trường kinh doanh thuận lợi từ chính sách Nhà …
| Tin mới | admin | 22/11/2018 | | Thông báo số 7680/TB-BNN-VP ngày 02 tháng 10 năm 2018 Ý kiến chỉ đạo của Thứ trưởng Thường trực Hà Công Tuấn về việc triển khai thực hiện Quyết định số 3346/QĐ-BNN-TCCB ngày 23/8/2018 điều chỉnh phân công nhiệm vụ kiểm tra chuyên ngành đối với một số sản phẩm, hàng hóa nhập khẩu trước thông quan | …
| Thông báo, Tin mới | admin | 03/10/2018 | | Nông nghiệp thông minh: Tạo chuỗi giá trị sản xuất khép kín | Từ một người tay trắng nhưng sau 10 năm, ông Vũ Mạnh Hùng là người đưa thịt gà nuôi tại xã Thuận Lợi (huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản khó tính và trở thành “ đại gia” của ngành nông nghiệp tỉnh Bình Phước. Mô hình chăn nuôi tự động theo công nghệ CHLB Đức của doanh nghiệp Hùng Nhơn. (Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN) Thành công này phải kể đến việc nhạy bén đầu tư trong việc chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp đơn thuần sang đầu tư nông nghệ áp dụng công nghệ cao, tạo ra chuỗi giá trị sản xuất khép kín thông qua liên kết của nhiều đơn vị trong và ngoài nước và được kiểm soát bằng tiêu chuẩn châu Âu. Tay trắng thành “đại gia” Từng trải qua nghề phụ lơ xe, làm thợ hồ để kiếm sống, nhưng ông Vũ Mạnh Hùng luôn xem những nghề nghiệp này là long đong, lận đận. Chính vì vậy, ông Hùng tìm đến vùng đất Bình Phước tìm vận may khởi nghiệp. Sau thời gian trích góp ít vốn, nhìn thấy nông nghiệp là hướng đi phù hợp với bản thân ông Hùng nhanh nhạy ứng dụng mô hình nuôi gà trong nhà lạnh – lĩnh vực đang phát triển ở vùng đất Đông Nam Bộ. Không may cho ông, khi bắt đầu mon men khởi nghiệp, ông Vũ Mạnh Hùng đã nhận ngay thất bại ê chề khi gặp trận dịch bệnh hồi năm 2009-2010 đã cướp sạch vốn liếng làm ăn của ông. “Thất bại là mẹ thành công,” ông Hùng không nản chí, vay vốn tiếp tục đầu tư. Và lần này ông đầu tư bài bản áp dụng theo công nghệ của Đức để đáp ứng theo xu thế của thị trường. Tầm nhìn đúng đắn đó đã mở ra con đường đi đúng hướng và phát triển lên tầm cao mới. Ông Vũ Mạnh Hùng cho biết: “Thấy tôi dốc toàn bộ vốn liếng, vay mượn để làm nông nghiệp, nhiều người nghĩ tôi mất trí vì làm nông nghiệp luôn đối diện rủi ro quá lớn. Nhưng tôi đã quyết cái gì tôi không biết thì tôi sẽ không làm và chỉ tập trung làm nông nghiệp.” Sau lần thất bại đó, ông Hùng bắt tay làm lại và đã thành công với mỗi năm đơn vị tăng trưởng bình quân 20%/năm. Từ một nông hộ nông dân kinh doanh gia cầm nhỏ lẻ, hiện mô hình của ông đã trưởng thành một tập đoàn hàng đầu với nhiều sản phẩm nông nghiệp thịt gà xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Đột phá thành công nhất của ông Hùng là hồi tháng Chín năm 2017, hơn 300 tấn thịt gà xuất khẩu chính ngạch đầu tiên của Việt Nam được xuất sang thị trường nước ngoài. Số gà này được nuôi tại trang trại Hùng Nhơn do ông Hùng làm chủ. Ông Hùng là một trong số các doanh nghiệp mạnh tay đầu tư hàng triệu USD cho hệ thống trang trại công nghệ cao theo tiêu chuẩn Global Gap tại tỉnh Bình Phước. Trong chuyến đến thăm và làm việc tại tỉnh Bình Phước mới đây, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường thôn cho biết, mỗi năm, ngành nông nghiệp Việt Nam xuất khẩu đạt kim ngạch trên 30 tỷ USD. Hiện cả nước có 10 ngành hàng, đạt giá trị xuất khẩu trên dưới 1 tỷ USD. Tuy nhiên, điều trăn trở đối với ngành nông nghiệp là trong 10 ngành hàng trên, không hề có sản phẩm thực phẩm chăn nuôi. Trong khi đó, Việt Nam có một tiềm năng, khả năng sản xuất rất lớn. Bình quân mỗi năm, cả nước có thể sản xuất đạt khoảng 30 triệu con lợn, 300 triệu con gia cầm, nửa triệu con bò sữa… Tức là mỗi năm, Việt Nam đủ sản xuất ra 5,2 triệu tấn thịt, bình quân đạt 60kg thịt/người, bên cạnh mức bình quân 100 quả trứng/người, 10 lít sữa/người, 80 kg cá/người… Tuy nhiên, nhiều năm qua, sản phẩm của người nông dân làm ra vẫn lận đận đầu ra. Lĩnh vực xuất khẩu nông sản lại càng kém cỏi. Đến tìm hiểu mô hình nông nghiệp áp dụng công nghệ cao tự động hóa hoàn toàn của Hùng Nhơn, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tận mắt chứng kiến một doanh nghiệp đầu tư hệ thống thiết bị máy móc hiện đại của Tập đoàn Big Dutchman (Đức) cho 28 trại chăn nuôi, tạo ra hệ thống chuồng trại gà lạnh khép kín, tự động hóa… Nhờ ứng dụng “quản lý trang trại và truy xuất nguồn gốc,” quy trình nuôi trồng được số hóa toàn bộ hoạt động; truy xuất nguồn gốc nhà cung cấp thức ăn, nước uống cho vật nuôi. Riêng với gà thịt nuôi trong 20 trang trại quy mô 20ha cung cấp ra thị trường 3 triệu con/năm; 8 trại nuôi gà đẻ trứng được áp dụng nuôi theo công nghệ nuôi lạnh tiên tiến nhất hiện nay. Sản lượng trứng đạt 320.000 quả trứng/ngày, tương đương 130 triệu quả trứng/năm. Sau khi xem mô hình đầu tư này – “Tư lệnh” ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã đánh giá đây là đơn vị đầu tiên Việt Nam đã làm chủ được công nghệ chăn nuôi hiện đại. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đánh giá cao mô hình chăn nuôi hiệu quả, giảm rủi ro là nhờ hình thành được chuỗi chuỗi giá trị khép kín để đưa sản phẩm xuất khẩu của tập đoàn Hùng Nhơn. Trang trại Hùng Nhơn hiện có 20 trang trại nuôi gà thịt với tổng quy mô 20ha và 8 trại nuôi gà đẻ trứng áp dụng công nghệ nuôi lạnh tiên tiến nhất hiện nay. (Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN) Cụ thể, kết quả liên kết thành chuỗi giá trị sản xuất bằng hợp tác giữa Hùng Nhơn với các đối tác Công ty Trách nhiệm hữu hạn De Heus (Hà Lan) cung cấp thức ăn; Công ty Cổ phần Bel Gà (Bỉ) bán giống; và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek (Đồng Nai) thu mua, giết mổ và xuất khẩu sang Nhật Bản. Chuỗi liên kết này tạo nên một dây chuyền khép kín sản xuất sản phẩm thịt gà sạch đạt tiêu chuẩn chất lượng khắt khe của châu Âu và đáp ứng được thị trường khó tính nhất là Nhật Bản. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhận định: “Nhật Bản là thị trường rất khắt khe nên việc chuỗi liên kết các doanh nghiệp sản xuất và xuất được thịt gà sang Nhật do Tập đoàn Hùng Nhơn đứng đầu, là một thành công mang ý nghĩa chiến lược, mở lối ra cho nông nghiệp Việt Nam. Điều này mở ra một triển vọng, khi thị trường Nhật Bản (khó tính nhất) tiếp cận được thì các nước khác cũng sẽ vào được. Sau thịt gà, thịt lợn, sữa và thịt bò Việt… cũng có thể xuất khẩu”. Đột phá về nông nghiệp Với mục tiêu lấy nông nghiệp công nghệ cao làm kinh tế mũi nhọn phát triển, tỉnh Bình Phước đang thu hút các doanh nghiệp có năng lực đầu tư làm hình mẫu về mô hình phát triển kinh tế. Theo Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước Nguyễn Văn Lợi cho biết tỉnh đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp áp dụng công nghệ cao tạo ra nhiều sản phẩm mang thương hiệu của Bình Phước. “Thủ phủ” tỉnh này vốn nối tiếng các loại nông sản như điều, hồ tiêu, cao su… Theo đó, đến năm 2020 Bình Phước quy hoạch hình thành 4 khu nông nghiệp công nghệ cao tại thị xã Đồng Xoài với diện tích 50ha; huyện Lộc Ninh 500ha; huyện Hớn Quản 500ha và huyện Đồng Phú 50ha. Các quy hoạch này sẽ hình thành cho được mô hình nông nghiệp có hiệu quả chất lượng nhất làm hình mẫu để dẫn dắt, liên kết và làm đầu mối để xây dựng các thương hiệu sản phẩm nông nghiệp chủ lực tại địa phương gắn sản xuất với tiêu thụ xây dựng chuỗi giá trị nhằm gia tăng hiệu quả. Mô hình chăn nuôi tự động theo công nghệ CHLB Đức của doanh nghiệp Hùng Nhơn. (Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN) Cùng với đó, tỉnh đẩy mạnh hợp tác chuyển giao công nghệ trong và ngoài tỉnh, kể cả hợp tác với nước ngoài để hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm có truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đồng thời, liên kết thị trường giữa doanh nghiệp, nhà nông, hợp tác xã kiểu mới, nhà tiêu thụ và ngân hàng để xây dựng thành vùng sản xuất nguyên liệu và tiêu thụ bền vững. Mới đây, tại buổi làm việc với lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bình Phước hồi cuối tháng Tám, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo về phát triển kinh tế tỉnh nhà phải tranh thủ xu hướng phát triển nền nông nghiệp 4.0; trong đó tập trung cho nông nghiệp thông minh, nông nghiệp công nghệ cao đạt hiệu quả kinh tế để tạo đột phá cho Bình Phước. Ngoài ra, Thủ tướng cũng định hướng cho tỉnh Bình Phước cần tập trung phát triển nông nghiệp thông minh và chế biến chuyên sâu các sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó, tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, có sự cạnh tranh khác biệt so với các địa phương khác trong cả nước. Hơn nữa, theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, tỉnh Bình Phước phải phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, tạo hình mẫu của cả nước, góp phần thực hiện thành công mục tiêu xóa đói giảm nghèo, tiến lên thành tỉnh khá tự chủ được nguồn thu ngân sách cho địa …
| Tin mới | admin | 27/09/2018 | | Nghị định số 123/2018/NĐ-CP của Chính phủ : Sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp | Nghị định số 123/2018/NĐ-CP của Chính phủ : Sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực nông …
| Nghị định | admin | 24/09/2018 | | Không để xảy ra ổ dịch lớn, không để dịch tả lợn châu Phi xâm nhập | (Chinhphu.vn) – Đây là nhiệm vụ được Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao cho ngành nông nghiệp tại Hội nghị trực tuyến triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh động vật vụ Thu Đông, triển khai giải pháp ngăn chặn bệnh dịch tả lợn châu Phi xâm nhiễm vào Việt Nam. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng phát biểu tại Hội nghị – Ảnh: VGP/Đoàn Bắc Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng ghi nhận nỗ lực, sự nhanh nhạy, kịp thời của Bộ NN&PTNT trong việc chủ động tham mưu, tổ chức Hội nghị rất quan trọng này để có thể ứng phó hiệu quả trước nguy cơ bệnh dịch tả lợn châu Phi từ nước ngoài xâm nhiễm vào nước ta, cũng như phòng, chống hiệu quả các dịch bệnh trong vụ Thu Đông. “Đây là Hội nghị quan trọng, chính xác, đúng thời điểm. Nếu chúng ta chủ quan, lơ là thì hậu quả khi dịch bệnh xảy ra sẽ rất nặng nề, đe dọa ngành chăn nuôi, tăng trưởng của ngành nông nghiệp, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống của người nông dân”, Phó Thủ tướng nói. Theo Phó Thủ tướng, sản xuất chăn nuôi trong nước đã tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, đáp ứng cơ bản nhu cầu thực phẩm thiết yếu cho tiêu dùng trong nước và một phần cho xuất khẩu. Bước đầu đã hình thành nền tảng cho phát triển công nghiệp ngành chăn nuôi, như công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, chế biến sữa, công nghiệp chuồng trại và chọn tạo giống. Tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi thời gian qua luôn ở mức cao, trung bình từ 5-6%/năm. Tính từ năm 2005 đến nay, sản lượng thịt các loại tăng trên 3 lần (từ 1,6 triệu tấn lên 5,3 triệu tấn), trứng tăng 3,9 lần (từ 3,0 tỷ quả lên 11,8 tỷ quả), sữa tươi tăng 18,6 lần (từ 51.500 tấn lên 960.000 tấn), thức ăn chăn nuôi công nghiệp tăng gần 4,8 lần (từ 4,3 triệu tấn lên 21,0 triệu tấn) đưa Việt Nam trở thành nước đứng vị trí số 1 trong các nước ASEAN về công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi. Hiện nay, tổng đàn lợn của Việt Nam đạt 27 triệu con (đứng thứ 7 trên thế giới), tổng đàn gia cầm khoảng 385 triệu con, bò là 5,6 triệu con, trâu là 2,5 triệu con, dê đạt 2,6 triệu con. Đề cập mục tiêu đến năm 2025 phần lớn sản phẩm chăn nuôi hàng hóa đều được sản xuất theo mô hình trang trại và trong các hộ chăn nuôi chuyên nghiệp với chất lượng tốt, độ an toàn cao và giá thành thấp nhất so với các nước trong khu vực; đến năm 2030, tỉ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đạt trên 40%, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh, “khi quy mô chăn nuôi ngày càng lớn hơn, đồng nghĩa yêu cầu đối với công tác phòng chống dịch bệnh cho vật nuôi cũng phải đặt ra ở mức cao hơn rất nhiều so với trước đây”. Trong thời gian qua, nhiều địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch và bố trí ngân sách địa phương triển khai các hoạt động phòng, chống dịch bệnh động vật. “Nhìn chung tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm đã được kiểm soát tốt hơn, hạn chế được dịch bệnh nguy hiểm xảy ra, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo vệ sản xuất và phát triển chăn nuôi bền vững”, Phó Thủ tướng nói. Nhấn mạnh tình hình dịch bệnh vẫn đang diễn biến rất phức tạp, khó lường, xuất hiện nhiều loại dịch bệnh đặc biệt nguy hiểm, chưa từng có tại Việt Nam như dịch tả lợn châu Phi, đe doạ sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi và đời sống của người nông dân, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu Bộ NN&PTNT, các bộ, ngành Trung ương, các địa phương tuyệt đối không được chủ quan. “Hội nghị hôm nay không chỉ có ý nghĩa chuyên môn thuần tuý, mà còn là dịp để các ngành, các cấp thống nhất quyết tâm, thống nhất hành động để ứng phó kịp thời, hiệu quả với dịch bệnh”, Phó Thủ tướng nói. Không để dịch tả lợn châu Phi xâm nhập Trước diễn biến phức tạp của dịch tả lợn châu Phi, ngày 12/9, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 1194/CĐ-TTg gửi các bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc tập trung triển khai các biện pháp ngăn chặn bệnh dịch này xâm nhiễm vào Việt Nam. Bộ NN&PTNT cũng chủ động đề ra các giải pháp ngăn chặn nguy cơ xâm nhiễm bệnh dịch tả lợn châu Phi vào Việt Nam. Ngành thú ý đã phối hợp với FAO tổ chức tập huấn và cung cấp nguyên vật liệu chẩn đoán xét nghiệm bệnh dịch tả lợn châu Phi. Hiện tại, các phòng thí nghiệm thuộc Cục Thú y đã có đủ nguyên liệu xét nghiệm trên 2.000 mẫu, có kết quả sau 3 giờ. Ảnh: VGP/Đoàn Bắc Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung toàn lực chỉ đạo, triển khai ngay các biện pháp ngăn chặn bệnh dịch tả lợn châu Phi xâm nhiễm vào Việt Nam, theo các nội dung của Công điện số 1194 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, Phó Thủ tướng đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu của thông tin về diễn biến dịch bệnh. “Trước hết phải có thông tin chi tiết, chính xác về diễn biến dịch bệnh. Bộ NN&PTNT chủ động phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, các cơ quan chuyên môn để kịp thời nắm bắt, phản ảnh đầy đủ thông tin về dịch bệnh đến cơ quan chức năng và người dân”, Phó Thủ tướng yêu cầu. Phó Thủ tướng cũng đề nghị nghiêm cấm mọi hình thức vận chuyển, buôn bán, giết mổ, tiêu thụ lợn, sản phẩm của lợn nhập lậu, nghi nhập lậu, không rõ nguồn gốc, kể cả hình thức cho, tặng của các tổ chức, cá nhân và cư dân khu vực biên giới. “Tổ chức giám sát chặt chẽ tại cửa khẩu, đường mòn, lối mở khu vực biên giới đối với người và phương tiện vận chuyển xuất phát từ các nước có bệnh dịch tả lợn châu Phi nhập cảnh vào Việt Nam”, Phó Thủ tướng yêu cầu. Đồng thời, phải triển khai vệ sinh, khử trùng, tiêu độc tại các khu vực chăn nuôi, các chợ, điểm buôn bán, giết mổ lợn và các sản phẩm của lợn; nhanh chóng tổ chức hướng dẫn người chăn nuôi, thú y cơ sở tăng cường theo dõi, giám sát đàn lợn; tổ chức giám sát chặt chẽ nơi buôn bán, giết mổ, trung chuyển lợn; thực hiện vệ sinh, khử trùng tiêu độc sau mỗi buổi họp chợ, mỗi ca giết mổ lợn. Phó Thủ tướng cũng yêu cầu thành lập và phân công trách nhiệm cụ thể cho các đoàn công tác đi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn bệnh dịch tả lợn châu Phi xâm nhiễm vào Việt Nam. Chủ động phòng chống dịch bệnh vụ Thu Đông Đối với công tác phòng chống dịch bệnh động vật vụ Thu Đông năm 2018-2019, Phó Thủ tướng yêu cầu trước hết phải tiếp tục đẩy mạnh công tác chủ động phòng chống dịch bệnh động vật, nhất là các dịch bệnh động vật nguy hiểm, thường xảy ra ở Việt Nam như cúm gia cầm, lở mồm long móng gia súc, tai xanh lợn, bệnh dại động vật. Các địa phương phải sớm rà soát, cập nhật kế hoạch chi tiết để thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, kế hoạch quốc gia của Chính phủ, của Bộ NN&PTNT về chủ động phòng chống dịch bệnh động vật. Phó Thủ tướng cũng yêu cầu tăng cường công tác giám sát chặt địa bàn, nhằm phát hiện sớm và xử lý kịp thời các ổ dịch trên gia súc, gia cầm, không để lây lan ra diện rộng. “Mục tiêu đặt ra là không để xảy ra ổ dịch lớn, không để dịch tả lợn châu Phi xâm nhập vào Việt Nam để bảo vệ sản xuất, đời sống của người dân”, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh. Xuân Tuyến – Đoàn …
| Tin mới | admin | 18/09/2018 | | Vinamilk ký thỏa thuận hợp tác đầu tư vào Nông trường Sông Hậu | Ngày 10/8, tại Hội nghị Xúc tiến đầu tư năm 2018 tại Cần Thơ, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) đã chính thức ký thỏa thuận hợp tác đầu tư vào Nông trường Sông Hậu, tỉnh Cần Thơ. Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2018 với chủ đề “Chia sẻ tiềm năng, cùng nhau phát triển” được tổ chức với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, lãnh đạo các bộ ngành. Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2018 của Cần Thơ nhằm giới thiệu những thành tựu kinh tế-xã hội; tiềm năng, cơ hội đầu tư và các chính sách hỗ trợ đầu tư của thành phố để kêu gọi thu hút các nguồn lực đầu tư, khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của địa phương, với sự tham gia của hơn 500 doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, hội nghị cũng tôn vinh các doanh nghiệp có đóng góp đầu tư tại địa phương và trao quyết định chủ trương đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 10 doanh nghiệp với tổng giá trị gần 8.000 tỷ đồng. Đặc biệt, thành phố Cần Thơ đã ký kết thỏa thuận hợp tác với 19 nhà đầu tư, tổng số vốn gần 85.000 tỷ đồng, đồng thời ký kết với 4 ngân hàng thương mại về tài trợ vốn. Với những điều kiện tự nhiên thuận lợi và sự ủng hộ nhiệt thành của các cấp chính quyền thành phố, tại hội nghị, Vinamilk quyết định chọn Cần Thơ là nơi tập trung các trang trại của mình tại khu vực miền Tây. Thông qua việc hợp tác cùng Nông trường Sông Hậu, Vinamilk đã quy hoạch “Tổ hợp các trang trại bò sữa công nghệ cao” với tổng quy mô lên đến 22.000 con trên diện tích 6.000ha, với tổng vốn đầu tư khoảng 4.000 tỷ đồng. Dự án này của Vinamilk được xây dựng trên mô hình trang trại kết hợp với nhà máy chế biến và hệ thống phân phối sẵn có của Vinamilk tại thành phố Cần Thơ để mang lại chuỗi sản xuất khép kín, chất lượng quốc tế với giá bán cạnh tranh. Trang trại sử dụng các công nghệ mới nhất và được tối ưu hóa các hoạt động với hệ thống robot và hệ thống quản trị hiện đại trên nền tảng mạng máy tính, đáp ứng những đòi hỏi, cạnh tranh trong kỷ nguyên chuyển đổi và đón nhận công nghệ 4.0. Sự kết hợp giữa mô hình sản xuất chăn nuôi tiên tiến của Vinamilk với kinh nghiệm canh tác lâu đời, nguồn thức ăn dồi dào trong khu vực tạo nên sự ổn định và hiệu quả, tận dụng tốt thế mạnh của các bên liên kết. Ngoài ra, dự án cũng tạo hiệu ứng lan tỏa khắp trong khu vực để hình thành một ngành nghề mới: ngành chăn nuôi bò sữa, bò thịt, thủy sản và canh tác thức ăn cho gia súc. Các sản phẩm đầu ra của bà con nông dân được bao tiêu với giá cả hợp lý, ổn định. Tại Cần Thơ, cách đây 18 năm, Vinamilk cũng đã xây dựng nhà máy chế biến sữa tại khu công nghiệp Trà Nóc và có chi nhánh kinh doanh hoạt động hiệu quả trong suốt hơn 10 năm qua với doanh thu 3 năm gần nhất 2015-2016-2017 là gần 17.000 tỷ đồng và nộp ngân sách Nhà nước 1.030 tỷ đồng. Tại hội nghị, ông Trịnh Quốc Dũng – Giám đốc Điều hành Vinamilk phát biểu: “Khi dự án triển khai và đi vào hoạt động đầy đủ, sẽ hình thành một khu vực chuyên canh với những cánh đồng mẫu lớn hàng nghìn ha canh tác thức ăn cho bò sữa và gia súc xung quanh các trang trại, tạo ra hàng nghìn việc làm. Với hạt nhân là các trang trại của Vinamilk hiệu ứng tiếp theo sẽ là sự ra đời của hàng trăm trang trại vệ tinh của bà con nông dân, cùng tham gia vào trong chuỗi liên kết do Vinamilk làm đầu tàu dẫn dắt. Mô hình này sẽ góp phần giữ vững ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống người dân và phát triển tam nông một cách bền vững.” Với vị trí hết sức thuận lợi, nằm giữa trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Cần Thơ là trung tâm kinh tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-kỹ thuật và y tế của khu vực. Trong thời gian qua, bên cạnh việc đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội, Cần Thơ còn tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhằm đưa Thành phố trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn của nhà đầu tư. Trong những năm gần đây, Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Cần Thơ luôn được xếp loại Tốt. Đặc biệt đã tăng lên hạng 10/63 tỉnh thành cả nước trong năm 2017. Bên cạnh đó, Cần Thơ với tốc độ tăng trưởng hàng năm cao còn là trung tâm kinh tế cho các tỉnh miền Tây. Dân số trong khu vực xấp xỉ 18 triệu người, chiếm khoảng 19% dân số cả nước sẽ đảm bảo đầu ra cho sản phẩm trong một thời gian dài. Ngoài ra, việc tiếp cận các thị trường trong khu vực ASEAN bằng đường thủy từ đây cũng hết sức thuận lợi, tạo điều kiện phát triển cho việc kinh doanh, xuất-nhập khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn địa …
| Tin mới | admin | 13/08/2018 | | Mỹ giải ngân gói trợ cấp 12 tỷ USD cho nông dân từ cuối tháng 9 | Nông dân Mỹ có thể bắt dầu nhận được tiền mặt từ kế hoạch trợ cấp 12 tỷ USD của chính phủ sớm nhất từ cuối tháng Chín tới. Thông tin này đã được Bộ trưởng Nông nghiệp Mỹ Sonny Perdue đưa ra ngày 28/7 bên lề hội nghị bộ trưởng nông nghiệp G20 diễn ra tại thủ đô Buenos Aires của Argentina. Nông dân thu hoạch hành tây tại Texas, Mỹ. (Nguồn: AFP/TTXVN) Trả lời phỏng vấn hãng tin Reuters, Bộ trưởng Perdue cho hay kế hoạch trợ cấp nông nghiệp của chính phủ sẽ gồm 11 tỷ USD hỗ trợ những nông dân chịu tác động từ các biện pháp trả đũa thương mại sau khi Washington áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. [Mỹ hỗ trợ 12 tỷ USD cho nông dân bị thiệt hại do trả đũa thương mại] Trong số đó, khoảng 7 đến 8 tỷ USD tiền mặt sẽ được phát trực tiếp, song không phải nông dân nào cũng được trợ cấp. Bộ trưởng Perdue cho biết đây là biện pháp tạm thời, được áp dụng trong thời gian Tổng thống Trump và nhóm đàm phán giải quyết được những tranh chấp thương mại hiện nay. Theo kế hoạch, ngoài việc hỗ trợ tiền mặt cho nông dân trồng đậu nành, cao lương, ngô, lúa mạch, bông, chăn nuôi lợn và sản xuất sản phẩm bơ sữa, chính phủ Mỹ cũng sẽ thu mua trái cây, gạo, quả đậu, thịt bò, lợn và sữa, đồng thời thúc đẩy một chương trình xúc tiến thương mại trị giá 200 triệu USD để phát triển các thị trường mới cho nông sản Mỹ. Kế hoạch mới này được Tổng thống Donald Trump thông báo hôm 24/7 nhằm xoa dịu nông dân và giới lập pháp vùng Trung Tây nước Mỹ cho rằng mình là đối tượng chịu tác động từ các biện pháp trả đũa thương mại của Trung Quốc. Từ ngày 4/9 tới, những nông dân này có thể nộp đơn yêu cầu hỗ trợ, dựa trên sản lượng vụ mùa thực …
| Tin mới | admin | 30/07/2018 | | Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Quản lý ATTP theo xu hướng thế giới | (Chinhphu.vn) – Theo Phó Thủ tướng, công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cần thực hiện điều chỉnh theo quy trình quản lý rủi ro của thế giới, hướng tới phấn đấu đưa về cùng mặt bằng các sản phẩm sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu. Việc này cần được triển khai mạnh ở các khu đô thị lớn, điển hình là TPHCM. Sáng 20/7, tại trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Trưởng ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) chủ trì cuộc họp của Ban Chỉ đạo triển khai nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2018. Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long báo cáo công tác bảo đảm ATTP tại cuộc họp. Ảnh: VGP Vẫn còn đùn đẩy trách nhiệm Báo cáo tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết từ đầu năm cả nước đã tiến hành thanh, kiểm tra được 351.128 cơ sở, phát hiện 68.362 cơ sở vi phạm ATTP, chiếm 19,47%; đã xử lý 15.707 cơ sở (chiếm 22,98% số cơ sở vi phạm), trong đó, phạt tiền 13.017 cơ sở với số tiền hơn 35 tỷ đồng. Ngoài các hình thức xử phạt chính, các đoàn kiểm tra còn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như đình chỉ lưu hành sản phẩm 167 cơ sở; yêu cầu 330 cơ sở có nhãn phải khắc phục; tiêu hủy sản phẩm của 2.822 cơ sở; tiêu hủy 3.121 loại thực phẩm do không bảo đảm an toàn. Các nội dung vi phạm chủ yếu được phát hiện trong quá trình thanh, kiểm tra là: Vi phạm về điều kiện vệ sinh cơ sở, về trang thiết bị dụng cụ; về con người; về ghi nhãn, quảng cáo thực phẩm, thực phẩm không bảo đảm chất lượng; sản xuất kinh doanh thực phẩm không công bố theo quy định… Ngoài thanh, kiểm tra theo kế hoạch, các bộ, ngành đã tiến hành nhiều đợt thanh, kiểm tra đột xuất theo chuyên ngành, phát hiện xử lý nhiều vụ vi phạm pháp luật về ATTP. Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho biết công tác kiểm nghiệm, giám sát ATTP lưu thông trong nước được đặc biệt quan tâm, chỉ đạo. Công tác này đã góp phần khống chế tốt việc sử dụng chất cấm trong chăn nuôi; giảm thiểu lạm dụng hóa chất, kháng sinh trong chăn nuôi; giảm ô nhiễm vi sinh vật trong các sản phẩm chăn nuôi. Riêng chương trình giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản phẩm nguồn gốc thực vật (gạo, hồ tiêu, rau, củ, quả), Cục Bảo vệ thực vật đang triển khai, chưa có kết quả phân tích… Công tác phòng chống ngộ độc và các bệnh lan truyền qua thực phẩm được triển khai quyết liệt, đồng bộ (số vụ, số người mắc, đi viện và số người tử vong đều giảm), bảo đảm ATTP tại các sự kiện, hội nghị. Tính đến 30/6, toàn quốc ghi nhận 53 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 1.301 người mắc, 1.079 người đi viện và 11 trường hợp tử vong. So với cùng kỳ năm 2017, giảm 27 vụ, số mắc giảm 446 người (35,3%), số đi viện giảm 579 người (34,9%), số tử vong giảm 6 người (35,3%)… Tuy nhiên, theo đánh giá của các thành viên Ban Chỉ đạo, ở nhiều địa phương mặc dù tổ chức thanh, kiểm tra nhiều nhưng tỷ lệ xử lý thấp, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, vẫn còn sự đùn đẩy trách nhiệm giữa các ngành có liên quan. Điển hình như việc chậm xử lý dứt điểm một số tồn tại như lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong sản xuất nông sản, thủy sản; sử dụng thuốc, phụ gia thực phẩm trong chế biến thực phẩm, giết mổ không bảo đảm ATTP… Tình hình buôn lậu thực phẩm qua biên giới, đặc biệt là đối với các thực phẩm sinh lời cao như thực phẩm chức năng rất dễ dẫn đến làm giả và buôn lậu. Thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, vi phạm về chất lượng , hết hạn sử dụng… chưa được kiểm soát chặt chẽ, đang có nguy cơ đưa vào tiêu thụ tại các chợ truyền thống, vùng sâu, vùng xa. Tử vong do ngộ độc rượu và độc tố tự nhiên còn chiếm tỷ lệ cao. Tình trạng một số tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm bảo vệ sức khỏe nhưng không đăng ký bản công bố, bán hàng online quảng cáo, tư vấn lừa dối người tiêu dùng vẫn diễn biến phức tạp… Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho rằng thời gian tới cần đẩy mạnh công tác hậu kiểm; tăng cường trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh tập thể; phối hợp tốt với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, coi đó là cánh tay nối dài trong công tác bảo đảm ATTP. Bên cạnh đó, Bộ Y tế sẽ sớm xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP. Bộ cũng đang soạn thảo Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia.. Quang cảnh cuộc họp. Ảnh: VGP Quản lý ATTP phải theo xu hướng thế giới Kết luận buổi làm việc, Phó Thủ tướng đánh giá thời gian qua công tác bảo đảm ATTP đã được triển khai tốt hơn. Công tác thanh, kiểm tra được làm quyết liệt. Tuy nhiên, vẫn chưa đạt yêu cầu bởi tình trạng các mẫu xét nghiệm nhiễm vi sinh không giảm. Khâu chế biến thực phẩm chưa tốt do thói quen của người tiêu dùng. Quy trình thủ tục hướng dẫn các biện pháp bảo đảm ATTP của cả hệ thống còn nhiều vướng mắc. Tình trạng quảng cáo thực phẩm chức năng sai vẫn tràn lan. Ngoài ra, xu hướng các doanh nghiệp đầu tư vào các trang trại theo đúng quy trình có xu hướng giảm, cần tiếp tục khơi dậy trong thời gian tới… Theo Phó Thủ tướng, công tác an toàn vệ sinh thực phẩm cần thực hiện điều chỉnh theo quy trình quản lý rủi ro của thế giới, hướng tới phấn đấu đưa về cùng mặt bằng các sản phẩm sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu. Việc này cần được triển khai mạnh ở các khu đô thị lớn, điển hình là TPHCM. Bên cạnh đó, việc thực hiện mô hình ban quản lý ATTP đã được triển khai tốt ở TPHCM và một số địa bàn ở Hà Nội cần được đánh giá, nhân rộng. Công tác truyền thông gắn với tập huấn đã được thực hiện tốt ở TPHCM nhưng tại một số địa phương còn chưa làm tốt. Các bộ ngành liên quan cần đẩy mạnh việc tập huấn trong triển khai thực hiện nhiệm vụ. Đánh giá cao các phương tiện thông tin đại chúng thời gian qua đã tập trung tuyên truyền tốt công tác bảo đảm ATTP không chỉ qua các chuyên mục mà còn lồng ghép trong các chương trình thời sự, bài viết người tốt việc tốt…, Phó Thủ tướng cho rằng công tác này cần tiếp tục được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, các bộ ngành liên quan có thể tổ chức các cuộc thi gắn với việc tuyên truyền ATTP, phòng chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng… Phó Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ ngành liên quan cần sớm soạn thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/2013/NĐ-CP để các thành viên Chính phủ cho ý kiến, trình Chính phủ để sớm ban hành, trong đó, cần chú ý đến quy trình tiêu hủy; tập trung quản lý, chấn chỉnh các hoạt động bán hàng đa cấp, quảng cáo về thực phẩm chức năng, mỹ phẩm bởi đây là những sản phẩm trực tiếp liên quan đến sức khỏe con người… Đình …
| Tin mới | admin | 23/07/2018 | | Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp | (Chinhphu.vn) – Chiều 11/7, tại trụ sở Văn phòng Chính phủ (VPCP), Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng đã có buổi làm việc với đoàn doanh nghiệp của Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (USABC) do ông Michael Michalak, Phó Chủ tịch cấp cao kiêm Giám đốc Điều hành Khu vực của USABC làm Trưởng đoàn Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng và đoàn doanh nghiệp Hoa Kỳ. Ảnh: VGP Tại buổi làm việc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng nhấn mạnh quyết tâm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ. Hiện Việt Nam đang tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh để tiếp tục là điểm đến đầu tư hấp dẫn cho cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó có nhà đầu tư Hoa Kỳ. Đánh giá cao các nhà đầu tư Hoa Kỳ quan tâm đầu tư vào nhiều lĩnh vực tại Việt Nam, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp có vai trò quan trọng thúc đẩy sản xuất hàng hoá nông nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh nông sản Việt Nam. Vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, như sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ (2017), Nghị định 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài. Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhấn mạnh, Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, liên kết với các doanh nghiệp khác và người dân theo chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ nông sản. Theo Chương trình công tác của Chính phủ, từ nay đến cuối năm 2018, VPCP sẽ tiến hành thẩm tra một số dự án luật và Nghị định do Bộ NN&PTNT được giao chủ trì xây dựng, trình Quốc hội, Chính phủ phê duyệt, trong đó có: Dự án Luật Chăn nuôi, Luật Trồng trọt, Nghị định sửa đổi, bổi sung các Nghị định quy định điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp; Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp; Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuỷ sản (sửa đổi). Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cũng cho biết sáng mai (12/7), Tổ công tác của Thủ tướng sẽ tiến hành kiểm tra 17 bộ trong việc thực hiện các chỉ đạo, nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao liên quan đến công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hoá xuất nhập khẩu và việc đơn giản hoá, cắt giảm điều kiện kinh doanh. Do đó, những kiến nghị của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp Hoa Kỳ nói riêng sẽ được Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP đặt câu hỏi trực tiếp đến các bộ, ngành. Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhấn mạnh luôn sẵn sàng lắng nghe những ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp. Hiện nay, VPCP đã xây dựng Hệ thống tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp (tại địa chỉ doanhnghiep.chinhphu.vn trên Cổng TTĐT Chính phủ), các doanh nghiệp có thể gửi kiến nghị của mình trực tiếp trên hệ thống này hoặc gửi văn bản đến VPCP để xử lý và trả lời các kiến nghị của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, VPCP cũng thường xuyên tổ chức các cuộc họp với các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp để lắng nghe những phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp trong việc thực hiện cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính. Thay mặt các doanh nghiệp Hoa Kỳ, ông Michael Michalak cho biết, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn. Hiện đã có nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư thành công ở Việt Nam. Đoàn doanh nghiệp lần này của USABC có 9 doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, có doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam từ lâu, những cũng có doanh nghiệp mới vào Việt Nam gần đây. Phát biểu tại buổi làm việc, đại diện các doanh nghiệp Hoa Kỳ đều đánh giá cao môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã có sự cải thiện rõ rệt thời gian qua, trong đó có việc đề cao tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong đoàn bày tỏ mong muốn đầu tư hoặc mở rộng đầu tư tại Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất và phân phối thức ăn chăn nuôi, chế biến thực phẩm, sản xuất thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật… Nhân dịp này, các nhà đầu tư Hoa Kỳ bày tỏ cảm ơn Chính phủ và các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất, mạng lưới phân phối tại Việt Nam và cam kết tiếp tục tuân thủ pháp luật Việt Nam, thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội và các hoạt động cộng đồng. Kết luận buổi làm việc, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng đề nghị Bộ NN&PTNT, Viện Kinh tế Nông nghiệp Hữu cơ tiếp tục nghiên cứu, mở rộng hợp tác hơn nữa với các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp Hoa Kỳ nói riêng để xây dựng chiến lược phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp, xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam hội nhập vào các thị trường lớn của thế giới; thu hút thêm nguồn lực đầu tư để nhân rộng mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp đến các địa phương trong cả nước. Đồng thời, đề nghị USABC tiếp tục khuyến kích, hỗ trợ doanh nghiệp Hoa Kỳ sang Việt Nam tìm hiểu các cơ hội đầu tư, kinh doanh. Về một số khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng ghi nhận kiến nghị và sẽ đề nghị Bộ NN&PTNT cũng như các bộ, ngành liên quan có thông báo ý kiến chính thức bằng văn bản để doanh nghiệp biết. Nhiều tiềm năng phát triển ngành rau củ quả chế biến Tại buổi làm việc, ông Lê Thành, Viện trưởng Viện Kinh tế nông nghiệp hữu cơ (trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM) cho biết, hiện nay Việt Nam đang phát triển chuỗi giá trị rau củ quả hướng ra thị trường thế giới. Ông Lê Thành phân tích: Doanh thu của sản phẩm rau quả chế biến trên thế giới được dự đoán sẽ tăng đến 317,1 tỷ USD vào năm 2021. Tại Việt Nam, năm 2017, rau củ quả lập kỷ lục kim ngạch xuất khẩu 3,5 tỷ USD, tăng hơn 43% so với năm 2016. Việt Nam lại có 14 triệu ha diện tích đất nông nghiệp. Đây là cơ hội rất lớn cho ngành rau củ quả Việt Nam tiếp cận ra thị trường thế giới. Ông Lê Thành cũng nhấn mạnh tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm là một trong những vấn đề quan trọng nhất trên sân chơi thương mại thế giới. Hiện Viện Kiện Kinh tế nông nghiệp hữu cơ đang kết hơp với các cơ quan chức năng phát triển ngành rau củ quả theo chuỗi giá trị. “Nông nghiệp công nghệ cao là một phương thức sản xuất chứ không phải mô hình kinh tế, nó phải gắn liền với chuỗi giá trị mới gọi là nông nghiệp công nghệ cao. Đơn cử như Lavifood đầu tư nhà máy ở Tây Ninh trị giá 75 triệu USD theo LEED-Silver do US. Green Building Council (USGBC) cấp dựa trên những tiêu chí thân thiện với môi trường; sở hữu toàn chuỗi giá trị: nhà máy chế biến cộng với nhà máy phân bón, nhà máy vật tư nông nghiệp, nhà máy logistic, và hàng chục nghìn nông dân tham gia”, ông Thành phân tích. Hoàng …
| Tin mới | admin | 13/07/2018 | | Chiến tranh thương mại Mỹ tác động gì tới nông sản Việt? | Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung đã chính thức bắt đầu. XNK nông sản Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng ra sao bởi cuộc chiến tranh này? XK chưa có mấy cơ hội Theo Bộ Công thương, trong danh sách mới nhất các mặt hàng mà Mỹ áp đặt mức thuế 25% đối với 34 tỷ USD giá trị NK từ Trung Quốc, chưa có các mặt hàng nông nghiệp. Cụ thể: máy bơm/tuabin (4,3 tỷ USD); thiết bị điện (2,9 tỷ USD); thiết bị sản xuất (2,6 tỷ USD); thiết bị văn phòng (2,6 tỷ USD); đồ điện (2,5 tỷ USD); xe máy (2,2 tỷ USD); máy móc (2,2 tỷ USD); máy móc vận chuyển đất (2,1 tỷ USD); thiết bị radio – tivi (2 tỷ USD); dụng cụ (1,8 tỷ USD); xe gắn máy (1,7 tỷ USD); thiết bị y tế (1,4 tỷ USD); kính hiển vi (1,3 tỷ USD); dụng cụ máy móc (0,9 tỷ USD); thiết bị in ấn (0,8 tỷ USD); máy bay và phụ tùng (0,5 tỷ USD); động cơ (0,3 tỷ USD); thiết bị đường ray (0,2 tỷ USD)… Hạt điều Việt Nam có khả năng được Trung Quốc tăng mua để thay hạt vỏ cứng NK từ Mỹ Trong danh mục các mặt hàng nông sản NK từ Mỹ mà Trung Quốc áp thuế trả đũa, có một số mặt hàng nông sản. Trong đó, mặt hàng có giá trị NK lớn nhất từ Mỹ (giá trị NK năm 2016) là đậu nành (13,764 tỷ USD); thịt lợn (403 triệu USD); trái cây (356 triệu USD); hạt vỏ cứng (318 triệu USD) và thực vật (15 triệu USD). Còn lại là các mặt hàng công nghiệp, y tế… như máy bay (12,584 tỷ USD), ô tô (11,876 tỷ USD), linh kiện máy tính (8,696 tỷ USD), động cơ máy bay (3,025 tỷ USD), vàng (2,384 tỷ USD), dụng cụ y tế (2,32 tỷ USD), linh kiện sản xuất máy móc (2,274 tỷ USD), giấy phế liệu (2,263 tỷ USD), dụng cụ hóa học (1,984 tỷ USD)… Như vậy, có thể thấy, trước mắt, việc XK nông sản Việt Nam sang Mỹ gần như chưa có tác động gì từ cuộc chiến tranh thương mại này. Tuy nhiên, theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế, nếu cuộc chiến tranh thương mại này kéo dài hơn 1 năm, có thể sẽ khiến cho nền kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại. Qua đó, ảnh hưởng tới sức mua của người tiêu dùng Mỹ và tác động ít nhiều tới hàng NK vào nước này, trong đó có nông sản. Mặt khác, việc Mỹ áp thuế trả đũa với 34 tỷ USD giá trị NK từ Trung Quốc mới chỉ là khởi đầu. Theo những tuyên bố của TT Donald Trump, nhiều khả năng Mỹ sẽ nâng giá trị hàng hóa NK từ Trung Quốc bị áp thuế trả đũa trong thời gian tới. Khi ấy có thể sẽ có những nhóm hàng nông sản của Trung Quốc XK sang Mỹ bị đưa vào danh sách này. Với thị trường Trung Quốc, tuy nước này áp thuế trả đũa với một số nhóm mặt hàng nông sản quan trọng NK từ Mỹ, nhưng đa số đều không phải là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Đậu nành thì Việt Nam vẫn đang rất thiếu cho nhu cầu trong nước và đang phải NK khá nhiều. Thịt lợn Việt Nam vừa chưa cạnh tranh được về giá thành, chất lượng với thịt lợn của các nước khác, lại chưa được cấp phép XK sang Trung Quốc. Trái cây mà Trung Quốc NK từ Mỹ là các loại trái cây ôn đới như anh đào, táo…, đều là những sản phẩm mà Việt Nam không có để XK. Còn trong nhóm hạt vỏ cứng mà Trung Quốc áp thuế trả đũa với Mỹ, Việt Nam có một sản phẩm chủ lực, đang XK mạnh sang cả Trung Quốc và Mỹ là hạt điều. Trong 5 tháng đầu năm nay, Mỹ là thị trường lớn nhất của hạt điều Việt Nam với lượng NK 53.935 tấn, trị giá 532,657 triệu USD; Trung Quốc đứng thứ 3 với 15.772 tấn, trị giá 152,893 triệu USD. Hạt điều NK vào Mỹ và Trung Quốc hầu như phục vụ cho tiêu dùng tại những thị trường này. Trung Quốc lại ở ngay sát nước XK hạt điều lớn nhất thế giới là Việt Nam. Vì thế, trong nhóm mặt hàng hạt vỏ cứng mà Mỹ đang XK sang Trung Quốc, gần như không có mặt hàng hạt điều. Ông Đặng Hoàng Giang, PCT Hiệp hội Điều Việt Nam, cho biết, trong nhóm hạt vỏ cứng, Mỹ XK chủ yếu các loại hạt như hạnh nhân, óc chó… Nhóm hạt vỏ cứng có đặc điểm là có thể thay thế cho nhau. Do đó, nếu hạnh nhân, óc chó… của Mỹ nếu khó vào Trung Quốc, hay vào được nhưng giá bán cao do bị áp thuế trả đũa, các nhà NK Trung Quốc sẽ có thể tăng mua hạt điều để thay thế. Đặt trường hợp hạt hạnh nhân, óc chó… của Mỹ do khó cạnh tranh được trên thị trường Trung Quốc, buộc phải tăng tiêu thụ trên thị trường nội địa, thì có ảnh hưởng gì tới XK hạt điều Việt Nam sang Mỹ? Ông Giang cho rằng quyết định cuối cùng vẫn thuộc người tiêu dùng Mỹ. Hiện nay, giá hạt điều đang rất cạnh tranh so với các loại hạt vỏ cứng khác. Mặt khác, nhiều sản phẩm từ hạt điều như sữa điều, bơ điều, snack điều… đã được người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng. Do đó, nhiều khả năng việc tiêu thụ hạt điều trên thị trường Mỹ cũng như NK hạt điều vào Mỹ vẫn diễn ra bình thường trong thời gian tới. Thịt lợn NK sẽ vào nhiều? Ở thị trường nội địa, một số mặt hàng nông sản Việt Nam, nhất là thịt lợn nhiều khả năng sẽ bị ảnh hưởng bởi hàng NK từ Mỹ. Do bị Trung Quốc áp thuế bổ sung tới 25%, khiến cho thuế NK thịt lợn Mỹ vào Trung Quốc lên tới 71%. Với mức thuế đó, thịt lợn Mỹ gần như không còn cơ hội thâm nhập vào Trung Quốc. Giá thịt lợn cao ở Việt Nam là cơ hội để thịt lợn Mỹ tràn vào Bên cạnh đó, cũng nhằm trả đũa chính sách thuế quan của Mỹ, Mexico đã áp thuế 20% đối với thịt chân và thịt vai lợn NK từ Mỹ. 2 sản phẩm này chiếm tới 90% tổng giá trị NK thịt lợn hàng năm của Mexico (khoảng 1,07 tỷ USD năm 2017). Cần lưu ý rằng Mexico chính là thị trường XK lớn nhất của thịt lợn Mỹ. Do đó, với việc bị trả đũa thuế quan tại Mexico và Trung Quốc, một lượng không nhỏ thịt lợn Mỹ sẽ phải chuyển hướng vào những thị trường khác, trong đó có Việt Nam. Theo một số chuyên gia ngành chăn nuôi, hiện tại, giá lợn hơi Việt Nam đang ở mức từ 48.000-50.000 đ/kg, thuộc vào hàng cao nhất thế giới. Trong khi đó, giá thịt lợn Mỹ NK vào Việt Nam chỉ vào khoảng hơn 1,5 USD/kg, tương đương với khoảng 35.000 đồng. Đây là cơ hội tốt để thịt lợn ngoại, nhất là thịt lợn Mỹ tràn vào Việt Nam. Không chỉ phải cạnh tranh gay gắt hơn với thịt lợn NK từ Mỹ, với giá lợn hơi đang ở mức cao hiện nay, thịt lợn Việt Nam sẽ phải đối mặt với lợn Trung Quốc nhập lậu qua biên giới. Theo Bộ Công thương, vào cuối tuần qua, giá lợn hơi ở Trung Quốc ở mức bình quân 11,72 NDT/kg, tương đương với 40.637 VNĐ/kg. Giá lợn hơi cụ thể tại một số tỉnh ở Trung Quốc vào ngày 8/7 như sau: Hồ Nam 10,6-12,6 NDT/kg; Trùng Khánh 11-12,2 NDT/kg; Giang Tây 11,6-13,6 NDT/kg; Vân Nam 10-12 NDT/kg; Quảng Đông 11,9-13,1 NDT/kg; Quảng Tây 10,5-12,8 NDT/kg (1 NDT = 3.467,35 VNĐ). Như vậy, giá lợn hơi ở Trung Quốc đang thấp hơn khá nhiều so với giá lợn hơi ở Việt Nam. Trung Quốc lại đang có sản lượng thịt lợn khá dồi dào. Báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho hay, trong năm nay, dự kiến sản lượng thịt lợn Trung Quốc vào khoảng gần 54,65 triệu tấn, chiếm tới 48,2% sản lượng thịt lợn toàn cầu và Trung Quốc là nước sản xuất thịt lợn lớn nhất thế giới. Với sản lượng lớn như trên và giá đang rẻ hơn nhiều so với giá lợn ở Việt Nam, lợn Trung Quốc được nhập lậu vào Việt Nam qua đường biên giới là khó tránh khỏi. THANH …
| Tin mới | admin | 11/07/2018 | | Khởi công Nhà máy giết mổ – chế biến gia cầm XK hiện đại nhất Việt Nam | Chiều 6/7, tại xã Hoằng Quỳ (Hoằng Hoá, Thanh Hóa), Công ty CP thực phẩm Viet Avis đã tổ chức Lễ khởi công xây dựng Nhà máy giết mổ – chế biến gia cầm xuất khẩu áp dụng dây chuyền công nghệ hiện đại nhất Việt Nam. Lễ khởi công xây dựng Nhà máy giết mổ – chế biến gia cầm xuất khẩu Tham dự có ông Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT; ông Dr Nagy Istvan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Hungary. Cty cổ phần thực phẩm Viet Avis được thành lập bởi sự hợp tác đầu tư giữa Cty CP nông sản Phú Gia và Tập đoàn Master Good của Nước Cộng hòa Hungary. Dự án Nhà máy giết mổ – chế biến gia cầm xuất khẩu triển khai trên diện tích gần 6ha tại địa bàn xã Hoằng Quỳ với hệ thống thiết bị, công nghệ tự động tiên tiến hàng đầu. Theo kế hoạch, công suất giết mổ giai đoạn 1 đạt 2.500 con/giờ gắn với chuỗi liên kết chăn nuôi gà công nghệ cao 4A, sản phẩm làm ra cung cấp cho các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và khu vực Châu Âu cũng như thị trường nội địa. Thay mặt lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa, Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Quyền cho biết, dự án là kết quả từ quá trình chuẩn bị và nghiên cứu kỹ lưỡng của nhà đầu tư, sự quan tâm, giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương; các Bộ, ngành của nước bạn Hungary; sự cố gắng, nỗ lực của các ngành, các cấp trong tỉnh và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Dự án Nhà máy giết mổ – chế biến gia cầm xuất khẩu triển khai trên diện tích gần 6ha tại địa bàn xã Hoằng Quỳ.. Tham dự có ông Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT; ông Dr Nagy Istvan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Hungary. VIỆT KHÁNHCty cổ phần thực phẩm Viet Avis được thành lập bởi sự hợp tác đầu tư giữa Cty CP nông sản Phú Gia và Tập đoàn Master Good của Nước Cộng hòa Hungary. Dự án Nhà máy giết mổ – chế biến gia cầm xuất khẩu triển khai trên diện tích gần 6ha tại địa bàn xã Hoằng Quỳ với hệ thống thiết bị, công nghệ tự động tiên tiến hàng đầu. Theo kế hoạch, công suất giết mổ giai đoạn 1 đạt 2.500 con/giờ gắn với chuỗi liên kết chăn nuôi gà công nghệ cao 4A, sản phẩm làm ra cung cấp cho các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và khu vực Châu Âu cũng như thị trường nội địa. Thay mặt lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa, Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Quyền cho biết, dự án là kết quả từ quá trình chuẩn bị và nghiên cứu kỹ lưỡng của nhà đầu tư, sự quan tâm, giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương; các Bộ, ngành của nước bạn Hungary; sự cố gắng, nỗ lực của các ngành, các cấp trong tỉnh và sự đồng tình, ủng hộ của nhân …
| Tin mới | admin | 09/07/2018 | | Nắng nóng ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi | (Chinhphu.vn) – Lãnh đạo các đơn vị chức năng của Bộ NN&PTNT có những khuyến cáo để bà con nông dân lưu ý nhằm bảo đảm hoạt động sản xuất trong điều kiện trời nắng nóng, khô hạn Đối với chuồng kín cần cải tạo cho thông thoáng hoặc đặt quạt hút gió để tăng cường đối lưu không khí, giảm nhiệt độ và khí độc trong chuồng Theo ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), trong giai đoạn này, nắng nóng không ảnh hưởng nhiều tới lĩnh vực trồng trọt. Trời nắng nóng, bà con nên tranh thủ làm đất, vì rơm rạ đang phân hủy nhanh. Thứ hai là giữ nước mặt ruộng. Thứ ba là không nên bón nhiều đạm khi trời nắng nóng, vì có thể làm chết cây mạ. Khi gieo mạ không nên bón thúc đạm, mạ dễ bị chột. Đối với các loại cây ăn quả, ông Định cho biết, cây vải đã vào cuối mùa thu hoạch, sau đó bà con để cây nghỉ ngơi và tiến hành chăm sóc cây cho vụ năm sau. Đối với cây nhãn, đang trong giai đoạn nuôi quả, nắng nóng chỉ ảnh hưởng tới việc vận chuyển và tiêu thụ nhãn của bà con. Bên cạnh đó, bà còn cần tưới nước bổ sung cho nhãn vào buổi tối và sáng sớm. Theo ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), nắng nóng như hiện nay sẽ có ảnh hưởng nhất định tới ngành chăn nuôi, ảnh hưởng tới sinh lý của vật nuôi. Tuy nhiên, ảnh hưởng nhiều nhất có lẽ là các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn nuôi trâu, bò theo kiểu chăn thả. Đối với lợn, ông Chinh cho biết, hầu hết các trang trại lớn đều có hệ thống làm mát. Do vậy, không ảnh hưởng nhiều tới chăn nuôi lợn. Tuy nhiên, đối với các hộ chăn nuôi nhỏ, chưa có hệ thống làm mát cần tăng cường quạt, hệ thống phun sương. Đối với trâu bò chăn thả, cần bổ sung nước và muối để tăng cường sức đề kháng. Lường trước được diễn biến của thời tiết, Cục Chăn nuôi đã có công văn gửi các tỉnh, thành phố, địa phương để chủ động ứng phó với nắng nóng cho gia súc, gia cầm. Theo đó, các địa phương tập trung nạo vét kênh mương, khơi thông dòng chảy, đào ao tích nước cho gia súc. Hướng dẫn người dân chăm sóc vật nuôi, gia súc, gia cầm… trong điều kiện khô hạn, tiết kiệm nước, chuẩn bị thức ăn, nước uống, tận dụng mọi nguồn nước dùng để làm nước uống cho gia súc, gia cầm Chủ động xây dựng kế hoạch dự trữ và chế biến các loại phụ phẩm sau khi thu hoạch (đặc biệt là rơm khô) làm thức ăn cho gia súc, gia cầm trước và trong mùa khô hạn. Theo ông Chinh, những ngày khô hạn, thực hiện chế độ chuyển bữa ăn, thức ăn tinh, thức ăn hỗn hợp sang cho ăn vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Tăng cường khẩu phần ăn xanh như rau cỏ tươi, củ, quả và các loại vitamin… tăng cường đạm, giảm tinh bột, mỡ, đường trong khẩu phần đối với từng loại gia súc, gia cầm. Đảm bảo thường xuyên có đủ nước cho gia súc, gia cầm uống, không làm ẩm ướt nền chuồng và khống chế lượng nước uống cho đàn gia súc, gia cầm vừa đủ để tránh lãng phí. Lắp các thiết bị van nước tự động để luôn cấp đủ nước sạch cho gia súc, gia cầm uống nếu có điều kiện. Đặc biệt, theo Cục Chăn nuôi cần tăng cường vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh tẩy uế chuồng trại và các dụng cụ chăn nuôi. Tiêm đầy đủ các loại vaccine cho gia súc, gia cầm để tăng cường khả năng miễn dịch. Định kỳ tẩy giun, sán cho vật nuôi. Định kỳ phun thuốc sát trùng để diệt ve, mòng, ruồi, muỗi, bọ mạt… là những tác nhân truyền và gây bệnh. Đồng thời, phát hiện sớm các loại gia súc, gia cầm bị ốm, bị bệnh để cách ly, điều trị, xử lý kịp thời tránh để bệnh lây lan rộng, cần quan tâm nhất là các bệnh đường ruột và tiêu hóa bằng cách chủ động cho gia súc ăn, uống thuốc ở liều phòng bệnh. Sau những đợt khô hạn kéo dài, đàn gia súc thường mệt mỏi, tăng tỉ lệ mắc bệnh, giảm lượng sữa, trứng… Vì vậy cần có kế hoạch bổ sung khoáng, vitamin và dinh dưỡng theo tiêu chuẩn. Đỗ …
| Tin mới | admin | 04/07/2018 | | Hà Nội phòng chống nắng nóng đảm bảo sản xuất nông nghiệp | Nhiệt độ ngoài trời tại Hà Nội hiện lên tới 50 độ C, thậm chí nhiều nơi tới 53-55 độ C làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Thông thường, sau những đợt nắng nóng thời tiết thường biến đổi khó lường, xuất hiện mưa, giông bão, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe gia súc, gia cầm, nguy cơ bùng phát dịch bệnh rất cao. Trước thực tế này, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đưa ra các giải pháp kỹ thuật hướng dẫn người nuôi chủ động phòng chống nắng nóng đối với đàn gia súc gia cầm. Tắm cho đàn trâu. (Ảnh minh họa. Quốc Khánh/TTXVN) Để phòng chống nắng nóng trên diện rộng, người nuôi chú ý tới vấn đề nhập giống tăng đàn và vận chuyển gia súc gia cầm, nên nhập giống ở những cơ sở sản xuất giống có uy tín, đủ điều kiện, không nhập ở những nơi đang có dịch bệnh. Các cơ sở cần kiểm tra, xem xét kỹ về chất lượng giống cũng như tiêm phòng đủ thời gian miễn dịch mới vận chuyển đi. Trâu bò, lợn nên đưa vào nơi mát để nghỉ ngơi không nên dùng nước tắm ngay để tránh cho trâu bò, lợn bị cảm do thay đổi nhiệt độ đột ngột. [Phòng ngừa và xử lý các vấn đề sức khỏe ở trẻ em khi nắng nóng] Bên cạnh đó, nông dân chú ý vệ sinh chuồng trại. Hệ thống làm mát hàng ngày phải đảm bảo vệ sinh cơ giới sạch sẽ từ trong ra ngoài xung quanh khu vực chuồng nuôi, khu chăn thả, sân vận động với trâu bò. Người nuôi thực hiện phun thuốc sát trùng. Diện tích phun thuốc sát trùng nên phun trên diện rộng cả trong và ngoài chuồng nuôi (một số loại thuốc sát trùng có chất lượng tốt, an toàn khi sử dụng như Vikol, Haniodin, Halamit…). Ông Chu Phú Mỹ, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, cho biết Sở yêu cầu các phòng, ban, đơn vị trực thuộc, phối hợp với các địa phương, chỉ đạo nông dân làm tốt thu hoạch cây trồng vụ xuân, xây dựng và triển khai kế hoạch sản xuất vụ mùa 2018, vụ Đông 2018-2019; rà soát các giống lúa có năng suất, chất lượng cao để khuyến cáo nông dân. Thời tiết nắng nóng dễ xảy ra cháy rừng làm tốt công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng, phòng chống cháy rừng; quản lý chặt chẽ các sản phẩm lâm sản và động vật quý hiếm trên địa bàn theo đúng quy định… Ước tính, hiện Hà Nội có 25.400 con trâu, 130.250 con bò; trong đó, bò sữa 14.650 con, đàn lợn gần 2 triệu …
| Tin mới | admin | 04/07/2018 | | Ngành chăn nuôi với hướng đi mới | (Chinhphu.vn) – Các sản phẩm chăn nuôi sản xuất theo chuỗi và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng được các điều kiện về an toàn thực phẩm và các điều kiện về kiểm dịch, sẽ được định hướng để xuất khẩu (XK). Cùng với đó, chăn nuôi nông hộ sẽ tổ chức thành các tổ hợp tác, hợp tác xã, hướng dẫn họ để kết nối với các doanh nghiệp (DN), các tập đoàn lớn để đáp ứng được các yêu cầu về an toàn thực phẩm. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám – Ảnh: VGP/Đỗ Hương Sau những biến động của lĩnh vực chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn có nhiều thăng trầm thời gian qua, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám đã có những chia sẻ về hướng phát triển mới của lĩnh vực này. Thưa ông, mới đây Việt Nam đã chính thức xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Myanmar. Đây là dấu mốc của sự phát triển trong chăn nuôi nói chung và nuôi lợn nói riêng. Vậy để mở rộng hơn nữa việc XK này thì ngành chăn nuôi được định hướng như thế nào thời gian tới? Thứ trưởng Vũ Văn Tám: Trước hết, xuất phát từ chủ trương của Chính phủ trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Mục tiêu là tìm kiếm những sản phẩm có lợi thế không chỉ chỉ sản xuất cung ứng trong nước mà quan trọng là hướng đến xuất khẩu. Muốn xuất khẩu thì chúng ta phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu, đặc biệt là các rào cản kỹ thuật, an toàn thực phẩm và kiểm dịch động vật. Đối với các sản phẩm chăn nuôi có lợi thế của Việt Nam như lợn, gia cầm chúng ta vẫn chưa XK nhiều, vì vậy, vừa qua Chính phủ đã có nhiều cơ chế chính sách, đặc biệt là khuyến khích các tập đoàn lớn, các DN đầu tư vào lĩnh vực này. Định hướng XK các sản phẩm chăn nuôi sẽ tác động đến sản xuất của lĩnh vực này như thế nào, thưa ông? Thứ trưởng Vũ Văn Tám: Không chỉ đối với trong nước mà đối với XK, chúng ta tổ chức lại sản xuất nông sản theo chuỗi và gắn với thị trường, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm. Các DN đầu chuỗi sẽ tiếp cận với thị trường chế biến XK. Việc sản xuất sẽ căn cứ vào các hợp đồng đã ký với các nhà nhập khẩu, không d dể xảy ra tình trạng ế thừa. Còn đối với những người chăn nuôi nhỏ lẻ, các hộ dân thì sẽ tập hợp lại thành các tổ hợp tác, hợp tác xã, hướng dẫn họ để kết nối với các DN, các tập đoàn lớn để đáp ứng được các yêu cầu về an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật có truy xuất nguồn gốc. Hiện nay, thông qua dự án Lifsap, Ngân hàng Thế giới đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi, chúng ta cũng đã hình thành lên các chuỗi như vậy và tập trung chủ yếu vào các nông hộ. Như vậy, ngành chăn nuôi đi bằng hai chân và có các cơ chế chính sách khuyến khích các tập đoàn lớn kể cả nước ngoài và trong nước đầu tư vào chăn nuôi, từ đó sẽ hình thành các chuỗi, các tập đoàn rất lớn như Masan, Phú Gia (Thanh Hóa), Mavin, CP… Tập đoàn Mavin được Bộ NN&PTNT chứng nhận là DN Nông nghiệp Công nghệ cao – Ảnh: VGP/Đỗ Hương Thế mạnh trong lĩnh vực chăn nuôi của Việt Nam được xác định là gì thưa ông? Thứ trưởng Vũ Văn Tám: Chăn nuôi Việt Nam xác định con lợn vẫn là một lợi thế, thứ hai là gia cầm, đặc biệt là thủy cầm. Hiện nay, trứng vịt của Việt Nam ngon nhất Đông Nam Á và thế giới. Đối với các sản phẩm gia cầm, hiện nay có gà công nghiệp hiện chúng ta có các tập đoàn lớn bắt tay vào chăn nuôi. Cùng với đó, ngành nông nghiệp cũng đang khuyến khích phát triển gà lông màu và các giống bản địa khác theo hướng sản xuất hữu cơ như gà đồi Yên Thế, các vật nuôi khác có giá trị kinh tế cao. Cần phải khuyến khích phát triển các giống bản địa và khuyến khích chăn nuôi theo hướng hữu cơ, đảm bảo an toàn thực phẩm, hướng đến phát triển các đặc sản. Sau việc công bố chính thức xuất khẩu chính ngạch thịt lợn sang Myanmar, kế hoạch mở rộng thị trường cho XK thịt lợn thời gian tới sẽ được hướng tới như thế nào, thưa ông? Thứ trưởng Vũ Văn Tám: Trước hết sẽ tập trung vào việc nhà nước đồng hành hỗ trợ các DN lớn, các tập đoàn lớn để họ tìm kiếm thị trường đồng thời trên cơ sở yêu cầu của các tập đoàn để xây dựng các vùng nguyên liệu. DN Mavin là 1 ví dụ, tới đây thông qua đề xuất của các DN, Bộ sẽ thành lập 1 tổ công tác do Cục trưởng Cục Thú y làm tổ trưởng và các đơn vị liên quan để gắn bó và hỗ trợ các DN xây dựng vùng nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc, hợp tác với Chi cục Thú y của các nước nhập khẩu để có thể thống nhất được các tiêu chuẩn, thúc đẩy việc XK. Tới đây, Tổ chức Thú y thế giới (OIE) sẽ cử chuyên gia sang giúp hỗ trợ các DN xây dựng các vùng cơ sở an toàn dịch bệnh. Cùng với đó sẽ xem xép cấp các chứng chỉ của OIE chứng nhận các vùng cơ sở an toàn dịch bệnh cũng như toàn bộ chuỗi, đây là cơ sở để chúng ta có thể mở rộng XK. Thứ hai, chúng ta sẽ phối hợp cùng OIE để khống chế, kiểm soát dịch hại trên vật nuôi trong đó có cúm gia cầm, tai xanh, đặc biệt là lở mồm long móng. Xin cảm ơn những chia sẻ của Thứ trưởng! Đỗ Hương (Thực …
| Tin mới | admin | 02/07/2018 | | ‘Tìm những dự án sản xuất công nghệ cao hiệu quả thực sự rất khó’ | Chương trình tín dụng 100.000 tỷ đồng dành cho nông nghiệp công nghệ cao từ hồi đầu năm 2017 được thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Mặc dù trong thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức nhiều cuộc họp với các ngân hàng thương mại có dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn lớn để bàn về việc triển khai chương trình nhưng đến nay con số cho vay ra vẫn còn rất khiêm tốn. Chăn nuôi thỏ công nghệ cao tại Yên Bái để cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy công nghệ sinh học chế dược phẩm từ thỏ tại Quế Võ, Bắc Ninh. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN) Phóng viên VietnamPlus đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế Ngân hàng Nhà nước để hiểu rõ hơn về quá trình triển khai của chương trình này. – Xin ông cho biết một số kết quả cho vay nông nghiệp công nghệ cao đến thời điểm hiện nay? Ông Nguyễn Quốc Hùng: Tính đến cuối tháng Năm, dư nợ cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch đạt hơn 38.700 tỷ đồng, với hơn 18.000 khách hàng đang có dư nợ (hơn 17.800 khách hàng cá nhân và 272 khách hàng doanh nghiệp). [100.000 tỷ đồng vốn công nghệ cao: ‘Đóng băng’ dưới tầng lớp quy định] Nguồn vốn này chủ yếu cho vay đối với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chiếm khoảng 89%; cho vay kỳ hạn dài chiếm khoảng 55% dư nợ cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phù hợp với thực tế đầu tư lĩnh vực này cần vốn lớn và đầu tư dài hạn. Lãi suất cho vay ngắn hạn khoảng 5,3-6,5%/năm, cho vay trung dài hạn khoảng 8,5-10%/năm. – Có vẻ như tốc độ cho vay vẫn diễn ra chậm thưa ông? Ông Nguyễn Quốc Hùng: Đúng là như vậy, hiện nay nguồn tín dụng cho vay công nghệ cao luôn sẵn sàng nhưng lại chưa có nhiều dự án phù hợp để cho vay. Những dự án lớn, làm ăn hiệu quả như TH True milk, Vinamilk, Công ty trứng gà sạch Ba Huân… hoặc một số hộ trồng hoa ở Lâm Đồng ngân hàng muốn cho những doanh nghiệp này vay nhưng họ lại không có nhu cầu nhiều về vốn ngân hàng mà chủ yếu dùng vốn tự có của mình. Cũng có một số công ty chuyên về chăn nuôi như bò, lợn… đến đặt vấn đề với ngân hàng cho vay nhưng phương án đầu tư chăn nuôi theo hình thức ứng dụng công nghệ cao nhưng đầu ra sản phẩm lại không theo con đường chính ngạch mà lại là tiểu ngạch khá bấp bênh nên ngân hàng không dám mạo hiểm cho vay. Nếu như xuất khẩu sang các nước châu Âu, nước Mỹ hay Nhật Bản thì ngân hàng hoàn toàn yên tâm và sẵn sàng cho vay. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang rà soát đánh giá dự án đầu tư công nghệ cao trong nông nghiệp xem tiến độ triển khai đến đâu, hiệu quả như thế nào. Nếu hiệu quả thì tiếp tục được cho vay. Ứng dụng công nghệ cao giúp tăng năng suất lao động hiệu quả cao chẳng có lý gì ngân hàng không đầu tư. Bản thân các ngân hàng rất muốn tìm những doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp để cho vay. Nhưng giờ tìm doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả quả thực là rất khó. Nhất là những dự án mới càng phải thận trọng. Vấn đề ở đây là ngân hàng và doanh nghiệp cùng đồng hành, chia sẻ. Đồng vốn ngân hàng cho vay ra phải thu về cả gốc và lãi tiếp tục quay vòng vốn cho vay, cũng như sản phẩm doanh nghiệp làm ra phải tiêu thụ được mới đảm bảo có lợi nhuận bù đắp đủ chi phí để tiếp tục đầu tư tái sản xuất. – Điều đó chứng tỏ vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai chương trình này đúng không thưa ông? Ông Nguyễn Quốc Hùng: Đúng là còn nhiều vướng mắc như: Số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế. Cả nước hiện mới có 40 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, 3 khu, 4 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, các tiêu chí xác định dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chưa rõ ràng, không phù hợp, gây khó khăn cho ngân hàng xác định đối tượng thụ hưởng chính sách. Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự tham gia sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao một cách bài bản, chưa có phương án sản xuất, trả nợ vay khả thi, thị trường tiêu thụ không ổn định dẫn đến chưa đảm bảo khả năng hoàn vốn vay ngân hàng. Đặc biệt, người dân chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất nông nghiệp để làm thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm thế chấp vay vốn ngân hàng mặc dù tại Thông tư 33/2017/TT-BTNMT đã giao cho Ủy ban Nhân dân các tỉnh triển khai thực hiện. – Vậy ông có kiến nghị gì với các Bộ ngành để chương trình này được triển khai nhanh và hiệu quả hơn không? Ông Nguyễn Quốc Hùng: Ngân hàng Nhà nước đề nghị Chính phủ sớm hoàn tất thủ tục để ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 55/2015/NĐ-CP, trong đó có một số quy định giúp tăng khả năng tiếp cận vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Còn Bộ Tài nguyên và Môi trường, các địa phương cần báo cáo đánh giá tình hình triển khai Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ đó có các giải pháp để tháo gỡ khó khăn về cấp giấy chứng nhận tài sản hình thành trên đất nông nghiệp cho người dân sản xuất nông nghiệp công nghệ cao để người dân có thể làm thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, thế chấp vay vốn. – Xin cảm ơn …
| Tin mới | admin | 29/06/2018 | | Sóc Trăng xúc tiến đầu tư gắn với phát động khởi nghiệp | (Chinhphu.vn) – Ban Kinh tế Trung ương cho biết, Hội nghị Xúc tiến đầu tư tỉnh Sóc Trăng năm 2018 và Phát động khởi nghiệp tại Sóc Trăng dự kiến sẽ được khai mạc sáng ngày 19/6. Hội nghị xúc tiến đầu tư 2018 với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ là dịp để Sóc Trăng quảng bá giới thiệu tiềm năng, cơ hội đầu tư và các chính sách hỗ trợ đầu tư của tỉnh, thu hút tối đa các nguồn lực đầu tư để khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Đồng thời, cũng là dịp để các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với chính quyền và các cơ quan chức năng của tỉnh; tiếp cận các thông tin, danh mục dự án và các lĩnh vực mời gọi đầu tư của Sóc Trăng. Sóc Trăng có nhiều tiềm năng thế mạnh thu hút đầu tư. Theo Ban Kinh tế Trung ương, Sóc Trăng là tỉnh nằm trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là địa phương có tiềm năng lớn về phát triển nông nghiệp nhờ những điều kiện thuận lợi về thời tiết và thổ nhưỡng, thích hợp cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi. Kinh tế nông nghiệp với những sản phẩm nông sản chủ lực đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế địa phương. Thế mạnh của Sóc Trăng là lúa, với đặc sản và lúa thơm. Tổng sản lượng lúa cả năm 2017 đạt 2,11 triệu tấn, trong đó tỉ lệ lúa đặc sản chiếm 46,07%. Tình hình liên kết tiêu thụ lúa giữa nông dân và doanh nghiệp cũng đạt được những kết quả tích cực. Nông dân trồng lúa có lãi, lợi nhuận 43,66-57,8%, đạt mức cao ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đối với thủy sản, tổng giá trị xuất khẩu hàng thủy sản và nuôi trồng và khai thác biển đạt 570 triệu USD. Hành tím ở Sóc Trăng cũng là một đặc sản có thương hiệu với sản lượng năm 2017 là 99.575 tấn. Sản phẩm hành tím Sóc Trăng có thị trường xuất khẩu chủ yếu ở Thái Lan, Ấn Độ, Philippines, Malaysia, Indonesia… Đối với chăn nuôi, Sóc Trăng đang phát triển rất mạnh nghề chăn nuôi tại tất cả các huyện, thị xã, thành phố. Tổng đàn gia súc đến cuối năm 2017 có 340.790 con; trong đó đàn trâu có 2.983 con, đàn bò có 47.637 con, đàn heo có 290.170 con và đàn gia cầm có 6,89 triệu con. Đặc biệt, Dự án phát triển chăn nuôi bò sữa trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2013-2020 được triển khai thực hiện liên tục và mở rộng ở một số huyện với tổng đàn đạt 9.720 con, sản lượng sữa hằng năm đạt 2.880 tấn. Đặc biệt bên cạnh nông nghiệp, Sóc Trăng có ưu thế vượt trội hơn so với các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long nhờ tiềm năng về phát triển tổng hợp kinh tế biển với các ngành như năng lượng sạch, cảng biển, dịch vụ vận tải biển… Trong đó, tiềm năng điện gió của Sóc Trăng được đánh giá là rất lớn. Theo ông Trần Văn Chuyện – Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng, nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, hiện nay Sóc Trăng ưu tiên thu hút đầu tư ở ba lĩnh vực: Nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến, Năng lượng tái tạo và Du lịch. Bên cạnh đó, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu, cụm công nghiệp, trung tâm thương mại, siêu thị, chợ; cảng biển, vận tải biển cũng được tỉnh quan tâm kêu gọi, tìm kiếm các nhà đầu tư. Hiện toàn tỉnh quy hoạch 6 khu công nghiệp nằm ở các vị trí thuận lợi về giao thông; trong đó Khu công nghiệp An Nghiệp (huyện Châu Thành) đã lấp đầy trên 90% diện tích, các khu còn lại đang được tiếp tục kêu gọi đầu tư như khu công nghiệp Trần Đề, khu công nghiệp Sông Hậu, khu công nghiệp Đại Ngãi… Bên cạnh những tiềm năng, lợi thế có thể khai thác tại địa phương, các nhà đầu tư sẽ được sự hỗ trợ trong suốt quá trình từ khi tìm hiểu dự án cho đến khi hoạt động, sản xuất kinh doanh. Trong đó, thủ tục hành chính là nội dung đầu tiên mà tỉnh cam kết thực hiện một cách thông thoáng và thuận lợi cho nhà đầu tư. Ngoài ra, tỉnh sẽ hỗ trợ tạo quỹ đất sạch để các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận và triển khai thực hiện các dự án; đồng thời đảm bảo đầu tư đồng bộ về hạ tầng đến chân hàng rào dự án. Sóc Trăng có rất nhiều tiềm năng, lợi thế nhưng chưa được khai thác, phát huy hiệu quả đúng mức. Qua Hội nghị lần này, với những tiềm năng, lợi thế của mình, cùng sự quyết tâm của chính quyền địa phương và thiện chí của nhà đầu tư, tỉnh Sóc Trăng kỳ vọng sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư khả thi, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh và cả khu vực. Cũng trong khuôn khổ Hội nghị dự kiến sẽ diễn ra nhiều hoạt động như: Trao quyết định chủ trương đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, văn bản cam kết đầu tư với các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tỉnh và một số ngành ký cam kết trong việc phát triển nông nghiệp, thương mại, mạng lưới điện; tiếp nhận quỹ an sinh xã hội… Dự kiến, tỉnh đã lập danh sách trao Quyết định chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư, Bản ghi nhớ hợp tác đầu tư cho 47 dự án với tổng mức vốn đầu tư khoảng 122.880 tỷ đồng, trong đó: Quyết định chủ trương đầu tư và Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng số vốn đăng ký đầu tư 22.646 tỷ đồng; trao văn bản cam kết đầu tư với tổng số vốn đăng ký đầu tư 100.234 tỷ đồng. Tỉnh Sóc Trăng ưu tiên kêu gọi đầu tư 83 dự án trên các lĩnh vực mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế như: năng lượng tái tạo, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu, cụm công nghiệp; thương mại, dịch vụ và xây dựng; du lịch; giao thông vận tải; xây dựng chợ. Huy …
| Tin mới | admin | 19/06/2018 | | Cấp phát gà giống cho nông dân | Công việc cấp phát được thực hiện trong cùng một ngày, một địa điểm do vậy, công tác lên kế hoạch, hướng dẫn, phân công nhiệm vụ công việc cho từng bộ phận, thành viên có liên quan được chuẩn bị từ trước. Vừa qua, Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông Ninh Thuận phối hợp với các Trạm KN, Hội Phụ nữ, Ban Phòng chống thiên tai, cán bộ 3 xã Phước Thắng, huyện Bác Ái; xã Phước Kháng, huyện Thuận Bắc; xã Phước Ninh, huyện Thuận Nam cấp phát 12.600 con gà giống và 25.200kg thức ăn cho 630 hộ bị ảnh hưởng bởi hạn hán và xâm nhập mặn của tỉnh Ninh Thuận. Dự án hỗ trợ khẩn cấp nhằm khôi phục sinh kế của những người chăn nuôi gia cầm nghèo bị ảnh hưởng bởi hạn hán và xâm nhập mặn do hiện tượng El Nino. Dự án thực hiện tại 6 tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kiên Giang, Bến Tre. Tỉnh Ninh Thuận có 630 hộ của 3 huyện được hưởng lợi, kế hoạch mỗi hộ được nhận 20 con gà giống (21 ngày tuổi ) và 40 kg thức ăn cho gà. Số gà cấp phát cho bà con được nhỏ mũi mắt, tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin Gumboro, Newcalse. Số gà con được cấp phát thuộc giống gà Ri lai, đàn gà đều khỏe mạnh, lanh lợi. Mỗi xã có 210 hộ được nhận gà giống và thức ăn. Công việc cấp phát được thực hiện trong cùng một ngày, một địa điểm do vậy, công tác lên kế hoạch, hướng dẫn, phân công nhiệm vụ công việc cho từng bộ phận, thành viên có liên quan được chuẩn bị từ trước. Để chuẩn bị tốt cho việc cấp phát được diễn ra thuận tiện, đúng đối tượng, trước đó Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Ninh Thuận mời các thành viên trong tổ cấp phát của các xã họp để triển khai kế hoạch. Tại buổi cấp phát hầu hết bà con đến nhận gà đều mang theo giấy mời của UBND xã, các hộ nhận gà đều đúng đối tượng, đi đúng giờ. Nhờ sự hướng dẫn của chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể nên bà con đến nhận gà giống đều diễn ra nhanh chóng. Bà con chủ động mang theo vật dụng để chứa và phương tiện vận chuyển thức ăn về nhà. Công tác cấp phát diễn ra xuyên suốt trong một buổi, đảm bảo trật tự. Tháng trước, 630 hộ này đã được tập huấn về kỹ thuật nuôi gà an toàn, số gà được nhận các hộ mang về chăm sóc và nuôi dưỡng, trong quá trình nuôi khuyến nông viên xã, cán bộ phụ trách sẽ theo dõi để hỗ trợ thêm cho bà con. Sau 4 tháng nuôi, các hộ có thể bán để có lãi… CƠ …
| Tin mới | admin | 18/06/2018 | | Ngành chăn nuôi: Cần có thống kê chặt chẽ | (Chinhphu.vn) – Giữa năm 2017, giá thịt lợn đã giảm sâu kỷ lục trong hàng chục năm qua, đến nay giá thịt lợn lại chạm ngưỡng 50.000 đồng/kg – một con số cao cũng ở mức kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây. Biên độ dao động quá lớn này đang phản ánh những bất cập trong lĩnh vực chăn nuôi hiện nay. Chăn nuôi nông hộ nên chuyển hướng chăn nuôi hữu cơ để phù hợp trong giai đoạn tới – Ảnh:VGP/Đỗ Hương Nông hộ thiếu thông tin Chăn nuôi nông hộ được xác định là một hình thức chăn nuôi vẫn có những giá trị riêng trong quá trình hướng đến công nghiệp hóa chăn nuôi. Tuy vậy, sau thời kỳ giá giảm kỷ lục vào cuối năm 2017, tình trạng nông hộ “treo chuồng” đã diễn ra và ngày càng phổ biến hơn ở các vùng quê. Ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) nhìn nhận, hiện nay các hộ chăn nuôi thiếu thông tin về tín hiệu thị trường, thiếu hiểu biết thị trường nếu chăn nuôi rời rạc, nhỏ lẻ thì họ sẽ không biết bán cho ai. “Về thống kê, chúng ta có Tổng cục Thống kê, mỗi năm họ thống kê 4 kỳ để nắm được số lượng trong chăn nuôi, tuy nhiên cũng chỉ ở mức tương đối. Để thống kê sát nhất số đầu gia súc, chúng ta nên phối hợp với Tổng cục Thống kê để có số liệu chính xác, từ đó đưa ra chỉ đạo sát thực hơn. Chúng tôi cũng đã xác định chỉ cần 3 triệu nái với năng suất 1 nái là 21-24 con, như thế chúng ta vẫn đủ lượng thịt cung cấp cho thị trường”, ông Dương nhấn mạnh. Ông Dương cũng đưa ra khuyến cáo: “Đối với các hộ chăn nuôi nhỏ tôi cho rằng cần chuyển hướng sang chăn nuôi lợn hữu cơ, đặc sản phù hợp cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ. Nếu các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không theo được con đường chăn nuôi chuyên nghiệp thì phải có chính sách chuyển nghề cho họ hơn là buộc họ phải chăn nuôi. Còn trường hợp nào có năng lực thì tiếp tục hỗ trợ để phát triển, đặc biệt hỗ trợ cho các doanh nghiệp có ký hợp đồng với nông dân, sản xuất theo chuỗi”. Dưới góc độ là doanh nghiệp hàng đầu trong thị trường chăn nuôi Việt Nam hiện nay, Ông Montri Suwanposri, Tổng giám đốc công ty cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam cũng đưa ra nhận định: “Ước tính nền công nghiệp hóa chăn nuôi Việt Nam mới đi được nữa chặng đường, vẫn còn một tỉ lệ khá lớn chăn nuôi nông hộ nhỏ. Ưu thế của chăn nuôi nông hộ nhỏ là linh hoạt, dễ dàng giảm đàn để cắt lỗ cũng như tái đàn khi thuận lợi. Sự biến động này dẫn đến việc thống kê tổng đàn của cả nước còn khó khăn, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất và dễ mất cân đối cung cầu sản phẩm chăn nuôi”. Do thiếu thông tin nên mặc dù giá lợn tăng cao, nhưng theo ông Nguyễn Đăng Vang, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi hiện nay bà con chăn nuôi lại không được hưởng nhiều lợi ích. “Vì thời điểm này, đại đa số các hộ nuôi lợn nhỏ đã không còn lợn để bán do tác động của đợt khủng hoảng thừa trước đó. Đối tượng hưởng lợi lớn nhất lại là các trang trại lớn, các công ty, tập đoàn chăn nuôi bởi họ có nguồn cung dồi dào”, ông Vang nhìn nhận. Giá thịt vẫn cao đến cuối năm Dự báo về giá thịt lợn từ nay đến cuối năm, ông Nguyễn Đăng Vang, cho rằng giá sẽ vẫn ở mức cao. “Mức giá này có thể cao hơn trong thời gian tới, tuy nhiên cũng không thể cao hơn nhiều so với mức giá hiện tại nhiều do vào mùa nóng, nhu cầu tiêu dùng thịt lợn giảm đi. Còn mức giá cao thế này có thể duy trì đến bao giờ thì chưa thể dự báo được”, ông Vang đánh giá. Cùng với đó, ông Vang cũng cảnh báo nếu thịt lợn trong nước tiếp tục tăng giá, khả năng phải nhập khẩu thịt lợn rất cao. Bởi hiện nay giá lợn ở các tỉnh phía nam Trung Quốc giáp ranh với Việt Nam, giá lợn đang ở mức 35.000-36.000 đồng/kg. Ông Vang cũng đưa ra lời khuyên, người chăn nuôi đang có xu hướng tái đàn, nhưng do lợn thịt sốt giá khiến cho giá lợn giống cũng tăng cao. Do vậy, người chăn nuôi không nên tăng đàn ồ ạt, nếu mua con giống với giá cao thì chi phí chăn nuôi lớn, ngoài ra cần theo dõi thêm biến động của thị trường để quyết định việc mở rộng sản xuất cho phù hợp. Một trong những “kênh” dự báo được người chăn nuôi nghe ngóng nhất là từ các doanh nghiệp lớn có thể tạo được “cú hích” cho thị trường. Ông Montri Suwanposri, Tổng giám đốc công ty cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam, nhìn nhận: “Các yếu tố sản xuất để cung cấp sản phẩm chăn nuôi cho thị trường từ nay đến cuối năm 2018 đã được hình thành tại thời điểm hiện tại, do vậy mức độ biến động giá cả do thay đổi nguồn cung là không nhiều. Người chăn nuôi heo hiện đang có lãi thì không ai giảm đàn, mà có thể sẽ tăng đàn heo nái, nhưng tăng đàn heo nái bây giờ thì một năm sau mới làm thay đổi nguồn cung cho thị trường”. Ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi cũng khuyến cáo: “Trước mắt cần tăng năng suất, tăng khối lượng thịt, đưa các sản phẩm ra thị trường nhanh nhất có thể. Đối với lợn thịt, người chăn nuôi cần có biện pháp vỗ béo tốt, như thế chúng ta sẽ có một khối lượng thịt đáng kể. Chúng ta cần tăng cao ngay năng suất sinh sản lợn giống thương phẩm phục vụ giết thịt. Để tăng cao năng suất chúng ta cần cho lợn ăn thức ăn tốt và sử dụng vắc xin đầy đủ làm cho lợn khoẻ, có như thế lợn sinh sản mới cao”. Cụ thể, với lợn hậu bị, ông Dương cho rằng không nên vào giống ồ ạt bởi vì vào giống bây giờ thì 15 tháng sau mới có lợn con, lúc đó giá có còn cao hay không. “Chúng tôi khuyến cáo nông dân chỉ vào giống từ 10-15%, nếu chúng ta vào giống như thế sẽ không phá vỡ quy mô đàn nái”, ông Dương khẳng định. Đỗ …
| Tin mới | admin | 14/06/2018 | | Thị trường trong nước tiếp tục được duy trì ổn định trong tháng 5 | Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cho biết, trong tháng 5 thị trường trong nước tiếp tục được duy trì ổn định, các mặt hàng nông sản, thực phẩm sản xuất thuận lợi, nguồn cung tăng và giá giảm. Đáng lưu ý, riêng đối với mặt hàng thịt lợn quy mô chăn nuôi giảm mạnh, mặt dù nguồn cung đủ nhưng tâm lý giữ hàng khiến giá thị lợn tăng so với cùng kỳ năm 2017. Hơn nữa, công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường được đẩy mạnh nhằm ngăn chặn các hành vi tăng giá bất hợp lý, buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội tháng 5 đạt 354.049 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2017. Như vậy, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của cả nước 5 tháng đầu năm đạt 1.752,689 nghìn tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2017. Đáng lưu ý mức tăng chủ yếu vẫn tập trung ở các nhóm hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng gia đình (các nhóm chiếm tỷ trọng lớn). Đặc biệt nhóm du lịch tăng mạnh 23% so với cùng kỳ năm trước do bắt dầu vào mùa du lịch và ảnh hưởng của sự phục hồi kinh tế cùng với nỗ lực phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Tuy nhiên theo giới phân tích, mặc dù 5 tháng đầu năm đã đạt được kết quả rất tích cực nhưng trong thời gian tới áp lực lạm phát là rất lớn. Không những thế, rủi ro về áp lực tăng giá chủ yếu đến từ yếu tố thị trường như xu hướng phục hồi của giá xăng dầu và một số nguyên liệu chính trên thị trường thế giới, gắn với đó là việc tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số dịch vụ công (dịch vụ y tế, giáo dục, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước…). Hơn nữa, giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng dự báo sẽ tăng do ảnh hưởng thời tiết chuyển mùa nóng tác động lên giá điện và giá nước lũy tiến… Đặc biệt, việc điều chỉnh lương cơ bản từ ngày 1/7 tới sẽ tác động đến giá các mặt hàng và nhu cầu tiêu dùng trong nước. Do vậy, các chuyên gia cho rằng những tháng còn lại của năm 2018, điều quan trọng nhất vẫn phải bám sát để điều hành bảo đảm ổn định vĩ mô. Đồng thời, phải làm tiền đề, dư địa cho bước phát triển của năm 2019 và những năm tiếp theo. Để duy trì ổn định cho thị trường trong nước, Bộ Công Thương cho biết, Liên Bộ Tài chính-Công Thương tiếp tục điều hành giá xăng dầu trong nước hài hòa, sử dụng hợp lý Quỹ Bình ổn giá với liều lượng thích hợp. Cùng đó, chủ động có kịch bản ứng phó nếu giá xăng dầu tăng cao trong quý II nhằm tạo dư địa thuận lợi cho việc kiểm soát mặt bằng giá cả năm 2018. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng tiếp tục củng cố và kiện toàn hệ thống phân phối hàng hóa, nhất là một số mặt hàng thiết yếu còn chậm. Mặt khác, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành bán buôn, bán lẻ cũng như xây dựng chuỗi tiêu thụ nông sản, từ sản xuất đến hệ thống phân phối. Đặc biệt, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nội địa và khuyến khích tiêu dùng nội địa và thực hiện có hiệu quả Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.” Bộ cũng sẽ triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2025 và định hướng đến năm 2035 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm tạo sự chuyển biến căn bản và bền vững hơn cho khu vực thị trường trong nước, tiếp tục làm trụ đỡ quan trọng cho tăng trưởng kinh tế những năm tiếp …
| Tin mới | admin | 12/06/2018 | | Người Thái nuôi vịt trời ở lòng hồ thuỷ điện Sơn La | Vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La có nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào cho vịt trời và vịt nuôi ở đây ít bị dịch bệnh. Xã Chiềng Bằng (Quỳnh Nhai) là nơi tập trung nhiều hộ dân người Thái thuộc diện tái định cư thủy điện Sơn La. Gần đây, người dân phát triển mô hình nuôi vịt trời trên sông Đà bước đầu đạt kết quả tốt. Trong lòng hồ thuỷ điện Sơn La, người dân nuôi vịt trời theo bè và mỗi bè thả hàng trăm con vịt trời. Gia đình ông Lò Văn Khặn, người dân tộc Thái ở bản Co Trặm (xã Chiềng Bằng, Quỳnh Nhai) là hộ dân đầu tiên phát triển mô hình này vào năm 2015. Mỗi ngày người nuôi cho vịt ăn 2 lần. “Nuôi vịt trời trên vùng lòng hồ rất thuận lợi. Vịt ít bệnh, nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào. Sau một năm, từ 100 con ban đầu tôi đã nhân giống được 2.000 con”, anh Lò Văn Khặn chia sẻ. Cùng với nuôi con vịt thương phẩm, anh Khặn còn bán giống cho bà con trong vùng. Thức ăn chính của vịt là ngô, sắn, cây chuối và cá tép đánh bắt trên lòng hồ; vịt lớn rất nhanh. Mỗi ngày đàn vịt đẻ hàng trăm trứng, quả trứng dài to là con đực, thon nhỏ là con cái và sẽ được đưa vào ấp riêng. Trung bình mỗi lồng nuôi 50 con cái sẽ có 5 con đực để nhân giống. Nhiều con vịt tự phá lưới bay ra ngoài nhưng chỉ vài hôm sau lại tìm cách bay về kiếm ăn quanh bè nuôi, bởi nó đã quen với nguồn thức ăn hàng ngày. Vịt thương phẩm bán cho các nhà hàng ở Điện Biên, Sơn La. Trung bình mỗi gia đình nuôi vịt trời ở lòng hồ thuỷ điện Sơn La bán một lứa mỗi năm với khoảng hơn 2.000 con, thu hơn 300 triệu …
| Tin mới | admin | 07/06/2018 | | Hà Giang: Nâng cao hiệu quả dạy nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn | Qua công tác đào tạo nghề đã góp phần nâng cao nguồn nhân lực cho lao động nông thôn của tỉnh; nâng tỷ lệ lao động nông thôn của Hà Giang qua đào tạo nghề từ 26,8% đầu năm 2012 lên 37,9% vào cuối năm 2017. Trong 5 năm (từ 2013- 2017), tỉnh Hà Giang đã đào tạo nghề cho trên 75 nghìn người, trong đó có trên 67 nghìn lao động nông thôn được đào tạo sơ cấp nghề; trong các ngành nghề được đào tạo đã có gần 30.500 nông dân được học các nghề phi nông nghiệp như điện dân dụng, sửa chữa xe máy, kỹ thuật gò hàn, các nghề truyền thống… và khoảng 36,6 nghìn người được đào tạo các nghề nông nghiệp; tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề của lao động nông thôn đạt trên 62%. Có thể kể đến một số mô hình đào tạo nghề cho nông dân điển hình như: Đào tạo kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái và chế biến chè cho nông dân tại huyện Vị Xuyên; đào tạo về kỹ thuật chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hại cây cam sành tại huyện Bắc Quang; đào tạo kỹ thuật trồng rau an toàn cho nông dân tại huyện Quản Bạ và TP Hà Giang; đào tạo kỹ thuật trồng, thu hái và sơ chế cây dược liệu tại 6 huyện 30a…. Qua công tác đào tạo nghề đã góp phần nâng cao nguồn nhân lực cho lao động nông thôn của tỉnh; nâng tỷ lệ lao động nông thôn của Hà Giang qua đào tạo nghề từ 26,8% đầu năm 2012 lên 37,9% vào cuối năm 2017. Đây chính là nền tảng quan trọng giúp Hà Giang đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng NTM trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Cũng qua khảo sát, trên 58% những người nông dân đã qua đào tạo nghề nông nghiệp đã tự vay vốn để xây dựng các trang trại trồng trọt kết hợp với chăn nuôi cho thu nhập cao; gần 50% nông dân được đào tạo các nghề phi nông nghiệp đã tự mở cửa hàng, liên kết với cơ sở khác hoặc tham gia làm công cho các cửa hàng sửa xe máy, gò hàn, sửa chữa điện dân dụng… Hà Giang đề ra mục tiêu trong 5 năm, từ năm 2018 đến năm 2012 sẽ đào tạo nghề cho trên 65 nghìn lao động nông thôn, trong đó đào tạo trình độ sơ cấp nghề cho 55 nghìn người; số lao động nông thôn được học các nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp đạt 57%, lao động nông thôn được các nghề phi nông nghiệp đạt 43%. PHẠM VĂN …
| Tin mới | admin | 07/06/2018 | | Tiến sỹ sử học lập trang trại nuôi gà sạch đẹp như khu du lịch | Là giảng viên Bộ môn Lịch sử, TS Thông Thanh Khánh (dân tộc Chăm, Bình Thuận) lại có niềm say mê với ngành nông nghiệp. Nghỉ dạy học, thất bại với lần khởi nghiệp nuôi heo rừng, TS Khánh chuyển hướng nghiên cứu để phát triển mô hình nuôi gà sạch… Gà con được nuôi trong chuồng úm Trang trại gà của anh Khánh tại khu Tắc Cá Cháy, ấp Dơi Lầu, xã An Thới Đông, huyện Cần Giờ, TP.HCM với diện tích hàng chục ha. Đặt chân vào trang trại, tôi cứ ngỡ mình tới nhầm khu du lịch, bởi một không gian thoáng đãng, với dãy nhà ở, nhà ăn và cả sân chơi bóng, đều sạch sẽ, mát mẻ dành cho công nhân cũng như các đoàn khách đến tham quan, trao đổi kinh nghiệm nuôi gà. Trước khi bước vào khu nuôi, tôi phải rửa chân tay, xịt khuẩn, mặc áo bảo hộ, đi ủng. Bước vào khu vực nuôi, tôi ngạc nhiên bởi không hề thấy mùi hôi của phân gà… Anh Khánh kể, năm 2009, vợ chồng anh bắt đầu xây dựng mô hình nuôi heo rừng tại Cần Giờ, với mong muốn đem đến một sản phẩm sạch, dòng heo lạ cung cấp cho thị trường TP.HCM. Anh Khánh nuôi 1.000 con heo rừng, khi xuất chuồng bán thì lại gặp khó khăn ở đầu ra. Cuối cùng phải bán đổ bán tháo và nghỉ nuôi heo rừng. “Gà giò” được tự do chạy nhảy trong chuồng “Đặc trưng của con gà nòi Bến Tre là chống chịu được với môi trường của phía Nam, thịt không dai, chất lượng ngon, thơm, trọng lượng gà tầm 1,2 – 1,8 kg/con nuôi trong vòng 5 tháng”, anh Khánh chia sẻ. Tại khu nuôi gà với diện tích 10ha, anh Khánh phân chia theo từng khu như: khu chuồng úm gà con, khu chuồng nuôi gà thịt, khu cách ly gà bệnh, xử lý gà chết, khu xử lý nước uống cho gà, khu xử lý đệm lót sinh học và ủ phân vi sinh… Quy trình nuôi gà cũng rất cầu kỳ: trứng được đưa vào lò ấp nở tại cơ sở ở Bến Tre, gà ra đời sẽ được tiêm vắc xin và được đưa trở lại Cần Giờ. Sau đó, gà con được đưa vào chuồng úm, cách ly dịch bệnh. Thời gian này, thức ăn của gà gồm tấm, gạo lức, bột ngô, đậu nành, bột cá, bánh cá trộn lẫn và được nấu chín. Năm 2011 – 2012, anh Khánh xách cặp đi học hỏi từ Nam ra Bắc, kể cả sang tận Ma rốc để nghiên cứu về gà. Sau khi nuôi thử nghiệm nhiều giống, cuối cùng anh chọn được giống gà nòi Bến Tre. Anh Khánh về vùng Ba Tri, Bến Tre kết hợp với những hộ còn nuôi gà thuần, không bị lai tạp, rồi lấy trứng về ấp và nhân giống. Sau 21 ngày, gà được đưa sang chuồng nuôi “gà giò”. Đây là giai đoạn rất quan trọng, cần liều lượng thức ăn đúng để chúng phát triển tốt nhất. Cụ thể, đậu nành được mua từ Campuchia (trồng theo yêu cầu của anh Khánh), đậu xanh của Bình Thuận không xịt thuốc, bắp không biến đổi gen, tất cả được ngâm và nấu lên cùng với bã hèm cho gà ăn. Sau 55 ngày tuổi, thức ăn cho gà gồm 3 loại chính là lúa, bắp, đậu tương nấu chín, ngoài ra còn bổ sung thêm cỏ voi, củ sắn, củ khoai lang, trái quýt. Để phòng và điều trị bệnh, anh Khánh chỉ sử dụng tỏi, nghệ, gừng, sả, hoa hồi và một số vị thuốc nam trộn lại ngâm rượu làm thuốc. Nước uống được lọc xử lý và thường xuyên đem đi kiểm nghiệm. Đặc biệt, công nhân ở đây nếu có đi ra ngoài tiếp xúc với người khác thì phải nghỉ 2 ngày để được cách ly các dịch bệnh. Áo mặc hàng ngày trong trang trại đều phải qua khử trùng tiêu độc. “Đó là lý do vì sao tôi cải tạo nơi đây thành một môi trường trong lành, để công nhân là người dân tộc Chăm quê tôi cảm thấy thoải mái nhất khi chăm sóc gà. Nông nghiệp là phải xanh, phải sạch”, anh Khánh vui vẻ nói. Thức ăn của gà được nấu chín Buồng chứa thức ăn cho gà Khu xử lý nước sạch cho gà và nơi khử trùng dụng cụ Các đoàn khách tham quan tại trang trại gà của anh Khánh Trung bình một chu kỳ nuôi gà nòi tại trang trại của anh Khánh là 15.000 con/ha trong vòng 5 tháng, chi phí đầu tư khoảng 2 tỷ đồng, lãi khoảng 300 triệu đồng cho mỗi chu kỳ nuôi. Trong thời gian tới, anh sẽ tiếp tục hoàn chỉnh mọi công đoạn để phát triển thêm lượng gà nuôi mỗi chu kỳ, đồng thời đăng ký bảo hộ cho thương hiệu Gà Rừng …
| Tin mới | admin | 07/06/2018 | | Cập nhật danh sách cơ sở kiểm nghiệm thực phẩm phục vụ quản lý nhà nước và cơ quan kiểm tra nhà nước về thực phẩm nhập khẩu | Thực hiện quy định tại Thông tư liên tịch số 20/2013/TTLT-BYT-BCT-BNNPTNT ngày 01/8/2013 quy định điều kiện, trình tự thủ tục chỉ định cơ sở kiểm nghiệm thực phẩm phục vụ quản lý nhà nước và Thông tư số 28/2013/TT-BCT ngày 06/11/2013 quy định kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm đối với thực phẩm nhập khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương, Vụ Khoa học và Công nghệ thông báo 02 danh sách các đơn vị đã được Bộ Công Thương chỉ định, tính đến ngày 31/5/2018, còn hiệu lực gồm: – Cơ sở kiểm nghiệm thực phẩm phục vụ quản lý nhà nước (tại đây). – Cơ quan kiểm tra nhà nước về thực phẩm nhập khẩu (tại đây). Vụ Khoa học và Công nghệ – Bộ Công …
| Tin mới | admin | 06/06/2018 | | Sản phẩm hữu cơ Việt đi ‘chinh phục’ thị trường Thái | Thông tin từ hội chợ ThaiFex 2018 cho biết, trong 3 ngày qua các doanh nghiệp của Việt Nam tại hội chợ đã đón tiếp nhiều đoàn khách quốc tế đến tham quan, trao đổi tại các gian hàng trưng bày. Gian hàng của đoàn Việt Nam được trưng bày ấn tượng tại ThaiFex 2018 (Ảnh: BSA) Tới Thái Lan lần này, đoàn Việt Nam đem đến những sản phẩm nông sản, thực phẩm mới độc đáo, thiên về thiên nhiên. Đại diện VinEco cho biết, chỉ trong ngày đầu tiên VinEco đã tiếp 25 khách hàng là các doanh nghiệp quan tâm đến sản phẩm của VinEco. Tuy nhiên, điều bất lợi là Thái Lan bảo trợ cho sản phẩm nông nghiệp rất chặt chẽ, hải quan cũng làm căng với nông sản VN. Bên cạnh đó, Thái có luật bảo vệ nông dân và nông sản họ đến cùng. Do đó, nếu thực hiện tất cả các thủ tục như là kiểm dịch… thì chi phí xuất hàng sang Thái Lan sẽ rất cao. Trong khi đó, anh Nguyễn Xuân Hiếu, phụ trách thị trường khu vực châu Á, châu Phi của cà phê Trung Nguyên cho biết, khách hàng ở đây đến từ rất nhiều nước như Mỹ, Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan… “ThaiFex 2017 đem về cho Trung Nguyên 1,5 triệu USD, năm nay chúng tôi muốn phát triển lên khoảng 3 triệu USD. Chúng tôi đã nhận được những phản hồi rất tích cực của khách hàng với sản phẩm cà phê G7. Tuy nhiên, người Thái chưa rõ về sản phẩm cà phê rang xay, đến ThaiFex chúng tôi mong sẽ tìm được những nhà phân phối mới cho sản phẩm cà phê rang xay này”. Có thể nói, những sản phẩm của Việt Nam thu hút khách tại ThaiFex 2018 nhất là gạo, dừa và trái cây sấy. Gạo trưng bày trên những chiếc thuyền thúng khổng lồ đường kính 1,5m được khách tham quan và doanh nghiệp các nước thích thú. Nhiều khách hàng cũng rất quan tâm đến từng loại gạo hữu cơ của Sóc Trăng, Cà Mau, Cần Thơ. Năm nay, Vinamit mang sang Thái những sản phẩm mới phát triển thiên về hữu cơ như gạo organic, xoài organic, chuối organic… đặc biệt còn có sữa chua sấy thiên về sức khỏe và có sự khác biệt so với sản phẩm các nước Thái Lan, Malaysia… Bà Đặng Thị Diễm Thúy, phụ trách mảng kinh doanh nội địa, Cty CP Vinamit cho biết, khi khách hàng đến gian hàng và dùng thử sản phẩm của Vinamit, họ có nhiều ấn tượng về chất lượng và sản phẩm có vị rất khác biệt với sản phẩm cùng loại ở Thái Lan. Vị sản phẩm không quá ngọt và màu sắc không đậm như sản phẩm của Thái. Phụ trách Marketing Cty Betrimex, bà Lê Phương Thảo chia sẻ: “Từng sản phẩm Betrimex tạo ra đều 100% tự nhiên, đây là điểm mà chúng tôi tự tin giới thiệu với khách hàng Mỹ, châu Âu, châu Á… Với thị trường châu Á, nước dừa vẫn đang là sản phẩm chủ lực của chúng tôi và ThaiFex là nơi chúng tôi tìm thêm những bạn hàng mới”. Theo bà Alice Sim Bee Oui, giám đốc phát triển Cty Tai Foong USA, trước nay mua gạo của Thái Lan thông qua đối tác CJ để làm đồ ăn tiện lợi, nhưng nguồn gạo từ Thái Lan không ổn định về một số mặt. Bà Alice đã tìm đến gian hàng gạo hữu cơ Việt Nam đặt vấn đề để qua CJ mua gạo hữu cơ Việt Nam đưa vào trong thành phần đồ ăn tiện lợi của Tai Foong USA. Qua các gian hàng của các nước tại hội chợ ThaiFex 2018, bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội DN HVNCLC nhận xét: “Có thể nói bao bì sản phẩm Việt, nhìn chung còn thua các nước, chuyện ấy không mới. Cái mới là chúng ta đang đua kịch liệt về thay đổi chất liệu và kỹ thuật. Về chất lượng, độ tinh tế thì sản phẩm Việt Nam khá nổi trội. Như trái cây sấy thì công nghệ sấy lạnh và sinh học của Vinamit không thua gì quốc gia nào. Khách Nhật vào nếm thử miếng sầu riêng thì tròn mắt tâm phục, còn yaourt đông khô dòn và thơm, tan trong miệng hấp dẫn hơn hẳn các sản phẩm của Thái cùng loại”. NGUYỄN …
| Tin mới | admin | 06/06/2018 | | Thị trường bán lẻ Thành phố Hồ Chí Minh đang phát triển mạnh | Ngày 5/6, Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh công bố doanh thu bán lẻ hàng hóa sáu tháng đầu năm 2018 ước đạt hơn 328.582 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 65,38% trong tổng mức bản lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, tăng 12,9% so cùng kỳ năm 2017 (cùng kỳ tăng 12,1%). Khách hàng chọn mua các mặt hàng nông sản thực phẩm tại siêu thị. (Ảnh: Mỹ Phương/TTXVN) Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bán lẻ đang tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và cung ứng trong nước đưa hàng vào kênh bán lẻ hiện đại. Đánh giá về tình hình thị trường, giá cả, ông Nguyễn Phương Đông, Phó Giám đốc Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng thị trường sáu tháng đầu năm trên địa bàn thành phố nhìn chung tương đối ổn định, không xảy ra hiện tượng khan hàng, sốt giá. Riêng mặt hàng thịt lợn trong tháng 4-5/2018, thị trường nguyên liệu (lợn hơi) bắt đầu biến động tăng lên mức 40.000-45.000 đồng/kg. Nguyên nhân chủ yếu do sau hơn một năm duy trì giá thấp, nhiều người chăn nuôi đã chủ động giảm đàn, tác động đến nguồn cung. Trước tình hình đó, giá thịt lợn bình ổn thị trường được điều chỉnh hợp lý, đúng thời điểm, tác động thị trường thịt lợn diễn biến tương đối ổn định, khách quan, phản ánh đúng quy luật thị trường. Trong sáu tháng đầu năm 2018, Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai Chương trình bình ổn gắn với việc thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam,” hàng hóa trong chương trình phải đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Chương trình có 90 đơn vị tham gia, gồm 78 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và 12 tổ chức tín dụng (tăng ba đơn vị so năm 2017). [Chỉ số sản xuất công nghiệp TP Hồ Chí Minh có xu hướng chững lại] Mặt khác, các mặt hàng tham gia chương trình bình ổn phong phú, đa dạng, sản lượng hàng hóa của từng nhóm mặt hàng chiếm khoảng 25-40% nhu cầu thị trường và tăng bình quân 15-35% so với kết quả thực hiện năm 2017. Bên cạnh đó, tổng nguồn vốn đăng ký hỗ trợ doanh nghiệp vay thực hiện bốn chương trình bình ổn là 19.650 tỷ đồng, tăng 8,14% (1.480 tỷ đồng) so năm 2017; lãi suất tương đương năm 2017 (ngắn hạn 5,5-7%/năm, trung và dài hạn 9-10%/năm). Đặc biệt, từ đầu năm 2018 đến nay, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thúc đẩy xây dựng thương hiệu, nâng cao uy tín cho các chương trình nói chung và doanh nghiệp, sản phẩm bình ổn thị trường nói riêng, thông qua việc đẩy mạnh truyền thông, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường trên cả nước. Đồng thời, hỗ trợ các địa phương thực hiện chương trình bình ổn thị trường, trọng tâm là các tỉnh, thành Đông-Tây Nam bộ; doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư, xây dựng cơ sở sản xuất, nuôi trồng theo hướng hiện đại, năng suất cao. Song song đó, Thành phố Hồ Chí Minh tăng cường thực hiện các hoạt động kết nối cung – cầu đối với sản phẩm đạt chuẩn an toàn. Từ đó, thúc đẩy phát triển mạng lưới điểm bán hàng bình ổn thị trường, kinh doanh 100% hàng Việt Nam và là điểm bán thực phẩm an toàn được sản xuất, nuôi trồng theo các quy trình VietGAP, GlobalGAP, HACCP… phù hợp với nhu cầu thị trường. Ngoài ra, thành phố tiếp tục đưa logo của chương trình vào các mặt hàng bình ổn nhằm nâng cao khả năng nhận diện cho người tiêu dùng trong quá trình mua sắm; qua đó, góp phần tạo sức lan tỏa sâu rộng trong nhân dân về hiệu quả và ý nghĩa của chương …
| Tin mới | admin | 06/06/2018 | | ‘Nữ hoàng’ cỏ khô | Sau gần 4 năm dày công khảo nghiệm và chọn lọc, Viện Cây lương thực – Cây thực phẩm (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) đang đi tới thành công trong việc nghiên cứu giống cỏ Alfalfa thích hợp để đưa ra SX tại Việt Nam. Giống cỏ Alfalfa AF1 trồng thử nghiệm tại TH True Milk Cỏ cây Alfalfa (Medicago sativa L.) hay còn có tên là cỏ cây Linh lăng, thuộc họ Đậu (Fabaceae) là cây thức ăn chăn nuôi (TĂCN) đặc biệt quan trọng bởi khả năng cung cấp đa dạng các thành phần dinh dưỡng như Acid amin, Vitamin, Protein, Betacaroten, Acid hữu cơ, Ancaloid, Fitoleid… Tất cả 12 acid amin không thay thế đều có hàm lượng khá cao trong Alfalfa. Vì vậy với ngành chăn nuôi gia súc, cỏ Alfalfa được mệnh danh là “nữ hoàng cỏ khô”. Đặc biệt đối với chăn nuôi bò sữa, đây là thành phần thức ăn không thể thiếu bởi cỏ Alfalfa có khả năng cho năng suất cũng như hàm lượng dinh dưỡng của sữa tăng lên đáng kể. Theo các nghiên cứu, chỉ cần chiếm 15 – 20% khẩu phần thức ăn thô, loài cỏ này có thể giúp bò sữa tăng thêm 15 – 20% lượng sữa/ngày với chất lượng tuyệt hảo. Mặc dù là thành phần tối quan trọng trong chăn nuôi bò sữa, nhưng cho tới nay, tại Việt Nam vẫn chưa có đơn vị nào thành công trong việc nghiên cứu, khảo nghiệm loài cỏ này để đưa ra SX. Vì vậy, các Cty sữa lớn như Vinamilk, TH True Milk, Mộc Châu… hàng năm vẫn phải NK khoảng 900 nghìn tấn cỏ Alfalfa và nhu cầu ngày càng tăng. Đánh giá được nhu cầu bức thiết của cỏ Alfalfa tại Việt Nam, từ năm 2015, Viện CLT – CTP đã bắt tay triển khai đề tài nghiên cứu, chọn tạo giống cỏ Alfalfa nhập nội làm nguyên liệu TĂCN. Theo TS Nguyễn Văn Thắng, Phó Viện trưởng Viện CLT – CTP, sau gần 4 năm triển khai đề tài nghiên cứu, Viện đã nhập nội và tiến hành khảo nghiệm đối với trên 45 giống cỏ Alfalfa từ nhiều quốc gia khác nhau có điều kiện khí hậu tương đồng nhất với Việt Nam như Trung Quốc, Argentina, Mỹ, Úc, Ấn Độ, Jordan, Đài Loan… Đến thời điểm hiện tại, Viện đã lựa chọn và khẳng định được ít nhất 1 giống cỏ Alfalfa có khả năng thích nghi, phù hợp cao với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng tại Việt Nam (tạm đặt tên là giống AF1). Giống có khả năng cho năng suất, hàm lượng dinh dưỡng rất cao. Đặc biệt qua 4 năm khảo nghiệm, giống cho thấy thích nghi với đặc thù khí hậu tại các tỉnh phía Bắc, nhất là khu vực Bắc Trung Bộ, nơi có vùng chăn nuôi bò sữa lớn. TS Nguyễn Văn Thắng cho biết: Cuối năm 2017, TH True Milk đã thí điểm đưa vào trồng giống cỏ AF1 và AF2 do Viện nghiên cứu chọn tạo trên diện tích 2.000m2 tại vùng nguyên liệu TĂCN ở Nghĩa Đàn (Nghệ An), áp dụng chủ động tưới tiêu. Kết quả cho thấy, giống cỏ này phát triển rất tốt vào vụ đông và đông xuân. Sau gieo 2 tháng, có thể cho thu hoạch lứa đầu, sau đó trung bình cho thu hoạch các lứa tái sinh trong vòng 30 – 35 ngày/lần. Đặc biệt, giống có khả năng tái sinh rất mạnh, trong đó từ lứa tái sinh thứ 2 và thứ 3 cho năng suất cao nhất trong chu kỳ. Giống cỏ AF1 trồng khảo nghiệm năm thứ 4 tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Trên diện tích 2.000m2 tại TH True Milk trong vụ đông và đông xuân vừa qua, trong thời gian 5 tháng (gieo từ đầu tháng 12/2017 đến đầu tháng 4/2018), giống AF1 có khả năng cho thu hoạch 3 lứa (1 lứa đầu và 2 lứa tái sinh), với tổng sản lượng cỏ tươi (quy ra tấn/ha) là 37,5 tấn/ha (trung bình từ 12 – 14 tấn/ha/lứa). Theo tính toán của các Cty chăn nuôi bò sữa, chỉ cần năng suất cỏ Alfalfa trồng tại Việt Nam đạt trung bình 25 tấn cỏ tươi/ha/chu kỳ, giá thành đầu tư để trồng có thể rẻ hơn so với việc NK cỏ Alfalfa từ nước ngoài. Vì vậy, với năng suất thực tế của giống AF1 hiện nay xoay quanh 40 tấn/ha/chu kỳ, nếu trừ tỉ lệ hao hụt, đã vượt xa kỳ vọng của các Cty bò sữa. Điều này đang mở ra triển vọng để đưa ra SX giống cỏ Alfalfa đại trà nhằm phục vụ chăn nuôi bò sữa trong thời gian tới. Trên thực tế, TS Nguyễn Văn Thắng đánh giá: Các kết quả khảo nghiệm đối với nhiều giống cỏ Alfalfa tại nhiều vùng sinh thái của Việt Nam thời gian qua (gồm Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, ĐBSH) cho thấy, cỏ Alfalfa không phù hợp với điều kiện tại các tỉnh Nam Trung Bộ, mà phù hợp hơn với các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là vùng Bắc Trung Bộ và ĐBSH trong khoảng thời vụ từ cuối năm trước tới giữa năm sau (kéo dài từ 6 – 8 tháng). Trong khoảng thời gian này, riêng giống cỏ AF1 có thể cho thu hoạch trung bình 5 lứa. Nếu có thâm canh, chủ động tưới, năng suất cỏ tươi bình quân có thể đạt 20 tấn/lứa, tương đương 100 tấn/chu kỳ, vượt xa rất nhiều lần so với năng suất kỳ vọng mà các DN bò sữa đặt ra hiện nay. Trước những kết quả rất khả quan này, được biết trong năm 2018, TH True Milk sẽ có kế hoạch đưa giống cỏ AF1 ra SX trên diện rộng, với diện tích dự kiến khoảng 10 – 20ha tại Nghĩa Đàn, áp dụng cơ giới hóa 100% trong quá trình canh tác và thu hoạch nhằm từng bước thay thế nguồn cỏ NK. Bên cạnh đó, Vinamilk cũng đã có kế hoạch đưa vào SX thử giống cỏ này tại một số địa phương. LÊ …
| Tin mới | admin | 05/06/2018 | | Các ngành cần xử lý kịp thời khi các mặt hàng tăng giá đột biến | Bộ Công Thương cho biết, trong tháng Năm vừa qua thị trường có những biến động về giá và cung cầu của các mặt hàng nhóm nhiên liệu, năng lượng, nông sản trên thị trường thế giới đã ảnh hưởng lớn đến thị trường các nhóm hàng này ở trong nước. Đưa ra minh chứng cụ thể, Bộ cho hay: việc Hoa Kỳ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân được ký giữa Iran và nhóm P5+1 (gồm Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Nga và Đức) và nhiều khả năng sẽ tiến hành trừng phạt Iran. Thêm vào đó, Hoa Kỳ thông báo các biện pháp trừng phạt mới trong các lĩnh vực dầu lửa và tài chính nhắm vào Venezuela sau cuộc bầu cử Tổng thống nước này. Những nhân tố trên đã đẩy giá dầu thô tăng mạnh trong tháng Năm vừa qua (dầu Brent đã có lúc đạt mức trên 80 USD/thùng trong ngày 17/5 vừa qua, mức cao nhất kể từ tháng 11/2014). Bên cạnh đó, giá một số nông sản biến động thất thường cũng ảnh hưởng lớn đến giá cả hàng hóa trong nước. Phân tích cụ thể hơn về vấn đề này, theo các chuyên gia thương mại Bộ Công Thương, dù nguồn cung và nhu cầu đối với các mặt hàng xăng dầu, khí hóa lỏng (LPG) trong nước không có biến động lớn nhưng ảnh hưởng từ giá thế giới nên giá các mặt hàng này tăng cao. Ngoài ra, với nhóm hàng nông sản, thực phẩm do nguồn cung mặt hàng thịt lợn giảm khi quy mô chăn nuôi tại các hộ gia đình giảm mạnh nên nguồn hàng cung cấp cho thị trường chủ yếu từ các trang trại. Riêng mặt hàng gạo, nguồn cung trong nước vẫn ổn định nhưng với nhu cầu thu mua phục vụ xuất khẩu tăng khi Việt Nam trúng nhiều gói thầu liên tiếp khiến giá gạo nguyên liệu tăng mạnh. Thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, trong tháng Năm vừa qua mức bán lẻ hàng hóa đạt 354.049 tỷ đồng, tăng 1,51% so với tháng trước. [Xuất khẩu rau quả Việt Nam và mục tiêu cán mốc 10 tỷ USD] Theo đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ từ đầu năm đến nay đạt 1.752.689 tỷ đồng, tăng 10,05% so với cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý, mức tăng chủ yếu vẫn nhờ các nhóm hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng gia đình và du lịch. Nhận định từ các chuyên gia thương mại cho rằng, thị trường hàng hóa sẽ chịu tác động của các yếu tố như giá các mặt hàng nhóm nhiên liệu, năng lượng, nông sản trên thị trường thế giới vẫn đang biến động khá mạnh. Đặc biệt, mùa nắng nóng, nhu cầu điện nước sinh hoạt tăng nên mặt bằng giá tăng. Nhu cầu một số mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất tăng, tuy nhiên do nguồn cung trong nước vẫn tốt nên giá không có biến động lớn. Để tiếp tục ổn định sản xuất, đảm bảo cân đối cung cầu, các chuyên gia thương mại khuyến cáo Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi sát diễn biến tình hình cung-cầu thóc gạo và có biện pháp xử lý kịp thời khi các mặt hàng này tăng giá đột biến hoặc bất hợp lý. Hơn nữa, yêu cầu Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ đạo các doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên duy trì mức dự trữ lưu thông tối thiểu tương đương 10% số lượng gạo mà thương nhân đã xuất khẩu trong 6 tháng trước đó để đảm bảo nguồn cung. Ngoài ra, các ngành và địa phương nên tiếp tục có sự phối hợp chặt chẽ trong việc điều phối thị trường và giá cả. Mặt khác, đẩy mạnh tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận trong dư luận đối với điều hành của Nhà nước và bình ổn thị trường hàng …
| Tin mới | admin | 04/06/2018 | | Ông Nguyễn Xuân Dương giữ chức quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi | Phát biểu tại lễ trao quyết định, thay mặt Ban Can sự Bộ NN-PTNT, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám đề nghị ông Nguyễn Xuân Dương tiếp tục phát huy truyền thống… Trao quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Xuân Dương, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT) giữ chức quyền Cục trưởng Ngày 30/5, Bộ NN-PTNT đã trao quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Xuân Dương, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT) giữ chức quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi. Đồng thời, Bộ NN-PTNT cũng trao quyết định nghỉ hưu theo chế độ đối với ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi. Phát biểu tại lễ trao quyết định, thay mặt Ban Can sự Bộ NN-PTNT, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám đề nghị ông Nguyễn Xuân Dương tiếp tục phát huy truyền thống của Cục Chăn nuôi, nỗ lực cao nhất để hoàn tốt các nhiệm vụ do Bộ NN-PTNT giao, đặc biệt là trong bối cảnh ngành chăn nuôi nước ta đang trong quá trình triển khai tái cơ cấu, tồn tại những vấn đề hết sức nóng bỏng trong giai đoạn hội nhập, nhất là khối lượng công việc rất lớn trong thời gian tới như Luật Chăn nuôi sắp trình Quốc hội./. LÊ …
| Tin mới | admin | 31/05/2018 | | Tận dụng hiệu quả giá lợn hơi tăng như hiện nay | Giá lợn hơi liên tục tăng mạnh gần đây, đã mang tới niềm vui bất ngờ với người chăn nuôi sau gần 2 năm chờ đợi… Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi khảo sát giá lợn tại Hà Nam Trước việc người dân găm lợn hơi lại để chờ giá lên cao mới bán có nguy cơ tạo giá sốt ảo, chiều 17/5 Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương đã đi khảo sát thực tế tại một số vùng chăn nuôi lợn trọng điểm tại miền Bắc, trong đó có xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục (Hà Nam), nơi được coi là thủ phủ chăn nuôi lợn các tỉnh ĐBSH. Tuy nhiên, thực tế theo khảo sát thì thấy lượng lợn nái, lợn thịt trong dân hiện không còn nhiều. Theo ông Nguyễn Thế Chinh, BQL Chợ đầu mối gia súc gia cầm Hà Nam, hiện giá lợn hơi siêu nạc đang thu mua tại cửa chuồng ở Hà Nam từ 44.000 – 48.000 đồng/kg, riêng lợn lai có giá thấp hơn 3.000 – 4.000 đồng/kg. Ông Chinh khẳng định không có chuyện người dân găm lợn để chờ giá cao, bởi lợn mua bán qua chợ đầu mối vẫn xung quanh 90 – 110 kg/con với lợn siêu nạc, 70 – 80 kg/con với lợn lai. Mặt khác, hàng lợn to từ 1,3 – 1,5 tạ chỉ có Trung Quốc tiêu thụ, trong nước ít ăn loại này, trong khi cả năm nay gần như không bán được lợn sang Trung Quốc. Theo ông Chinh, nếu như trước đây lợn trang trại, lợn của các DN chiếm tỷ trọng nhỏ, còn lại cơ bản là lợn của người dân thì nay ngược lại, chiếm 70% là lợn của CP, Dabaco, Austfeed…, lợn nhỏ lẻ trong dân chỉ còn 30%, hoặc gần như không còn lợn để bán nên ông khẳng định không có chuyện găm lợn đợi giá cao. Về nỗi lo nông dân sẽ ồ ạt tái đàn khi giá lợn tăng, Chủ tịch UBND xã Ngọc Lũ Trần Đình Thiện chia sẻ, chắc phải rất lâu nữa người chăn nuôi lợn mới hết choáng váng. Tại xã này, cao điểm đạt xấp xỉ 200 nghìn đầu lợn/năm, tạo ra một áp lực vô cùng mệt mỏi do ô nhiễm môi trường. Nhưng cơn khủng hoảng giá lợn kéo dài từ năm 2016 đến nay khiến ngành chăn nuôi lợn của xã gần như sụp đổ. Theo ông Thiện, đàn lợn xã Ngọc Lũ giảm tới 80%, song bà con đa phần chưa có ý định tái đàn bởi vẫn còn hoang mang. Bằng chứng là Quỹ tín dụng nhân dân xã đang dư nợ hơn 70 tỷ không có người vay, phải sang chào mời các xã khác vay vốn. Một doanh nghiệp kinh doanh lợn giống tại Bắc Ninh cảnh báo, hiện tại giá lợn giống bắt đầu tăng cao, song do giá rẻ một thời gian dài nên người chăn nuôi lơ là tiêm vacxin khiến một số nơi đã có dấu hiệu bùng phát dịch bệnh. Vào thăm hộ chăn nuôi của bà Trần Thị Cường, thuộc Đội 1 Tân Tùng, xã Ngọc Lũ khi phần lớn chuồng trại đã được dọn dẹp sạch sẽ. Mặc dù rất tiếc khi giá lợn lên 45.000 đồng/kg, nhưng giờ gia đình bà Cường chỉ còn giữ lại được 4 nái và 100 lợn thịt. Cao điểm, bà nuôi hơn 20 nái và 300 lợn thịt, nhưng sau phải bán dần với mức giá 20.000, 30.000 rồi 37.000 đồng/kg. Bà Cường chia sẻ, gia đình bà còn trụ lại được đến ngày hôm nay là nhờ không vay vốn ngân hàng, không mua chịu đại lý cám nên vẫn còn sức cầm cự, trong khi đa phần những hộ vừa vay ngân hàng, vừa mua nợ cám đã phá sản đi làm công nhân. Theo Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương, việc lợn hơi ở mức giá xung quanh 45.000 đồng/kg tốt cho cả người chăn nuôi và người tiêu dùng. Tuy nhiên, làm sao để duy trì sự ổn định mới quan trọng. Ông khuyến cáo, bà con lúc này nên tăng cường cho lợn ăn uống đầy đủ nhất để sớm xuất chuồng. Cần tận dụng tối đa lợn sữa sinh ra hiện nay để nuôi lên lợn thương phẩm. Phải đặc biệt lưu ý việc tiêm vacxin, vệ sinh chuồng trại, phòng chống dịch bệnh nhằm thu được thành quả cao nhất. Riêng với việc tái đàn lợn hậu bị, đề nghị bà con hết sức cân nhắc, bởi phải sau 15 tháng nữa một con lợn hậu bị mới cho ra lợn con thương phẩm để bán, lúc đó chưa biết giá lợn hơi sẽ như thế nào. Trước mắt, bà con cũng không nên có ý định găm hàng chờ giá lên cao mới bán, bởi rất có thể vừa tốn chí phí thức ăn mà chưa chắc đã bán được giá tốt như hiện tại”, ông Nguyễn Xuân Dương. NGUYÊN …
| Tin mới | admin | 21/05/2018 | | Kon Tum: Khuyến khích DN đầu tư vào ‘tam nông’ | (Chinhphu.vn) – Để thu hút DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tỉnh Kon Tum triển khai nhiều cơ chế ưu đãi cùng các chính sách khuyến khích để “lôi kéo”, “giữ chân” nhà đầu tư. Một cơ sở nuôi cá tầm tại huyện Kon Plông. Ảnh:VGP/Bạch Dương Hiện, toàn tỉnh có 501 DN đăng ký đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tập trung ở lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh như trồng cây công nghiệp, trồng rừng, phát triển dược liệu và sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (trồng rau, hoa, quả, chăn nuôi…). Tính đến nay, Kon Tum đã cấp phép đầu tư cho 88 dự án nông nghiệp với tổng vốn đăng ký hơn 19 tỷ đồng, tập trung chủ yếu tại huyện Kon Plông, Ia H’Drai, Sa Thầy, Tu Mơ Rông, Đăk Tô, Kon Rẫy… Ngoài giá trị kinh tế mang lại cho lao động địa phương, thông qua việc liên kết sản xuất với người dân, các DN đã góp phần tạo thu nhập và chuyển giao công nghệ sản xuất cho người dân, đặc biệt là quy trình sản xuất nông nghiệp sạch, hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn. Chính vì vậy, tỉnh Kon Tum đã nỗ lực tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư bằng cơ chế, chính sách thiết thực. Theo đó, để thu hút DN đầu tư vào “tam nông”, bên cạnh việc áp dụng ở mức cao nhất chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng, tỉnh Kon Tum đã dành ưu tiên trong việc bố trí quỹ đất cho các DN xây dựng khu dân cư tập trung để bố trí nhà ở cho các hộ gia đình, cá nhân có hợp đồng lao động. Các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (ngoài khu nông nghiệp công nghệ cao tập trung) được tỉnh hỗ trợ kinh phí đầu tư nhà kính, nhà lưới với mức 50.000 đồng/m2, diện tích hỗ trợ tối đa không quá 300 m2/nhà đầu tư. Dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong khu nông nghiệp công nghệ cao được miễn tiền thuê nhà kính, nhà lưới, hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt trong 3 năm và giảm 50% tiền thuê cho 2 năm tiếp theo… Ngoài ra, nhà đầu tư còn được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai; về thuế; về hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thị trường; hỗ trợ đầu tư cơ sở chăn nuôi gia súc có quy mô nuôi tập trung; được thụ hưởng chính sách tín dụng như chính sách đảm bảo tiền vay, chính sách hỗ trợ lãi suất theo chương trình hỗ trợ các huyện nghèo tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP… Doanh nghiệp đầu tư trong hoa lan ở huyện Kon Plông. Ảnh: VGP/Bạch Dương Để tiếp tục thu hút, mời gọi các DN, nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lê Ngọc Tuấn cho biết địa phương còn tập trung cải thiện môi trường đầu tư thông qua việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tập trung đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư; hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các DN, trong đó có việc tập trung quỹ đất sạch để giao cho nhà đầu tư. Bạch …
| Tin mới | admin | 18/05/2018 | | Thông báo số 3314/TB-BNN-VP ngày 03 tháng 5 năm 2018 Ý kiến kết luận của Thứ trưởng Vũ Văn Tám tại Hội nhị “quản lý và phát triển nuôi chim yến” | …
| Thông báo | admin | 04/05/2018 | | Cần tích nước cho chăn nuôi | (Chinhphu.vn) – Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đề nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh trên khẩn trương chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan chức năng địa phương chủ động triển khai các giải pháp phòng, chống thiếu nước cho vật nuôi, ổn định phát triển sản xuất chăn nuôi. Theo dự báo của Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn Quốc gia, tình trạng thiếu nước, khô hạn có khả năng xảy ra trên diện rộng ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Để chủ động, kịp thời phòng, chống thiếu nước, giảm thiểu thiệt hại cho vật nuôi, các địa phương chỉ đạo các ngành chức năng tập trung nạo vét, khơi thông dòng chảy tại các kênh, mương, khe, suối. Vận động nhân dân chủ động nạo vét và đào ao tích nước cho gia súc; đồng thời thực hiện kế hoạch điều tiết nước thuỷ lợi, nước sông hợp lý cho từng vùng; ưu tiên nước sinh hoạt của người dân và gia súc. Đồng thời, kiểm tra, hướng dẫn cho người chăn nuôi về phương pháp chăm sóc, nuôi dưỡng đàn gia súc, gia cầm tiết kiệm nước trong điều kiện khô hạn; chủ động xây dựng kế hoạch dự trữ và chế biến các loại phụ phẩm sau khi thu hoạch (đặc biệt là rơm khô) làm thức ăn cho gia súc, gia cầm trước và sau mùa khô hạn. Cụ thể, những ngày khô hạn, thực hiện chế độ chuyển bữa ăn, thức ăn tinh, thức ăn hỗn hợp thường chuyển sang cho ăn vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Tăng cường khẩu phần ăn xanh như cỏ tươi, củ, quả và các loại vitamin… tăng cường khẩu phần ăn đạm, giảm tinh bột, mỡ, đường trong khẩu phần ăn đối với từng loại gia súc, gia cầm. Đảm bảo thường xuyên có đủ nước cho gia súc, gia cầm uống, không làm ẩm ướt nền chuồng và khống chế lượng nước uống cho đàn gia súc, gia cầm vừa đủ để tránh lãng phí. Lắp các thiết bị van nước tự động để luôn cấp đủ nước sạch cho gia súc, gia cầm uống nếu có điều kiện… Đối với trâu, bò, dê cừu chăn thả, những ngày trời nắng nóng, buổi sáng đi chăn thả sớm và về sớm; buổi chiều chăn thả muộn, về muộn, đặc biệt chú ý chăm sóc gia súc non. Nếu có điều kiện nên di chuyển đàn gia súc đến nơi có nguồn nước bổ sung và thức ăn tại chuồng. Đối với gia cầm, nuôi nhốt với mật độ vừa phải. Nếu nóng quá có thể thả ra vườn, gốc cây quanh chuồng. Đối với đàn gà đẻ nên tránh nuôi quá béo bằng cách giảm bớt hàm lượng năng lượng trong khẩu, cho ăn thêm rau xanh. Đối với lợn, mật độ nuôi vừa phải, cho uống đủ nước và tiết kiệm. Ứng dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn nếu có điều kiện có thể tiết kiệm 80% nước tắm lợn và nước rửa chuồng trại kết hợp với các biện pháp chống nóng. Thu gom định kỳ chất thải rắn từ chăn nuôi để ủ compost sử dụng nuôi giun quế, giun đỏ để có nguồn đạm bổ sung cho vật nuôi và tiết kiệm nước để làm sạch nền chuồng… Đỗ …
| Tin mới | admin | 03/05/2018 | | Công văn số 659/CN-TACN ngày 27 tháng 4 năm 2018 về việc kiểm soát vấn đề tăng đàn lợn và chất lượng thức ăn chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 27/04/2018 | | Công văn số 568/CN-GSL ngày 12 tháng 4 năm 2018 về việc phòng chống thiếu nước cho gia súc và hướng dẫn chăn nuôi tiết kiệm nước | …
| Công văn | admin | 16/04/2018 | | Cần kiểm soát chặt việc tăng đàn lợn | (Chinhphu.vn) – Hiện nay nguồn cung thịt lợn vẫn đang vượt so với nhu cầu và giá lợn chỉ thấp xung quanh khoảng 29.000-32.000 đồng/kg. Trong khi đó thị trường nhập khẩu chính là Trung Quốc thì đang tăng mạnh nguồn cung nội địa. Cần kiểm soát tăng đàn lợn để hạn chế tối đa thiệt hại cho người chăn nuôi. Ảnh: VGP/Đỗ Hương Thời điềm này năm trước, nguồn cung lợn dư thừa, kéo giá thịt lợn giảm kỷ lục trên phạm vi toàn quốc, đẩy ngành chăn nuôi vào tình trạng khủng hoảng. Bộ NN&PTNT cũng như các đoàn thể từ Trung ương tới địa phương, các doanh nghiệp (DN) đã đồng loạt tham gia chiến dịch “giải cứu” thịt lợn. Hiện tại, sau một năm giải cứu, dù không còn khủng hoảng, song thoát khỏi khủng hoảng nhưng người chăn nuôi vẫn phải ngậm ngùi bán lợn hơi với giá thấp. Thống kê mới đây của Bộ NN&PTNT cho thấy, trong tháng 3, giá lợn hơi trên địa bàn cả nước có xu hướng giảm. Cụ thể, giá lợn tại miền Bắc giảm khoảng 1.000-3.000 đồng/kg, dao động phổ biến từ 30.000-35.000 đồng/kg, sức mua khá chậm. Tại Sơn La, giá lợn hơi giảm 3.000 đồng/kg xuống còn 33.000 đồng/kg. Tại các tỉnh chăn nuôi nhiều như Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định…, giá lợn hơi cũng giảm 2.000 đồng/kg, dao động quanh mức 32.000-33.000 đồng/kg. Ở tỉnh miền Trung như Khánh Hoà, giá giảm 2.000 đồng/kg xuống còn 31.000 đồng/kg. Riêng tại miền Nam, giá lợn hơi toàn khu vực được thu mua trong khoảng 27.000-32.000 đồng/kg. Nhìn nhận về kết quả sau một năm “giải cứu” lợn, ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), cho biết: Thịt lợn được tiến hành “giải cứu” với nhiều biện pháp, trong đó chủ yếu là nhằm kiểm soát việc tăng đàn, tìm đầu ra cho thịt lợn. Kết quả, đến nay đàn lợn nái đã giảm 500 nghìn con, tương đương giảm khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, việc giảm đàn lợn nái phải có thời gian mới ảnh hưởng đến lợn thịt. “Lợn thịt chưa giảm ngay nên cung của mặt hàng này vẫn tương đối lớn so với nhu cầu thị trường. Đáng chú ý, ngoài tỷ lệ lợn sữa xuất được đi các nước thì thịt lợn là mặt hàng tiêu thụ chủ yếu ở thị trường trong nước, xuất khẩu lợn thịt không đáng kể. Giá thịt lợn tháng Tết tăng lên 35.000-36.000 đồng/kg ở miền Bắc, miền Nam tăng lên 32.000-34.000 đồng/kg thì nay lại giảm xuống còn khoảng 31.000-32.000/kg ở miền Bắc và 29.000-30.000 đồng/kg ở miền Nam. Có thể vài tháng nữa, nguồn cung giảm đi, giá thịt lợn sẽ khởi sắc trở lại. Tuy nhiên, không thể kỳ vọng giá lợn tăng cao lên 35.000-36.000 đồng/kg”, ông Dương nói. Liên hệ với nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan, ông Dương thông tin thêm: Hiện nay, thị trường Trung Quốc giá lợn cũng chỉ ở mức 39.000-40.000 đồng/kg, trong khi trước đó giá ở mức 55.000-56.000 đồng/kg. Ở Thái Lan, giá lợn cũng chỉ nhích hơn so với Việt Nam một chút, đang ở mức 32.000-33.000 đồng/kg. Tình hình giá lợn như trên là vấn đề phải cảnh báo để các địa phương cần phải kiểm soát chặt việc tăng đàn. Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) thì đàn lợn của Trung Quốc sẽ tăng hơn 27 triệu con trong năm 2018. Một trong những động lực thúc đẩy Trung Quốc có thể tăng đàn trong năm 2018 là giá lợn hơi đang ở mức cao. Cũng theo dự báo của USDA, sản lượng thịt lợn đã tăng mạnh ngay từ đầu năm 2018, vì lợn đến lứa xuất chuồng. Đây là một tín hiệu không hề tốt đối với các nước vốn là nguồn cung thịt lợn cho Trung Quốc. USDA dự đoán, nhập khẩu thịt heo của Trung Quốc giảm 27% xuống còn 1,6 triệu tấn, so với mức nhập khẩu cao kỷ lục (2,18 triệu tấn) được ghi nhận vào năm 2016. Đỗ …
| Tin mới | admin | 10/04/2018 | | Mô hình nuôi vịt trời ở xứ Quảng, lãi vài trăm triệu đồng/năm | Bằng tâm huyết và áp dụng đúng kỹ thuật, đến nay, số lượng đàn vịt trời của ông đã tăng lên đến gần 7.000 con gồm vịt trời giống, vịt đẻ và vịt bán thương phẩm. Với 600 con vịt trời giống ban đầu, sau gần 2 năm với kinh nghiệm của mình, ông Nguyễn Hòa (64 tuổi, tổ 1, khối phố An Hà Đông, phường An Phú, TP Tam Kỳ, Quảng Nam) đã nhanh chóng phát triển lên đến gần 7.000 con vịt giống, vịt đẻ và thương phẩm, mang lại thu nhập vài trăm triệu đồng mỗi năm. Mô hình nuôi vịt trời của ông Hòa được triển khai từ tháng 9/2016 thuộc dự án chuyển giao kỹ thuật nuôi vịt trời từ Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp TP Tam Kỳ. Theo đó, dự án đầu tư cho hộ nhận nuôi 600 con vịt giống cùng với kỹ thuật chăm sóc, tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập. Vốn là người có kinh nghiệm nuôi vịt đẻ lâu năm, ông Hòa đã mạnh dạn tiếp nhận mô hình về thực hiện. Sau 4 tháng chăm sóc, đàn vịt của ông đã bắt đầu đẻ trứng. Nhằm tăng số lượng đàn, ông Hòa giữ lại tất cả số trứng có được cho ấp nở và tiếp tục chăm sóc. Cứ như thế, số lượng vịt trong trang trại nhà ông càng ngày càng tăng nhanh. Tiếp tục đầu tư, ông Hòa bỏ tiền ra mua thêm máy băm thức ăn để giảm chi phí công lao động đồng thời đặt hàng từ Hà Nội một máy ấp trứng với công suất 2.000 quả/lần. Bằng tâm huyết và áp dụng đúng kỹ thuật, đến nay, số lượng đàn vịt trời của ông đã tăng lên đến gần 7.000 con gồm vịt trời giống, vịt đẻ và vịt bán thương phẩm. “Để có thể phát triển nhanh số lượng đàn thì ban đầu quan trọng nhất là khâu ấp trứng sao cho đạt tỷ lệ cao. Mỗi lần cho trứng vào máy ấp, tôi thường xuyên kiểm tra, theo dõi điều kiện nhiệt độ bên trong và ngoài môi trường. Trứng để vào máy đều được đánh dấu ngày tháng để sau 12 ngày đưa vào bóng đèn kiểm tra xem có đạt không. Nếu không đạt thì loại bỏ ngay. Từ ngày thứ 13 thì trứng đều phải được tưới bằng hệ thống phun sương, mỗi ngày 2 lần. Với cách làm này, tỷ lệ ấp nở đạt rất cao, đến 90%”, ông Hòa cho biết. Cũng theo ông Hòa thì từ lúc vịt nở đế khi xuất chuồng bán thương phẩm mất gần 3 tháng. Lúc này, vịt đạt trọng lượng trưng bình từ 1,6 – 1,7kg với giá bán mỗi con khoảng 160.000 đồng. Với số lượng vịt hiện có trong trại hiện nay, mỗi năm ông Hòa đưa ra thị trường hàng ngàn con vịt giống và vịt thương phẩm. Bên cạnh đó ông còn bán thêm trứng vịt thương phẩm với giá 4.000đ/quả, mang lại cho gia đình thu nhập gần 300 triệu đ/năm. “Khác với vịt nhà, vịt trời có thịt thơm ngon, ít mỡ nên rất được giá, thị trường cũng ưa chuộng nên đến nay tôi không hề lo về đầu ra. Vịt trời có sức đề kháng cao, dễ chăm sóc, ít bệnh hơn vịt nhà, tỷ lệ rủi ro thấp. Không chỉ vậy, từ lúc nhỏ tới khi xuất bán thì vịt trời chỉ cần tiêm 2 liều vacxin là đủ chứ không phải tiêm 4 lần như vịt nhà, do đó chi phí đầu tư nuôi cũng không đáng kể. Thấy hiệu quả kinh tế từ mô hình này nên tôi đang có ý định đào thêm ao nuôi để phát triển lên nữa”, ông Hòa tâm sự. Ông Trần Anh Quân, PGĐ Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp TP Tam Kỳ cho rằng, mô hình nuôi vịt trời của ông Hòa là một trong những mô hình chăn nuôi phát triển nhanh và hiệu quả tại địa phương. “Mặc dù vậy đầu ra của vịt trời thương phẩm chưa cố định, đa số người nuôi tự liên hệ nên chúng tôi cũng khuyến khích ông Hòa nếu tìm được thị trường tiêu thụ thì tiếp tục phát triển. Về lâu về dài, khi đã có đầu ra thực sự ổn định thì sẽ nhân rộng mô hình này ra các hộ dân khác”, ông Quân …
| Tin mới | admin | 05/04/2018 | | ‘Lão nông nghiệp dư’ lập trang trại tổng hợp thu vài tỷ đồng/năm | Là bộ đội phục viên trở về, ông Quân đã chọn mảnh đất Cam Ranh (Khánh Hòa) làm nơi lập nghiệp. Từ 2 bàn tay trắng, sau nhiều năm miệt mài với ý chí làm giàu, ông đã được đền đáp với những thành quả như ý. Phải hẹn trước, chúng tôi mới có thể gặp được ông Nguyễn Hồng Quân (60 tuổi, ngụ phường Cam Lộc, TP Cam Ranh). Tiếp chuyện chúng tôi, ông Quân chia sẻ, vốn quê gốc ở miền biển Quỳnh Lưu (Nghệ An), sau khi xuất ngũ năm 1985, ông đã chọn nơi đây để khởi nghiệp. Ông mạnh dạn vay vốn xây dựng trại tôm giống. Dù tiềm lực kinh tế không đủ mạnh nhưng khi đầu tư xong tôi liền thuê kỹ sư thủy sản về hướng dẫn kỹ thuật SX và bản thân cũng học hỏi thêm. “Từ lợi nhuận thu được ở vụ tôm đầu tiên, tôi bắt đầu mở rộng trại nuôi, mày mò học hỏi thêm kỹ thuật để chủ động hơn trong SX. Cứ như thế, liên tiếp những vụ sau đó, tôi đều trúng đậm”, ông Quân tâm sự. Đến năm 2000 thương hiệu tôm giống của ông Quân càng ngày càng được nhiều người biết đến. Thị trường tiêu thụ tôm giống của ông không chỉ gói gọn ở phía Bắc mà dần dần mở rộng đến các tỉnh miền Trung và miền Nam. Cũng từ năm này, ông Quân quyết định bỏ vốn đầu tư một trại SX tôm quy mô hơn với cơ sở vật chất khang trang, máy móc kỹ thuật hiện đại. “Lúc đó tôi đầu tư hết gần 300 triệu để mở rộng trại SX lên diện tích 1.000m2. Đây quả là một số tiền lớn vào những năm 2000. Tuy nhiên khi đã có được tiềm lực về vốn trong tay thì phải đầu tư thật bài bản, theo hướng lâu dài. Ngoài ra, tôi còn mua thêm 2ha diện tích ao đìa để nuôi tôm giống thương phẩm, giúp tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình”, ông Quân kể. Hiện trại tôm giống và đìa nuôi tôm thương phẩm của ông Quân xuất ra thị trường khoảng 40 triệu con tôm giống và trên dưới 24 tấn tôm thương phẩm, thu lợi nhuận gần 3 tỷ đồng. Ngoài ra, chúng tôi còn được biết, từ những thành công đạt được, ông Quân đã mang những kỹ thuật SX tôm giống ra thị trường phía Bắc và đầu tiên là ở miền biển Quỳnh Lưu. “Có thể nói tôi là người tiên phong trong việc phát triển SX giống tôm ở phía Bắc và đã thành công. Thấy hiệu quả từ cơ sở của tôi nên sau đó nhiều công ty khác ở miền Bắc cũng bắt đầu bước vào SX kinh doanh lĩnh vực này”, ông Quân tâm sự. Dù tuổi đã cao nhưng ông Quân vẫn chưa muốn nghỉ ngơi. Ông bảo, mình còn sức thì cứ làm. Đến lúc nào không còn làm được nữa thì thôi chứ còn làm được mà ở nhà ngồi không cũng buồn. Vì lẽ đó mà vào năm 2012, ông Quân tiếp tục đầu tư 1,2ha diện tích đất rẫy để phát triển thêm mô hình trồng trọt kết hợp chăn nuôi. Từ diện tích đất này, ông Quân lại một mình lặn lội vào miền Nam tìm mua các loại cây trồng phù hợ với thổ nhưỡng của địa phương về canh tác. Hiện trang trại của ông đã có khoảng 400 gốc dừa Xiêm, hơn 300 gốc mít và rất nhiều loại cây ăn quả khác như bưởi, ổi… Ông Quân vui mừng cho biết, trong vụ mít đầu tiên, gia đình ông đã thu hoạch được khoảng 100 quả, bình quân mỗi quả đạt trọng lượng từ 5 – 10kg, giá bán dao động từ 10.000 – 15.000 đồng/kg. Vườn dừa Xiêm cũng đang phát triển rất tốt, chỉ một thời gian ngắn nữa, với số lượng dừa này sẽ mang lại cho ông thu nhập vài trăm triệu đồng mỗi năm. “Trang trại của tôi cũng được đầu tư rất bài bản với hệ thống tường rào vây quanh toàn bộ diện tích và 5 giếng nước. Bỏ ra chi phí lớn để xây dựng và thu nhập chưa được nhiều nhưng tôi xác định hiệu quả của trang trại là ở tương lai. Chắc chắn rằng, với công sức, tiền bạc mình đã bỏ vào thì sẽ mang lại thành công như mong đợi. Có thể xem đây giống như của để dành lúc về già”, ông Quân bộc bạch. Ngoài vườn cây ăn quả, ông Quân còn dành riêng một khu vực để thả nuôi heo rừng lai. Đến nay, đàn heo lai của ông đã có khoảng gần 100 con lớn nhỏ và đang phát triển rất tốt. Trong đàn có khoảng 20 con heo mẹ sinh sản mỗi năm 2 – 3 lứa, mỗi lứa từ 5 – 10 con. Khi heo đạt trọng lượng khoảng 10kg thì xuất bán với giá từ 100.000 – 120.000/kg, trung bình mỗi năm đem lại cho ông thêm nguồn lãi vài chục triệu đồng. “Heo rừng lai có giá ổn định, nguồn thức ăn dễ kiếm và vấn đề đầu ra cũng không phải lo nhiều nên tôi mới chọn con vật này để nuôi. Ngoài bán thịt thương phẩm thì cũng có rất nhiều người hỏi mua giống nữa. Tuy vậy tôi vẫn chưa muốn bán giống để tiếp tục tăng đàn lên. Khi đã có một đàn heo vài trăm con thì mỗi năm sẽ giúp tôi có được một khoản lãi không ít”, ông Quân kỳ vọng. LÊ …
| Tin mới | admin | 30/03/2018 | | Bỉ tuyên bố sẽ điều tra bê vụ bối thực phẩm thịt đông lạnh | Ngày 19/3, giới chức Bỉ cho biết sẽ điều tra vụ gian lận liên quan tới việc dán nhãn các sản phẩm từ thịt của một cơ sở sản xuất phía Nam nước này. Đây được đánh giá là vụ bê bối thực phẩm lớn khi một số quốc gia và vùng lãnh thổ đã nhập những sản phẩm này. Cơ quan An ninh lương thực của Bỉ Afsca cho biết Côte d’Ivoire, Hong Kong (Trung Quốc) và Kosovo đã nhập các sản phẩm từ thịt do Công ty thực phẩm Veviba phân phối cho đến cuối năm 2016, trong đó có cả các sản phẩm bị thay đổi ngày làm đông ướp lạnh. Các quốc gia và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng trên đã được thông báo về vấn đề này. [Nhiều nước ở Nam châu Phi thu hồi thịt nhiễm khuẩn Listeria] Trong khi đó, Bộ trưởng Nông nghiệp Bỉ Denis Ducarme cáo buộc Công ty thực phẩm Viveba đã sử dụng “thủ đoạn mafia” khi phân phối các sản phẩm từ thịt. Vụ việc trên đã gây ra một vụ bê bối ở Bỉ trong bối cảnh ngành thực phẩm châu Âu liên tục gặp rắc rối trong thời gian gần đây. Năm ngoái, vụ bê bối “trứng bẩn” liên quan tới chất Fipronil vốn được sử dụng phổ biến trong các sản phẩm thú y để diệt bọ chét, rận, bọ chó nhưng bị EU cấm sử dụng cho các loại động vật chăn nuôi lấy thịt, như gà đã lan rộng tới khoảng 45 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 26 quốc gia là thành viên của liên minh châu Âu (EU). Hàng triệu quả trứng và các sản phẩm làm từ trứng đã đồng loạt bị rút khỏi kệ hàng tại các siêu thị châu Âu, hàng trăm trang trại gia cầm đã bị đóng …
| Tin mới | admin | 23/03/2018 | | Ngành chăn nuôi: Đang giảm dần các hộ nhỏ lẻ | (Chinhphu.vn) – Sau đợt biến động về giá cả trong ngành chăn nuôi vào cuối năm 2017, hiện nay việc tái đàn đang được các trang trại tiến hành khẩn trương để phục vụ mùa lễ hội. Trang trại lợn giống của tập đoàn CP – Ảnh: VGP/Đỗ Hương Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cho biết hiện nay cơ bản số lượng gia súc, gia cầm biến động ko lớn so với cuối 2017. Cuối 2017, đàn lợn có 27,4 triệu con, sau Tết giảm khoảng 5-6 triệu con. Hiện, các trang trại đang vào đàn nhanh, tái đàn tốt. Giá lợn giống tốt 700.000-750.000, hầu hết tăng ở các khu vực. Hiện nay, nhu cầu lợn giống tăng cao để tái đàn. Quý I, ổn định khoảng 27 triệu con, tại một số địa phương, có một số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ ngừng hoạt động. chỉ giảm số hộ nhỏ nên ko ảnh hưởng đến tổng đàn, chỉ giảm hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, còn các trang trại vẫn phát triển. Còn về gia cầm, trước và sau Tết giá ổn định, ở mức có lợi cho người sản xuất, giá gà ta khoảng 140.000-145.000, trong tết vào khoảng 110.000-125.000, gà lông màu 70.000-80.000. “Nói chung, sản lượng và số lượng gia cầm vẫn ổn định, đến nay đàn gia cầm cũng chỉ biến động quanh khoảng 300 triệu con. Hiện các trang trại đang tái đàn nhanh phục vụ mùa lễ hội”, ông Vân thông tin. Thông tin từ Cục Chăn nuôi cũng cho biết hiện nay, đàn bò sữa khá ổn định, các doanh nghiệp lớn nâng cao số lượng đầu con, phấn đấu đạt 300.000 con trong năm nay. Đàn bò thịt tăng nhẹ lên khoảng 5,4 triệu con. Hiện một số đơn vị đang cho sinh sản và nhập khẩu thêm. Đặc biệt, bò sống nhập từ Australia tăng mạnh, khoảng 30%. Đặc biệt, theo nhìn nhận của lãnh đạo Cục Chăn nuôi, hiện nay đang có sự chuyển biến trong tái cơ cấu sản phẩm. “Trước hết là ngành hàng thịt lợn có nhiều doanh nghiệp lớn như Massan, Dabaco, CP… đang thúc đẩy xuất khẩu thịt lợn. Các doanh nghiệp này đang tái cơ cấu theo chuỗi, xây dựng vùng an toàn dịch, gắn với hệ thống giết mổ hiện đại phục vụ trong nước và xuất khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp lớn đều tập trung giảm giá thành sản phẩm, việc này mọi năm chúng tôi kêu gọi nhiều, nhưng có doanh nghiệp làm có doanh nghiệp không, nhưng năm nay các doanh nghiệp đều làm hết”, ông Vân chia sẻ. Trong năm 2018, Cục Chăn nuôi tiếp tục xác định các vùng chăn nuôi có lợi thế, biến lợi thế thành thời cơ. Cục trưởng Hoàng Thanh Vân cho biết: “Cụ thể như các tỉnh miền núi phía bắc sẽ định hướng sản xuất các loại đại gia súc gắn với trồng cây thức ăn xanh, dươc liệu. Miền trung hiện đang khó khăn nguồn nước nhưng có thể nuôi một số loại như cừu lai, dê… Nam Trung Bộ có thể phát triển nuôi đà điểu. Còn ở miền Nam, ven biển từ Cà Mau – Kiên Giang đã nuôi thành công vịt biển, tới đây sẽ phát triển mạnh hơn, ĐBSCL tập trung chăn nuôi lợn, gia cầm… từ những định hướng đó sẽ hình thành các vùng sản xuất chăn nuôi lớn”. Đỗ …
| Tin mới | admin | 21/03/2018 | | Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền ngành chăn nuôi | Sáng nay (9/3) tại Cục Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT), Báo Nông nghiệp Việt Nam (NNVN) và Cục Chăn nuôi đã tổ chức lễ ký kết hợp tác chương trình tuyên truyền ngành chăn nuôi năm 2018. Lãnh đạo hai đơn vị tại lễ ký Ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi đánh giá: Năm 2017, trong bối cảnh ngành chăn nuôi gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đợt giá lợn xuống thấp, báo chí nói chung, đặc biệt là Báo NNVN đã luôn gắn bó, đồng hành với ngành chăn nuôi trong việc phản ánh, thông tin tình hình thị trường, qua đó đã tạo được sự cộng hưởng mạnh mẽ của xã hội cũng như giúp các cơ quan quản lí về ngành chăn nuôi tìm ra được các giải pháp tháo gỡ. Bên cạnh đó, Báo NNVN cũng đã rất tích cực bám sát, kịp thời phản ánh về diễn biến thị trường, giới thiệu những mô hình, cách làm hay và hiệu quả của ngành chăn nuôi trên cả nước… Sự đóng góp của báo chí nói chung, nhất là Báo NNVN đã góp phần không nhỏ giúp ngành chăn nuôi năm 2017 vẫn giữ được sự tăng trưởng khá ở mức 3,05% về giá trị và 2,93% về GDP. Năm 2018, ông Vân cho biết ngành chăn nuôi đã và đang có những dấu hiệu phục hồi tích cực. Hiện tại, Bộ NN-PTNT cũng đang quyết liệt triển khai các giải pháp cụ thể nhằm phấn đấu đưa thịt lợn tiến tới XK. Cùng với đó, nhiều sản phẩm chăn nuôi như trứng, sữa, thịt lợn sữa, thịt gà XK cũng đang có những sự tăng trưởng tốt. Về công tác quản lí, Cục Chăn nuôi đang đẩy mạnh việc thực hiện thí điểm quản lí, truy xuất nguồn gốc sản phẩm chăn nuôi tới tận gốc bằng công nghệ điện toán đám mây, tiến tới nhân rộng ra toàn quốc, đi đôi với hỗ trợ các địa phương xây dựng các vùng SX, tháo gỡ khó khăn và hạ giá thành cho sản phẩm chăn nuôi để tăng sức cạnh tranh. “Hiện tại, đã có những mô hình chăn nuôi lợn giá thành chỉ 26 nghìn đồng/kg, ngang ngửa với Mỹ và thấp hơn cả Thái Lan…” ông Vân cho biết. Tiếp nối năm 2017, năm 2018, Cục Chăn nuôi mong muốn Báo NNVN sẽ tiếp tục đồng hành, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn nữa cùng Cục Chăn nuôi nói riêng, ngành chăn nuôi Việt Nam nói chung nhằm góp phần ổn định SX, tiến tới bước phát triển mới cho ngành. Ông Hoàng Thanh Vân (phải) cùng Tổng biên tập Nguyễn Mạnh Thường ký kết hợp tác năm 2018 Tại lễ ký kết, ông Nguyễn Mạnh Thường, Tổng biên tập Báo NNVN đã đánh giá cao những nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức của ngành chăn nuôi trong năm 2017, đồng thời cam kết sẽ tiếp tục phối hợp với Cục Chăn nuôi cũng như ngành chăn nuôi cả nước, đồng thời ưu tiên và tạo điều kiện tốt nhất về thông tin của ngành trên Báo NNVN. LÊ …
| Tin mới | admin | 14/03/2018 | | ASEAN là thị trường xuất khẩu nông sản lớn của Hàn Quốc | Báo cáo ngày 7/3 của Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc cho hay Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm thịt và nông sản lớn thứ hai của Hàn Quốc trong năm 2017, trong bối cảnh quan hệ thương mại giữa Hàn Quốc và Trung Quốc bị tác động tiêu cực bởi căng thẳng ngoại giao. Theo Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc, tổng giá trị xuất khẩu các nông sản và sản phẩm của ngành chăn nuôi Hàn Quốc sang 10 nước thành viên ASEAN trong năm 2017 đạt 1,22 tỷ USD, tăng 9,9% so với năm 2016. Trong đó dâu tây, lúa mỳ, nho, sâm tươi và thịt gà là các mặt hàng xuất khẩu chính. [Nông sản Việt xuất sang Hàn Quốc tăng mạnh từ khi FTA có hiệu lực] Đây là lần đầu tiên ASEAN vượt qua Trung Quốc về giá trị nhập khẩu các sản phẩm kể trên từ Hàn Quốc, do căng thẳng ngoại giao giữa Seoul và Bắc Kinh liên quan tới việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) của Mỹ tại Hàn Quốc. Hiện Nhật Bản hiện vẫn là thị trường tiêu thụ các sản phẩm thịt và nông sản xuất khẩu nhiều nhất của xứ sở Kim chi, với kim ngạch lên tới 1,36 tỷ USD trong năm ngoái. Trong lúc Trung Quốc xếp vị trí thứ ba, với tổng kim ngạch là 1,1 tỷ USD. Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc cho biết tổng kim ngạch xuất khẩu và các mặt hàng nông sản khác của Hàn Quốc trong năm 2017 tăng 7,1% so với năm …
| Tin mới | admin | 09/03/2018 | | Bộ NN&PTNT tập trung triển khai Nghị quyết 01 của Chính phủ | (Chinhphu.vn) – Bộ NN&PTNT phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tối thiểu 3,0%. Tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới 37% và 52 huyện đạt tiêu chí nông thôn mới. Tỉ lệ che phủ rừng đạt 41,6%. Đây là những mục tiêu quan trọng được Ban cán sự Đảng Bộ NN&PTNT đưa ra trong Nghị quyết số 431-NQ-BCSĐ, triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2018 của Chính phủ. Bộ NN&PTNT phấn đấu tăng trưởng tối thiểu 3,0% trong năm 2018 – Ảnh: Minh họa Theo đó, các tổ chức cơ sở đảng, các đơn vị thuộc Bộ, các Sở NN&PTNT cần tập trung quán triệt đầy đủ, nghiên cứu sâu sắc nội dung Nghị quyết số 01/NQ-CP đến toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong Bộ, ngành, tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong triển khai, thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Trong năm 2018, Bộ NN&PTNT phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tối thiểu 3,0%, trong đó lĩnh vực trồng trọt đạt tối thiểu 2,2%, chăn nuôi 3%, thủy sản 5,5%, lâm nghiệp 6%. Kim ngạch xuất khẩu khoảng 40 tỷ USD, trong đó các sản phẩm trồng trọt trên 21 tỷ USD, thủy sản khoảng 9 tỷ USD, lâm nghiệp trên 8,5 tỷ USD, các mặt hàng khác 1,5 tỷ USD. Tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới 37% và 52 huyện đạt tiêu chí nông thôn mới. Tỉ lệ che phủ rừng đạt 41,6%. Đây là những chỉ tiêu quan trọng được Ban cán sự Đảng Bộ NN& PTNT nêu ra tại Nghị quyết số 431-NQ-BCSĐ ngày 8/1/2018 triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2018 của Chính phủ. Để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ trong năm 2018, Nghị quyết nêu ra nhiều nhóm giải pháp, trong đó có các giải pháp chủ yếu như: Tiếp tục hoàn thiện thể chế để phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Tập trung xây dựng, trình Chính phủ cho ý kiến và trình Quốc hội khóa 14 xem xét thông qua Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi; sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Phòng, chống thiên tai. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là Luật Thủy lợi, Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản (sửa đổi) và các luật, pháp lệnh, nghị quyết có liên quan. Hoàn thành tốt các văn bản quy phạm pháp luật được giao. Hoàn thiện, đổi mới hoạt động, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hệ thống tổ chức quản lý ngành từ trung ương đến địa phương theo Nghị định 15/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết (năm 2018 phấn đấu giảm 2,5% biên chế công chức, viên chức so với năm 2017). Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 và Kế hoạch cải cách hành chính của Bộ giai đoạn 2016 – 2020. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính; tiếp tục rà soát, bãi bỏ, cắt giảm 50% thủ tục hành chính và các điều kiện kinh doanh cụ thể, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Tạo sự chuyển biến căn bản về xây dựng Chính phủ điện tử theo Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ, trọng tâm là tổ chức cung cấp dịch vụ công trực tuyến, hải quan một cửa liên thông; tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trong sản xuất kinh doanh, quản lý nhà nước. Tập trung thúc đẩy thực hiện cơ cấu lại ngành gắn với xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 16/11/2017 của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 tại các Quyết định: số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016, số 1760/QĐ-TTg ngày 10/11/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế hợp tác để thu hút đầu tư xã hội vào nông nghiệp, nông thôn; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Tiếp tục tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, hoàn thành sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện Đề án phát triển 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả giai đoạn 2017-2020… Tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách, giải pháp khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Thực hiện nhiệm vụ, giải pháp đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại. Huy động các nguồn lực để phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, hợp tác sử dụng có hiệu quả, bền vững nguồn nước xuyên quốc gia; bảo vệ môi trường sinh thái. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và vệ sinh an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm nghiệm, thanh tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm nông lâm thủy sản; thực hiện kiểm tra tận gốc hàng nông lâm thủy sản nhập khẩu tạo thuận lợi cho việc thông quan tại cửa khẩu và giảm tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra trong giai đoạn thông quan. Đỗ …
| Tin mới | admin | 22/01/2018 | | Quyết định số 48/2017/UBND ngày 13 tháng 11 năm 2017 phê duyệt Quy hoạch chăn nuôi, cơ sở giết mổ, gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2017-2020 tầm nhìn đến năm 2030 | …
| Quy hoạch chi tiết | admin | 22/01/2018 | | Thông tư số 01/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/01/2018 Ban hành Danh mục giống vật nuôi được sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam | …
| Thông tư | admin | 17/01/2018 | | Cải thiện môi trường, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp | Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Công Tuấn, năm nay, Bộ tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thu hút nhiều hơn nữa doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là đầu tư sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và hỗ trợ khởi nghiệp. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Công Tuấn. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ tiếp tục rà soát, đơn giản hóa 508 thủ tục hành chính, đề xuất bãi bỏ, đơn giản hóa 287 thủ tục (chiếm 56,5%). Cùng với đó, rà soát 345 điều kiện đầu tư kinh doanh, đề xuất bãi bỏ, sửa đổi 118 điều kiện đầu tư kinh doanh (chiếm 34,2%); rà soát, đề xuất cắt giảm 18/40 thủ tục hành chính kiểm tra chuyên ngành; giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính từ 24 giờ theo Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật xuống còn 4 giờ đối với đường bộ, đường hàng không và 10 giờ đối với đường biển. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng triển khai giai đoạn 2 cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN tại năm đơn vị thuộc Bộ. [Công nghiệp hóa thành công khi nông nghiệp, nông thôn thành công] Theo Thứ trưởng Hà Công Tuấn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ thường xuyên rà soát, tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về thủ tục hành chính để phát hiện, loại bỏ những quy định không phù hợp và ban hành các thủ tục hành chính đáp ứng yêu cầu quản lý và tạo sự thông thoáng cho doanh nghiệp. Vì vậy, việc cải cách hành chính đạt sự đồng thuận cao của cơ quan quản lý Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy, cải các hành chính là việc quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã tích cực triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đã tập trung rà soát các điều kiện đầu tư, kinh doanh, cắt giảm những điều kiện đầu tư, kinh doanh không còn phù hợp hoặc gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời, Bộ triển khai các hoạt động hỗ trợ kết nối doanh nghiệp theo cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, kết nối với doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xã hội phát triển, nhất là doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo… Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng xây dựng, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 cho tám thủ tục hành chính đối với hai nhóm dịch vụ công tại Cục Bảo vệ thực vật và Cục Chăn nuôi; triển khai xây dựng bộ phận “một cửa” điện tử hỗ trợ doanh nghiệp, mục “Hỏi-Đáp” trên Cổng thông tin điện tử của Bộ và trang tin điện tử của các cơ quan/đơn vị thuộc Bộ để tiếp nhận và giải quyết kịp thời kiến nghị. Nhờ đó, lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp ngày càng lớn mạnh và tâm huyết đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hơn, đang trở thành nòng cốt trong chuỗi giá trị nông sản. Năm 2017, đã có 1.955 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 20% so với bình quân 3 năm giai đoạn 2014-2016, đưa tổng số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp lên 5.700 (đã trừ số doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động). Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn đã chọn nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ làm hướng đi chính và để đầu tư hàng tỷ USD, đạt được những thành công rõ rệt. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, từ trên 1.000 thủ tục hành chính, thời gian qua qua, Bộ đã rà soát, đơn giản hóa còn 508 thủ tục hành …
| Tin mới | admin | 10/01/2018 | | Thông tư số 28/2017/TT-BNNPTNT ngày 25/12/2017 ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Thông tư | admin | 10/01/2018 | | Công nghiệp hóa thành công khi nông nghiệp, nông thôn thành công | Năm 2017 được xem là một dấu mốc mang tính bước ngoặt của ngành Nông nghiệp Việt Nam, điển hình là việc xoay trục phát triển các mặt hàng nông sản chủ lực, thay vì coi sản xuất lúa gạo là hàng đầu thì nay chuyển sang ưu tiên phát triển những ngành hàng có giá trị cao. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN) Với hướng đi đó, năm vừa qua ngành đã xác lập nhiều dấu mốc kỷ lục mới xuất khẩu thủy sản lần đầu tiên cán mốc 8,4 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản đạt 8 tỷ USD. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu ngành hàng rau quả đạt 3,45 tỷ USD, tăng 40,5%, bỏ xa kim ngạch xuất khẩu gạo khoảng 2,6 tỷ USD. Lập kỳ tích trong khó khăn Nông nghiệp cũng là một trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đặc biệt quan tâm với việc trực tiếp tham dự, chỉ đạo gần 20 cuộc họp liên quan trong năm 2017. Sáng 4/1, giao nhiệm vụ cho ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Thủ tướng đặt yêu cầu cần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ nét hơn trong cơ cấu ngành nông nghiệp, tập trung phát triển nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, tận dụng tốt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cùng với đó là nâng cao hơn nữa năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với nâng cao năng lực sản xuất, đời sống vật chất tinh thần của người dân và đưa năng suất lao động nông nghiệp lên cao hơn. Nhìn lại năm 2017, một năm nhiều biến động với những kỷ lục về thiên tai với 16 cơn bão, 4 cơn áp thấp, cùng với đó là mưa lớn, lũ ống, lũ quét… xảy ra trên diện rộng ở khắp các vùng miền của cả nước, đã gây thiệt hại gần 60.000 tỷ đồng, tác động lớn đối với tăng trưởng nông nghiệp của đất nước. Tuy nhiên, vượt lên tất cả những khó khăn, thách thức kể trên, cả hệ thống chính trị, các thành phần kinh tế, bà con nông dân đã vào cuộc ráo riết, quyết liệt, tập trung để thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, luôn tìm tòi đưa ra giải pháp nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu và thị trường. Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường: “Chưa bao giờ ngành Nông nghiệp được ưu tiên, tập trung chỉ đạo như bây giờ. Chưa bao giờ các thành phần kinh tế quan tâm đến lĩnh vực nông nghiệp như hiện nay.” Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho thấy, năm 2017, đã có gần 2.000 doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực nông lâm thủy sản, tăng 3,8% so với năm 2016, nâng số doanh nghiệp hoạt động trong ngành lên hơn 5.600 doanh nghiệp. Với sự quan tâm rất cao đó, năm 2017 toàn ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã vượt khó để đi lên với những thành tựu rất đáng trân trọng: Tốc độ tăng trưởng ngành đạt 2,94%, vượt mục tiêu so với Chính phủ đề ra là 2,84%. Trong đó xuất khẩu nông lâm thủy sản, Chính phủ đề ra là 32-33 tỷ USD, đến hết năm 2017 đã đạt con số 36,37 tỷ USD, vượt tới hơn 4 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước và thặng dư tuyệt đối của ngành đạt 8,55 tỷ USD, tăng hơn 1 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2016. Cùng với đó, chương trình xây dựng mục tiêu nông thôn mới đã đạt 2.884 xã, đạt 32,3% – vượt kế hoạch được giao là 31%. [Khánh Hòa đẩy mạnh triển khai phong trào vệ sinh yêu nước] Đóng góp quan trọng vào thành công của đất nước Phát biểu kết luận hội nghị, Thủ tướng hoan nghênh các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan nghiên cứu, các địa phương và các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp tham dự buổi làm việc và đóng góp ý kiến tâm huyết, nhằm mục tiêu phát triển ngành nông nghiệp nước nhà. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN) Đề cao vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, Thủ tướng cũng băn khoăn bởi “Một đất nước tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” với hơn 70% người dân sinh sống ở nông thôn, trên 42% lao động ở nông thôn nhưng nông nghiệp chỉ chiếm 15% trong cơ cấu kinh tế. “Sự nghiệp công nghiệp hóa của Việt Nam thành công khi nông nghiệp, nông thôn thành công,” Thủ tướng nhấn mạnh và đánh giá, trong bối cảnh thiên tai, lũ lụt kỷ lục, nhưng năm 2017, ngành Nông nghiệp vẫn đạt, vượt những mục tiêu quan trọng và vượt cao so với 2016. Trong thành tích kinh tế-xã hội vượt trội của 2017, ngành Nông nghiệp đã đóng góp quan trọng vào thành công của đất nước. GDP toàn ngành nông nghiệp đạt 2,9%, gấp trên hai lần năm 2016, đóng góp 0,44% vào mức tăng trưởng của cả nước, nhất là một số ngành hàng rau, củ quả, đồ gỗ, hạn chế nhập siêu-cội nguồn lạm phát của nền kinh tế. Nông nghiệp công nghệ cao bước đầu thành công. Công tác phòng, chống thiên tai hiệu quả, kịp thời hơn với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với vai trò chủ trì của ngành nông nghiệp, “Tôi rất ấn tượng về việc chỉ đạo này,” Thủ tướng nói. Cùng với đó, ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia vào nông nghiệp và nhiều doanh nghiệp đã thành công. “Phi doanh nghiệp, không có hợp tác xã kiểu mới thì khó thành công trong nông nghiệp,” Thủ tướng nói và cho rằng, chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới được thực hiện tốt, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện. “Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường không những uy tín với Chính phủ mà rất uy tín với người dân,” Thủ tướng biểu dương Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường với nhiều nỗ lực, tâm huyết, đổi mới ngành Nông nghiệp Việt Nam. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng biểu dương Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các địa phương trong cả nước, các tổ chức, các cá nhân, doanh nghiệp và bà con nông dân đã tham gia phát triển nông nghiệp Việt Nam, đóng góp vào thành công của bức tranh nông nghiệp nước nhà. “Không ngủ quên trên vòng nguyệt quế” “Không ngủ quên trên vòng nguyệt quế,” nhắc lại chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị cuối năm giữa Chính phủ với các địa phương, Thủ tướng đi sâu phân tích những tồn tại, hạn chế và đề nghị Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn cần có những biện pháp tháo gỡ, không chủ quan, tự mãn với những thành tích bước đầu. Theo đó, tái cơ cấu chưa mạnh mẽ, trồng trọt theo thói quen vẫn phổ biến ở nông thôn. Thói quen sản xuất tiểu nông, đơn giản, nhỏ lẻ vẫn phổ biến. Vi phạm trong nông, lâm nghiệp, thủy sản còn lớn, điển hình như tình trạng đánh bắt hải sản bất hợp pháp vẫn diễn ra, bị EU đánh thẻ vàng. “Vấn đề này cần chỉ đạo mạnh mẽ,” Thủ tướng yêu cầu. Hay tình trạng phá rừng, nhất là rừng tự nhiên vẫn xảy ra ở nhiều địa phương, một số bộ, đơn vị vẫn lấy rừng phòng hộ làm những việc không cần thiết, Thủ tướng phê bình. Bên cạnh đó, năng suất lao động còn thấp, vẫn là “bài toán đau đầu của đất nước, của các ngành, các cấp” mà chưa có hướng ra. Tình trạng sản xuất nông nghiệp còn bị động, được mùa, rớt giá vẫn là nỗi lo của Quốc hội, của lãnh đạo đất nước, Thủ tướng quan ngại. Cho rằng, một bộ phận không nhỏ đời sống của ngư dân, diêm dân, vùng núi, vùng cao, vùng dân tộc còn khó khăn, nhất là sau thiên tai, Thủ tướng đề nghị: “Phải thấy nỗi đau đau đáu này để tiếp tục dành nguồn lực xây dựng nông thôn Việt Nam.” Tại hội nghị, Thủ tướng cũng nhắc nhở một số ngành, địa phương còn tư tưởng lơ là, coi nhẹ, chưa thực sự quan tâm đến phát triển nông nghiệp. Về vấn đề an toàn thực phẩm, Thủ tướng thẳng thắn nêu rõ vẫn còn tình trạng “rau hai luống, lợn hai chuồng.” “Người nông dân cần làm gương bảo vệ mình và bảo vệ người tiêu dùng,” Thủ tướng đề nghị. Đưa ra những chỉ tiêu và nhấn mạnh đây là trách nhiệm nặng nề của ngành nông nghiệp trong năm 2018, Thủ tướng nêu rõ, mục tiêu tăng trưởng nông nghiệp đạt 3%; trong đó nông nghiệp 2,25%, lâm nghiệp 6,5% và thủy sản 5%. Xuất khẩu khoảng 40 tỷ USD; 52 huyện và 37% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Trên tinh thần đó, Thủ tướng chỉ đạo ngay từ đầu năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương cần thực hiện ngay các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và đặc biệt Nghị quyết 01 của Chính phủ, quán triệt, thực hiện nghiêm phương châm 10 chữ: Kỷ cương, Liêm chính, Hành động, Sáng tạo, Hiệu quả; xây dựng chỉ tiêu cụ thể làm định hướng phấn đấu. Xử lý đồng bộ một bước những vấn đề bức xúc trong nông nghiệp, nông thôn; quản lý tốt đầu vào, tăng năng suất, mở rộng thị trường và quan tâm hơn nữa đến môi trường ở nông thôn. Với định hướng đó, Thủ tướng đề nghị ngành Nông nghiệp tiếp tục đổi mới tư duy, sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh, sạch, thông minh, “làm những gì có lợi nhất cho thị trường.” Cơ cấu hợp lý giữa chăn nuôi và trồng trọt, nhân rộng những mô hình sáng tạo, cách làm hay ở các địa phương, mô hình trao đổi nghề nông như hội quán nông dân ở Đồng Tháp. Thủ tướng cũng lưu ý tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp, đẩy mạnh xây dựng thương hiệu sản phẩm đối với các mặt hàng nông sản chủ lực, nghiên cứu thị trường trước khi sản xuất và đặc biệt chủ động hơn nữa trong phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tổ chức tốt nguồn hàng, đảm bảo an toàn thực phẩm để giữ vững và mở rộng thị trường; song song với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Các địa phương phải chủ động, sáng tạo đầu tư sản xuất nông nghiệp “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười,” Thủ tướng mong …
| Tin mới | admin | 05/01/2018 | | Doanh nghiệp và ngân hàng cùng chung hoài bão về thực phẩm sạch | Ngay từ đầu năm 2017, khi tham gia khởi động một dự án sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh phải có vốn cho nông nghiệp công nghệ cao và yêu cầu nâng hạn mức gói hỗ trợ cho đầu tư nông nghiệp công nghệ cao từ 60.000 tỷ đồng lên 100.000 tỷ đồng với cơ chế triển khai cho vay ưu đãi để khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta. Một góc dây chuyền hiện đại của Công ty Ba Huân do Vietcombank Hà Tây đầu tư. (Nguồn: Vietcombank) Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ngày 25/04/2017, Ngân hàng Nhà nước đã công bố quyết định về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch với gói tín dụng 100.000 tỷ đồng và đã nhận được sự ủng hộ tích cực của các ngân hàng thương mại với cam kết cho vay các dự án có hiệu quả với lãi suất ưu đãi ở mức phù hợp. Từ một chủ trương đúng… Triển khai thực hiện chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại đã tích cực chủ động triển khai gói tín dụng này. Theo đó, đối tượng áp dụng gồm pháp nhân và cá nhân có nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất – kinh doanh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Ngân hàng thương mại cho vay đối với các nhu cầu vốn ngắn, trung và dài hạn của khách hàng để thực hiện chương trình bằng VND với lãi suất cho vay thấp hơn từ 0,5%-1,5%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường. Nguồn vốn cho vay do các ngân hàng thương mại cân đối từ nguồn vốn huy động trên thị trường. Đặc biệt, khách hàng vay vốn theo chương trình được sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo đảm cho khoản vay theo quy định của pháp luật. [Triển khai mô hình chăn nuôi an toàn: Giải pháp căn cơ “dẹp” chất cấm] Tại buổi hội thảo “Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng nông nghiệp công nghệ cao” do Hội Nông dân Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Nông nghiệp tổ chức vừa qua, số liệu thống kê mới nhất cho thấy tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch đến nay đạt gần 32.339 tỷ đồng, trong đó cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là 27.737 tỷ đồng, chiếm gần 86% tổng dư nợ. … đến việc đầu tư đồng vốn tới đúng địa chỉ Qua sự giới thiệu của anh Phan Dương, Giám đốc Vietcombank Hà Tây, chúng tôi tìm đến Công ty Ba Huân Hà Nội tại huyện Phúc Thọ – Hà Nội. Đây là một trong nhiều doanh nghiệp thuộc đối tượng triển khai của gói tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ. Tiếp bước thành công của thị trường phía Nam, tháng 4/2017, công ty Ba Huân tiếp cận thị trường miền Bắc bằng việc khánh thành Nhà máy xử lý và chế biến trứng gia cầm công nghệ cao tại thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ (Hà Nội). Đây là nhà máy đầu tiên của Ba Huân tại miền Bắc, có quy mô 2 ha, tổng vốn đầu tư trên 100 tỷ đồng, công suất xử lý 65.000 quả trứng/giờ bằng dây chuyền thiết bị nhập khẩu, xử lý trứng tự động hóa 100% của hãng Moba – Hà Lan (hãng đứng đầu thế giới về các thiết bị xử lý trứng gia cầm). Quy trình xử lý trứng qua các công đoạn: rửa trứng, sấy khô, chiếu tia UV diệt khuẩn, soi tìm trứng hư, áo một lớp dầu bảo vệ giúp ngăn ngừa sự xâm nhập của vi khuẩn từ bên ngoài vào trong trứng đồng thời in nhãn hiệu và ký hiệu để truy xuất nguồn gốc từng quả trứng (khi cần), cân trọng lượng và đóng hộp thành phẩm. Với quy trình này, trứng được xử lý và diệt khuẩn đạt chuẩn quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tất cả các công đoạn được tự động hóa hoàn toàn 100%. Là người có gần 20 năm gắn bó với nông nghiệp, nông thôn, ông Phạm Thanh Hùng, Giám đốc công ty Ba Huân Hà Nội chia sẻ: Ở phương Tây và các nước tiên tiến, trước khi được bán trên thị trường, trứng gia cầm (gà, vịt) phải trải qua xử lý, kiểm định của các nhà máy. Ở Việt Nam, trứng gia cầm cũng được người dân sử dụng thường xuyên cho các bữa ăn hàng ngày nhưng ít ai biết rằng trên bề mặt quả trứng có tới khoảng 7.000 lỗ thông khí, khi được gà vịt đẻ ra quả trứng tiếp xúc với nhiều thứ như phân, tạp chất, đất bùn… rất dễ bị vi khuẩn thẩm thấu vào trong trứng, ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe người tiêu dùng. Với suy nghĩ làm sao để có được một sản phẩm nông nghiệp sạch, vừa để thỏa mãn niềm đam mê gắn bó với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, giúp người dân tìm được những hướng đi làm giàu kinh tế gia đình đồng thời bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho người tiêu dùng Việt Nam, công ty Ba Huân đã quyết định đầu tư gần 1.000 tỷ đồng để khởi nghiệp, xây dựng, phát triển và tạo dựng nên thương hiệu như ngày nay. Đầu tư rất lớn vào thiết bị xử lý trứng nhưng Ba Huân luôn tâm niệm thực hiện trách nhiệm xã hội, giá thành trứng luôn bằng hoặc giảm hơn so với giá thị trường. Bên cạnh đó công ty còn tạo nguồn thu ổn định cho người nông dân bằng việc ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Không chỉ hỗ trợ đầu ra, công ty Ba Huân còn hỗ trợ kỹ thuật đầu vào, hỗ trợ con giống và phương thức canh tác, chăm sóc cho nông dân đạt hiệu quả cao nhất. Giao dịch tại Vietcombank. (Nguồn: Vietcombank) Và thành công của những con người tâm huyết Sau 6 tháng đi vào hoạt động, nhà máy đã góp phần thu mua một lượng không nhỏ trứng gia cầm trên địa bàn Hà Nội và các địa phương lân cận phục vụ chế biến. Điều này góp phần mở rộng đầu ra cho các hộ chăn nuôi và thúc đẩy chương trình sản xuất sạch trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đến nay, Ba Huân miền Bắc đã có được thị trường rộng rãi cho sản phẩm của mình trên địa bàn Thủ đô, đó là các doanh nghiệp phân phối trứng tại các hệ thống trung tâm thương mại, siêu thị Lotte; Big C; Metro; Fivimart; Vinmart; Aon…; các doanh nghiệp dùng nguyên liệu trứng trong sản xuất thực phẩm; một số các cửa hàng liên kết dân doanh trên địa bàn thành phố… Sản phẩm của công ty khá đa dạng, không chỉ là trứng sạch mà còn có thêm các loại thịt gà, xúc xích, bánh flan, chân gà chua cay, gà viên, trứng vịt muối, trứng vịt bắc thảo… được sản xuất theo công thức gia truyền phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng miền Bắc. Nói về thành công bước đầu của Ba Huân miền Bắc, ông Phạm Thanh Hùng nhận định thành công của doanh nghiệp không thể thiếu sự gắn bó, đồng hành của ngân hàng bởi đồng vốn tín dụng chính là mạch máu giúp doanh nghiệp hoạt động. Khi tiếp cận thị trường Hà Nội, chính ông Hùng đã trực tiếp tới làm việc với Vietcombank Hà Tây. Không hẹn mà gặp, cả 2 ông chủ doanh nghiệp đều có sự đồng cảm về các lĩnh vực trong ngành nông nghiệp. Chính vì vậy, việc thẩm định đã được Vietcombank tiến hành với quy trình đầy đủ, chặt chẽ, và nhanh chóng, dự án được đánh giá có tính khả thi cao để được cấp tín dụng cho sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó là lãi suất hợp lý, cạnh tranh cùng các dịch vụ ưu đãi đi kèm đã khiến Ban giám đốc công ty và các lãnh đạo cấp cao của Công ty Ba Huân miền Nam quyết định hợp tác với Vietcombank Hà Tây. Từ đây, Vietcombank Hà Tây cam kết cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn lên tới 60 tỷ đồng và 20 tỷ đồng vốn ngắn hạn. Trong suốt quá trình hợp tác, hai bên không ngừng trao đổi về kinh nghiệm cũng như những thuận lợi, khó khăn để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác. Ngoài nguồn vốn tín dụng, Vietcombank Hà Tây còn triển khai các dịch vụ cho Ba Huân như: trả lương qua tài khoản; mở thẻ tín dụng; thực hiện thanh toán tiền hàng cho đối tác của công ty. Thành công bước đầu giúp Ba Huân miền Bắc đảm bảo việc làm cho 60 lao động (đều là người địa phương) với thu nhập bình quân trên 4,5 triệu đồng/tháng; tạo nguồn thu ổn định cho hàng trăm người nông dân, đối tác liên kết. Quan trọng hơn, niềm ước mơ mong muốn đem nguồn thực phẩm sạch đến với ngày một nhiều người dân Thủ đô hơn đã thành hiện thực. Dự kiến trong thời gian tới, Ba Huân sẽ mở rộng sản xuất với việc đầu tư thêm nhà máy với dây chuyền hiện đại, tốc dộ xử lý đạt tới 120.000 quả trứng/giờ. Đại diện Vietcombank Hà Tây khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành để Ba Huân mở rộng thị trường, đáp ứng mục tiêu phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo chủ trương của Chính phủ, hướng tới lợi ích của nhà nông – doanh nghiệp – ngân hàng – và toàn xã …
| Tin mới | admin | 03/01/2018 | | Tăng cường đảm bảo an toàn thực phẩm trong dịp Tết 2018 | Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có Chỉ thị tăng cường đảm bảo an toàn thực phẩm trước, trong và sau Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018. Chế biến giò – thực phẩm được ưa chuộng trong dịp Tết. (Ảnh minh họa: Vũ Sinh/TTXVN) Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn yêu cầu các địa phương, đơn vị trực thuộc tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn và giám sát các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản tuân thủ các quy định đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Hướng dẫn người dân nhận biết sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, sản phẩm đã được kiểm soát và chứng nhận an toàn thực phẩm. Cùng với đó, đẩy mạnh việc giới thiệu, quảng bá sản phẩm an toàn, địa chỉ bán sản phẩm an toàn để người tiêu dùng tiếp cận, lựa chọn. Tổ chức kiểm tra, thanh tra đột xuất về an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông-lâm-thủy-sản có nguy cơ cao, tiêu thụ nhiều trong dịp Tết để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các sản phẩm không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để người dân biết, tránh sử dụng. Các đơn vị tổ chức phải tiếp nhận, xử lý và thông tin kịp thời về các sự cố mất an toàn thực phẩm xảy ra tại địa phương. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định và công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng các cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm và sản phẩm thực phẩm không đảm bảo an toàn. Các Chi cục Chăn nuôi-Thú y tăng cường thanh, kiểm tra điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm, đặc biệt là việc làm dụng chất cấm, thuốc an thần tại các cơ sở giết mổ, kinh doanh sản phẩm động vật và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Công an và các đơn vị liên quan tổ chức trinh sát, điều tra, thu thập thông tin, thanh tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm./. BÍCH HỒNG …
| Tin mới | admin | 26/12/2017 | | Thịt có thể cũng phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt? | VTV.vn – Mới đây, một quỹ đầu tư tài chính đưa ra ý tưởng đánh thuế cao lên thịt nhằm giảm tiêu thụ thịt cừu, thịt bò, từ đó giảm lượng khí thải có hại cho Trái đất. Hồng Quang (PV Đài THVN thường trú tại châu Âu) Mỗi năm, một con bò thải ra một lượng khí dioxit carbon ngang bằng lượng khí thải của một chiếc xe hơi chạy quãng đường hơn 9.000 km. Cả châu Âu có khoảng 24 triệu con bò, tổng lượng khí gây hiệu ứng nhà kính mà ngành chăn nuôi thải ra là một con số ấn tượng. Nếu tính cả quá trình chế biến thịt, thì cừu và bò đứng đầu bảng về khí thải có hại cho Trái đất, cao hơn nhiều so với lợn và gà. Tờ Người bảo vệ của Anh trích nghiên cứu cho biết ngành chăn nuôi toàn thế giới đóng góp tới 15% tổng lượng khí gây hiệu ứng nhà kính. Nhiều nước đã tăng thuế đánh vào than đá và dầu mỏ, hạn chế sử dụng năng lượng hóa thạch để giảm lượng khí thải có hại cho Trái đất. Một bài báo khẳng định, thuế thịt trước sau cũng không thể tránh khỏi. Bài báo cho hay, ngoài khí thải từ những con bò, chăn nuôi còn gây ô nhiễm nguồn nước; ăn nhiều thịt dẫn tới các bệnh như béo phì, tiểu đường và ung thư, làm cho xã hội tốn kém thêm. Vậy nên, đánh thuế công nghiệp thịt dường như như sẽ là chuyện tất yếu. Tuy nhiên, ý tưởng này bị nông dân và ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phản ứng dữ dội. Thịt phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, chịu chung số phận với thuốc lá, than đá và đường kính là khó chấp nhận. Thế nhưng, theo một tờ báo, 2 năm trở lại đây, Nghị viện các nước Đan Mạch, Đức, Trung Quốc và Thụy Điển đã từng thảo luận xem có nên tạo ra sắc thuế mới đánh vào ngành chăn nuôi hay không. Một tờ báo Ireland cho rằng không nên dùng thuế cao đánh vào thịt để hạn chế tiêu thụ, có cách tốt hơn, vừa hạn chế tiêu thụ thịt, lại vừa có lợi cho nông dân. Bài báo trích lời ông Tổng Thư ký Hiệp hội Chăn nuôi Ireland, rằng “nếu chính phủ không muốn người dân ăn nhiều thịt thì hãy giúp nông dân tăng giá thịt, biến thịt thành sản phẩm cao cấp”, như vậy, tiêu thụ thịt vẫn giảm, mà thu nhập của nông dân không giảm. Theo bài báo, đánh thuế tiêu thụ đặc biệt lên thịt sẽ là “cực kỳ khó”, và trong ngắn hạn chuyện này khó có thể thành hiện thực. Nguồn: …
| Tin mới | admin | 25/12/2017 | | Cải cách hành chính: Tăng lợi thế kinh doanh nông nghiệp | (Chinhphu.vn) – Với tốc độ làm việc khẩn trương và chặt chẽ, nhiều văn bản dưới Luật thuộc ngành nông nghiệp sẽ được đảm bảo kiểm soát để không nảy sinh “giấy phép con”. Đây là chia sẻ của bà Nguyễn Thị Kim Anh, Vụ trưởng vụ Pháp chế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) trong buổi tọa đàm “Cắt giảm thủ tục hành chính – Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp” chiều nay (19/12) tại Cổng TTĐT Chính phủ. Toàn cảnh buổi tọa đàm. Ảnh: VGP/Nhật Bắc Câu hỏi đầu tiên xin được dành cho bà Kim Anh, bà có thể cho biết khái quát công tác rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính (TTHC) trong thời gian vừa qua của Bộ NN&PTNT? Bà Nguyễn Thị Kim Anh: Việc cắt giảm điều kiện kinh doanh được xác định là công việc thường xuyên. Sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ đã tạo động lực cho Bộ NN&PTNT nỗ lực trong vấn đề này. Ngay từ tháng 8/2017, Bộ NN&PTNT đã thành lập Tổ công tác bao gồm thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ để tiến hành công tác rà soát, cắt giảm. Tổ công tác do một Thứ trưởng thường trực phụ trách, chỉ đạo trực tiếp, tạo sự lan tỏa từ cơ quan đơn vị hành chính, sự nghiệp cũng như tất cả tổ chức thực hiện TTHC. Thưa ông, Cục Chăn nuôi được đánh giá là đơn vị có khối lượng giao dịch thủ tục hành chính khá lớn trong Bộ NN&PTNT, vậy công tác rà soát và cắt giảm đã được tiến hành như thế nào tại đơn vị ông? Ông Nguyễn Xuân Dương: Thực hiện chủ trương của Chính phủ, trong lĩnh vực chăn nuôi, nhất là vấn đề thủ tục XNK thức ăn chăn nuôi, Cục đã cắt giảm cơ bản những nội dung có liên quan đến thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp (DN). Công tác kiểm soát chất cấm trong thức ăn chăn nuôi đang đạt kết quả cao. Chúng tôi đã áp dụng xã hội hóa kiểm tra, xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi. Hiện nay, toàn bộ khâu kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu áp dụng dịch vụ công mức độ 4. Theo Tổng cục Hải quan đánh giá, đây là một trong những lĩnh vực tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN nhập khẩu. Việc áp dụng cơ chế một cửa quốc gia đã giúp giảm tới 60-70% thời gian kiểm tra và thông quan hàng hóa, đồng thời tiết giảm nhiều chi phí cho DN. Cũng giống như Cục Chăn nuôi, Bảo vệ thực vật là ngành có sự tương tác với người dân và doanh nghiệp rất thường xuyên. Vậy quan điểm cải cách hành chính và cắt giảm thủ tục được tiến hành tại đơn vị ông như thế nào, thưa ông? Ông Nguyễn Trọng Ái: Nhiệm vụ trọng tâm năm 2017, cũng như năm 2018 tới đây là tiếp tục rà soát để cắt giảm về thời gian thực hiện, rà soát TTHC liên quan đến kiểm tra chuyên ngành; tiếp tục triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 theo các mục tiêu của Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP về tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020. Bà Nguyễn Thị Kim Anh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ NN&PTNT. Ảnh: VGP/Nhật Bắc Lâu nay vẫn có dư luận cho rằng nhiều thủ tục hành chính là một “nguồn sống” của các đơn vị chuyên ngành. Vậy là đơn vị đầu mối về cắt giảm thủ tục hành chính của Bộ NN&PTNT, bà có thể chia sẻ những khó khăn trong công tác này không? Bà Nguyễn Thị Kim Anh: Là đơn vị đầu mối thực hiện cải cách thủ tục hành chính, chúng tôi xác định là phải làm, trong đó việc quan trọng nhất là cách làm. Được sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của lãnh đạo Bộ, chúng tôi đề xuất cách làm, trước hết là tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị có liên quan trực tiếp đến các thủ tục hành chính. Sau đó, chúng tôi có sự tham vấn của chuyên gia, DN thực sự thường xuyên thực hiện thủ tục hành chính. Trên cơ sở đó, chúng tôi đi khảo sát, làm việc trực tiếp với DN, đến tận cửa khẩu để tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc, đảm bảo tính minh bạch, khách quan. Trên cơ sở rà soát toàn bộ các văn bản tránh chồng chéo, từ đó chúng tôi đưa ra kiến nghị vừa đảm bảo yêu cầu quản lý, vừa tạo sự thông thoáng cho DN. Vì vậy, việc cải cách thủ tục hành chính đạt sự đồng thuận cao của cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng DN. Cũng tương tự như quan điểm trên, Chăn nuôi và Bảo vệ thực vật là hai ngành có giao dịch thủ tục lớn với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các ông triển khai việc cắt giảm thủ tục của ngành có vấp phải phản ứng gì của chính cán bộ của mình không? Ông Nguyễn Xuân Dương: Cục Chăn nuôi đã ý thức việc rà soát cắt giảm tạo điều kiện thuận lợi cho DN từ lâu, phải tạo môi trường tốt nhất cho DN phát triển nhưng không thể bỏ được yếu tố quản lý. Thủ tướng yêu cầu cải cách cắt giảm thủ tục hành chính, tôi thấy rất quan trọng. Đương nhiên, quan trọng nhất là tạo môi trường cho DN có điều kiện kinh doanh thuận lợi, song phải giữ được quản lý nhà nước để đảm bảo không thể đưa ra sản phẩm không chất lượng, không an toàn vào Việt Nam vì nông sản Việt Nam chắc chắn xuất khẩu. Chúng tôi cắt thủ tục hành chính rườm rà để DN có môi tường thuận lợi nhất kinh doanh phát triển nhưng phải tạo ra hàng rào kỹ thuật cần thiết để bảo vệ sản xuất trong nước, phát triển hài hòa với nông nghiệp các nước. Ông Nguyễn Trọng Ái: Việc triển khai cắt giảm TTHC không vấp phải phản ứng gì của cán bộ ngành, ngược lại toàn thể cán bộ, công chức của Cục bảo vệ thực vật luôn ý thức được rằng giảm được một bước nhỏ trong TTHC, rút ngắn được thời gian làm TTHC là có lợi cho DN, nhất là tại các cửa khẩu khi có cạnh tranh về thời gian, áp lực giao hàng sớm sẽ được giá hơn. Về lĩnh vực Chăn nuôi, độc giả Nguyễn Hanh (Ứng Hòa, Hà Nội) có chia sẻ: Theo tôi được biết hiện nay có chương trình cấp phát tinh cho người chăn nuôi lợn nhỏ lẻ để cải tạo giống. Nhưng trên thực tế chúng tôi là người sản xuất thì thấy chương trình này hiệu quả không cao vì người chăn nuôi nhỏ lẻ giờ hầu như không nhận nữa, như vậy có phải là lãng phí không thưa ông? Ông Nguyễn Xuân Dương: Trong Quyết định 50 Thủ tướng Chính phủ, một trong những suy nghĩ của cơ quan quản lý là những người chăn nuôi nông hộ có nguy cơ cao không nhận được giống tốt. Chăn nuôi trang trại, công nghiệp giống không tốt không nuôi nhưng chăn nuôi nhỏ lẻ lại khác. Chính sách thực hiện Quyết định 50 là hỗ trợ tinh cho hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Đó là chủ trương tốt. Khi sử dụng tinh để thụ tinh cho lợn, đạt nhiều hiệu quả, giúp chất lượng di truyền cao, hạn chế vấn đề sinh bệnh. Những hộ chăn nuôi lớn đã lo được, nhưng nhỏ chưa lo được thì Chính phủ khuyến khích địa phương hỗ trợ cho chăn nuôi nông hộ có tinh cho gia súc. Nếu địa phương thấy không cần thiết thì thực hiện chính sách khác. Một nông hộ không thể nuôi con đực mà chỉ có phối cho một con cái thì dùng thụ tinh nhân tạo. Ông Nguyễn Xuân Dương, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN&PTNT. (Nguồn internet) Độc giả Trần Thị Mai (): Tôi được biết Bộ NN&PTNT đang tiến hành rà soát, chuẩn hóa danh mục hàng hóa nông nghiệp kèm mã HS để tiện lợi việc xuất, nhập khẩu. Vậy danh mục này đã được ban hành chưa? Chúng tôi có thể tra cứu ở đâu? Có lưu ý gì đặc biệt khi sử dụng danh mục và các mã này không? Bà Nguyễn Thị Kim Anh: Từ ngày 13/7/2017, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai sang làm việc với Bộ NN&PTNT có thông tin về việc mã số HS phải sớm ban hành, có hiệu lực từ 1/1/2018 để hài hòa mã số HS của ASEAN. Bộ NN&PTNT đã giao cho Vụ Pháp chế và các đơn vị của bộ rà soát, ban hành Thông tư. Thời gian không dài nhưng phải ban hành khối ượng danh mục lớn. Tuy nhiên, chúng tôi đã triển khai với sự quyết tâm cao, tinh thần nếu không ban hành được thì hàng hóa nông nghiệp xuất nhập khẩu sẽ khó khăn khi áp mã HS. Chúng tôi cảm ơn Tổng cục Hải quan đã hỗ trợ ngành nông nghiệp xem xét, ban hành Thông tư này. Đến ngày 15/11/2017, Bộ NNPTNT đã hoàn thành công việc này, ban hành Thông tư 24 ban hành mã HS với hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến đến lĩnh vực nông nghiệp do Bộ NN&PTNT quản lý. Thông tư này là một trong những thông tư đồ sộ nhất, chứa 7.698 dòng hàng, liên quan tất cả các lĩnh vực quản lý vật tư nông nghiệp như thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật… Trong quá trình thực hiện việc áp mã HS này, nếu có khó khăn gì, DN, người dân có thể liên hệ thông tin về Bộ NN&PTNT hoặc qua Bộ Tài chính để xem xét giải quyết. Tôi có nghe thông tin đối với kiểm tra ATTP đối với những sản phẩm nhập khẩu có nguồn gốc thực vật, Cục BVTV đang xây dựng phương thức quản lí theo chuỗi. Tức là tiến hành đánh giá, giám sát ngay từ khâu sản xuất trên đồng ruộng hay tại nước xuất khẩu. Vậy việc này đã được triển khai như thế nào? Chúng tôi nhập khẩu sản phẩm nguồn gốc thực vật cần có những giấy tờ gì? Ông Nguyễn Trọng Ái: Hiện tại, việc kiểm tra an toàn thực phẩm nhập khẩu có nguồn gốc thực vật đang được thực hiện theo Thông tư 12/2015/TT-BNNPTN. Cục Bảo vệ thực vật đang xây dựng Dự thảo sửa đổi Thông tư 12. Về tổng thể thông tư này sửa đổi theo hướng thống nhất theo chuỗi từ sản xuất ban đầu, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, buôn bán, nhập khẩu, xuất khẩu. Mỗi công đoạn trong chuỗi đều được quy định rõ ràng phù hợp với thông lệ quốc tế về quản lý an toàn thực phẩm. Kiểm tra an toàn thực phẩm nhập khẩu, cơ sở hoạt động của hoạt động kiểm tra hàng NK căn cứ Thông tư 12 và Nghị định 38/2012/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định 38 sắp được thay thế bằng nghị định mới. Vì vậy, Thông tư 12 được sửa đổi cũng theo nghị định mới này. NK sản phẩm thực vật cần bản chính giấy đăng ký kiểm tra an toàn thực phẩm. Hàng hóa kiểm tra an toàn thực phẩm gồm: Rau, củ, quả nguyên liệu chế biến như củ cải khô, hành thái lát… Về đăng ký danh mục thức ăn chăn nuôi, các DN sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước cho rằng có sự bất công vì với các doanh nghiệp FDI, họ có thể chỉ cần một danh mục thức ăn chăn nuôi cho tất cả các nhà máy khắp cả nước. Nhưng các DN Việt Nam phải cần mỗi danh mục thức ăn chăn nuôi cho từng địa điểm nhà máy, đặc biệt cho các nhà máy thuê gia công. Ông lý giải việc này như thế nào? Ông Nguyễn Xuân Dương: Như vậy là sai, bởi vì chứng nhận hợp quy sản phẩm thức ăn chăn nuôi được lưu hành phải chứng nhận từng nhà máy, không phân biệt DN FDI hay nội địa. Đăng ký sản phẩm thức ăn chăn nuôi lưu hành, một căn cứ theo Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn. DN hay người sản xuất được tự công bố tiêu chuẩn áp dụng, phù hợp. Công bố thế nào là quyền của DN nhưng phải xác nhận được với Nhà nước. Thứ hai là, việc đăng ký sản phẩm này phải đáp ứng được quy chuẩn kỹ thuật do Nhà nước ban hành. Đây là quy định chung cho mọi DN. Việc “tin học hóa” các thủ tục là bước đầu để xử lý các hồ sơ hành chính trên môi trường mạng, vậy triển khai việc này các ông có thấy có vướng mắc gì từ trong đơn vị và phản hồi của người dân và doanh nghiệp về công tác này như thế nào? Ông Nguyễn Trọng Ái: Tin học hóa về cải cách TTHC hiện nay của Cục Bảo vệ thực vật thực hiện hai phương thức là cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 và Cơ chế một cửa Quốc gia. Với Cơ chế một cửa Quốc gia: Thủ tục cấp Giấy chứng nhận Kiểm dịch thực vật nhập khẩu, quá cảnh và vận chuyển nội địa được thực hiện trên hệ thống Cơ chế một cửa Quốc gia thí điểm từ 2015, 2016 và mở rộng từ đầu năm 2017 cho tất cả các chi cục Kiểm dịch thực vật vùng thuộc Cục. Hiện nay, mỗi tháng giải quyết cấp 15.000-16.000 hồ sơ. Với thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu phân bón, tiếp nhận nhiệm vụ mới là quản lý phân bón từ Cục Trồng trọt từ tháng 3/2017. Sau khi Nghị định 108/2017/NĐ-CP về quản lý phân bón được ban hành, phần mềm này đã được nâng cấp. Thủ tục cấp giấy chứng nhận Kiểm dịch thực vật xuất khẩu/tái xuất khẩu bắt đầu thực hiện trên hệ thống Cơ chế một cửa Quốc gia thí điểm tại Chi cục Bảo vệ thực vật vùng I, II, III. Trong năm 2018, Cục sẽ triển khai mở rộng thủ tục cấp giấy chứng nhận KDTV XK/tái XK cho 6 chi cục Kiểm dịch thực vật vùng, dự kiến xong trong nửa đầu năm 2018. Về triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến: Cục đã cung cấp mức độ 3, 4 cho 5 nhóm TTHC cấp giấy chứng nhận đăng ký thuốc Bảo vệ thực vật trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ từ năm 2017. Từ đầu năm đến nay đã tiếp nhận và giải quyết hơn 2.000 hồ sơ. Ông Nguyễn Trọng Ái, Phó Chánh văn phòng Cục Bảo vệ thực vật, Bộ NN&PTNT – Ảnh: VGP/Nhật Bắc Trong năm vừa qua, đã có 3 bộ Luật được thông qua liên quan đến ngành NN&PTNT đó là Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản và Luật Thủy Lợi. Công tác xây dựng các văn vản dưới luật sẽ được thực hiện như thế nào? Làm thế nào để hạn chế nảy sinh các “giấy phép con” từ các văn bản dưới luật? Bà Nguyễn Thị Kim Anh: Trong năm 2017 , Bộ NN&PTNT trình Chính phủ tới 3 luật. Khi trình các dự thảo luật phải kèm theo văn bản hướng dẫn thi hành. Khi Luật vừa được Quốc hội thông qua xong, chúng tôi đã xác định nội dung để hướng dẫn thi hành phải chuẩn bị. Thực hiện theo hướng từng nội dung. Ví dụ, Luật Lâm nghiệp có 3 Nghị định , 7 Thông tư. Luật Thủy sản 1 Nghị định, 1 Quyết định của Thủ tướng và 8 Thông tư. Chúng tôi tham mưu cho lãnh đạo bộ để trình Thủ tướng ban hành danh mục văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, đảm bảo ban hành đồng thời với thời điểm có hiệu lực của luật. Chúng tôi cũng đảm bảo các văn bản này đồng bộ với văn bản cấp trên và các văn bản có liên quan khác, đồng thời phù hợp với thực tiễn. Trình tự ban hành rất chặt chẽ, có sự tham gia góp ý của cộng đồng DN, người dân, sự giám sát thẩm định của cơ quan tư pháp, sự thẩm tra của Văn phòng Chính phủ. Với cách làm như vậy, chúng tôi tin rằng sẽ đảm bảo việc không có phát sinh giấy phép con. Xác định triển khai các TTHC là công việc thường xuyên của đơn vị nên hiện nay, mỗi đơn vị đều có một bộ phận tiếp nhận TTHC. Chính phủ cũng đang xây dựng Nghị định về cơ chế một cửa, một cửa liên thông để giải quyết TTHC. Ví dụ, tại Bộ NN&PTNT chỉ có một bộ phận một cửa để giải quyết toàn bộ TTHC của Bộ. Cụ thể, bộ phận này sẽ tiếp nhận TTHC nhưng không thể giải quyết mà các đơn vị chức năng liên quan sẽ giải quyết. Điều này không ảnh hưởng gì đến tiến độ, mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho DN. Sắp tới Nghị định của Chính phủ ban hành sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho DN, người dân thực hiện các TTHC. Cổng TTĐT Chính …
| Tin mới | admin | 20/12/2017 | | Công văn số 2048/CN-KHTC ngày 07/12/2017 của Cục Chăn nuôi về việc tăng cường công tác chỉ đạo phát triển chăn nuôi, ổn định thị trường | …
| Công văn | admin | 11/12/2017 | | Bộ NN&PTNT quyết tâm triển khai nhiều thủ tục qua mạng | (Chinhphu.vn) – Ngày 8/12, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội nghị “Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến”. Theo đó, trong tháng 12 này Bộ sẽ cập nhật nhiều thủ tục hành chính trên Cổng dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) . Ông Ngô Hồng Giang, Chánh Văn phòng thường trực Cải cách hành chính Bộ NN&PTNT Ảnh: VGP/Đỗ Hương Theo ông Ngô Hồng Giang, Chánh Văn phòng thường trực Cải cách hành chính của Bộ NN&PTNT, Cổng DVCTT của Bộ đã cập nhật, công khai các thủ tục hành chính (TTHC) thuộc phạm vi quản lý của Bộ thực hiện cung cấp trực tuyến mức độ 2 và đang thực hiện cung cấp DVCTT mức độ 4 đối với 18 TTHC tại 5 đơn vị thuộc Bộ: Cục Chăn nuôi, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Trồng trọt, Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và Thủy sản và Tổng cục Thủy sản. Kết quả tiếp nhận, xử lý hồ sơ cung cấp 18 DVCTT mức độ 4 thực hiện tại 5 đơn vị có tổng số hồ sơ tiếp nhận và xử lý là 4.482 hồ sơ. Riêng DVCTT theo Cơ chế một cửa quốc gia, Bộ NN&PTNT đã cung cấp DVCTT mức độ 3 đối với 11 TTHC thực hiện tại 7 đơn vị thuộc Bộ gồm: Tổng cục Thủy sản, Tổng cục Lâm nghiệp, Cục Chăn nuôi, Cục Thú y, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Trồng trọt, Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và Thủy sản. Đến nay, Bộ NN&PTNT đã tiếp nhận, xử lý giải quyết hồ sơ cấp phép điện tử qua Cổng một cửa quốc gia với tổng số 158.857 hồ sơ, trong đó: đã xử lý, giải quyết và cấp phép/Giấy chứng nhận điện tử 149.720 hồ sơ, đang tiếp tục xử lý 9.137 hồ sơ. Ông Trần Quốc Tuấn, Chánh Văn phòng Bộ NN&PTNT đề nghị cán bộ của ngành nông nghiệp cần tập làm quen với việc giải quyết các thủ tục, số liệu, văn bản… qua mạng và mở rộng áp dụng mô hình chữ ký số để giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường mạng. Sắp tới, Bộ NN&PTNT sẽ lựa chọn 10 thủ tục hành chính để bổ sung vào danh mục DVCTT mức độ 3, 4. – Ảnh: VGP/Đỗ Hương Trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục triển khai đối với 23 TTHC mới tại 5 đơn vị thuộc Bộ: Cục Thú y, Chăn nuôi, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt và Tổng cục Thủy sản. Đồng thời hướng dẫn, vận dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận ứng dụng công nghệ thông tin thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia tại Bộ và các đơn vị. Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục triển khai xây dựng, cung cấp DVCTT mức độ 3, 4 đối với những TTHC các đơn vị đăng ký lựa chọn ưu tiên: Cục Thú y, Cục Chăn nuôi, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Trồng trọt, Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và Thủy sản, Tổng cục Thủy sản. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn chủ trì hội nghị cho rằng mấu chốt của việc giảm phiền hà cho công dân và doanh nghiệp, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn là cải cách thủ tục hành chính. Mặc dù đã đạt chỉ tiêu mà Chính phủ giao song bộ NN&PTNT vẫn đặt quyết tâm tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính một cách triệt để và áp dụng hình thức giải quyết thủ tục, hồ sơ qua mạng. Trong năm 2018 sẽ lựa chọn 10 thủ tục hành chính để bổ sung vào danh mục dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3 và 4 đối với các thủ tục có tần suất hồ sơ cao. Đỗ …
| Tin mới | admin | 11/12/2017 | | Công tác kiểm tra, giám sát ATTP được triển khai đồng bộ | (Chinhphu.vn) – Ngày 30/11, hội nghị toàn quốc sơ kết 2 năm thực hiện Chương trình phối hợp số 90 giữa Chính phủ và Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam về an toàn thực phẩm (ATTP) được tổ chức tại Đà Nẵng. Theo báo cáo tại hội nghị, qua 2 năm triển khai Chương trình, các bộ ngành liên quan và tổ chức chính trị-xã hội từ Trung ương đến địa phương đã nghiêm túc, có kế hoạch triển khai thực hiện đến tận cơ sở. Đến nay đã có 18 tỉnh, thành phố ký kết chương trình phối hợp về ATTP giữa UBND và Uỷ ban MTTQ Việt Nam gồm: Hà Nội, Cà Mau, Lào Cai, Điện Biên, Đà Nẵng, Hà Nam, Thừa Thiên-Huế, Vĩnh Long, Tây Ninh, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bến Tre, Ninh Thuận, Phú Thọ, Thái Bình, Tiền Giang và 37 tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch 2 năm (2016-2017) về thực hiện Chương trình số 90. Theo báo cáo của 41/63 tỉnh, thành phố trên cả nước, nhìn chung công tác phối hợp liên ngành trong kiểm tra, giám sát được thực hiện đồng bộ, chất lượng kiểm tra, giám sát được bảo đảm quy trình chặt chẽ. Qua kiểm tra đã phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm về ATTP của các cơ sở chế biến thực phẩm, phục vụ ăn uống, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng chất cấm trong chăn nuôi… Công tác xây dựng và nhân rộng mô hình được các địa phương chú trọng triển khai. Đến nay đã xây dựng được 346 mô hình về ATTP ở các địa phương. Một số tỉnh, thành phố xây dựng được nhiều mô hình ATTT như Cà Mau có 150 mô hình, trong đó có các mô hình trồng rau an toàn trong nhà lưới, rau an toàn và dưa hấu đạt chuẩn VietGap. Bình Thuận có 14 mô hình chuỗi (trái thanh long, rau an toàn, thịt sạch, mủ trôm, thuỷ sản). Đắk Nông xây dựng được 6 mô hình kiểm soát điều kiện ATTP (1 mô hình về bếp ăn tập thể; 3 mô hình rau củ sạch; 1 mô hình lúa; 1 mô hình đệm lót sinh học trong chăn nuôi). Quảng Bình có các mô hình trồng rau sạch; bếp ăn sạch; rau sạch tại nhà; tổ phụ nữ kinh doanh thực phẩm an toàn. Thái Bình có mô hình nuôi thuỷ sản an toàn có bao tiêu sản phẩm; mô hình nuôi thâm canh cá rô phi đơn tính theo hướng VietGap… Tại hội nghị, bà Trương Thị Ngọc Ánh, Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam đề nghị thời gian tới Mặt trận các cấp, các tổ chức chính trị-xã hội cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát ATTP nhằm góp phần giữ gìn sức khỏe cho nhân dân. Lưu …
| Tin mới | admin | 01/12/2017 | | Gỡ bỏ 12 thủ tục sản xuất kinh doanh chăn nuôi, thủy sản | (Chinhphu.vn) – Trong phương án đơn giản hóa đối với nhóm thủ tục hành chính liên quan đến sản xuất, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật trên cạn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) dự kiến sẽ bãi bỏ 12 thủ tục hành chính và quy định trong lĩnh vực này. Nhiều thủ tục về Thẩm định điều kiện vệ sinh thú y sẽ được bãi bỏ – Ảnh: VGP/Đỗ Hương Các thủ tục và quy định này nằm rải rác trong nhóm thủ tục hành chính (TTHC) từ khi nuôi/sử dụng con giống đến phân phối, xuất khẩu. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, tổng số có 83 TTHC trong nhóm này. Trong đó: Lĩnh vực Chăn nuôi có 23 TTHC, lĩnh vực Thú y có 43 TTHC và lĩnh vực Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản có 17 TTHC. Trong số 12 thủ tục xem xét bãi bỏ gồm 7 thủ tục ở lĩnh vực Chăn nuôi, 1 thủ tục trong lĩnh vực Thú y và 4 thủ tục của lĩnh vực Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản. Lĩnh vực Nông lâm sản và Thủy sản dự kiến bãi bỏ 4 thủ tục – Ảnh: VGP/Đỗ Hương Một số thủ tục điển hình được xem xét bãi bỏ như: Cấp giấy phép nhập khẩu giống vật nuôi ngoài danh mục giống vật nuôi được phép sản xuất, kinh doanh; Cấp giấy phép nhập khẩu tinh, phôi giống vật nuôi; Kiểm tra giảm chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có thời hạn; Các thủ tục về thẩm định điều kiện vệ sinh thú y (được quy định các dạng cơ sở cụ thể) do Trung ương và địa phương quản lý… Nhiều thủ tục trong sản xuất, kinh doanh chăn nuôi được bãi bỏ – Ảnh: VGP/Đỗ Hương Ngoài 12 thủ tục đề nghị bãi bỏ trong nhóm thủ tục liên quan đến sản xuất, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật trên cạn, Bộ NN&PTNT đang dự kiến đơn giản hóa 49 thủ tục khác trong lĩnh vực này. Ước tính tỷ lệ cắt giảm sau đơn giản hóa TTHC nhóm này khoảng 27%, tổng chi phí tuân thủ TTHC tiết kiệm được hơn 483 tỷ đồng/năm. Đỗ …
| Tin mới | admin | 29/11/2017 | | Thứ trưởng Lê Quốc Doanh: Nhiều cơ hội phát triển nông nghiệp vùng Tây bắc | Ngày 23/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Đại sứ quán Australia tại Việt Nam tổ chức Hội thảo Nghiên cứu và phát triển nông nghiệp vùng Tây Bắc với chủ đề “Núi cơ hội cho phát triển”. Thứ trưởng Lê Quốc Doanh phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Thành Trung/BNEWS/TTXVN Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh cho biết, mặc dù sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có, đất đai phì nhiêu và khí hậu đa dạng, có điều kiện để phát triển nông lâm nghiệp; du lịch và hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung như: cây ăn quả, chè, cà phê, rừng nguyên liệu giấy, cây dược liệu… Tuy nhiên, vùng Tây Bắc chưa có nhiều bứt phá trong phát triển nông nghiệp do gặp khó khăn về hạ tầng, địa hình hiểm trở… nên chưa phát huy được lợi thế. “Muốn phát triển bền vững toàn bộ nền kinh tế của vùng Tây Bắc bao gồm cả các vấn đề an ninh lương thực, nguồn nước, nguồn đất, phòng tránh thảm hoạ và ứng phó với biến đổi khí hậu thì cần phải được tiếp tục nghiên cứu với những cách tiếp cận mới để có cơ chế, chính sách liên vùng phù hợp, đem lại hiệu quả nhất” – Thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhấn mạnh. Thời gian qua, Chính phủ Australia thông qua Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Australia (Aciar) đã hợp tác với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương tăng cường nghiên cứu mang lại các tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần giảm nghèo và cải thiện thu nhập của nông dân, đặc biệt là vùng Tây Bắc. Các dự án này đã hướng tới giải quyết các vấn đề an toàn thực phẩm; sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng ít tài nguyên và bền vững; liên kết thị trường, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Ông Craig Chittick – Đại sứ Australia tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Thành Trung/BNEWS/TTXVN Ông Craig Chittick – Đại sứ Australia tại Việt Nam cho hay, trong vòng 20 – 30 năm qua Việt Nam có những bước phát triển mạnh và là một trong những quốc gia dẫn đầu về thành tích xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, ở các khu vực vùng Tây Bắc, tỷ lệ giảm nghèo vẫn cao và còn rất nhiều vấn đề khó để giải quyết. Chính phủ Australia trong thời gian qua đã và đang nỗ lực hỗ trợ phối hợp với Chính phủ Việt Nam trong công tác này. Chính phủ Australia hiện đang thiết kế một chương trình hỗ trợ bình đẳng giới trị giá 34 triệu USD Australia và sẽ triển khai ở hai tỉnh Lào Cai và Sơn La. Chương trình này sẽ giúp tăng cường năng lực cho chị em phụ nữ trong việc nâng cao sinh kế không chỉ trong trong nông nghiệp mà còn cả trong du lịch. Chương trình sẽ được thực hiện trong 4 năm, kết quả đạt được sẽ nhân rộng ra nhiều khu vực trong cả nước. Theo Thứ trưởng Lê Quốc Doanh, để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp Tây Bắc phát triển trên quy mô sâu rộng và hiệu quả hơn, cần ưu tiêu đầu tư, nghiên cứu các định hướng sau: nghiên cứu tăng giá trị sản phẩm hàng hoá thông qua phát triển các chuỗi giá trị nông lâm sản có thế mạnh của địa phương, gắn sản xuất với thị trường trong và ngoài nước; tổ chức nền nông nghiệp đặc hữu, đa dạng phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái và đa dạng sinh học. Đồng thời, ưu tiên xây dựng các chính sách phát triển kinh tế lâm nghiệp gồm rừng, gỗ, các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ và dược liệu, du lịch rừng; chính sách thúc đẩy các chuỗi giá trị gỗ được chứng nhận quản lý rừng bền vững nhằm phục vụ chế biến và xuất khẩu vào các thị trường quốc tế có giá trị cao như Mỹ, Nhật, châu Âu./. Thanh Trung …
| Tin mới | admin | 27/11/2017 | | Thông tư số 20/2017/TT-BNNPTNT ngày 10/11/2017 Hướng dẫn thực hiện Nghị định 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản | …
| Thông tư | admin | 22/11/2017 | | Không khí lạnh tăng cường, vùng núi phía Bắc có nơi dưới 9 độ C | Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, sáng 22/11 ảnh hưởng của không khí lạnh tăng cường gây mưa rải rác tại vùng Đông Bắc Bộ; Bắc và Trung Trung Bộ có mưa vừa, mưa to, có nơi mưa rất to. Vùng núi và trung du phía Bắc có nơi rét đậm, nhiệt độ thấp nhất phổ biến 15-18 độ C, vùng núi cao dưới 9 độ C. Hà Nội trời rét với nhiệt độ thấp nhất vào sáng sớm và đêm phổ biến 15-18 độ C. Vịnh Bắc Bộ, vùng biển ngoài khơi Trung Bộ và khu vực Giữa Biển Đông có gió Đông Bắc mạnh cấp 6, giật cấp 7-8; biển động. Khu vực Bắc Biển Đông (bao gồm cả vùng biển quần đảo Hoàng Sa) tiếp tục có gió Đông Bắc mạnh cấp 6, có lúc cấp 7, giật cấp 8; biển động mạnh. Sóng biển cao từ 2-3 m. Cấp độ rủi ro thiên tai cấp 1. Ảnh hưởng của không khí lạnh tăng cường và dòng xiết trong đới gió Tây trên cao, trong các ngày 23-25/11 ở Bắc Bộ có mưa, trời rét; vùng núi trung du có nơi có mưa vừa, mưa to, trời rét đậm, có nơi rét hại. Từ ngày 22/11 đến hết ngày 27/11, ở các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi có mưa vừa, mưa to; riêng các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Nam có mưa to đến rất to. Diễn biến thời tiết ngày 22/11 như sau: phía Tây Bắc Bộ có mưa vài nơi. Trời rét. Độ ẩm từ 57-95%. Nhiệt độ thấp nhất từ 17-20 độ C, có nơi dưới 17 độ C, cao nhất từ 20-23 độ C, có nơi trên 23 độ C. Phía Đông Bắc Bộ và Thủ đô Hà Nội đêm có mưa vài nơi; ngày có mưa, mưa nhỏ rải rác. Độ ẩm từ 57-97%. Nhiệt độ thấp nhất từ 15-18 độ C, vùng núi 13-15 độ C, vùng núi cao có nơi dưới 9 độ C, cao nhất từ 18-21 độ C. Các tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên-Huế có mưa, mưa vừa, có nơi mưa to, riêng Thừa Thiên Huế có mưa to đến rất to. Gió Bắc đến Tây Bắc cấp 2-3. Trời rét. Độ ẩm từ 70-100%. Nhiệt độ thấp nhất từ 17-20 độ C, cao nhất từ 20-23 độ C. Đà Nẵng đến Bình Thuận có mưa, mưa vừa, có nơi mưa to đến rất to. Nhiệt độ thấp nhất từ 22-25 độ C, cao nhất từ 27-31 độ C. Khu vực Tây Nguyên chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi, ngày nắng. Gió Đông Bắc cấp 2-3. Độ ẩm từ 62-95%. Nhiệt độ thấp nhất từ 20-23 độ C, cao nhất từ 29-32 độ C. Nam Bộ chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi, ngày nắng. Gió Đông Bắc cấp 2-3. Độ ẩm từ 63-95%. Nhiệt độ thấp nhất từ 23-26 độ C, cao nhất từ 30-33 độ …
| Tin mới | admin | 22/11/2017 | | Hà Lan – Việt Nam hợp tác quản lý an toàn thực phẩm | Ngày 10/11, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức lễ công bố Hợp tác trong quản lý an toàn thực phẩm với Hà Lan và Ngân hàng Thế giới. Trong bản Thỏa thuận Đối tác chiến lược, hai bên đã thống nhất Hà Lan sẽ hỗ trợ Việt Nam phát triển ngành nông nghiệp và thực phẩm bền vững. Hiện tại, Việt Nam mong muốn tăng cường quan hệ hợp tác với Hà Lan và Ngân hàng Thế giới trong việc đánh giá và xác định các rủi ro về an toàn thực phẩm. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chính phủ Hà Lan (thông qua Bộ Kinh tế Hà Lan) và Ngân hàng Thế giới sẽ chịu trách nhiệm lên kế hoạch triển khai dựa trên các khuyến nghị trong bản báo cáo của Ngân hàng Thế giới. Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ đóng vai trò đầu mối khởi động các thảo luận và lên kế hoạch triển khai. Kế hoạch triển khai sẽ bao gồm các dự án, các hoạt động cụ thể giúp Việt Nam cải thiện chuỗi cung ứng thực phẩm, đặc biệt hướng đến các tiêu chí an toàn thực phẩm quốc tế. Cụ thể: Xây dựng và triển khai hệ thống giám sát an toàn thực phẩm dựa trên cách tiếp cận từ việc đánh giá rủi ro; Phát triển hướng tiếp cận “từ trang trại đến bàn ăn”, tính đến tất cả quy trình từ sản xuất thực phẩm, cho tới tiếp thị và tiêu dùng; Nâng cao chất lượng hệ thống các phòng kiểm nghiệm. Phát biểu tại buổi lễ, bà Pauline Eizema, Phó Đại sứ Hà Lan tại Việt Nam cho biết: “Mục tiêu của Biên bản ghi nhớ này là nhằm cụ thể hóa hợp tác Việt Nam – Hà Lan trong việc tăng cường hệ thống quản lý an toàn thực phẩm với sự tham gia của Ngân hàng Thế giới. Trong quá trình này, chúng tôi sẽ tham vấn Cục An toàn Thực phẩm và Hàng tiêu dùng Hà Lan và Viện Nghiên cứu An toàn thực phẩm RIKILT.” Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám cho biết, an toàn thực phẩm luôn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội, tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp luôn quan tâm và đặc mục tiêu là quản lý và kiểm soát tốt chất lượng, an toàn thực phẩm nông – lâm – thuỷ sản. Năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định là năm vệ sinh an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp và sẽ tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo nhằm tạo chuyển biến rõ nét về cơ chế quản lý an toàn thực phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để phát triển bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và thị trường nhập khẩu. “Để đạt mục tiêu trên, bên cạnh sự nỗ lực của Việt Nam, ngành nông nghiệp cần có sự hỗ trợ của quốc tế. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nhiều phương án kết hợp, đặc biệt với kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các định chế phát triển, sẽ góp phần từng bước cải thiện mức độ đảm bảo an toàn thực phẩm ở Việt Nam hiện nay” – Thứ trưởng Tám nói./. Thành …
| Tin mới | admin | 13/11/2017 | | Thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu | Thu Phương (TTXVN/Vietnam+) 09/11/2017 19:06 GMT+7 Với sự quy tụ của 21 nền kinh tế thành viên, chiếm 39% dân số thế giới và 57% GDP toàn cầu, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đã và đang khẳng định vị thế là diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực lớn nhất trên thế giới, có tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của các nền kinh tế thành viên. Để giảm bớt những thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra, tại các cuộc họp cấp Ủy ban, nhóm, các nền kinh tế thành viên APEC đã dành nhiều thời gian thảo luận, trao đổi những giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Thiên tai ảnh hưởng sâu sắc đến sinh kế Theo Báo cáo mang tên “Thảm họa châu Á-Thái Bình Dương 2017” do Ủy ban kinh tế, xã hội châu Á-Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (ESCAP) công bố mới đây, khu vực châu Á-Thái Bình Dương chiếm 60% dân số thế giới là nơi dễ bị thảm họa nhất hành tinh do biến đổi khí hậu. Nơi này chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nặng gấp 5 lần các khu vực khác. Báo cáo nêu rõ, năm 2016 tại châu Á-Thái Bình Dương, bão, lũ lụt và nhiệt độ cao đã làm chết 4.987 người, ảnh hưởng tới 34,5 triệu người. Các quốc gia nghèo và thu nhập trung bình thấp đã phải hứng chịu tỷ lệ tử vong cao gấp 15 lần so với các nước giàu có hơn trong khu vực do ít có khả năng chuẩn bị, ứng phó với các mối nguy hiểm về thời tiết. Thiên tai cũng gây ảnh hưởng sâu sắc đến sinh kế đặc biệt là ở nông thôn. Các chuyên gia Ủy ban kinh tế, xã hội châu Á-Thái Bình Dương của Liên hợp quốc nhận định, từ năm 2015-2030, khoảng 40% tổn thất kinh tế toàn cầu do thiên tai sẽ xảy ra ở châu Á-Thái Bình Dương. Theo đó, rủi ro thiên tai do biến đổi khí hậu có thể sẽ tăng lên ở Đông Á và Ấn Độ, bao gồm nhiều đợt nắng nóng, lũ lụt, hạn hán, lốc xoáy, mưa lớn hơn. Phát biểu tại buổi đối thoại với đại diện thanh niên tiêu biểu của các nền kinh tế thành viên APEC, trong khuôn khổ Diễn đàn Tiếng nói tương lai APEC 2017 tổ chức tại Đà Nẵng từ 6-11/11, tiến sỹ Noeleen Heyzer, nguyên Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Thư ký điều hành Ủy ban kinh tế, xã hội châu Á-Thái Bình Dương của Liên hợp quốc cho rằng, biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng trực tiếp đến thế hệ tương lai như vấn đề việc làm, cơ hội khởi nghiệp, di chuyển lao động… [Tìm hướng phát triển nông nghiệp bền vững ứng dụng công nghệ cao] Nếu các nền kinh tế thành viên APEC không tập trung vào vấn đề biến đổi khí hậu từ bây giờ, thời tiết sẽ ngày càng xấu đi, nguồn cung thực phẩm ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, vấn đề nước biển dâng… Vì vậy, ngay lúc này, các nền kinh tế thành viên APEC cần có hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần giúp thế hệ trẻ trong khu vực có được một thế giới an toàn hơn. Đối với Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, Việt Nam là một trong năm quốc gia bị tổn thương lớn nhất do tác động của biến đổi khí hậu. Trong năm 2016, thiên tai diễn ra khắp ba miền Bắc-Trung-Nam gây thiệt hại về kinh tế khoảng 1% GDP. Điều đó cho thấy Việt Nam đang là một trong những tâm điểm chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu. Do đó, nếu không có những giải pháp ứng phó trước mắt và lâu dài, Việt Nam cũng như các nền kinh tế thành viên trong khu vực không thể hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Hướng đến nông nghiệp xanh APEC là khu vực có sản lượng sản xuất nông nghiệp lớn và xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới, với phạm vi địa lý rộng lớn, dân số khoảng 2,8 tỷ người (khoảng 40% dân số thế giới). Đó cũng là điều kiện thuận lợi để liên kết, hình thành các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị nông sản, thực phẩm trong khu vực. Trước bối cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, gắn liền với tác động khó lường từ biến đổi khí hậu, vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu luôn là câu hỏi lớn đối với ngành nông nghiệp thế giới nói chung, nông nghiệp Việt Nam nói riêng. Hiện nay, quá trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang diễn ra mạnh mẽ trên diện rộng ở những nền kinh tế trong khu vực khoa học công nghệ phát triển. Tuy nhiên, sự khác biệt về trình độ sản xuất, nguồn lực và công nghệ đang tạo ra các rào cản cho sự phát triển chung, đòi hỏi các nền kinh tế thành viên cần tăng cường hợp tác, tìm kiếm các giải pháp tối ưu hướng tới nền nông nghiệp xanh bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Ông Hong-Sang Jung, Giám đốc điều hành Trung tâm khí hậu APEC, cho rằng để vượt qua các rào cản đó, các nền kinh tế thành viên cần phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng tập trung vào nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý thất thoát lương thực, thực phẩm, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm, hiểu biết về vai trò của thông tin thời tiết, khí hậu đến hệ thống lương thực toàn cầu; tác động của thời tiết, khí hậu đến hệ thống sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; sử dụng hiệu quả thông tin thời tiết, khí hậu trong việc xây dựng hệ thống sản phẩm nông nghiệp… là rất cần thiết trong quá trình phát triển nông nghiệp bền vững. Ứng dụng hiệu quả công nghệ cao vào sản xuất Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao vào hoạt động sản xuất nông nghiệp giúp tạo ra các cơ sở trồng trọt chăn nuôi hiện đại, không phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu; giúp nông dân chủ động được kế hoạch sản xuất cũng như khắc phục được tính mùa vụ trong canh tác. Qua đó cho ra đời các sản phẩm nông nghiệp trái vụ có giá bán cao hơn và đạt lợi nhuận cao hơn các sản phẩm chính vụ. Mặt khác, môi trường nhân tạo thích hợp với các giống cây trồng mới có sức chịu đựng sự bất lợi của thời tiết cao hơn cũng sẽ chống chịu sâu bệnh tốt hơn. Nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và là ngành chịu tác động nặng nề do biến đổi khí hậu. Để đối phó với những thách thức trên, duy trì sự phát triển, nâng cao hiệu quả, tính bền vững của nền nông nghiệp, Việt Nam đang triển khai chương trình tái cơ cấu nền nông nghiệp, trong đó các giải pháp trọng tâm là thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật và tổ chức lại sản xuất chủ yếu theo hướng tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị, đồng thời nỗ lực thực hiện các biện pháp giảm nhẹ, thích ứng với biến đối khí hậu. [APEC 2017: Cơ hội tìm hiểu chính sách đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam] Hiện nay, tại một số thành phố lớn của Việt Nam đã xuất hiện một số mô hình thử nghiệm khu nông nghiệp công nghệ cao. Tháng 9/2004, tại Hà Nội, Khu nông nghiệp công nghệ cao đi vào hoạt động với vốn đầu tư 1,5 triệu USD, gồm 50% vốn ngân sách thành phố và 50% vốn cơ quan chủ quản. Khu nông nghiệp công nghệ cao được xây dựng trên diện tích 7,5ha với 5.500m2 trồng dưa chuột, cà chua, ớt ngọt; 2.000m2 trồng hoa, các giống đều được nhập từ Israel. Với các tiến bộ mới về giống, quy trình chăm bón, hệ thống dinh dưỡng khoáng tự động, ánh sáng và nhiệt độ được điều chỉnh, năng suất cây trồng ở đây đạt khá cao và việc sản xuất bước đầu được xem là hiệu quả. Tại Hải Phòng, Dự án Khu nông-lâm nghiệp công nghệ cao được thực hiện tại xã Mỹ Đức, huyện An Lão với tổng đầu tư 22,5 tỷ đồng gồm các khu chức năng như khu bảo tồn cây ăn quả và vườn ươm cây giống; khu sản xuất giá thể; khu nhà nuôi cấy mô tế bào, khu nhà kính, khu nhà lưới sản xuất rau an toàn chất lượng cao; khu nhà lưới sản xuất cây cảnh. Hiện nay, các khu nhà lưới, nhà kính sản xuất rau, hoa đã hoạt động, cho sản phẩm được 2-3 vụ. Năng suất cà chua, dưa chuột đạt 200-250 tấn/ha/năm, hoa hồng cũng đạt 200-300 bông/m2. Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã được phê duyệt, xây dựng với quy mô 100ha. Tại đây, sẽ có khu sản xuất rau bằng phương pháp thuỷ canh, trồng trên giá thể không đất, nuôi trồng các loại hoa lan, sản xuất nấm… Tại Lâm Đồng, từ đầu 2004 đã khởi động các chương trình trọng điểm trong đó có chương trình nông nghiệp công nghệ cao. Trong kế hoạch phát triển từ 2004-2010, Lâm Đồng dự kiến xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao với quy mô 15.000ha. Các hoạt động chính ở các khu này là sản xuất rau, hoa, dâu tây và chè. Tổng số vốn đầu tư là 2.700 tỷ đồng, trong đó vốn hỗ trợ của nhà nước 38 tỷ đồng. Các thành phố và các tỉnh như Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Dương, Sơn La, Bạc Liêu, Hưng Yên, Thái Bình, Đồng Nai, Tây Ninh đều đã có dự án xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển, tình hình biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, nền nông nghiệp của thế giới, đặc biệt là nền nông nghiệp của các nền kinh tế thành viên APEC đã và đang tìm những cơ hội, chỉ ra những thách thức để đưa ra những giải pháp phát triển phù hợp, tranh thủ tiến bộ khoa học công nghệ mới, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền …
| Tin mới | admin | 10/11/2017 | | Kiến nghị ngừng nhập khẩu bột cá là không phù hợp | (Chinhphu.vn) – Qua Hệ thống tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có thông tin phản hồi kiến nghị của Công ty TNHH Minh Tâm (Kiên Giang) liên quan đến việc nhập khẩu bột cá làm thức ăn chăn nuôi. Trước đó, Công ty TNHH Minh Tâm có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, ngừng cho phép nhập khẩu bột cá, thống kê lại sản lượng bột cá sản xuất trong nước để giúp các doanh nghiệp chế biến bột cá có thể tiêu thụ sản phẩm, vừa giúp doanh nghiệp, vừa giúp bà con ngư dân khai thác thủy sản có chỗ tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, Công ty đề nghị áp lại mức thuế nhập khẩu bột cá 5% như trước đây. Vấn đề Công ty TNHH Minh Tâm kiến nghị, Cục Chăn nuôi – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có ý kiến như sau: Bột cá là nguyên liệu bổ sung protein trong thức ăn chăn nuôi, làm tăng tính ngon miệng đối với vật nuôi, đặc biệt là đối với gia súc, gia cầm non. Tuy nhiên, hạn chế của bột cá là do có hàm lượng protein cao dễ bị phân hủy và nguy cơ nhiễm vi sinh vật có hại nên đòi hỏi quy trình bảo quản nguyên liệu đầu vào và quy trình sản xuất phải tốt. Hơn nữa, giá thành bột cá cao so với nguyên liệu bổ sung đạm khác như bột thịt, bột huyết, khô dầu đậu tương và các phụ phẩm chế biến khác. Đồng thời, nếu vật nuôi sử dụng khẩu phần có nhiều bột cá ở giai đoạn vỗ béo cũng sẽ ảnh hưởng không tốt đến mùi của sản phẩm vật nuôi. Do vậy, thông thường bột cá được sử dụng trong khẩu phần cho gia súc, gia cầm non và số ít cho giai đoạn sinh trưởng, ước tính trung bình khoảng 3% trong khẩu phần. Nếu tính nhu cầu thức ăn tinh cho đàn gia súc, gia cầm Việt Nam năm 2016 là khoảng 20 triệu tấn thì lượng bột cá cần sử dụng là khoảng 600.000 tấn. Trong khi đó bột cá nhập khẩu trong năm 2016 là khoảng 50.000 tấn, chủ yếu từ Peru với chất lượng cao để bổ sung trong thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm non. Như vậy, số lượng bột cá nhập khẩu này là không đáng kể so với nhu cầu tiêu thụ sản lượng bột cá trong nước (khoảng 500.000 tấn). Xét các kiến nghị của Công ty: Việc kiến nghị cho ngừng nhập khẩu bột cá vào Việt Nam là không phù hợp với quy định của quốc tế và các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Việc đưa mức thuế suất thuế nhập khẩu bột cá từ 0% lên 5%, Cục Chăn nuôi sẽ xem xét, họp bàn với Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) sau khi có đủ căn cứ đánh giá tác động về thay đổi chính sách này. Trên cơ sở đó, Cục sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để xem xét, quyết định. Đề nghị Công ty cùng các doanh nghiệp sản xuất bột cá trong nước tiếp tục phối hợp để cung cấp các tài liệu liên quan đến Cục Chăn nuôi xem xét. …
| Tin mới | admin | 08/11/2017 | | Chọn thế mạnh để cạnh tranh | “Thế giới có 7 tỷ người, nếu mỗi người ăn một cân tôm thì nhu cầu tiêu dùng là 7 triệu tấn nhưng nguồn cung hiện chỉ đạt 5 triệu tấn nên dư địa xuất khẩu còn rất nhiều” – Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết như vậy khi giải trình tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội của Quốc hội ngày 1/11. Dẫn chứng đó cho thấy, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức bởi biến đổi khí hậu và hội nhập, nếu xác định được các mặt hàng thế mạnh để tập trung đầu tư, nông sản Việt hoàn toàn có thể vươn sức cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Câu chuyện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đã được Bộ NN&PTNT triển khai từ 4 năm nay. Trong đó từ năm 2017 tập trung vào 3 trục sản phẩm chính gồm: Nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên, nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh, TP và nhóm sản phẩm chủ lực vùng, miền. Trên thực tế, việc xác định các trục sản phẩm chủ lực này để tập trung phát triển đã mang lại hiệu quả rõ rệt khi nhiều mặt hàng thế mạnh ngày càng khẳng định được vị thế. Đơn cử, Đồng bằng sông Cửu Long trước đây chú trọng ưu tiên phát triển theo thứ tự lúa gạo – thủy sản – trái cây, nay đã chuyển sang thứ tự thủy sản – trái cây – lúa gạo. Nhờ được chú trọng đầu tư, thủy sản trở thành mặt hàng đóng góp lớn nhất vào giá trị xuất khẩu của toàn ngành nông nghiệp với 7 tỷ USD năm 2016 và đạt 6,73 tỷ USD trong 10 tháng năm 2017. Bên cạnh đó, trong khi các mặt hàng lúa gạo, cà phê, tiêu liên tục sa sút trong những năm gần đây thì rau quả lại vươn lên mạnh mẽ khi góp mặt vào nhóm mặt hàng xuất khẩu “tỷ đô” của Việt Nam nhờ được quy hoạch vùng trồng đạt chuẩn và xúc tiến mở rộng thị trường. 10 tháng năm 2017, xuất khẩu rau quả đạt 2,84 tỷ USD và được coi như một điểm sáng của toàn ngành nông nghiệp. Điều đó cho thấy, nếu lựa chọn đúng hướng, đầu tư trọng tâm, trọng điểm sẽ đạt kết quả tốt. Với nhiều vùng nông nghiệp thế mạnh, mơ ước đưa Việt Nam trở thành bếp ăn của thế giới không phải quá xa vời như kỳ vọng của nhiều chuyên gia và tái cơ cấu toàn diện ngành chính là chìa khóa để hiện thực hóa giấc mơ. Hiện nay, nông sản Việt đã được xuất khẩu đi 180 nước với kim ngạch đạt 30 tỷ USD/năm cũng là một con số đáng tự hào. Tuy nhiên, nhìn lại, việc quy hoạch và xác định sản phẩm thế mạnh trong tái cơ cấu nông nghiệp ở nhiều địa phương vẫn còn nhiều điều đáng băn khoăn. Thực tế, tình trạng quy hoạch “sách vở” vẫn còn phổ biến ở nhiều địa phương, trong đó có cả một số huyện ngoại thành Hà Nội. Địa phương nào cũng “vẽ” ra các vùng lúa hàng hóa, rau an toàn, vùng cây ăn quả, vùng chăn nuôi tập trung…mà không ưu tiên những cây, con chủ lực. Chính điều này dẫn tới câu chuyện “được mùa mất giá” trở thành nỗi niềm đau đáu mà năm nào, người nông dân và ngành nông nghiệp cũng phải loay hoay tìm hướng giải quyết. Câu chuyện thịt lợn, thịt gà rớt giá thê thảm thời gian qua cho thấy rõ điều đó. Biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng lớn đến nước ta, nhất là sản xuất nông nghiệp. Thế nhưng, đây cũng là phép thử cho cả ngành nông nghiệp lẫn các địa phương để tìm được chìa khóa thích ứng, trụ vững và vươn lên trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Như Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường giãi bày trước Quốc hội: “Nếu chúng ta không tính toán kỹ, lựa chọn sản phẩm mang tính thế mạnh để phát triển với giá thành phù hợp, có sức cạnh tranh về chất lượng thì sẽ không thể thắng được mà thua trên sân nhà”. Thắng Văn …
| Tin mới | admin | 03/11/2017 | | Hà Lan giúp nâng cao năng lực cho nông dân nuôi bò tại Việt Nam | Từ ngày 16 – 27/10/2017, tổ chức Phát triển Nông nghiệp Hà Lan (Agriterra) phối hợp cùng FrieslandCampina tổ chức các buổi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa giữa nông dân Hà Lan và các nông dân Việt Nam. Chương trình tập huấn diễn ra tại các khu vực có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển như Củ Chi, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, Vĩnh Phúc, Hà Nam…Các chuyên gia trực tiếp hướng dẫn là những nông dân xuất sắc tại Hà Lan được lựa chọn một cách khắt khe bởi tổ chức Phát triển Nông nghiệp Hà Lan. Các nông dân hà lan hướng dẫn về dinh dưỡng tại chuồng trại Cũng tương tự như những lần tập huấn từ những năm trước; cụ thể là, trước các buổi tập huấn, các nông dân Hà Lan thông qua FrieslandCampina Việt Nam tiếp cận các nông trại tiêu biểu vào thời điểm vắt sữa trong ngày để khảo sát thực tế chăn nuôi và kỹ thuật của nông dân Việt Nam, đồng thời tiến hành lấy mẫu thử sữa để kiểm tra số lượng tổng tạp trùng và tế bào thân tại các trại chăn nuôi bò sữa. Từ khảo sát thực tế, các nông dân Hà Lan sẽ phối hợp cùng các chuyên gia tại FrieslandCampina Việt Nam đưa ra một chương trình huấn luyện cụ thể và bám sát với thực tế thực hành chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam. Chia sẻ kinh nghiệm thực tế từ chăn nuôi giữa các nông dân được cho là có sự lan tỏa tốt hơn Các nông dân Việt Nam hào hứng tham gia tập huấn tại trại bò tiêu biểu ở khu vực Bình Dương Mục tiêu của chương trình tập huấn 2017 là tập trung vào cải tiến kỹ thuật vắt sữa nhằm cải thiện tỉ lệ tổng tạp trùng và tế bào thân trong sữa bò tại các hộ nông dân cung cấp sữa cho FrieslandCampina Việt Nam. Ngoài ra, thông qua phương pháp tiếp cận trực tiếp, các nông dân Hà Lan còn tập huấn, và tư vấn cho nông dân Việt Nam về thực hành chăn nuôi bò sữa tốt, truyền đạt những kinh nghiệm quí giá từ ngành chăn nuôi bò sữa thế giới để nông dân Việt Nam có thể thành công hơn nữa với nghề chăn nuôi bò sữa. Từ đó, các nông dân thành công sẽ là mô hình hạt nhân, truyền đạt kinh nghiệm, tập huấn cho các nông hộ khác, góp phần phát triển ngành chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam. Ông Wim Van Ittersum – một trong những nông dân Hà Lan sang tập huấn tại Việt Nam lần này cho biết: “Năm 2014 tôi cũng tham gia tập huấn và giao lưu cùng các nông dân tại Việt Nam. Sau 3 năm quay trở lại, tôi thực sự ấn tượng vì sự cải tiến trong kỹ thuật chăn nuôi, sản lượng cũng như chất lượng sữa từ các nông trại mà FrieslandCampina Việt Nam thu mua. Tôi nghĩ đây là một nỗ lực lớn từ các chủ nông trại, cũng như sự đầu tư không ngừng của FrieslandCampina Việt Nam trong việc hỗ trợ người nông dân tiếp cận với những kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến nhằm cho ra sản lượng và chất lượng sữa cao nhất.” Chương trình huấn luyện nằm trong khuôn khổ hợp tác phát triển giữa tập đoàn FrieslandCampina và Tổ chức Phát triển Nông nghiệp Hà Lan được ký kết vào tháng 8/2012 nhằm mục đích phát triển tích cực ngành chăn nuôi bò sữa bền vững ở những nước nơi có nhà máy sản xuất của FrieslandCampina, giúp nâng cao đời sống của nông dân và đảm bảo nguồn nguyên liệu cung cấp cho nhà máy. Theo đó, Tổ chức Phát triển Nông nghiệp Hà Lan sẽ phối hợp cùng các chuyên gia của FrieslandCampina để hỗ trợ kỹ thuật, khai thác và phát triển tối đa tiềm năng của các nông hộ, các trang trại thông qua các chương trình tập huấn kỹ thuật, tư vấn khuyến nông, trách nhiệm chăm sóc vật nuôi, ứng dụng những kinh nghiệm chăn nuôi thành công nhằm nâng cao kỹ thuật chăn nuôi bò sữa, năng suất và bảo đảm chất lượng nguồn sữa tươi nguyên liệu tại các nước đang phát triển sánh ngang với tiêu chuẩn hàng đầu Châu Âu. Nguyễn …
| Tin mới | admin | 31/10/2017 | | 10 tháng, xuất khẩu thủy sản ước đạt 6,73 tỷ USD | Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 10/2017 ước đạt 733 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu thủy sản 10 tháng qua ước đạt 6,73 tỷ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm 2016. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 55,3% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Các thị trường có giá trị xuất khẩu thủy sản tăng mạnh là Trung Quốc (65,8%), Hà Lan (42,9%), Anh (29,7%)… Cũng trong tháng 10/2017, ước giá trị nhập khẩu mặt hàng thủy sản đạt 103 triệu USD, đưa giá trị nhập khẩu thủy sản 10 tháng qua đạt 1,14 tỷ USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm 2016. Mới đây, EU đã quyết định rút thẻ vàng đối với hoạt động khai thác thủy sản của Việt Nam nhưng chỉ áp dụng với sản phẩm khai thác trên biển; không áp dụng cho sản phẩm thủy sản từ nuôi trồng. Trong thời gian này, hoạt động xuất khẩu hải sản vẫn được diễn ra bình thường. Tuy nhiên, theo Tổng cục Thủy sản, sự việc trên sẽ có những tác động nhất định như: các lô hàng bị tăng tuần suất kiểm tra hồ sơ nguồn gốc sản phẩm khai thác nhập khẩu từ Việt Nam (có thể lên đến 100%), dẫn đến thời gian lưu kho tăng, phát sinh chi phí kiểm tra, chi phí lưu kho đối với doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Bên cạnh đó, việc này cũng có khả năng gây tâm lý lo ngại đến các nhà nhập khẩu ở các thị trường khác, đặc biệt là đối với các thị trường nhập nguyên liệu của Việt Nam để tái xuất sang thị trường EU hoặc Mỹ và các nước có quy định áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp chống khai thác IUU. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, tại thị trường trong nước, giá cá tra nguyên liệu tại Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng qua tiếp tục tăng trong bối cảnh nguồn cung yếu, hiện dao động từ 25.000 – 28.000 đồng/kg tùy theo chất lượng cá và phương thức thanh toán. Cụ thể, tại An Giang cá tra nguyên liệu trong size (trọng lượng 0,8 – 0,9 kg/con), thịt trắng giá từ 26.000 – 27.500 đồng/kg, tăng 500 – 1.000 đồng/kg so với tháng trước. Tại Vĩnh Long, giá trung bình cá tra thịt trắng trong size đạt mức cao nhất là 28.000 đồng/kg, tăng 1.000 – 1.500 đồng/kg so với tháng trước. Nguyên nhân giá cá tra tăng mạnh trong thời gian qua là nhu cầu thu mua nguyên liệu để chế biến xuất khẩu từ các doanh nghiệp tăng phục vụ các đơn hàng cuối năm, trong khi nguồn cung hạn chế. Thị trường tôm nguyên liệu trong tháng 10/2017 vẫn duy trì ở mức cao. Tại Bạc Liêu, giá tôm sú ướp đá cỡ 30 con/kg giữ ở mức 235.000 đồng/kg; cỡ 40 con/kg giữ mức 190.000 đồng/kg; giá tôm thẻ ướp đá cỡ 50 con/kg ổn định ở mức 134.000 đồng/kg; loại 60 con/kg là 125.000 đồng/kg, riêng cỡ 100 con/kg tăng 6.000 đồng/kg lên mức 110.000 đồng/kg. Tại Sóc Trăng, giá tôm thẻ chân trắng tăng nhẹ so với tháng trước khoảng 1.000 – 3.000 đồng/kg, các cỡ 40, 60, 80, 100 con/kg lần lượt ở mức 153.000 đồng/kg, 132.000 đồng/kg, 127.000 đồng/kg, 105.000 đồng/kg. Nguyên nhân giá tôm nguyên liệu thời gian vừa qua tăng do nguồn cung yếu, trong khi các doanh nghiệp lại đẩy mạnh thu mua phục vụ xuất khẩu cuối năm./. Thành …
| Tin mới | admin | 31/10/2017 | | Bộ Nông nghiệp và PTNT công bố cắt giảm hàng loạt điều kiện, giấy phép | Tại buổi kiểm tra do Tổ công tác của Thủ tướng tiến hành ngày 25/10, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công bố cắt giảm hàng loạt điều kiện kinh doanh, thủ tục kiểm tra chuyên ngành… với ước tính tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng cho doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 2026/QĐ-TTg, đến nay Bộ đã hoàn thành 41 văn bản; 8 văn bản còn lại, Bộ đang xây dựng tích hợp còn 4 văn bản. Đây là các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Trong tổng số 345 điều kiện đầu tư, kinh doanh, Bộ đề xuất bãi bỏ, sửa đổi 118 điều kiện (chiếm 34,2%), trong đó bãi bỏ 65 điều kiện, sửa đổi theo hướng rút gọn 53 điều kiện. Bộ tiếp tục tổ chức rà soát đối với 508 thủ tục hành chính (TTHC) còn hiệu lực và đề xuất bãi bỏ, đơn giản hóa 287 TTHC (chiếm 56,5 %), gồm bãi bỏ 81 TTHC, đơn giản hóa 205 TTHC. Bộ đã rà soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa 18/40 TTHC kiểm tra chuyên ngành (KTCN) (đạt tỉ lệ 45%) theo hướng hợp nhất thủ tục kiểm tra an toàn thực phẩm và thủ tục kiểm dịch; nhập 2 thủ tục đăng ký kiểm dịch và khai báo kiểm dịch. Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải quy định rõ về thời gian, hồ sơ, trình tự, thủ tục theo hướng tinh gọn, giảm thiểu chi phí, thời gian thực hiện. Thời gian KTCN đã được rút ngắn như kiểm tra lô hàng thủy sản xuất khẩu, thời gian rút ngắn từ 5-7 ngày làm việc xuống còn 8 giờ/lô hàng, trong khi kiểm dịch thực vật đã rút ngắn thời gian giải quyết từ 24 giờ xuống còn không quá 4 giờ đối với hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường hàng không và không quá 10 giờ đối với đường biển. Bên cạnh đó, Bộ cũng đang chỉ đạo áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, giảm phương thức kiểm tra trước và giảm hợp lý dung lượng lấy mẫu kiểm định, kiểm nghiệm; kiểm tra theo tần suất dựa trên mức độ tuân thủ của DN; thừa nhận kết quả kiểm tra của quốc gia đối tác… Bộ NN&PTNT đã thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác khảo nghiệm, kiểm nghiệm các mặt hàng phải KTCN, về cơ bản hiện nay không có tình trạng độc quyền. Phương án đơn giản hóa các TTHC liên quan đến KTCN nêu trên đã góp phần tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Chỉ tính riêng hoạt động kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật giảm khoảng 654,4 tỷ đồng (ước tính cắt giảm 108.524 ngày công, chiếm tỷ lệ cắt giảm là 66,7%); kiểm dịch thực vật giảm khoảng 178,1 tỷ đồng. Bộ NN&PTNT cũng đề xuất và dự kiến các giải pháp khắc phục đối với nhóm hàng có chồng chéo KTCN theo hướng đề nghị Chính phủ xem xét giao một Bộ đầu mối chủ trì, chịu trách nhiệm. Đồng thời kiên quyết bố trí hợp lý đối với các nhóm hàng chịu sự KTCN. Thời gian tới, Bộ tiếp tục rà soát để xem xét cắt bỏ 1 lệ phí: Lệ phí cấp giấy chứng nhận kiểm dịch động vật (tiết kiệm chi phí khoảng 9,5 tỷ đồng/năm). Trong 9 tháng đầu năm, các đơn vị thuộc Bộ đã tiếp nhận qua Cổng một cửa quốc gia tổng số 107.070 hồ sơ; xử lý, giải quyết 101.656 hồ sơ (đạt tỉ lệ 95%); đang tiếp tục xử lý 5.414 hồ sơ. Mục tiêu Bộ NN&PTNT đặt ra là đến năm 2018 cơ bản các TTHC liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh hàng hóa và khoảng 80% hồ sơ thuộc lĩnh vực Bộ NN&PTNT quản lý sẽ thực hiện theo Cơ chế Một cửa quốc gia. Bộ cũng kiến nghị tạo điều kiện để Bộ đẩy mạnh xã hội hóa trong các hoạt động kiểm nghiệm kiểm chứng phục vụ hoạt động KTCN. Cho ý kiến định hướng về xây dựng, ban hành Nghị định của Chính phủ sửa đổi các Nghị định để thực hiện cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh và đơn giản hóa TTHC theo trình tự, thủ tục rút gọn để nhanh chóng đưa các đề xuất của Bộ được triển khai thực hiện trong thực tiễn. Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng việc Thủ tướng thành lập Tổ công tác để kiểm tra, giám sát thực thi của các thành viên Chính phủ, các địa phương, các ngành đến nay đã có hiệu quả rất rõ, không chỉ ở những đơn vị được kiểm tra mà còn có tính lan tỏa tới các đơn vị khác. Bộ NN&PTNT nhận thấy vấn đề tiếp tục hoàn thiện thể chế, đột phá trong cải cách hành chính, đề ra các giải pháp căn cơ để phát triển cho năm 2017 và những năm tiếp theo… không chỉ là yêu cầu của Thủ tướng mà còn là nhu cầu tự thân của Bộ phải làm. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm, Bộ đã ra nghị quyết chuyên đề, phân công trực tiếp một thứ trưởng phụ trách và hằng tháng đều có họp về nội dung này. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, không phải chỉ cắt giảm thủ tục, mà bộ máy cũng cần chấn chỉnh lại để thích ứng với yêu cầu mới, tiếp đó mới đến công tác kỹ thuật, quản lý chuyên ngành. Đối với hai vấn đề Thủ tướng lưu ý Bộ NN&PTNT về tình trạng chặt phá rừng và khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản, Bộ trưởng cho rằng đây là lĩnh vực rất lớn. Do đó, toàn bộ hệ thống ngành nông nghiệp tới đây sẽ tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, tham mưu để quản lý thật tốt, chặt chẽ hai lĩnh vực này. Kết luận buổi làm việc, Tổ trưởng Tổ công tác Mai Tiến Dũng đánh giá cao báo cáo của Bộ NN&PTNT, đồng thời tiếp thu các ý kiến của lãnh đạo các bộ ngành, hiệp hội. Tổ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết, quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng là cắt giảm những gì cần phải cắt giảm nhất, chứ không có nghĩa là mở cửa tung ra. Những gì không bảo đảm, liên quan tới sức khỏe con người, quốc phòng an ninh, môi trường thì vẫn phải quản lý chặt chẽ. Việc đổi mới phải trên quan điểm là tạo điều kiện để hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài. Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP đề nghị nguyên tắc đổi mới trong thủ tục KTCN là rà soát toàn bộ danh mục hàng hóa được công bố quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia, gắn mã HS, không được để cơ quan nhà nước KTCN bằng hình thức cảm quan, tạo hiện tượng tiêu cực. Phải có quy trình và công nhận lẫn nhau, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, phải công bố kỹ hơn, rõ hơn đồng thời giảm danh mục hàng hóa và giảm cả hàng hóa phải KTCN. Đối với những hàng hóa có sự kiểm tra chồng chéo giữa các bộ hay giữa các đơn vị trong bộ, chỉ giao một bộ chủ trì. Về ý kiến của doanh nghiệp đối với quy định sử dụng i-ốt của Bộ Y tế, Tổ trưởng Tổ công tác cho biết sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tới để làm rõ vấn đề này. Đối với các kiến nghị về một nghị định sửa nhiều nghị định, tăng cường kết nối một cửa quốc gia, một cửa ASEAN của Bộ NN&PTNT…, Tổ trưởng Tổ công tác cho rằng các kiến nghị này là “hoàn toàn trúng” và cần tập trung thực hiện. Còn việc đầu tư trung tâm kiểm nghiệm, KTCN theo hướng xã hội hóa là chính. Từ đó, sẽ có cơ chế để các cơ quan Nhà nước sử dụng các thông tin, kết quả kiểm định để cấp phép. Theo …
| Tin mới | admin | 26/10/2017 | | Bộ Nông nghiệp và PTNT: 80% thủ tục giải quyết theo Cơ chế một cửa quốc gia | Ngày 25/10/2017, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng làm Tổ trưởng tổ chức họp với Bộ NN&PTNT về việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ. Để thực hiện các chỉ đạo, nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, nhất là cải cách hành chính, với trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu kiểm tra chuyên ngành nông sản hàng hóa xuất nhập khẩu trong các lĩnh vực quản lý được phân công, Bộ NN&PTNT xác định đây là nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm, được chỉ đạo thường xuyên, có nhiều văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể phù hợp với từng thời điểm; đồng thời phân công Thứ trưởng Thường trực Hà Công Tuấn chỉ đạo tổ chức thực hiện. Bộ Nông nghiệp và PTNT là một trong những đơn vị thực hiện Dịch vụ công trực tuyến sớm Tạo thuận lợi, thúc đẩy sản xuất kinh doanh Nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực đa ngành với 65,49% dân số và 67,95% lao động cư trú trong khu vực nông thôn, trong đó 41,87% sản xuất nông nghiệp vào năm 2016. Trong thời gian qua, Bộ NN&PTNT đã nỗ lực, phối hợp các Bộ ngành, địa phương tái cơ cấu, tiếp tục đổi mới thể chế chính sách, tạo môi trường thuận lợi hơn phát triển sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp. Trong 10 tháng đầu năm 2017, mặc dù ngành NN&PTNT phải dành nhiều thời gian, công sức để chỉ đạo việc ứng phó và khắc phục hậu quả do mưa lớn, bão lũ liên tiếp xảy ra, nhưng Bộ vẫn nỗ lực thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 2026/QĐ –TTg. Đến nay, Bộ đã hoàn thành 41 văn bản; còn 8 văn bản, Bộ đang xây dựng tích hợp còn 4 văn bản để sửa đổi, thay thế 8 văn bản này. Bộ cũng đã tiến hành rà soát, đề xuất phương án cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh; đề xuất bãi bỏ, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC); và cắt giảm danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành (KTCN). Trong tổng số 345 điều kiện đầu tư, kinh doanh, Bộ đề xuất bãi bỏ, sửa đổi 118 điều kiện (chiếm 34,2%), trong đó bãi bỏ 65 điều kiện, sửa đổi theo hướng rút gọn 53 điều kiện. Để thực hiện cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh, Bộ ban hành Kế hoạch hành động thực hiện việc cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, đơn giản hóa TTHC thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ. Theo đó, Bộ đề xuất sửa đổi, bổ sung 4 Nghị định, sẽ hoàn thành vào Quý II/2018. Đối với 2 Pháp lệnh, 3 Nghị định có quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh sẽ được sửa đổi, bổ sung theo tiến độ của chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội. Trong năm 2017, Bộ tiếp tục tổ chức rà soát sâu hơn đối với 508 TTHC còn hiệu lực và đề xuất bãi bỏ, đơn giản hóa 287 TTHC (chiếm 56,5 %), gồm: bãi bỏ 81 TTHC, đơn giản hóa 205 TTHC. Để cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, Bộ dự kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung 13 văn bản do Bộ trưởng Bộ NN&PTNT ban hành, trong đó sẽ hoàn thành việc xây dựng 10 văn bản trong Quý I/2018. Riêng đối với 3 văn bản liên quan đến lâm nghiệp, thủy sản sẽ hoàn thành vào Quý III/2018 theo tiến độ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản. Thời gian qua, Bộ đã chỉ đạo quán triệt từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, nhất là quy định rõ về thời gian, hồ sơ, trình tự, thủ tục theo hướng tinh gọn, giảm thiểu chi phí, thời gian thực hiện. Về cơ bản, các TTHC liên quan KTCN từng bước được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp thông lệ quốc tế. Đối với kiểm tra lô hàng thủy sản xuất khẩu, việc chuyển sang phương thức kiểm tra ngay trong quá trình sản xuất và cấp Giấy chứng nhận khi doanh nghiệp có yêu cầu, rút ngắn thời gian từ 5-7 ngày làm việc xuống còn 8 giờ/1 lô hàng; thực tế nhiều lô hàng được cấp Giấy chứng nhận trong 2-3 giờ, tiết kiệm cho doanh nghiệp từ 15-20% chi phí. Đối với kiểm dịch thực vật, theo quy định của Luật bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, thời gian giải quyết là 24 giờ kể từ khi bắt đầu kiểm dịch; thực tế đã rút ngắn xuống còn không quá 4 giờ đối với hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường hàng không và không quá 10 giờ đối với đường biển. Hiện nay, các cơ quan thuộc Bộ thực hiện 40 TTHC kiểm tra chuyên ngành gồm 32 TTHC liên quan đến hàng hóa nhập khẩu và 08 TTHC liên quan đến hàng hóa xuất khẩu. Để tiếp tục đơn giản hóa các TTHC, giảm thiểu KTCN, Bộ đã rà soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa 18/40 TTHC kiểm tra chuyên ngành (đạt tỉ lệ 45%). Bộ NN&PTNT đề nghị cắt giảm danh mục hàng hóa phải KTCN theo nguyên tắc: Cắt giảm tối đa việc KTCN đối với hàng hóa xuất khẩu; chỉ thực hiện khi có yêu cầu của nước nhập khẩu hoặc của chủ hàng, hoặc quy định tại các Công ước quốc tế một cách linh hoạt, phù hợp; Quán triệt nguyên tắc quản lý rủi ro, kiểm tra giảm, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, áp dụng chế độ doanh nghiệp ưu tiên. Bên cạnh việc giảm thiểu thủ tục, thời gian, chi phí, vẫn cần duy trì KTCN đối với nông sản hàng hóa nhập khẩu như công cụ điều tiết quan hệ thương mại quốc tế trong những trường hợp cụ thể theo thông lệ quốc tế và WTO. Trên quan điểm này, Bộ NN&PTNT dự kiến việc cắt giảm Danh mục hàng hóa nhóm 2 như sau: – 3 nhóm hàng không KTCN về hàng hóa khi nhập khẩu nhưng nhà nhập khẩu chỉ thực hiện việc khai báo nguồn gốc xuất xứ, gồm: giống cây trồng nông nghiệp, giống cây trồng lâm nghiệp, giống vật nuôi trên cạn. – Cắt giảm 5 loại hàng hóa không có nguy cơ cao gây mất an toàn (chiếm 23,8%) ra khỏi Danh mục hàng hóa phải KTCN khi nhập khẩu, gồm: phụ gia, hóa chất dùng trong lâm nghiệp; dụng cụ đánh bắt thủy sản; công trình thủy lợi, công trình đê điều; máy móc, thiết bị sản xuất nông nghiệp. – Cắt giảm hàng hóa phải kiểm dịch thực vật ít nguy cơ chứa đối tượng kiểm dịch, gồm dăm gỗ, gỗ dán, gỗ xẻ có độ dày nhỏ hơn 6mm…, các sản phẩm đã qua chế biến sâu (chè, cà phê bột, cà phê rang xay, rau quả chế biến đóng hộp, rau quả ngâm muối, tẩm đường….). – Cắt giảm hàng hóa phải kiểm dịch sản phẩm động vật trên cạn gồm 04 nhóm sản phẩm; cắt giảm hàng hóa phải kiểm dịch sản phẩm thủy sản gồm 09 nhóm sản phẩm[1]. Bộ NN&PTNT cũng đề xuất và dự kiến các giải pháp khắc phục đối với nhóm hàng có chồng chéo kiểm tra chuyên ngành. Cụ thể, đối với 7 loại hàng chịu sự kiểm tra chuyên ngành của 2 Bộ, đề nghị Chính phủ xem xét giao một Bộ đầu mối chủ trì, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện theo hướng một cơ quan kiểm tra chuyên ngành có lực lượng, điều kiện tại cửa khẩu, nên giao cả kiểm tra về kiểm dịch và an toàn thực phẩm. Đối với 6 nhóm hàng chịu sự kiểm tra chuyên ngành của 2 đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT, Bộ kiên quyết bố trí hợp lý trong Quý IV/2017. Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, về cơ bản, hiện nay, các loại phí, lệ phí chi cho hoạt động KTCN đã được rà soát, cắt giảm. Thực hiện Luật Phí, lệ phí 2015, phí, lệ phí KTCN nông nghiệp hiện chỉ còn 06 loại phí và lệ phí. Thời gian tới, Bộ tiếp tục rà soát để xem xét cắt bỏ 01 lệ phí: lệ phí cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch động vật (tiết kiệm chi phí khoảng 9,5 tỷ đồng). 80% thủ tục giải quyết theo Cơ chế một cửa quốc gia Trong 9 tháng đầu năm, các đơn vị thuộc Bộ đã tiếp nhận qua Cổng một cửa quốc gia tổng số 107.070 hồ sơ; xử lý, giải quyết 101.656 hồ sơ (đạt tỉ lệ 95%); đang tiếp tục xử lý 5.414 hồ sơ. Mục tiêu Bộ NN&PTNT đặt ra là, đến năm 2018 cơ bản các TTHC liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh hàng hóa và khoảng 80% hồ sơ thuộc lĩnh vực Bộ NN&PTNT quản lý sẽ thực hiện theo Cơ chế một cửa quốc gia. Tại cuộc họp, Bộ NN&PTNT đề nghị Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo, bố trí đủ kinh phí cho việc triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN của Bộ NN&PTNT giai đoạn 2018-2020. Bộ cũng kiến nghị Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ, tạo điều kiện để Bộ đẩy mạnh xã hội hóa trong các hoạt động kiểm nghiệm kiểm chứng phục vụ hoạt động KTCN; nhưng cũng cần cơ cấu lại để tổ chức một trung tâm PSC quốc gia đa lĩnh vực, hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế; Cho ý kiến định hướng về xây dựng, ban hành Nghị định của Chính phủ sửa đổi các Nghị định để thực hiện cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh và đơn giản hóa TTHC theo trình tự, thủ tục rút gọn để nhanh chóng đưa các đề xuất trên của Bộ Nông nghiệp và PTNT được triển khai thực hiện trong thực tiễn./. [1] – Sản phẩm động vật trên cạn gồm 04 nhóm sản phẩm: Huyết thanh của ngựa, bò, cừu; Các sản phẩm làm dược liệu: Ngô công (rết), Thuyền thoái (xác ve sầu lột), Toàn yết (bọ cạp), A Giao (keo da lừa); Nguyên liệu làm thực phẩm Germolen (Huyết hươu khô), nhung hươu khô; Sản phẩm từ gia súc, gia cầm (lông da thú, lông gà, lông vịt, lông lợn,..) – Sản phẩm động vật thủy sản gồm 09 nhóm sản phẩm: Bột Collagen có nguồn gốc từ cá; Gelatin cá; Hỗn hợp vi lượng dầu cá; Da cá đã thuộc; San hô đỏ vụn (Nguyên liệu làm hàng thủ công mỹ nghệ); Vỏ ốc biển; Vỏ sò; Vỏ tôm; Vỏ trai biển, trai nước ngọt …
| Tin mới | admin | 25/10/2017 | | Hội thảo Đánh giá kết quả 10 năm triển khai chiến phát triển chăn nuôi đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 | Thực hiện Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg ngày 16/01/2008 về việc ban hành Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020, đến nay ngành chăn nuôi luôn duy trì tăng trưởng ở mức bình quân 4,5-5,0%, tỷ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ) đạt 30,5% năm 2015 tăng lên 32% năm 2016, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng chung cho ngành nông nghiệp. Nhằm mục đính đánh giá tổng thể kết quả sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển chăn nuôi, được sự tài trợ của Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam, trong các ngày 24-25 tháng 10 năm 2017 tại thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Cục Chăn nuôi tổ chức Hội thảo Đánh giá kết quả 10 năm triển khai chiến phát triển chăn nuôi đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển chăn nuôi đã đạt được những mặt tính cực và bộc lộ một số tồn tại như sau: Chiến lược đặt ra mục tiêu cơ bản phù hợp với sự phát triển của ngành, đáp ứng đầy đủ và dư thừa nhu cầu của thị trường trong nước. Đã có một số sản phẩm xuất khẩu góp phần đảm bảo an ninh thực phẩm trong nước, tăng thu nhập cho người chăn nuôi. Phát triển chăn nuôi đa dạng, có đủ các loại hình chăn nuôi, các loại gia súc, gia cầm phát huy được lợi thế, truyền thống chăn nuôi của các vùng, các địa phương. Các vật nuôi chủ lực như lợn, gia cầm, bò thịt, bò sữa được quan tâm phát triển nên có sự phát triển tăng đều đặn qua các năm, một số sản phẩm đã tăng hơn so với kế hoạch do Chiến lược đề ra (ví dụ chăn nuôi gia cầm…) Công tác giống được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo: hầu hết các giống có năng suất cao được nhập khẩu về và nuôi giữ tại Việt Nam đã góp phần tăng chất lượng, khối lượng sản phẩm đưa tổng giá trị sản phẩm ngành chăn nuôi Việt Nam tăng nhanh. Nhiều doanh nghiệp đã lưu trữ, chọn lọc được các bộ giống, con lai phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam. Khoa học công nghệ áp dụng nhanh, mức đầu tư lớn đã góp phần thay đổi hiện trạng của ngành, đang từng bước thay đổi cả tập quán, nhận thức về phát triển chăn nuôi. Những kỹ thuật mới, trang thiết bị phục vụ chăn nuôi được cải tiến không ngừng đã cải thiện nhanh chất lượng, chi phí trong sản xuất, giảm giá thành; các chỉ tiêu kỹ thuật dần tiếp cận với các nước trong khu vực. Ngành chăn nuôi thu hút rất nhiều đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, nhất là lĩnh vực thức ăn chăn nuôi. Đến nay đã có doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, trong đó doanh nghiệp có vốn FDI góp phần thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa ngành thức ăn chăn nuôi trong nước. Có nhiều chính sách tác động giúp chăn nuôi ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có nhiều cơ hội phát triển chăn nuôi, qua đó tạo sinh kế và tăng thu nhập cho người nông dân. Tuy nhiên còn bộc lộ một số tồn tại trong lĩnh vực giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, môi trường chăn nuôi cần điều chỉnh, khắc phục và hướng tới mục tiêu cơ cấu các sản phẩm chăn nuôi gắn với sức tiêu dùng của thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu, trong đó cần điều chỉnh quy mô cơ cấu đàn hợp lý các loại gia súc, gia cầm: – Sản lượng thịt lợn hơi từ 72,7% (2016) giảm xuống còn 68,2% (2020) và duy trì ở mức 60-65% thời điểm năm 2030. – Thịt gia cầm từ 19,1 % (2015) lên 22,9% (2020) và tăng lên 25-28% thời điểm năm 2030. – Thịt trâu bò từ 8,3% (2015) lên 8,9% (2020) và đạt trên 10% thời điểm năm 2030. Một số hình ảnh của Hội nghị: Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, Sở NN&PTNT Ninh Bình chủ trì Hội nghị ông Nguyễn Xuân Dương Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Đại điện Sở Nông nghiệp và Phát nông thôn các tỉnh thảo luận đóng góp ý kiến Bài/Ảnh:Văn phòng Cục Chăn …
| Tin mới | admin | 24/10/2017 | | Xuất khẩu thịt lợn: Cơ hội của Việt Nam đã tới? | (Chinhphu.vn) – Theo lãnh đạo Bộ NN&PTNT, nghịch lý của ngành chăn nuôi lợn tại Việt Nam là tăng trưởng nhanh nhất, nhưng lại đầy rủi ro. Tuy nhiên, cơ hội xuất khẩu chăn nuôi của Việt Nam đã tới. Việt Nam hiện mới xuất khẩu thịt lợn xẻ chính ngạch sang thị trường HongKong và Malaysia khoảng 15.000 – 20.000 tấn (tương đương 200.000 con) trong giai đoạn từ năm 2013 – 2016. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam hiện vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sản xuất. Tại “Diễn đàn xúc tiến xuất khẩu thịt lợn Việt Nam” ngày 20/10 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức, Bộ này thống kê, nông nghiệp Việt Nam xuất khẩu hiện đạt kim ngạch trên 30 tỷ USD/năm, với 10 ngành hàng chủ lực. Tuy nhiên, dù Việt Nam là quốc gia có tiềm năng chăn nuôi lớn, với năng suất sản xuất từ 27,5 – 28 triệu con lợn, 300 triệu con gia cầm, 0,5 triệu bò sữa, 2 triệu tấn thịt, bình quân đạt 60 kg thịt/người, 100 quả trứng/người, 10 lít sữa/người, 80 kg cá/người… nhưng sản phẩm ngành chăn nuôi vẫn chưa góp mặt trong kim ngạch xuất khẩu. Việc xuất khẩu thịt lợn Việt Nam sang các nước từ nhiều năm nay vẫn chưa có sự đột phá nào. Phần lớn người chăn nuôi xuất khẩu lợn hơi sang Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch. Theo Hãng nghiên cứu toàn cầu (IBC), trong năm 2016, Việt Nam xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc đạt gần 12 triệu con lợn (33.000 con/ngày). Dự kiến năm 2017, Việt Nam xuất tiểu ngạch sang Trung Quốc khoảng 2,4 triệu con (giảm 80% so với năm 2016). Nếu tình hình không khả quan, con số xuất khẩu trên sẽ giảm mạnh xuống còn 1,17 triệu con. Trong khi xuất khẩu chính ngạch lại hạn chế. Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám, cơ hội xuất khẩu chăn nuôi của Việt Nam đã tới. Việt Nam hiện đã ký được hiệp định thương mại với 12 nước. Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp đang trong quá trình tái cơ cấu chăn nuôi theo hướng giảm giá thành, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, đảm bảo an toàn vệ sinh dịch bệnh. Những công việc này đòi hỏi ngành chăn nuôi phải tổ chức lại sản xuất theo chuỗi sản phẩm. Ông Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ ra nghịch lý là ngành chăn nuôi lợn tại Việt Nam tăng trưởng nhanh nhất, nhưng lại đầy rủi ro. Điển hình như tháng 4 vừa qua, nhiều hộ chăn nuôi điêu đứng vì không tìm được đầu ra, nhiều đợt “giải cứu” lợn nhằm hỗ trợ người sản xuất, nhưng đây không phải là biện pháp bền vững. Thực tế ngành chăn nuôi lợn mới làm tốt khâu sản xuất, còn chế biến và tổ chức thị trường quá yếu. Trong số hơn 4 triệu tấn thịt lợn hơi mỗi năm chỉ xuất khẩu được 20.000 tấn lợn sữa. Để ngành này phát triển bền vững, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, cần phải tái cơ cấu lại, tổ chức lại ngành hàng làm theo mô hình liên kết chuỗi, để sản xuất sạch, hướng đến xuất khẩu. “Vừa qua doanh nghiệp đã xuất khẩu thành công thịt gà sang thị trường Nhật Bản. Tới đây sẽ là thịt lợn. Sản xuất phải theo mô hình chuỗi. Ở quy mô lớn, các doanh nghiệp có sức sản xuất lớn, tập trung cao ở đây để xuất khẩu. Ở quy mô nhỏ hơn như các trang trại cũng nên theo hướng đó. Tiềm năng thị trường là có, điều kiện tổ chức sản xuất thì Việt Nam có thể làm được. Vấn đề quan trọng bây giờ là hành động. Cụ thể Bộ chỉ đạo về vùng an toàn dịch bệnh, các thủ tục quy trình xuất khẩu cũng phải làm đồng bộ, quyết liệt,” ông Cường nhấn mạnh. Tại Diễn đàn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk, Phó Bí thư tỉnh Bình Phước, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An và 4 đơn vị là Câu lạc bộ Nông nghiệp Công nghệ cao, Tập đoàn De Heus, Công ty CP và Đầu tư Thương mại Biển Đông, Công ty máy móc Daewon đã cùng ký kết Thoả thuận thực hiện liên kết chuỗi sản xuất thịt lợn sạch để xuất khẩu, nhằm mở ra một hướng đi chung trong chiến lược phát triển của các bên, với mục đích mang lại cho cộng đồng chuỗi giá trị cung ứng thịt lợn sạch, an toàn hướng đến xuất khẩu. Diễn đàn cũng đã nhận được nhiều ý kiến, đề xuất và kinh nghiệm bổ ích trong công tác chăn nuôi, xuất khẩu thịt lợn sạch, từ nhiều doanh nghiệp và các chủ trang trại chăn nuôi. Thanh …
| Tin mới | admin | 23/10/2017 | | Độc đáo cuộc thi “hoa hậu” bò sữa trên cao nguyên Mộc Châu | Hồng Kiều (Vietnam+) – 16/10/2017 12:29 GMT+7 126 con bò, bê được lựa chọn từ 23.000 bò, bê đã tham gia Chung kết cuộc thi Hoa hậu Bò Sữa Mộc Châu năm 2017 Trước khi tham gia thi Ban giám khảo chấm điểm Trước khi tham gia phần thi trình diễn, các cô đò được đeo nơ cho thêm phần xinh đẹp. Niềm vui và tự hào của những người chăn nuôi bò …
| Tin mới | admin | 18/10/2017 | | Thông báo số 8666/TB-BNN-VP ngày 16/10/2017 về Ý kiến chỉ đạo của Thứ trưởng Vũ Văn Tám về việc heo bị tiêm thuốc an thần trước khi mổ tại TP Hồ Chí Minh | …
| Thông báo | admin | 18/10/2017 | | Ngăn chặn dịch bệnh gia súc, gia cầm phát sinh và lây lan | (Chinhphu.vn) – Bộ NN&PTNT phát động “Tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng môi trường đợt 2 năm 2017” trên toàn quốc từ ngày 16/10/2017 đến hết ngày 15/11/2017. Theo Bộ NN&PTNT, thời gian qua, một số địa phương đã xảy ra dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng, và một số dịch bệnh khác trên vật nuôi. Thời tiết đang trong giai đoạn chuyển mùa làm giảm sức đề kháng của gia súc, gia cầm tạo thuận lợi cho mầm bệnh có điều kiện phát tán. Bên cạnh đó, các hoạt động vận chuyển động vật, sản phẩm động vật trái phép qua biên giới ngày càng tinh vi, khó kiểm soát. Đồng thời, hoạt động chăn nuôi tái đàn dịp cuối năm gia tăng; việc kiểm soát dịch bệnh tại các cơ sở giết mổ tại một số địa phương chưa tốt… do vậy nguy cơ dịch bệnh tiếp tục xuất hiện và lây lan là rất cao. Bộ NN&PTNT đã đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các đơn vị liên quan phát động và tổ chức thực hiện “Tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng môi trường đợt 2 năm 2017”. Đối với những trại chăn nuôi, cơ sở giết mổ động vật tập trung, cơ sở ấp trứng gia cầm tự lo vật tư, kinh phí, tổ chức thực hiện theo sự giám sát của địa phương. Các cơ sở giết mổ động vật, cơ sở gia công, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật phải thực hiện vệ sinh, tiêu độc khử trùng theo quy định trước và sau mỗi ca sản xuất. Chính quyền địa phương chỉ đạo, bố trí hố sát trùng tại khu vực đường mòn, lối mở biên giới trên địa bàn quản lý. Tại cửa khẩu biên giới, bố trí hố sát trùng và thực hiện vệ sinh tiêu độc, khử trùng các phương tiện vận chuyển động vật, sản phẩm động vật đi qua cửa khẩu. Chính quyền cấp xã tổ chức các đội phun thuốc sát trùng cho khu vực chăn nuôi hộ gia đình, chợ buôn bán động vật sống ở nông thôn, nơi công cộng, khu nhốt giữ động vật… Việc phun khử trùng chỉ được thực hiện sau khi đã được vệ sinh cơ giới như quét dọn, cọ, rửa sạch. …
| Tin mới | admin | 17/10/2017 | | Việt Nam trước cơ hội xuất khẩu gà vào EU | (Chinhphu.vn) – Với khoảng 500 triệu dân đang có nhu cầu lớn về sử dụng thịt gà, với lộ trình thuế nhập khẩu giảm về 0%, không bị áp quota theo Hiệp định FTA Việt Nam-EU, Việt Nam có nhiều cơ hội để xuất khẩu sản phẩm gà chế biến sẵn sang thị trường này. Ngày 28/9, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám đã có buổi làm việc với ông Gabo, Giám đốc Công ty Jan Zandbergen (Hà Lan) và một số đối tác xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi sang các nước thành viên thuộc Liên minh châu Âu (EU). Ông Gabo cho biết, EU với khoảng 500 triệu dân đang có nhu cầu lớn sử dụng thịt gà và hiện đang có 3 nước xuất khẩu thịt gà vào thị trường EU là Brazil, Thái Lan và Ukraine. Thống kê mới nhất cho thấy năm 2017, EU có nhu cầu nhập khẩu 950.000 tấn thịt gia cầm, trong đó 85% là ức gà. Ông Gabo cho biết, công ty của mình nhập khẩu gà từ Thái Lan. Tuy nhiên, việc nhập từ thị trường này đang bị giới hạn bởi hạn mức quota là 8%, nếu vượt thì phải đóng thuế cao hơn. Trong khi Hiệp định FTA Việt Nam-EU có hiệu lực, theo lộ trình thuế nhập khẩu sẽ giảm về 0% và không hề bị áp dụng quota đối với sản phẩm thịt gà Việt Nam, ông Gabo cho rằng Việt Nam nên xuất khẩu sản phẩm gà chế biến sẵn sang EU. Tại buổi làm việc, Bộ NN&PTNT đề nghị Công ty Jan Zandbergen hoặc các đối tác xem xét đầu tư, liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam để xây dựng cơ sở giết mổ, chế biến theo tiêu chuẩn của EU nhằm sớm đưa thịt gà chế biến của Việt Nam sang EU. Trước đó, vào ngày 9/9, tại cảng quốc tế Long An (huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An), Bộ NN&PTNT đã tổ chức công bố xuất khẩu lô hàng thịt gà (300-400 tấn) đầu tiên của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. T. …
| Tin mới | admin | 02/10/2017 | | Đài Loan dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu thịt bò Nhật Bản kéo dài 16 năm | Vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) ngày 18/9 đã dỡ bỏ có điều kiện lệnh cấm nhập khẩu thịt bò của Nhật Bản kéo dài 16 năm qua. Tuyên bố trên được đưa ra sau khi Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm (FDA) Đài Loan ban hành thông báo hôm 17/7, trong đó cho biết Đài Loan đã nhất trí về nguyên tắc đối với việc dỡ bỏ lệnh cấm này. Theo đó, việc nhập khẩu được nối lại với điều kiện thịt và sản phẩm thịt bò Nhật Bản phải là từ những con bò được chưa tới 30 tháng tuổi, độ tuổi được cho là ít có nguy cơ nhiễm bệnh bò điên. Ngoài ra, bò bị giết mổ và xử lý tại những cơ sở được Chính phủ Nhật Bản cấp giấy chứng nhận, cũng như có xuất xứ trang trại mà chúng được chăn nuôi trong hơn 100 ngày. Người đứng đầu bộ phận an toàn thực phẩm của FDA Wu Tsung-his cho biết chính quyền Đài Loan đang đợi Chính phủ Nhật Bản cung cấp danh sách các cơ sở được chính phủ chứng nhận, để các nhà nhập khẩu của Đài Loan có thể nhập khẩu thịt bò Nhật Bản từ những cơ sở này. Năm 2001, vùng lãnh thổ Đài Loan đã áp đặt lệnh cấm đối với thịt bò nhập khẩu từ Nhật Bản sau khi phát hiện bệnh bò điên ở nước này. Việc dỡ bỏ lệnh cấm đối với thịt bò Nhật Bản được coi là bước tiến quan trọng trong đàm phán song phương về một Hiệp định Quan hệ Đối tác Kinh tế (EPA). Theo các nguồn thạo tin, với việc dỡ bỏ trên, hai bên có thể tiến tới giải quyết trở ngại tiếp theo là những hạn chế của Đài Loan đối với nhập khẩu thực phẩm của 5 tỉnh Nhật Bản, được áp đặt sau sự cố hạt nhân tại Nhà máy điện Fukushima số 1 do trận động đất, sóng thần gây ra hồi tháng 3/2011. Đài Loan nhập khẩu tới 95% thịt bò để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại vùng lãnh thổ này. Năm ngoái, Mỹ là nước xuất khẩu thịt bò lớn nhất của Đài Lan, tiếp đó là Australia và New …
| Tin mới | admin | 22/09/2017 | | Công văn số 1525/CN-TĂCN ngày 19/9/2017 về việc rà soát quy trình và đăng ký hoạt động thử nghiệm liên phòng TĂCN | …
| Công văn | admin | 19/09/2017 | | Chăn nuôi lợn sạch theo phương pháp hiện đại | Sản xuất theo quy trình khép kín, nuôi theo phương pháp sinh học hay công nghệ vi sinh E.M… là những mô hình được bà con tại nhiều địa phương áp dụng nhằm tạo ra sản phẩm thịt lợn sạch cho người tiêu dùng. Trước nhu cầu ngày càng lớn của thị trường, một số cơ sở chăn nuôi, hợp tác xã đã đầu tư xây dựng mô hình chuỗi cung ứng thịt lợn sạch khép kín từ khâu chọn giống cho tới giết mổ, tạo ra sản phẩm thịt sạch, an toàn, rõ nguồn gốc xuất xứ. Chuỗi sản xuất thịt sạch khép kín tại Vĩnh Phúc Với diện tích 15.000 m2, trang trại chăn nuôi lợn của Công ty TNHH MTV Phát Đạt (thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) được thiết kế và phân khu riêng biệt gồm chuồng phối, chuồng bầu, chuồng đẻ… Riêng khu chăn nuôi rộng tới 2.000 m2 với 4 dãy chuồng chứa 1.200 con lợn các loại. Hàng ngày, chuồng trại và đàn lợn đều được công nhân vệ sinh, chăm sóc kỹ lưỡng. Ngoài việc tự chủ nguồn giống, công ty còn đầu tư trang thiết bị máy móc và thiết kế hệ thống chuồng trại khoa học, thoáng mát thuận lợi cho vệ sinh, chăm sóc sức khỏe đàn lợn. Bên cạnh đó, công ty còn sử dụng máy tự trộn thức ăn, giúp kiểm soát liều lượng nguyên liệu như ngô, khô đậu tương, cám gạo, vitamin tổng hợp và nhất là dư lượng kháng sinh. Đến kỳ xuất chuồng, lợn được giết mổ ngay tại lò của công ty. Mỗi tháng, trang trại xuất trên 400 con lợn thịt với trọng lượng trên 30 tấn mỗi tháng. Hiện, sản phẩm của trang trại Phát Đạt được bán tại các cửa hàng kinh doanh thực phẩm an toàn tại Vĩnh Yên và Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Nuôi lợn theo phương pháp sinh học tại Thanh Oai, Hà Nội Những năm qua, nhờ quy trình chăn nuôi khép kín, hợp tác xã Hoàng Long ở thôn Tri Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội đã tạo ra những đàn lợn thịt khỏe mạnh, sạch bệnh, cho chất lượng thịt ngon, an toàn đối với người sử dụng. Cụ thể, hợp tác xã tự nhân giống đàn lợn để chủ động nguồn giống và giữ nguồn gen của dòng lợn ngoại nhập siêu nạc. Lợn được nuôi bằng hỗn hợp thức ăn sinh học gồm các loại gạo, cám, mì, ngô, đỗ tương được ủ lên men trong 24 giờ. Nước uống được sử dụng là nước giếng khoan, qua 2 lần lọc. Ngoài ra, khu chuồng nuôi luôn đảm bảo vệ sinh từ máng ăn, vòi uống, nền chuồng. Đàn lợn cũng được vệ sinh thú y định kỳ để đảm bảo không bị nhiễm bệnh, phát triển đồng đều, khỏe mạnh. Chất thải của lợn được thu gom tập trung và che lại bằng bạt, sau đó được đưa xuống khu bể chứa. Tại đây, sau công đoạn tách phân, phần nước sẽ được lọc qua ao sinh thái; phần bã được tận dụng làm phân bón hữu cơ. Một phần khác từ chất thải chăn nuôi còn sẽ được chuyển xuống khu hầm biogas dạng lỏng. Lợn đạt đủ trọng lượng xuất chuồng được giết mổ ngay trong nhà lạnh tại khuôn viên của hợp tác. Thịt được bảo quản ở nhiệt đột từ 0-5 độ C ngay sau khi xẻ nên giữ được độ tươi; sau đó, tùy theo nhu cầu dùng mới đem ra pha lóc, một phần dùng để chế biến giò, chả, nem ngay tại cơ sở, phần còn lại được đóng gói và vận chuyển tới cửa hàng tiêu thụ. Trung bình mỗi tháng, trang trại cung cấp cho thị trường khoảng 50 tấn thịt lợn sạch và các sản phẩm như giò lụa, chả lụa, chả quế, giò tai, giò xào, nem chua… Nuôi lợn theo công nghệ vi sinh E.M Tại Hà Nội, trang trại Bảo Châu ở huyện Sóc Sơn là một trong những đơn vị tiên phong nuôi lợn hữu cơ theo công nghệ vi sinh hữu hiệu E.M (Effective Microorganism) của Nhật Bản. Đây là công nghệ chăn nuôi tiên tiến với nhiều ưu điểm về chất lượng thịt và đồng thời giải quyết được vấn nạn ô nhiễm môi trường. Trong chế biến thức ăn, công nghệ E.M áp dụng công thức ủ lên men các loại ngũ cốc như cám gạo, đậu tương, ngô… nhằm tạo ra các enzym có lợi cho tiêu hóa và tăng sức đề kháng của lợn. Trong khi đó, toàn bộ chất thải của lợn được thấm hút bằng lớp đệm sinh học tạo ra từ đất, cát và chế phẩm E.M nhập khẩu trực tiếp từ Nhật Bản. Các vi sinh vật trong đệm sẽ tự động phân hủy và tiêu diệt các vi sinh gây mùi hôi thối. Do vậy, chuồng trại luôn thông thoáng, sạch sẽ. Lớp nền này sẽ được thay thế sau khoảng 4-5 năm sử dụng và tái chế thành phân bón sạch cho cây trồng. Trung bình, trang trại cung cấp cho thị trường cả nước khoảng 300 tấn thịt mỗi năm. Mô hình chăn nuôi GAHP nông hộ tại Thái Bình Gia đình chị Nguyễn Thị Hậu ở thôn 1, xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Thái Bình là một trong những hộ tiến hành chăn nuôi lợn theo mô hình GAHP nông hộ suốt 5 năm qua. Chị Hậu cho biết, để đáp ứng các tiêu chuẩn chăn nuôi lợn theo tiêu chuẩn GAHP, gia đình chị thiết kế hệ thống chuồng nuôi cách khu nhà ở tối thiểu 100m, trần cao, thoáng. Lợn được tiêm phòng văcxin đầy đủ, cho ăn bằng thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc rõ ràng, uống nguồn nước gia đình sử dụng. Bên cạnh đó, nền chuồng luôn được giữ sạch, hạn chế mùi và ô nhiễm không khí, ảnh hưởng tới sức khỏe vật nuôi và con người. Sau khi chuyển sang khu vực nuôi thịt khoảng 4,5-5 tháng, lợn đạt trọng lượng 100-110 kg là có thể xuất bán. Theo chị Hậu, nuôi lợn theo tiêu chuẩn GAHP giúp môi trường chăn nuôi sạch hơn, dịch bệnh ở lợn thuyên giảm, chất lượng thịt cũng cao hơn so với chăn nuôi thông thường. Phong …
| Tin mới | admin | 15/09/2017 | | Khởi động ILDEX Việt Nam 2018 | ILDEX Việt Nam 2018 sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp trong và ngoài nước trưng bày, giới thiệu sản phẩm cũng như cập nhật các thông tin thị trường chính xác nhất, tăng cơ hội tiếp xúc, học hỏi những kỹ thuật, công nghệ mới… * Triển lãm quốc tế chăn nuôi, thú y, sữa, chế biến thịt và nuôi trồng thủy sản… Phó Cục trưởng Nguyễn Xuân Dương chia sẻ tình hình chăn nuôi Việt Nam Ngày 12/9, Liên đoàn các Hiệp hội Thú y châu Á (FAVA), Triển lãm Chăn nuôi quốc tế châu Á (VIV), các Công ty TNHH MTV Dịch vụ Quảng cáo và Triển lãm Minh Vi (VEAS, Việt Nam) và Công ty VNU Exhibitions Asia Pacific (Thái Lan- Hà Lan) tuyên bố khởi động triển lãm quốc tế chăn nuôi, thú y, sữa, chế biến thịt và nuôi trồng thủy sản lần thứ 7 – ILDEX Việt Nam 2018, sẽ diễn ra từ ngày 14-16/03/2018 tại TP.HCM. Ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong 6 tháng đầu năm 2017 ước tính tăng 5,73% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tăng 2,65%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Việc áp dụng công nghệ cao vào trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản không chỉ giúp tạo ra chất lượng sản phẩm tốt, mà còn giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, việc này vẫn còn nhiều hạn chế và chưa thật sự phát huy được hiệu quả. ILDEX Việt Nam 2018 sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp trong và ngoài nước trưng bày, giới thiệu sản phẩm cũng như cập nhật các thông tin thị trường chính xác nhất, tăng cơ hội tiếp xúc, học hỏi những kỹ thuật, công nghệ mới thông qua các hội thảo chuyên đề được trình bày bởi các chuyên gia uy tín đầu ngành trong nước và quốc tế. Trả lời thắc mắc của các trang trại chăn nuôi cũng như doanh nghiệp tìm hiểu về ILDEX 2018 Ông Nino Gruettke, Giám đốc điều hành Công ty VNU Exhibitions Asia Pacific cho biết, triển lãm ILDEX Việt Nam 2018 có số lượng các nhà triển lãm tăng hơn 20% so với năm 2016, và hiện 70% số gian hàng đã bán hết. Quy mô ILDEX 2018 được mở rộng với 250 công ty hàng đầu đến từ 30 quốc gia và 5 gian hàng quốc tế từ Hà Lan, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc và Trung Quốc, bao gồm các ngành chăn nuôi và di truyền, chế biến thịt, thiết bị động vật, thú y, thức ăn chăn nuôi và dinh dưỡng… LÂM …
| Tin mới | admin | 13/09/2017 | | Đã kiểm soát được chất cấm Salbutamol trong chăn nuôi | (Chinhphu.vn) – Từ các kết quả giám sát, Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Bộ NN&PTNT) khẳng định đã kiểm soát được việc sử dụng chất cấm Salbutamol trong chăn nuôi, tồn dư thuốc kháng sinh trong thịt, thủy sản trong 8 tháng liên tục. Trong 8 tháng liên tục không phát hiện mẫu vi phạm chất cấm Salbutamol trong mẫu thịt tại các cơ sở giết mổ. Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản cho biết từ đầu năm 2017 đến nay Cục đã tổ chức giám sát an toàn thực phẩm (ATTP) các sản phẩm rủi ro cao tiêu thụ trong cả nước. Kết quả giám sát cho thấy, trong 8 tháng liên tục cơ quan này không phát hiện mẫu vi phạm chất cấm Salbutamol trong 3.588 mẫu nước tiểu, 707 mẫu thịt tại các cơ sở giết mổ. Tỷ lệ mẫu thịt vi phạm chỉ tiêu vi sinh vượt mức giới hạn cho phép được phát hiện là 1.571/5.707 mẫu vi phạm (chiếm 27,5%), giảm so với năm 2016 là 28,4%. Tỷ lệ mẫu thủy sản nuôi vi phạm chỉ tiêu hóa chất, kháng sinh cấm và vượt giới hạn cho phép là 12/1.847 mẫu (chiếm 0,65%), giảm so với năm 2016 (30/2.788 mẫu, chiếm 1,07%). Cơ quan này cũng đã lấy 341 mẫu thanh long, xoài, vải và phát hiện 1 mẫu/218 mẫu vải (chiếm 0,46%) có hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật (Cypermethrin) vượt mức qui định MRLs, nhưng không phát hiện mẫu thanh long, xoài nào có dư lượng vượt mức tối đa cho phép. Trong 8 tháng đầu năm, Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản cũng đã kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất 138 cơ sở, phát hiện và xử phạt 30 cơ sở vi phạm về chất lượng, ATTP với tổng số tiền xử phạt 895 triệu đồng. Đặc biệt, trước tình hình bơm tạp chất vào tôm tại một số cơ sở sản xuất kinh doanh, Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản, Thanh tra Bộ NN&PTNT đã phối hợp tích cực với Bộ Công an (A86, C49) tiến hành thanh tra đột xuất về sản xuất, kinh doanh tôm bơm tạp chất tại 11 cơ sở thu gom và chế biến tôm tại các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang và Bạc Liêu và phát hiện 3 cơ sở có tôm bơm tạp chất. Đoàn thanh tra đã lập biên bản tạm giữ, chuyển hồ sơ cho Thanh tra Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu xử phạt vi phạm hành chính 200 triệu đồng. Bên cạnh đó, đã thanh tra đột xuất và xử phạt tiền 30 triệu của 1 hộ kinh doanh tôm tại Hà Nội có hành vi kinh doanh 80 kg tôm nguyên liệu có tạp chất. Các tỉnh, thành phố đã kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất 10.301 cơ sở, phát hiện 1.107 cơ sở vi phạm và xử phạt với tổng số tiền 2,4 tỷ đồng. Từ các kết quả giám sát, Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản khẳng định đã từng bước kiểm soát được việc sử dụng chất cấm Salbutamol trong chăn nuôi, tồn dư thuốc kháng sinh trong thịt, thủy sản đã giảm. Được biết, trong thời gian tới các cơ quan thuộc Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục tăng cường kiểm soát thuốc thú y, hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Nhật …
| Tin mới | admin | 11/09/2017 | | Thanh tra Bộ NN-PTNT và C49 phối hợp triệt phá tình trạng bơm tạp chất vào tôm | Sau khi gây tiếng vang trong đấu tranh, phòng chống hành vi SXKD, sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, Thanh tra Bộ NN-PTNT và Cục Cảnh sát Môi trường (C49, Bộ Công an) tiếp tục “tấn công”, triệt phá các cơ sở bơm tạp chất vào tôm và kinh doanh tôm chứa tạp chất. Ông Nguyễn Văn Việt thừa ủy quyền của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT trao Bằng khen cho các chiến sỹ công an Truy đuổi chất cấm Hội nghị Sơ kết quy chế phối hợp giữa C49 và Thanh tra Bộ NN-PTNT diễn ra chiều 7/9, dưới sự chủ trì của Thiếu tướng Nguyễn Xuân Lý (Cục trưởng C49) và ông Nguyễn Văn Việt (Chánh thanh tra Bộ NN-PTNT). Theo Đại tá Trần Trọng Bình, Phó Cục trưởng C49, qua 2 năm triển khai thực hiện quy chế phối hợp về công tác phòng ngừa, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật trong SXKD, sử dụng vật tư nông nghiệp (VTNN) và VSATTP nông, lâm, thuỷ sản, hai bên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Năm 2015, tổ chức nhiều cuộc thanh tra chuyên ngành theo hình thức thanh tra đột xuất, hiệu quả cao, phát hiện nhiều hành vi vi phạm, với 17 công ty vi phạm, xử phạt 2,6 tỷ đồng. Đối với sự phối hợp của hai lực lượng địa phương, đã kiểm tra 8.400 cuộc với gần 170.000 tổ chức, cá nhân được thanh tra, kiểm tra; phát hiện 32.306 tổ chức, cá nhân vi phạm, xử phạt hành chính 101 tỷ đồng. Còn trong năm 2016, qua thanh tra, kiểm tra đã tiến hành xử lý gần 5.500 tổ chức, cá nhân vi phạm, xử phạt 23,1 tỷ đồng. Cơ quan điều tra đã xác định được nguồn cung cấp Salbutamol từ các công ty hoá dược và kiến nghị nhiều giải pháp tăng nhằm ngăn chặn có hiệu quả vi phạm. Phát hiện đầy đủ các phương thức thủ đoạn lưu hành chất cấm từ khâu cung cấp, đưa kèm thức ăn chăn nuôi, đến phát hiện chất cấm tại các lò mổ. Trao bằng khen của Tổng cục Cảnh sát cho các tập thể và cá nhân Bộ NN-PTNT “Tuyên chiến” với tôm tạp chất Đặc biệt, năm 2017, Thanh tra Bộ NN-PTNT và C49 đã tổ chức 10 đoàn thanh tra, kiểm tra tập trung vào lĩnh vực VSATTP trong chế biến, kinh doanh thuỷ sản, nhất là đưa tạp chất vào tôm và kinh doanh tôm có tạp chất. Đã phát hiện 7 cơ sở bơm tạp chất vào tôm, 1 cơ sở kinh doanh tôm có tạp chất. Mới đây nhất, ngày 2/8/2017, Thanh tra Bộ NN-PTNT, C49 và Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và thuỷ sản đã kiểm tra đột xuất cửa hàng hải sản Long Hằng tại cổng chợ đầu mối phía Nam quận Hoàng Mai phát hiện ông Lê Hoàng Long đang cho 2 nhân công bơm tạp chất (chất Agar) vào tôm nguyên liệu. Tháng 5/2017, các bên đã kiểm tra phát hiện hộ kinh doanh Bùi Văn Minh có 5 nhân viên đang dùng xylanh để bơm dung dịch Agar vào tôm. Theo ông Ngô Hồng Phong, Phó Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và thuỷ sản thì công tác đấu tranh, phòng chống hành vi bơm tạp chất vào tôm có nhiều diễn biến mới. Thứ nhất, trước đây, chúng ta chủ yếu phát hiện các lô hàng tôm chứa tạp chất khi vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Đối tượng bơm tạp chất chủ yếu là tôm sú (loại tôm to), địa bàn phát hiện chủ yếu là 4 tỉnh ĐBSCL (gồm Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang…). Nhưng gần đây, liên tiếp phát hiện bơm tạp chất vào tôm ngay tại cơ sở SX; đối tượng bơm tạp chất ngoài tôm sú còn có tôm thẻ chân trắng. Cơ sở bơm tạp chất không chỉ có các DN chế biến thuỷ sản XK mà cả các cơ sở nhỏ lẻ, không gian và độ tinh vi ngày càng gia tăng (đặc biệt là địa bàn TP Hà Nội). Ông Nguyễn Văn Việt cho biết, vẫn còn một số vướng mắc trong phối hợp. Thứ nhất là thủ tục lấy mẫu và bàn giao mẫu chưa thuận tiện cho theo dõi và thanh toán. Còn hiện tượng không phối hợp do quen biết, thiếu người…; xử lý độc lập không thông báo lại kết quả… Thời gian tới hai bên cần phối hợp chặt chẽ để đạt kết quả cao …
| Tin mới | admin | 08/09/2017 | | Thành công từ chăn nuôi bền vững | (Người Chăn Nuôi) – Trang trại Polyface tại bang Virginia, Mỹ trở thành một điển hình tiêu biểu trên thế giới về mô hình trang trại thuần thiên nhiên. Trại nuôi tự do lớn nhất Virginia Polyface là một nông trại nằm ở vùng nông thôn Swoope, bang Virgina do ông Joel Salatin điều hành. Trang trại sử dụng các phương pháp chăn nuôi thuần tự nhiên với mục đích: “Cảm hứng, kinh tế và môi trường để phát triển nông nghiệp”. Tại trang trại, ông Salatin đã phát triển và đưa vào nhiều phương pháp nuôi quan trọng, gồm tiếp thị trực tiếp các loại thịt và sản phẩm cho người tiêu dùng, chăn nuôi gia cầm, thịt bò ăn cỏ và phương pháp canh tác thuần tự nhiên, làm cho trang trại giống như một hệ thống sinh thái hơn là canh tác thông thường. Trang trại Polyface hiện đang liên kết với một đại lý nơi khách hàng đến để lấy các sản phẩm của họ. Trang trại Polyface có diện tích 180 ha, trải dài trên những ngọn đồi thung lũng Shenandoah, phía Bắc bang Virginia. Khu vực cao nhất của trang trại được xây dựng thành những ngôi nhà sinh thái với mái vòm bằng kim loại và nhựa cao. Tại đây, đàn bò được chăn thả khá thoải mái trên những triền đồi, nơi có những cây cổ thụ rậm rạp, cỏ dại mọc đều và những chú bò có thể thoải mái “thả” phân bón tự nhiên vào một hố đất hoặc nơi chúng được chăn thả trong ngày. Những ngôi nhà này thực chất là những trạm cho ăn của đàn bò: một bên là lá với cỏ khô, phía bên kia là các ròng rọc với phần đáy rộng để tiện cho việc vận chuyển thức ăn. Gần đó, đàn gà được nuôi trên những chiếc ghế dài di động bằng vải, đang mò mẫm tìm kiếm những ấu trùng ruồi. Đàn bò và gà cùng làm việc để tạo ra một hệ sinh thái đất, cỏ vô cùng phong phú. Vào mùa xuân, khi bò trở lại đồng cỏ, đàn heo di chuyển vào các nhà kho, đào bắp lên men trong quá trình làm khô lớp đệm do những chú bò tạo ra vào mùa đông trước đó. Thay vì sử dụng những chiếc máy khổng lồ để ủ phân, Salatin dựa vào năng lượng của đàn heo để tạo ra phân bón tự nhiên để nuôi trồng, việc này không có ô nhiễm do phân chuồng, không có mùi, không dịch bệnh. Không mầm bệnh Salatin căn cứ vào hệ sinh thái của trang trại dựa trên việc quan sát các hoạt động của động vật ở môi trường tự nhiên và mô phỏng những điều kiện đó càng chặt chẽ càng tốt. Salatin chăn thả gia súc ngoài trời. Phân chuồng và phân bón cho các đồng cỏ cho phép Polyface nuôi gia súc gấp 4 lần những trang trại thông thường, do đó tiết kiệm được chi phí thức ăn. Polyface nuôi gà thịt, trứng, heo, gà tây và thỏ. Sự đa dạng trong sản xuất được trang trại sử dụng nhờ các đồng cỏ sạch, điều này giúp phá vỡ chu kỳ mầm bệnh, tạo ra nhiều dòng thu nhập. Những con gà thịt được đặt trong những nơi trú ẩn di động được di chuyển hàng ngày để chăn thả trên các đồng cỏ mới và tránh xa phân thải hôm trước. Những con gà đẻ trứng được đặt trong những chiếc chuồng nhỏ di động với tên gọi “eggmobiles”, 4 ngày sau khi sinh, khi những chú ruồi sinh ra từ phân thải, sẽ góp 15% thức ăn cho gà từ việc này. Trang trại Polyface ngoài những đồng cỏ, chuồng trại và các hệ thống tự động còn được trang bị hệ thống đường ống dài 24 km và sử dụng gỗ rừng để xây dựng các cơ sở chăn nuôi trong trang trại. Một trong những nguyên tắc chăn nuôi của Salatin là “thực vật và động vật cần được cung cấp môi trường sống cho phép chúng thể hiện sự thay đổi về sinh lý, tôn trọng và theo dõi sự phát triển tự nhiên của chúng chính là nền tảng cho sức khoẻ của con …
| Tin mới | admin | 05/09/2017 | | Công văn số 1446/CN-TĂCN ngày 31/8/2017 về việc kiểm tra chặt bột thịt xương nhập khẩu làm TĂCN gia súc, gia cầm, | …
| Công văn | admin | 05/09/2017 | | Lô gà đầu tiên của Việt Nam sẽ xuất sang Nhật vào ngày 9/9 | Theo Công ty trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek (liên doanh giữa Australia và Nhật Bản, đóng tại Khu công nghiệp Long Bình, tỉnh Đồng Nai), ngày 9/9, lô thịt gà đầu tiên của công ty này sẽ chính thức xuất khẩu sang Nhật Bản bằng đường biển. Đây là lần đầu tiên thịt gà Việt Nam xuất khẩu chính ngạch vào Nhật Bản, một thị trường “khó tính” nhất trên thế giới. Lô hàng có trọng lượng 30 tấn, bao gồm năm sản phẩm được làm từ cánh, đùi và ức gà. Dự kiến sau 10 ngày, hàng sẽ cập cảng ở thành phố Tokyo (Nhật), sau đó được phân phối vào hệ thống siêu thị của nước bạn. Ông Jame Hiếu, Tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek, cho biết đến thời điểm này, công ty đã hoàn thành tất cả các thủ tục xuất khẩu. Ngoài ra, Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cũng cấp đầy đủ giấy phép, giấy chứng nhận theo yêu cầu của phía Nhật. Toàn bộ hàng xuất khẩu của công ty đã được Cục Thú y Nhật Bản kiểm tra, đạt tiêu chuẩn an toàn theo quy định của Nhật. Hợp đồng xuất khẩu mà Công ty trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek ký với đối tác Nhật có tính lâu dài, giá bán cao hơn khoảng 30% so với tiêu thụ trong nước; trung bình mỗi tháng sẽ xuất 300 tấn. [Thịt gà Việt Nam gian nan tìm đường xuất khẩu sang Nhật, EU] Theo ông Jame Hiếu, hiện mỗi năm Nhật Bản nhập khẩu trên 900.000 tấn gia cầm. Đối tác từ Nhật có nhu cầu nhập khẩu mỗi tháng hơn 2.000 tấn thịt gà của Công ty trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek song năng lực của công ty không đáp ứng đủ. Để tăng số lượng hàng xuất khẩu, Công ty trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek sẽ đẩy mạnh liên kết với nông dân để nuôi gà thịt, đầu tư thêm nhà máy chế biến. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu gia cầm rất tiềm năng của doanh nghiệp Việt Nam, song để vào được Nhật Bản, doanh nghiệp cần tuân thủ những đòi hỏi rất khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm. Với gà, trong quá trình nuôi tuyệt đối không được dùng thuốc phòng ngừa cúm; khu vực nuôi phải được Nhà nước công bố an toàn dịch; khi gà đến nhà máy, lực lượng thú y phải kiểm tra từng con. Nhật Bản còn quy định người chăn nuôi không được dùng bất kỳ loại kháng sinh nào cho gia cầm trong 10 ngày trước khi đem vào giết mổ./. Công Phong …
| Tin mới | admin | 01/09/2017 | | Tìm biện pháp ổn định thị trường và phát triển chăn nuôi lợn | (ĐCSVN) – Cần tăng cường tổ chức liên kết chuỗi trong chăn nuôi lợn là ý kiến chung của các đại biểu đưa ra tại Hội nghị đánh giá kết quả triển khai các biện pháp ổn định thị trường và phát triển chăn nuôi lợn. Hội nghị do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức chiều 29/8, tại Hà Nội. Giá lợn giảm sâu bất thường Phát biểu tại Hội nghị, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Xuân Dương cho biết, thời gian trước quý III/2016, giá lợn hơi trong nước có chịu ảnh hưởng đáng kể của thị trường Trung Quốc. Bắt đầu từ quý IV/2016, giá lợn hơi trong nước giảm thấp và giảm sâu vào quý I-II/2017. Đây là mức giảm giá bất thường và cá biệt so với thị trường thịt lợn trong khu vực và trên thế giới. Giá lợn hơi có dấu hiệu hồi phục từ tuần đầu của tháng 5/2017, trong đó, mức giá đã tăng lên từ 5.000-7.000 đồng/kg, với mức tăng này đã giúp người chăn nuôi lợn trong nước đỡ thua thiệt từ 1.500-2.000 tỷ đồng/tháng. Tuy nhiên, giá lợn hơi trong nước chỉ mới tăng cao trở lại ở mức mà người chăn nuôi bắt đầu hòa vốn và có lãi chút ít vào đầu tháng 7 trở lại đây, khi giá lợn hơi tiêu chuẩn đạt 36.000-38.000 đồng/kg. Đánh giá của Cục Chăn nuôi cho thấy, nguyên nhân dẫn đến tình trạng giảm giá sâu và bất thường đối với mặt hàng thịt lợn trong nước do đàn nái tăng cao bất thường vào năm 2015 và nhất là năm 2016. Cùng với tăng năng suất chăn nuôi đã làm nguồn cung thịt lợn trong nước tăng cao. Trong khi đó, nhu cầu thịt lợn của thị trường nội địa không tăng do chịu chi phối của các mặt hàng thực phẩm khác như: gia cầm, thịt gia súc ăn cỏ và thủy sản. Đồng thời, xuất khẩu lợn hơi giảm đột ngột vào cuối năm 2016 và năm 2017 cũng là nguyên nhân thực tế vừa là yếu tố gây tâm lý bất ổn cho thị trường thịt lợn trong nước. Nhận định về tình hình trên, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương cho rằng, nếu so với giá lợn hơi của Thái Lan và Trung Quốc và giá trung bình lợn hơi trong nước hàng năm thì người chăn nuôi lợn Việt Nam đã thua thiệt từ 15.000-25.000 đồng/kg trong thời điểm từ tháng 10/2016 đến tháng 6/2017. Với giá lợn từ tháng 12/2016 đến tháng 6/2017 thì hầu hết người chăn nuôi lợn trong nước đều thua lỗ, vì giá thành sản xuất đối với lợn thịt tiêu chuẩn trong nước hiện nay đang biến động từ 34.000-38.000 đồng/kg. So với những lần biến động giá lợn khác thì lần này là lần giảm sâu và giảm lâu nhất. Giải pháp ổn định lâu dài Nhằm rút kinh nghiệm công tác sản xuất ngành hàng thịt lợn trong thời gian vừa qua, theo Phó Cục trưởng Nguyễn Xuân Dương, cần đánh giá đúng tình hình thực tế về nguồn cung và thị trường tiêu thụ mặt hàng thịt lợn, đó là cung đã vượt cầu khá lớn và thị trường tiêu thụ chính vẫn là nội địa. Phó Cục trưởng Nguyễn Xuân Dương đề nghị cần khẩn trương điều chỉnh quy hoạch chăn nuôi gắn với thị trường và tổ chức sản xuất theo các chuỗi liên kết, trong đó, vai trò của các doanh nghiệp kết nối đầu ra với từng phân khúc thị trường là điều rất quan trọng cho cân đối cung cầu và tiêu thụ nông sản cho nông dân. Chia sẻ kinh nghiệm trong thời gian giá lợn giảm sâu, đại diện doanh nghiệp giết mổ thịt lợn Minh Anh cho biết, với việc tổ chức sản xuất theo chuỗi, mặc dù giá mua không được cao nhưng đảm bảo 100% đàn lợn của bà con nông dân được công ty thu mua. Vì vậy, trong thời gian tới, để ngành chăn nuôi lợn phát triển bền vững, cần siết chặt quản lý các cơ sở giết mổ không đảm bảo, tuyên truyền vai trò của giết mổ công nghiệp, chuỗi liên kết sản xuất kín truy xuất được nguồn gốc. Bên cạnh đó, việc liên kết theo chuỗi giá trị rất quan trọng, cần đề cao vai trò của doanh nghiệp đầu tàu trong chuỗi, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã trong chuỗi, tuyên truyền cho bà con nông dân về vai trò của chuỗi. Đồng thời, đề xuất xây dựng hiệp hội sản xuất thịt lợn an toàn, trong đó, sẽ thực hiện nhiệm vụ kiểm soát việc thực thi các khâu sản xuất trong chuỗi, tránh tình trạng nếu làm không tốt dẫn đến mất niềm tin của người tiêu dùng. Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, cần nhận dạng lại ngành chăn nuôi lợn trong bối cảnh mới, đặc biệt về sức sản xuất, nhu cầu và khả năng tổ chức thị trường. Đồng thời, cơ cấu lại ngành hàng chăn nuôi lợn theo hai hướng: một là nhánh đi theo hướng công nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đảm bảo điều kiện nuôi tốt về chuồng trại, con giống,…;một nhánh đẩy nhanh chăn nuôi hữu cơ theo hướng lợn đặc sản. Trong đó, việc chăn nuôi lợn cần đảm bảo phát triển bền vững về cả kinh tế, môi trường và an sinh cho các hộ chăn nuôi lợn./. …
| Tin mới | admin | 30/08/2017 | | Thông tư số 16/2017/TT-BNNPTNT ngày 24/8/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu vệ sinh đối với cơ sở sản xuất tinh lợn | …
| Giống vật nuôi | admin | 28/08/2017 | | Xuất khẩu nông lâm và thủy sản 8 tháng đạt gần 24 tỷ USD | Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tháng 8 năm 2017 ước đạt 3,1 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2017 đạt 23,66 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, so với cùng kỳ năm 2016, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 12,6 tỷ USD, tăng 17,2%; hàng thuỷ sản ước đạt 5,13 tỷ USD, tăng 18,1%; hàng lâm sản chính ước đạt 5,07 tỷ USD, tăng 9,6%. Một số mặt hàng chủ yếu có giá trị xuất khẩu trong tháng 8 tăng về số lượng và giá trị. Cụ thể, mặt hàng gạo có khối lượng XK ước đạt 504 nghìn tấn với giá trị đạt 220 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 8 tháng đầu năm 2017 ước đạt 3,96 triệu tấn và 1,75 tỷ USD, tăng 19,8% về khối lượng và tăng 17,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Cùng với đó, mặt hàng cao su có khối lượng xuất khẩu cao su tháng 8 đạt 160 nghìn tấn với giá trị đạt 243 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cao su 8 tháng ước đạt 795 nghìn tấn và 1,36 tỷ USD, tăng 11,2% về khối lượng và tăng 52% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 8 ước đạt 749 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu thủy sản 8 tháng ước đạt 5,13 tỷ USD, tăng 18,1%… Bên cạnh đó, giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản trong tháng 8 năm 2017 ước đạt 2,69 tỷ USD, đưa giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản trong 8 tháng đạt 19,17 tỷ USD, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, ước tính nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính đạt 14,92 tỷ USD, tăng khoảng 32,6% so với cùng kỳ năm 2016. …
| Tin mới | admin | 28/08/2017 | | Thông tư số 16/2017/TT-BNNPTNT ngày 24/8/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu vệ sinh đối với cơ sở sản xuất tinh lợn | …
| Thông tư | admin | 28/08/2017 | | APEC 2017: Việt Nam – Úc hợp tác nâng cao năng suất và chất lượng nông sản | Trong khuôn khổ các hoạt động của Tuần lễ An ninh lương thực và đối thoại chính sách cao cấp về an ninh lương thực và nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu tại thành phố Cần Thơ đã diễn ra Lễ ký kết Ý định thư về thực hiện hợp tác nghiên cứu nông nghiệp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc (ACIAR) giai đoạn 2017–2027. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Quốc Doanh và Tiến sĩ Peter Horne, Tổng Giám đốc Chương trình Quốc gia ACIAR ký kết và trao Ý định thư. Phát biểu tại buổi ký kết, ông Peter Horne hoan nghênh sự tham gia tích cực của các đối tác Việt Nam trong quá trình xây dựng chiến lược mới trong quan hệ hợp tác giữa hai nước; qua đó, vạch ra lộ trình tương lai cho Việt Nam và Úc cùng làm việc trên tinh thần quan hệ đối tác bình đẳng. Ông Horne hy vọng, trong hợp tác nghiên cứu nông nghiệp 10 năm tới, hai bên sẽ cùng đóng góp và hưởng lợi từ một chiến lược có định hướng thống nhất trong các lĩnh vực hợp tác nghiên cứu, các khu vực địa lý tập trung, và những ưu tiên tài trợ cụ thể cho chương trình nghiên cứu. Theo kế hoạch, bắt đầu từ năm nay, ACIAR sẽ cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các đối tác khác tiến hành nghiên cứu những phương pháp khả thi nhằm hỗ trợ tháo gỡ các trở ngại trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam. Trong đó, chú trọng 6 lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm: an toàn thực phẩm; biến đổi khí hậu; cải thiện chất lượng đất và dinh dưỡng cây trồng; tăng cường liên kết thị trường; gia tăng giá trị các sản phẩm lâm nghiệp; nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, chương trình hợp tác sẽ ưu tiên phát triển những ứng dụng mang tính thực tiễn cao; đồng thời tập trung vận động, thu hút thêm sự tham gia của khối tư nhân nhằm tạo cơ hội cho người nghèo ở cả nông thôn và thành thị được tham gia và hưởng lợi từ các nghiên cứu, mô hình kinh tế nông nghiệp và các hoạt động canh tác. Quan trọng nhất, chương trình hợp tác đặt mục tiêu thông qua quá trình làm việc với các nhà khoa học Úc và quốc tế để cải thiện năng lực của các nhà nghiên cứu, nông dân, cán bộ khuyến nông và sinh viên Việt Nam. Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm Thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, Việt Nam và Australia có mối quan hệ chặt chẽ với kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều hàng năm đạt trên 170 nghìn tỷ đồng; đặc biệt, hợp tác về nghiên cứu nông nghiệp giữa hai nước đã không ngừng phát triển thông qua chương trình ACIAR. Qua đó, góp phần thiết thực vào sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp Việt Nam, nâng cao giá trị gia tăng của nông sản Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển thương mại của nông sản Việt Nam. Các dự án hợp tác đào tạo năng lực nghiên cứu khoa học dài hạn và ngắn hạn giữa ACIAR và Việt Nam cũng tạo điều kiện cho cán bộ khoa học từ các cơ sở nghiên cứu và đào tạo của Việt Nam được giao lưu, học hỏi với các nhà nghiên cứu, nhà khoa học quốc tế tại Úc. Ông Doanh mong muốn, thông qua kế hoạch hợp tác, Việt Nam sẽ phối hợp cùng ACIAR tìm ra hướng đi mới cho những vấn đề đang rất được quan tâm của ngành nông nghiệp Việt Nam như: nâng cao năng suất và chất lượng nông sản Việt Nam, bảo vệ các nguồn tài nguyên đất, nước và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc là đơn vị thuộc Chương trình Viện trợ Phát triển của Chính phủ Australia nhằm giúp đỡ các nước đang phát triển giảm nghèo và đạt được phát triển bền vững. Sứ mệnh của ACIAR là tài trợ các dự án hợp tác nghiên cứu nông nghiệp do các viện nghiên cứu của Úc chủ trì và thực hiện, nhằm giúp giải quyết các vấn đề nông nghiệp của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Từ năm 1993, ACIAR đã đầu tư 100 triệu đô Úc, tương đương 1.700 tỷ đồng, cho 170 dự án nghiên cứu ở Việt Nam, trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản./. H.Giang …
| Tin mới | admin | 24/08/2017 | | Gỡ vướng triển khai các dự án ngành nông nghiệp | (Chinhphu.vn) – Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa chỉ đạo các bộ, ngành liên quan tháo gỡ vướng mắc trong triển khai thực hiện các chương trình, dự án ngành nông nghiệp. Thông báo số 383/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ cho biết, ngày 12/7/2017, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã chủ trì cuộc họp về tháo gỡ vướng mắc trong triển khai thực hiện các chương trình, dự án của ngành nông nghiệp. Cụ thể, đối với các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020, Phó Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát các dự án khẩn cấp hoặc đầu tư dở dang, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp chung, đề xuất nguồn vốn, trình Thủ tướng Chính phủ theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các Thông báo số 16/TB-VPCP ngày 13/1/2017 và số 297/TB-VPCP ngày 10/7/2017. Đối với dự án hồ Bản Lải, tỉnh Lạng Sơn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện thủ tục đầu tư theo đúng quy định của Luật đầu tư công. Về việc tiếp tục bố trí vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2017 – 2020 cho một số dự án dở dang (các dự án: Hồ Nậm Cắt, tỉnh Bắc Cạn; hồ Bản Mòng, tỉnh Sơn La, Hồ chứa nước Sông Ray, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,…), Phó Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cân đối trong kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 để triển khai thực hiện. Đối với các dự án kế hoạch vốn năm 2017, về đề nghị ứng trước kế hoạch vốn trung hạn cho các dự án Xây dựng hệ thống trực canh, cảnh báo thiên tai, đa mục tiêu và dự án Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận; dự án hạ tầng nuôi trồng thủy sản vùng trũng tỉnh Ninh Bình, Phó Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp chung, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Phó Thủ tướng cũng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện Báo cáo thẩm định Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế thủy sản bền vững giai đoạn 2016 – 2020, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định, làm cơ sở giao vốn năm 2017. Về thẩm định các dự án ưu tiên đầu tư theo Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 – 2020, Phó Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện thẩm định theo nhiệm vụ được giao tại Văn bản số 730/TTg-NN ngày 26/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Phó Thủ tướng cũng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi lợn giống, sản xuất thức ăn chăn nuôi lên men và sản xuất phân bón tại tỉnh Thanh Hóa; tiếp nhận toàn bộ hồ sơ dự án và ý kiến của các các Bộ, ngành liên quan từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để nghiên cứu, tổng hợp vào Báo cáo thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của Luật đầu tư công trước ngày 15/9/2017. Phương …
| Tin mới | admin | 22/08/2017 | | Kéo dài thời gian lưu hành sản phẩm thức ăn chăn nuôi, thủy sản | (Chinhphu.vn) – Chính phủ vừa ban hành Nghị định 100/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 39/2017/NĐ-CP ngày 4/4/2017 về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản. Theo đó, bổ sung quy định về điều khoản chuyển tiếp của Nghị định 39/2017/NĐ-CP. Cụ thể, đối với các sản phẩm thức ăn chăn nuôi, thủy sản hết hiệu lực lưu hành trong khoảng thời gian từ ngày 20/11/2016 đến hết ngày 20/11/2017 thì được tiếp tục lưu hành không quá 18 …
| Tin mới | admin | 19/08/2017 | | Nghị định 100/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản | …
| Nghị định | admin | 19/08/2017 | | Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: An ninh lương thực là vấn đề nóng bỏng trên toàn cầu | “Một trong những trụ cột phát triển của nền kinh tế bền vững là an ninh lương thực. Nếu không đảm bảo được an ninh lương thực thì kinh tế không đảm bảo chứ đừng nói đến chuyện phát triển” – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT đã khẳng định như vậy khi trao đổi về Tuần lễ an ninh lương thực APEC 2017, diễn ra từ ngày 18-25/8/2017 tại Cần Thơ. Lý giải về việc trong khuôn khổ Năm APEC 2017, Việt Nam đưa ra 4 chủ đề ưu tiên, trong đó đối với ngành Nông nghiệp và PTNT có chủ đề về an ninh lương thực và thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh: APEC là một diễn đàn kinh tế của các quốc gia vành đai Châu Á – Thái Bình Dương, hiện nay gồm 21 thành viên. Đây là khu vực có diện tích rất rộng lớn với dân số gần 3 tỷ người, chiếm đến 40% tổng dân số trên toàn thế giới. Khu vực này cũng có vai trò kinh tế quan trọng, thương mại toàn cầu khu vực này chiếm tới 57% GDP của thế giới. Những năm gần đây, bằng những tiến bộ kỹ thuật cũng như tiến bộ về kinh tế, nhiều quốc gia trong đó có khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã vươn lên tự túc được lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, do điều kiện phát triển kinh tế, KHCN và vị trí khác nhau nên tình trạng đói nghèo, suy dinh dưỡng trẻ em trên thế giới vẫn là một vấn đề nóng bỏng. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc(FAO)đã ước tính hiện nay trên thế giới vẫn còn gần 800 triệu người thiếu đói và hơn 160 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, lâm vào tình trạng chậm phát triển.Chính vì thế, an ninh lương thực đang là vấn đề nóng bỏng trên thế giới. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng là khu vực chịu tác động của thiên tai lớn nhất trong các khu vực trên thế giới. Cùng với đó, tác động biến đổi khí hậu hiện nay diễn ra rất nhanh trên cả mức chúng ta dự kiến, khiến vấn đề đảm bảo an ninh lương thực, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu càng đặt ra nóng bóng. Do đó, năm nay chúng ta lựa chọn chủ đề an ninh lương thực và thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu là một nội dung, chủ đề được các thành viên APEC rất đồng tình. Với Tuần lễ ANLT 2017 diễn ra tại Cần Thơ tới đây, những cam kết và hợp tác giữa Việt Nam và các nước thành viên APEC sẽ được kỳ vọng như thế nào? Sau 30 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, từ một đất nước thiếu ăn chúng ta đã vươn lên không những sản xuất nông nghiệp đủ lương thực, thực phẩm cho 92 triệu dân trong nước mà còn dành một phần để xuất khẩu. Nhưng tài nguyên đất đai của nước ta ít với địa hình ¾ là núi và đặc biệt Việt Nam là 1 trong 5 nước bị tổn thương lớn nhất do tác động của biến đổi khí hậu. Trong năm 2016, thiên tai diễn ra khắp 3 miền Bắc – Trung – Nam gây thiệt hại về kinh tế khoảng 1% GDP. Điều đó cho thấy Việt Nam đang là 1 trong những tâm điểm chịu tác động của biến đổi khí hậu. Chính vì thế, chúng ta đặt ra rất nhiều kỳ vọng ở diễn đàn APEC, riêng chủ đề về nông nghiệp với nội dung quan trọng đặc biệt là Tuần lễ APEC về nông nghiệp. Tại diễn đàn này, mục tiêu đầu tiên chúng ta đặt ra là thông qua được 3 thông điệp chuyên đề là: Kế hoạch hành động chung của khu vực về chương trình phát triển an ninh lương thực gắn với nông nghiệp phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu; Kế hoạch hành động thực hiện Khung chiến lược APEC về Phát triển nông thôn – đô thị bền vững để tăng cường an ninh lương thực và tăng trưởng có chất lượng; Và Tuyên bố Cần Thơ – đây là Tuyên bố cấp Bộ trưởng nông nghiệp APEC về Tăng cường an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với BĐKH. Thứ hai, thông qua diễn đàn này, chúng ta muốn tiếp tục truyền cảm hứng để phát động phong trào khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, làm sao các thành phần kinh tế, các đối tượng lao động, đặc biệt là các bạn trẻ tham gia khởi nghiệp, nhiều sáng tạo cho lĩnh vực nông nghiệp. Việc tổ chức thành công Diễn đàn Khởi nghiệp nông nghiệp và sáng tạo sẽ tạo ra những cơ hội để truyền cảm hứng, đồng thời để thu hút thêm doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này. Thứ ba, chúng ta kỳ vọng là tăng cường trao đổi, xúc tiến để thu hút đầu tư, xúc tiến vào nhau; có thể các doanh nghiệp nước ngoài tiếp tục đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp và ngược lại các doanh nghiệp nước ta nghiên cứu để đầu tư vào các nước trong khu vực nhằm xây dựng chuỗi nông sản theo hướng toàn cầu. Thứ tư, khi chính sách của Nhà nước được ban hành, chúng ta kỳ vọng sẽ phối hợp chặt chẽ với việc huy động tổng nguồn lực của xã hội qua hình thức đầu tư công – tư (PPP) để có nhiều nguồn lực hơn, không chỉ là nguồn tài chính mà chúng ta thu hút được nguồn quản trị trong khu vực nông nghiệp để thúc đẩy nông nghiệp trong toàn khối nói chung và trong đó có Việt Nam. Như Bộ trưởng vừa chia sẻ, chúng ta sẽ ban hành một Kế hoạch khung các chương trình chung của APEC đối với lĩnh vực an ninh lương thực, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Vậy, thông điệp cụ thể của ngành nông nghiệp Việt Nam trong chương trình này và dự kiến những việc mình sẽ làm trong thời gian tới là gì? Thông điệp Việt Nam đưa ra là: An ninh lương thực là vấn đề nóng bỏng trên toàn cầu, không thể chủ quan được, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở khu vực vành đai Châu Á – Thái Bình Dương. Do vậy, tất cả các quốc gia trong khu vực phải cố gắng vượt bậc bằng nhóm giải pháp tổng thể, không chỉ là giải pháp riêng của lĩnh vực nông nghiệp thì chúng ta mới giải quyết một cách căn bản được vấn đề an ninh lương thực cho người dân của khu vực. Thông điệp thứ hai là vấn đề ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tập trung các chính sách thu hút nguồn đầu tư ngoài xã hội để cùng nguồn lực nhà nước nhằm giải quyết được các vấn đề rất khó khăn đang đặt ra. Thông điệp thứ ba là trước tình hình khó khăn, chúng ta rất cần sự chia sẻ, giao lưu, tương hỗ giữa các quốc gia kể cả về KHCN, kinh nghiệm, tự do hóa thương mại, thúc tiến đầu tư để chúng ta cùng tháo gỡ khó khăn. Đó là những vấn đề chính kỳ vọng đưa ra để làm sao các nước trong khối cùng chia sẻ về lĩnh vực nông nghiệp. Riêng chương trình hành động của Việt Nam, hiện nay chúng ta đang tập trung cao độ vào tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới – đây chính là hai nội hàm rất sâu sắc chúng ta đưa ra diễn đàn này, cũng đang là hai chương trình mục tiêu lớn nhất mà ngành nông nghiệp đang tập trung. Xin cảm ơn Bộ trưởng! Hiện nay, khoảng 60 triệu người, chiếm 65% dân số nước ta sống ở vùng nông thôn, chúng ta có khoảng 20 triệu dân vùng miền núi, chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người nên chúng ta phải quan tâm để đảm bảo sự phát triển đồng đều, làm cho khoảng cách của các khu vực ngắn lại. Do vậy, việc xác định xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu nông nghiệp trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay càng bức xúc, càng trúng hướng và đúng mục tiêu. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân …
| Tin mới | admin | 18/08/2017 | | Mong muốn định vị thương hiệu thức ăn chăn nuôi Việt Nam | (Chinhphu.vn) – Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ NN&PTNT về định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi (TACN), chiều 11/8, Cục Chăn nuôi tổ chức họp với đại diện các DN và một số cơ quan liên quan để bàn về chính sách, giải pháp phát triển sản xuất TACN thời gian tới. Theo Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương, tốc độ tăng trưởng về quy mô và sản lượng TACN công nghiệp của Việt Nam vào loại nhanh nhất thế giới, liên tục đạt 2 con số trong 20 năm qua, đưa sản lượng TACN công nghiệp quy đổi từ 400.000 tấn năm 1993 lên 23,15 triệu tấn năm 2016. Tốc độ phát triển nhanh, quy mô lớn Việt Nam trở thành nước dẫn đầu ASEAN và thứ 10 thế giới về sản lượng TACN công nghiệp (Thái Lan đứng thứ 2 với 18,6 triệu tấn, Indonesia đứng thứ 3 với 18,3 triệu tấn). Số lượng nhà máy và công suất thiết kế tăng cao, vượt xa kế hoạch định hướng. Đến nay, đã có trên 300 nhà máy chế biến TACN, thuỷ sản và trên 200 cơ sở chế biến thức ăn bổ sung, với công suất thiết kế đạt trên 31 triệu tấn/năm (định hướng của Chính phủ đến năm 2020 chỉ là 25 triệu tấn/năm). Hoạt động thanh, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lĩnh vực TACN luôn được Cục Chăn nuôi, Thanh tra Bộ NN&PTNT và các cơ quan nông nghiệp, quản lý thị trường ở các địa phương triển khai rất tích cực, nhất là vấn đề kiểm soát chất cấm trong chăn nuôi đã huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc. Ông Nguyễn Xuân Dương cho hay TACN là lĩnh vực có quy chuẩn chứng nhận hợp quy đầy đủ. Toàn bộ các thông tin về sản phẩm TACN được phép lưu hành tại Việt Nam đều được công khai trên website của Cục Chăn nuôi để DN, người dân và các cơ quan quản lý tìm hiểu thông tin. Vấn đề quản lý chất lượng TACN và an toàn thực phẩm rất được chú trọng. Hằng năm, các cơ quan quản lý tiến hành việc kiểm tra về điều kiện nhà xưởng, cửa hàng kinh doanh và đánh giá xếp hạng theo các cấp độ A, B, C để xử lý các vi phạm hành chính hoặc khuyến cáo khắc phục, trong đó có cả hình thức tạm đình chỉ kinh doanh đối với các cơ sở loại C nếu sau nhiều lần xử lý mà không có biện pháp khắc phục. Vốn đầu tư lĩnh vực TACN đều do tư nhân trong nước và nước ngoài đầu tư. Hiện nay, 100% vốn đầu tư cho ngành công nghiệp TACN ở Việt Nam đều của tư nhân. Các DN trong nước ngày càng phát triển, mở rộng quy mô và làm chủ được công nghệ hiện đại, quản trị tiên tiến, ngang tầm với các DN FDI. Công nghệ chế biến TACN không ngừng được cải tiến và hiện đại hoá. Do thị trường TACN phát triển muộn và tăng trưởng nhanh, đầu tư hiệu quả nên phần lớn các dây chuyền chế biến TACN được đầu tư đều thuộc thế hệ mới và xuất xứ từ các nước phát triển. Chất lượng TACN tốt, bảo đảm nhu cầu về dinh dưỡng và an toàn cho vật nuôi. Ngoài vấn đề chất cấm đã được khống chế, nhìn chung chất lượng TACN rất tốt, chiếm tới 85%. Còn lại khoảng dưới 15% sản lượng TACN chủ yếu là của khu vực các cơ sở nhỏ lẻ, các cơ sở tự phối trộn còn tồn tại bất cập về chất lượng. Giá TACN của Việt Nam đang thuộc nhóm nước thấp nhất trong khu vực. Hiện nay, giá bình quân thức ăn cho gà thịt giai đoạn từ 21 ngày tuổi đến xuất chuồng là 9.300 đồng/kg; thức ăn cho lợn thịt từ 50 kg đến xuất chuồng là 8.100 đồng/kg. Tăng cường kiểm tra, giám sát để bảo đảm chất lượng sản phẩm Hiện nay, số lượng các DN và cơ sở sản xuất, gia công và buôn bán TACN của Việt Nam đã quá nhiều, theo Cục Chăn nuôi, với tốc độ đầu tư như thời gian vừa qua thì đến năm 2020 công suất thiết kế của các nhà máy TACN công nghiệp trong nước có thể đạt 40 triệu tấn/năm. Như vậy sẽ vượt so với nhu cầu khoảng 5 triệu tấn/năm. Do đó, Cục Chăn nuôi kiến nghị các địa phương không khuyến khích mở mới các nhà máy TACN, nhất là ở những vùng hiện nay mật độ nhà máy đã cao, như Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng là thời cơ để Việt Nam có thể trở thành nước có ngành công nghiệp chế biến TACN phát triển cả về quy mô và chất lượng, an toàn sản phẩm. Muốn đạt được mục tiêu này, cần tăng cường công tác kiểm soát chặt các điều kiện ban đầu về nhà xưởng, trang thiết bị, quy trình sản xuất và cán bộ kỹ thuật, hạn chế đưa vào sản xuất những sản phẩm kém chất lượng, vừa giảm hiệu quả chăn nuôi, vừa gây ô nhiễm môi trường do thức ăn kém chất lượng mà vật nuôi không chuyển hoá hết, đào thải ra môi trường. Trên thị trường đang xuất hiện một số loại nguyên liệu TACN kém chất lượng, nhất là các loại có nguồn gốc động vật (bột thịt xương…), hoá chất công nghiệp không được phép dùng trong chăn nuôi, thực phẩm và hàng hết hạn sử dụng lưu hành, yêu cầu các doanh nghiệp kiểm tra kỹ trong kinh doanh, sử dụng và kịp thời phát hiện báo cáo Cục Chăn nuôi để có biện pháp kiểm soát. Đại diện hơn 30 DN có mặt tại cuộc họp đã có nhiều ý kiến đóng góp để phát triển ngành TACN của Việt Nam. Các DN đều mong muốn định vị được thương hiệu TACN trên thị trường quốc tế. Muốn vậy phải có sự quản lý, tăng cường siết chặt thanh tra, kiểm tra để chất lượng TACN của Việt Nam được tốt hơn. Các DN đề nghị các cơ quan quản lý, các địa phương phải có điều kiện gắt gao về quy chuẩn, quy mô khi cấp phép cho các cơ sở sản xuất TACN. Chúng ta cũng phải quy hoạch lại vùng trồng trọt, để nước ta – một nước nông nghiệp – sẽ không phải nhập khẩu ngô. Theo các DN, do rất khó giảm giá TACN thêm nữa nên chỉ thể thực hiện bằng cách giảm giá ở khâu trung gian mới có thể khiến giá TACN giảm tiếp. Các DN cũng kiến nghị cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra các cơ sở giết mổ nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong công tác quản lý giết mổ gia súc, gia cầm. Phương …
| Tin mới | admin | 17/08/2017 | | Ngành nông nghiệp sẽ rà soát chuẩn hóa trên 500 thủ tục hành chính | Tại hội nghị sơ kết công tác cải cách hành chính và triển khai nhiệm vụ trong những tháng cuối năm nay của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngày 10/8, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Công Tuấn yêu cầu, trước 15/9 các đơn vị phải rà soát, chuẩn hóa và trình Bộ trên 500 thủ tục hành chính. Thứ trưởng Hà Công Tuấn nêu rõ, trong các thủ tục hành chính phải ưu tiên các thủ tục liên quan đến xuất nhập khẩu, trong đó liên quan chính đến Cục Thú y, Cục Chăn nuôi, Cục Bảo vệ thực vật, Tổng cục Thủy sản; đặc biệt là ban hành công bố danh mục mã HS. “Lần rà soát này, dứt khoát một việc chỉ liên quan một đối tượng. Không có chuyện một việc phải đi qua mấy đơn vị,” Thứ trưởng Hà Công Tuấn khẳng định. Theo ông Ngô Hồng Giang, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã chỉ đạo các cơ quan chuyên ngành từng bước chuyển đổi phương thức kiểm tra, kiểm dịch theo hướng giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Cụ thể, đối với kiểm tra lô hàng thủy sản xuất khẩu đã chuyển phương thức kiểm tra trước trong quá trình sản xuất và cấp Giấy chứng nhận ngay khi doanh nghiệp có yêu cầu, rút ngắn thời gian từ 5-7 ngày làm việc xuống còn 1 ngày làm việc (8 giờ) cho một lô hàng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp. Thực tế nhiều lô hàng được cấp giấy chứng nhận trong 2-3 giờ. Về rà soát, sửa đổi các quy định về quản lý và kiểm tra chuyên ngành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã rà soát 49 văn bản cần sửa đổi, bổ sung thay thế theo yêu cầu của Quyết định 2026/QĐ-TTg về đề án giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Theo đó, có 15 văn bản đã sửa đổi, bổ sung, thay thế; sáu văn bản tiếp tục sửa đổi, bổ sung, thay thế; đã ban hành công bố danh mục mã HS đối với 26 văn bản, còn hai văn bản tiếp tục phố hợp với Tổng cục Hải quan để hoàn thiện áp mã HS. Rà soát danh mục hàng hóa kiểm tra chuyên ngành thuộc lĩnh vực quản lý của mình, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã chỉ đạo các đơn vị rà soát doanh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành đối với những lĩnh vực quản lý theo hướng tránh chồng chéo, giảm đầu mối kiểm tra tại cửa khẩu. Chỉ thực hiện kiểm tra tại cửa khẩu đối với các loại hàng hóa có nguy cơ lây lan dịch bệnh (kiểm dịch thực vật; kiểm dịch, kiểm tra vệ sinh thú y động vật, thủy sản); đối với hàng hóa chỉ kiểm tra chất lượng và kiểm tra an toàn thực phẩm thực hiện theo hướng quản lý rủi do sau thông quan. Về cải cách thủ tục hành chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đề nghị công khai đối với 123 thủ tục hành chính lĩnh vực lâm nghiệp. Các thủ tục hành chính của Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, Cục Chế biến và Phát triển thị trường, Cục Bảo vệ thực vật đã cập nhật xong nhưng chưa đề nghị công khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia. Đến nay, Bộ đã hoàn thành xây dựng Cổng dịch vị công trực tuyến của Bộ (tại địa chỉ: http://dvc.gov.vn); xây dựng, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 cho tám thủ tục hành chính đối với hai nhóm dịch vụ công tại hai đơn vị (Cục Bảo vệ thực vật và Cục Chăn nuôi). Đến ngày 8/8 vừa qua, hai đơn vị trên đã tiếp nhận và xử lý 3.104 hồ sơ. Ông Ngô Hồng Giang cho biết, Bộ tiếp tục hoàn thiện các chuỗi thủ tục hành chính thực hiện theo nhóm đối với 18 thủ tục hành chính cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 trong quản lý vật tư nông nghiệp, quản lý an toàn thực phẩm. Chuỗi thủ tục hành chính gồm cấp giấy chứng nhận đăng ký thuốc bảo vệ thực vật; công nhận thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam; cấp bằng bảo hộ quyền đối với giống cây trồng; công nhận thức ăn thủy sản sản xuất trong nước được phép lưu hành tại Việt Nam; kiểm tra, chứng nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản xuất khẩu đủ điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm. Triển khai cơ chế một cửa quốc gia, Bộ đã tiếp nhận, xử lý giải quyết hồ cơ cấp phép điện tử qua Cổng một cửa quốc gia với 122.741 hồ sơ; trong đó từ đầu năm đến 8/8 đã tiếp nhận 79.440 hồ sơ và đã xử lý, giải quyết 75.623 hồ sơ. Theo ông Ngô Hồng Giang, thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia tại Bộ và các đơn vị đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, góp phần tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ. Thứ trưởng Hà Công Tuấn cho rằng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có tiến bộ trong cải cách thủ tục hành chính nhưng so với các bộ, ngành khác vẫn còn rất chậm. Từ nay đến cuối năm, các đơn vị phải thực hiện đầy đủ các quy định về chuẩn hóa, công bố, công khai và cập nhật toàn bộ thủ tục hành chính vào cơ sở dữ liệu quốc gia; kết nối, chia sẻ thông tin với một cửa quốc gia. Bên cạnh đó, hoàn thành việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 tại các đơn vị Cục Trồng trọt, Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản, Tổng cục Thủy sản; triển khai mở rộng cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN. Theo ông Ngô Hồng Giang, thời gian tới các đơn vị sẽ tiếp tục sẽ rà soát, hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý phục vụ cho hoạt động kiểm tra chuyên ngành; áp dụng phương pháp quản lý rủi do trong kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, chuyển mạnh sang hậu kiểm; ban hành doanh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành tại khâu thông quan, đảm bảo thống nhất, không chồng chéo, kiểm tra ít …
| Tin mới | admin | 11/08/2017 | | Trở thành tỷ phú nhờ mô hình gà ấp trứng le le | 8 năm với nghề chăn nuôi, anh Sa Lê dân tộc Chăm ở ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã thuần hóa và được loài le le hoang dã, cho gà ấp trứng le le để tạo con giống khỏe, nuôi thương phẩm để xuất khẩu. Nhờ cách làm mới, anh Sa Lê trở thành tỷ phú. Theo Sa Lê, nuôi le le thương phẩm không khó chỉ cần không gian thoáng, rộng và cho ăn đầy đủ là xong, còn nuôi le le sinh sản thì rất khó, để thành công tạo giống động vật hoang dã này, Sa Lê phải mất 2 năm nghiên cứu mới thành công. Hiện bầy le le 2.000 con được Sa Lê bảo vệ trong chuồng lưới và vệ sinh sạch sẽ trong 1.000m2 đất vườn, giữa hồ nước có lục bình, cỏ năn, lác tạo điều kiện cho chúng thích nghi với môi trường cư trú. Theo anh, le le ngoài tự nhiên rất dễ nuôi nhưng le le con rất khó chăm sóc. Phải tạo cho chúng môi trường thuận lợi để sống khỏe và không bị dịch bệnh, thức ăn chủ yếu là lúa, rong rêu và lục bình. Nơi le le đẻ và ấp trứng phải có không gian yên tĩnh, xa dân cư. Nơi ở của le le tốt nhất là có cỏ dại và nguồn nước sạch. Khi trưởng thành chọn con trống, con mái nhốt riêng, mặc dù le le tự làm tổ nhưng đến mùa sinh sản cần lót thêm rơm rạ vào thúng để cho sai trứng, thường thì chúng đẻ và ấp trứng vào mùa mưa. Mỗi năm từ bầy le le bán thịt (giá bán từ 550 – 620 ngàn đồng/con), Sa Lê chừa vài trăm con cho sinh sản nên quanh năm trại của anh đều có le le đẻ trứng. Trứng được ấp khoảng 28 ngày thì nở con, nuôi từ 6 tháng có thể xuất chuồng. Do thị trường hiện nay cung không đủ cầu nên để rút ngắn thời gian tái đàn, Sa Lê đã dùng 60 con gà mái đẻ để ấp trứng le le thay vì phải ấp bằng máy, với cách làm này vừa đạt kết quả cao vừa rút ngắn thời gian trứng nở từ 28 xuống 22 ngày. Le le được xem là loại chim trời cho thịt ngon và bổ dưỡng, được các thương lái săn lùn để xuất khẩu làm món ngon tăng cường sinh lực cho giới tiêu dùng đẳng cấp, vì vậy việc tái đàn để nhanh chóng tạo ra số lượng le le thương phẩm bán ra thị trường là hướng đi đúng mà anh Sa Lê đang áp dụng. Với mô hình chăn nuôi hấp dẫn này, anh Sa Lê là người “độc nhất vô nhị” của đồng bào Chăm An Giang nuôi con vật lạ thu tiền tỷ mỗi năm. BẢO …
| Tin mới | admin | 07/08/2017 | | Cấm sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và thủy sản từ năm 2020 | Việc sử dụng rộng rãi kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam làm gia tăng sự hiện diện của các vi khuẩn kháng thuốc trong gia súc, gia cầm, thủy sản và sản phẩm động vật. Mặt khác, việc bán thuốc kháng sinh không theo đơn, việc trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản mà không được giám sát về chuyên môn cho thấy thuốc kháng sinh được sử dụng thiếu trách nhiệm ở Việt Nam. Theo các cơ quan chức năng, đây là vấn đề đáng lo ngại. Do đó, từ đầu năm 2018, Việt Nam sẽ dừng sử dụng các loại kháng sinh trong sản xuất thực phẩm (chăn nuôi và thủy sản), chỉ cho phép sử dụng trong sản xuất con giống. Trong lộ trình đến năm 2020, Việt Nam sẽ dừng hẳn việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và thủy sản. Rất nhiều ý kiến xác đáng về thực trạng này đã được nêu tại Hội nghị triển khai kế hoạch hành động quốc gia về quản lý và sử dụng kháng sinh, phòng chống kháng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức, với sự hỗ trợ của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO). Lo ngại tồn dư kháng sinh Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Vũ Văn Tám, hiện nay tình trạng kháng kháng sinh đang là vấn đề mới và nhức nhối, đe dọa sức khỏe trăm nghìn người khi cơ thể có hiện tượng vi khuẩn gây bệnh kháng kháng sinh. Các loại kháng sinh không chỉ được lạm dụng trong chữa bệnh cho người mà còn sử dụng rất rộng rãi trong chăn nuôi và thủy sản, sản xuất thực phẩm. Tồn dư kháng sinh từ thực phẩm vào cơ thể người là vấn đề đáng lo ngại. Thứ trưởng Vũ Văn Tám cũng cho hay, để phù hợp với chính sách này, sắp tới Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ đề nghị sửa đổi, ban hành một số luật như Luật Chăn nuôi, Luật Thủy sản, Luật An toàn thực phẩm… [Loại bỏ kháng sinh kích thích sinh trưởng trong thức ăn chăn nuôi] Đặc biệt, trong khuôn khổ Hội nghị chiều nay (2/8), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã khởi động Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý và sử dụng kháng sinh và phòng chống kháng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản 2017 -2020. Kế hoạch hành động quốc gia này sẽ góp phần giảm thiểu các nguy cơ kháng thuốc cho cộng đồng liên quan tới việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Kế hoạch hành động quốc gia có 5 mục tiêu cụ thể bao gồm việc rà soát, sửa đổi và thi hành các quy định và chính sách liên quan tới kháng kháng sinh và sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và thủy sản. Mục tiêu thứ hai là nhằm nâng cao nhận thức về sử dụng kháng sinh và nguy cơ hình thành kháng khánh sinh. Mục tiêu thứ ba là thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh, sản xuất thức ăn chăn nuôi và thủy sản. Đồng thời giám sát việc sử dụng kháng sinh, kháng sinh tồn dư và kháng kháng sinh trong chăn nuôi, thủy sản. Cuối cùng là tạo điều kiện cho các hoạt động hợp tác liên ngành về quản lý kháng kháng sinh. Hợp tác quốc tế quản lý và sử dụng kháng sinh Theo Thứ trưởng Vũ Văn Tám, để triển khai hiệu quả kế hoạch này, cần phải có sự vào cuộc tích cực của các cơ quan gồm Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố cũng như kêu gọi hỗ trợ, hợp tác quốc tế, sự tham gia của các viện nghiên cứu… nhằm giảm sử dụng kháng sinh và ngăn ngừa các mối đe dọa từ kháng kháng sinh. Ông Jong Ha Bea, Trưởng đại diện của FAO cũng cho biết, kháng kháng sinh ảnh hưởng tới sức khỏe và sinh kế của người dân Việt Nam, đe dọa tới sự bền vững của sản xuất nông nghiệp, thực phẩm và môi trường. Người chăn nuôi, bác sỹ thú y và người bán thuốc cần chia sẻ trách nhiệm bằng cách sử dụng kháng sinh có trách nhiệm hơn, tìm ra các giải pháp thay thế để duy trì sức khỏe và năng suất chăn nuôi bằng các biện phán an toàn sinh học. [Ngừng nhập thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh kích thích sinh trưởng] Phát biểu tại Hội nghị, để kế hoạch thành công, ông Craig Hart, Phó giám đốc cơ quan Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tại Việt Nam cũng cho biết, kế hoạch này là bước đi quan trọng nhưng sự thành công của nó phụ thuộc vào việc tuân thủ và thực thi pháp luật. Các hành động phải dựa trên bằng chứng và thông lệ quốc tế. Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý và sử dụng kháng sinh và phòng chống kháng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản 2017 -2020 được hỗ trợ tài chính từ Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), hỗ trợ kỹ thuật từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc./. Theo thông tin từ Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) kháng khuẩn đề cập đến các vi sinh vật bao gồm vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng có khả năng kháng lại các chất kháng khuẩn như thuốc kháng sinh. Thuốc kháng sinh đang được sử dụng trong chăn nuôi không chỉ để điều trị, mà còn phòng bệnh và kích thích sinh trưởng. Các vi sinh vật có thể phát triển khả năng kháng thuốc kháng sinh và lây truyền vi khuẩn kháng thuốc từ động vật sang người thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc hay qua chuỗi thức ăn và môi trường. Nếu thuốc kháng sinh bị mất hiệu quả, việc điều trị nhiễm trùng, các bệnh ở người và động vật sẽ trở nên khó khăn hơn. Ngay cả các ca phẫu thuật thông thường cũng trở nên nguy hiểm, các nhiễm trùng không thể điều trị được sẽ dẫn đến thời gian nằm viện dài hơn, chi phí y tế cao hơn và tăng tỷ lệ tử vong. Kháng kháng sinh có thể lây truyền qua thực phẩm gây ra mối quan tâm về an toàn thực phẩm. Thanh Tâm …
| Tin mới | admin | 03/08/2017 | | Phòng chống dịch bệnh cho vật nuôi mùa mưa bão | Thời tiết mưa bão ảnh hưởng lớn đến sức khỏe đàn vật nuôi, vì vậy cần phòng chống dịch bệnh trước và trong mùa mưa bão. Khi thời tiết mưa, bão không những gây khan hiếm nguồn thức ăn mà còn dễ phát sinh dịch bệnh trên đàn gia súc gia cầm. Mặt khác khi mưa to có thể gây ngập úng cục bộ hoặc lụt trên diện rộng tạo cơ hội phát tán mầm bệnh. Vì vậy, người chăn nuôi cần thường xuyên cập nhật bản tin dự báo thời tiết hàng ngày và tăng cường chăm sóc gia súc, gia cầm trong mùa mưa bão để tăng khả năng chống chịu các tác động bất lợi của thời tiết cùng sự đe dọa của dịch bệnh… 1. Biện pháp thực hiện trước mùa mưa bão – Đảm bảo chuồng trại vững chắc. Tu sửa và chằng chống lại chuồng trại. Mái chuồng cần gia cố để hạn chế tốc mái khi có bão. Kiểm tra rèm che chắn đề phòng mưa tạt, gió lùa vào chuồng nuôi. – Đảm bảo mật độ nuôi phù hợp với số lượng và đặc tính, lứa tuổi của đàn vật nuôi. – Kiểm tra hệ thống thoát nước thải, nơi chứa chất thải để hạn chế ô nhiễm. Khơi thông cống rãnh, hạn chế úng ngập khi mưa to. Đối với những vùng có nguy cơ ngập lụt, cần tôn cao nền chuồng hoặc làm sàn kê cao và có phương án di dời vật nuôi khi ngập lụt. – Dự trữ nguồn thức ăn cho gia súc, gia cầm đủ về lượng và đảm bảo về chất: Dự trữ thức ăn xanh, phơi khô, ủ chua rơm rạ, cỏ khô, thân cây bắp đối với trâu, bò. Dự trữ thức ăn tinh và thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh đối với lợn, gia cầm. Thức ăn dự trữ cần bảo quản ở những nơi khô ráo để tránh ẩm mốc. Tuyệt đối không cho vật nuôi ăn thức ăn tinh đã bị nấm mốc. – Cần lưu ý đảm bảo cung cấp đủ nước sạch cho vật nuôi uống. Dự trữ một số hóa chất khử trùng nước để đảm bảo đủ nước sạch cho vật nuôi uống. – Dự trữ một số vật tư thuốc thú y cần thiết, vitamin, thuốc trợ sức, trợ lực, men tiêu hóa… dùng cho vật nuôi khi thời tiết bất lợi. – Tăng cường vệ sinh phòng bệnh cho vật nuôi: Áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, ngăn chặn mầm bệnh bên ngoài vào khu vực chăn nuôi để hạn chế phát sinh dịch bệnh. Vệ sinh sạch chuồng nuôi, dụng cụ chăn nuôi. Định kỳ sát trùng trong và ngoài chuồng nuôi để diệt mầm bệnh. – Chủ động phòng bệnh bằng cách tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin cho vật nuôi trước mùa mưa bão. Đối với trâu, bò, cần tiêm phòng bệnh tụ huyết trùng, lở mồm long móng. Đối với đàn lợn, tiêm phòng bệnh dịch tả lợn, tụ huyết trùng, phó thương hàn, lở mồm long móng, tai xanh… Đối với đàn gia cầm, cần tiêm vắc-xin phòng bệnh Niu-cát-xơn, Gumboro, cúm gia cầm. Vịt, ngan cần tiêm phòng dịch tả vịt, viêm gan do vi rút, vúm gia cầm, tụ huyết trùng… – Chủ động phương án thắp sáng và giữ ấm cho vật nuôi: Những ngày mưa bão lớn thường bị mất điện nên người chăn nuôi cần chủ động phương án thắp sáng và sưởi ấm dự phòng như máy phát điện, đèn, xăng dầu, bếp than, bếp trấu, củi… để giữ ấm cho vật nuôi – Đối với những gia đình có đàn gia súc, gia cầm lớn thì nên xuất bán vì trong thời kỳ này khan hiếm thức ăn và hạn chế khả năng rủi ro do bão lụt. 2. Biện pháp thực hiện trong và sau mưa bão, lũ lụt – Về chuồng nuôi: Thường xuyên kiểm tra chuồng trại chăn nuôi. Tu sửa, tránh để ẩm ướt, hạn chế tối đa sự tồn tại của mầm bệnh. Di dời đàn vật nuôi lên cao để tránh úng ngập. Khi nhiệt độ môi trường xuống thấp cần bổ sung thêm chất độn chuồng hoặc sưởi để giữ ấm cho vật nuôi. Kiểm tra cống rãnh thoát nước, nếu bị tắc phải khơi thông ngay, không để nước mưa chảy ngược vào chuồng nuôi. Thường xuyên quét dọn, vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống, các dụng cụ chăn nuôi Phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm nhất là trong mùa mưa bão cần được các hộ chăn nuôi tổ chức thực hiện thường xuyên, liên tục và cần được sự quan tâm của cộng đồng dân cư để đảm bảo an toàn dịch bệnh và giảm bớt thiệt hại cho người chăn nuôi. Nước rút đến đâu thì vệ sinh ngay đến đó. Định kỳ 1 – 2 lần/tuần phun thuốc sát trùng hoặc rắc vôi bột để tẩy uế chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng nuôi. Nên chọn những loại thuốc sát trùng có hoạt phổ rộng và có tác dụng diệt trùng nhanh, hoạt lực kéo dài, ổn định. – Chăm sóc nuôi dưỡng vật nuôi: Luôn để gia súc, gia cầm nơi khô ráo, sạch sẽ bằng mọi biện pháp vì gia súc, gia cầm trong môi trường ẩm ướt, lạnh chân sẽ rất dễ mắc bệnh. Chú ý giữ ấm cho gia súc, gia cầm. Hạn chế chăn thả trong mùa mưa lũ. Cung cấp đầy đủ thức ăn sạch, dễ tiêu, đảm bảo chất lượng, phù hợp với từng lứa tuổi của vật nuôi. Cung cấp đủ thức ăn xanh cho trâu bò, có thể bổ sung thêm thức ăn tinh cho chúng. Đối với lợn con và gà con ở giai đoạn úm nên sử dụng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh để đảm bảo đủ dinh dưỡng. Cung cấp đủ nước uống sạch, bổ sung thêm vitamin, khoáng chất, men tiêu hóa… cho gia súc, gia cầm để nâng cao sức đề kháng. 3. Công tác thú y: – Tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin cho gia súc, gia cầm theo đúng lịch trình phòng bệnh để tăng khả năng miễn dịch cho vật nuôi. Hàng ngày, vệ sinh chuồng nuôi, dụng cụ chăn nuôi sạch sẽ, thu dọn phân, chất thải về đúng nơi quy định và có biện pháp xử lý sát trùng. – Thường xuyên kiểm tra đàn gia súc, gia cầm, đặc biệt phát hiện sớm những bất thường trên đàn vật nuôi như uể oải, ủ rũ, kém ăn… Khi gia súc, gia cầm ốm, chết phải đào hố, chôn sâu và rắc vôi bột, tuyệt đối không giết mổ, vận chuyển, bán chạy, vứt xác chết bừa bãi ra môi trường xung quanh. – Sau bão lũ, khi nước rút cần quét dọn, vệ sinh chuồng trại, bãi chăn, thu gom rác thải… rồi tiến hành phun khử trùng tiêu độc bằng các chất sát trùng để tiêu diệt mầm bệnh trong nền chuồng và bãi chăn thả. Nhanh chóng đưa gia súc gia cầm vào chuồng khô và ấm. Thay hoặc bổ sung đệm lót khô cho vật nuôi.. THÚY …
| Tin mới | admin | 31/07/2017 | | Nuôi bò sữa khấm khá | Gia đình anh Nguyễn Văn Bình ở thôn Khách Nhi Xuôi, là một trong số hộ chăn nuôi bò sữa với số lượng lớn nhất của xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Hiện trong chuồng của anh có 30 con bò, 1 con bê. Số bò đang khai thác (cho sữa) là 25 con. Số chuẩn bị cho khai thác là 5 con. Không giống như các hộ chăn nuôi ở xã, nuôi bò sữa tại nhà, có nghĩa là chuồng trại liền kề nơi ở. Tại 2 thôn Khách Nhi Ngược và Khách Nhi Xuôi, một số hộ đã đầu tư thuê đất của xã, làm chuồng trại riêng, biệt lập với nơi ở. Với cơ ngơi hiện nay, Nguyễn Văn Bình đang sở hữu hơn 1 mẫu đất (3.600m2) trong đó vừa đất chuồng trại, vừa ao thả cá. Khởi nghiệp trang trại từ năm 2003, Nguyễn Văn Bình bắt đầu SX cây, con tổng hợp, gồm chuối và gia súc, gia cầm… Sau mấy năm đầu tư khiến cho anh thua lỗ triền miên. Vậy là khởi nghiệp trang trại thất bại. Không nản chí, đến năm 2008 anh Bình mạnh dạn chuyển sang nuôi bò sữa kết hợp trồng cỏ voi để có thức ăn thường xuyên cho bò. Bình vừa tận dụng đất vườn có sẵn, vừa thuê thêm, đến nay có gần 3 mẫu trồng cỏ voi. Sữa bò được bán Vinamilk với giá bình quân 13.000đ/kg. Hiện anh khai thác được hơn 4 tạ sữa tươi/ngày, được thu mua hết. Hỏi về việc thả cá ở khu ao liền kề, anh Bình cười, nói rằng riêng việc thả cá, không tính vào khoản thu nhập, rằng nuôi cá chỉ là nuôi “chơi”, có khi thu hoạch mỗi năm 1 lần, có khi 2 năm 1 lần. Hiện trong ao thả nhiều loại cá, đều là loại bán chạy, như trắm, trôi, mè, chép… Có bao nhiêu bán hết bấy nhiêu. Mỗi lần tát ao, cũng thu từ 1 – 2 tấn cá… ĐỖ BẢO …
| Tin mới | admin | 25/07/2017 | | Thông tư 35 tạo ra sự chuyển biến tích cực trong quản lý nuôi chim yến | Sáng 18/7, tại TP Nha Trang (Khánh Hòa) Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám chủ trì hội nghị “Đánh giá thực hiện Thông tư 35/2013/TT-BNNPTNT ngày 22/7/2013 và tình hình nuôi chim yến trong thời gian qua”. Tại hội nghị, các địa biểu được nghe báo cáo của Cục Chăn nuôi về đánh giá thực hiện Thông tư 35/2013/TT-BNNPTNT về quy định tạm thời quản lý nuôi chim yến và tình hình nuôi chim yến trong thời gian qua. Theo báo cáo, sau thời gian triển khai Thông tư 35, các địa phương có sự chuyển biến tích cực trong công tác quản lý nuôi chim yến. Cụ thể, văn bản này ra đời đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được cơ quan quản lý nhà nước và các DN đón nhận tích cực. đã giải quyết được các tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu xây dựng để nuôi chim yến trên địa bàn; đã giúp cho việc quản lý, kiểm soát chặt chẽ tình hình nuôi chim yến, trên cơ sở đó đánh giá hiện trạng, nhận định tình hình và có kế hoạch triển khai các biện pháp quản lý, kiểm soát phòng chống dịch bệnh cúm gia cầm phù hợp, hiệu quả. Bên cạnh đó, Thông tư đã trở thành công cụ hữu hiệu để đánh giá điều kiện VSATTP đối với cơ sở sơ chế, bảo quản yến mà trước đây chưa có. Đồng thời việc cải cách hành chính đã giúp cho các DN, hộ tư nhân đăng ký hoạt động nuôi chim yến được thuận lợi… Phát biểu tại hội nghị, Thứ trước Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám, cho biết, trước năm 2013 việc phát triển chim yến ở nước ta mang tính tự phát. Trước đây tình hình trên, Bộ NN-PTNT đã khảo sát thực tế các địa phương và ban hành Thông tư 35//2013/TT-BNNPTNT tạm thời quản lý nuôi chim yến. Nhờ vậy nghề nuôi chim yến nước ta bắt đầu phát triển mạnh. Cụ thể, nếu như trước năm 2013, toàn quốc chỉ có khoảng 2.000 nhà yến, thì sau Thông tư 35 ra đời đã có trên 5.000 nhà yến. Và tình hình quản lý chim yến ở địa phương đã đi vào nề nếp… Theo Báo Nông …
| Tin mới | admin | 24/07/2017 | | Công văn số 5919/BNN-CN ngày 19/7/2017 về việc đánh giá kết quả triển khai Chương trình chia sẻ khó khăn ổn định và phát triển chăn nuôi lợn | …
| Công văn | admin | 24/07/2017 | | Mô hình nuôi heo bằng thức ăn sạch bước đầu thành công | Sau khi so sánh giữa 2 loại thịt heo thường và heo sạch, nhiều người đã khẳng định heo nuôi bằng thực phẩm sạch thịt dai hơn, thơm ngon hơn, đặc biệt là thịt heo sống, lúc chưa chế biến không có mùi tanh như heo thường. Trại heo Dũng Nhung ở ấp Định Khánh B, xã Định Môn, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ nuôi quy mô trên 50 heo nái, xuất chuồng mỗi năm trên 1.200 heo con và trên 350 heo thịt. Thế nhưng, từ khi giá heo bị khủng hoảng đến nay, trại bị thua lỗ nặng nề… Trước tình trạng bế tắc hiện nay, ông Dương Hoàng Dũng, chủ trại heo Dũng Nhung đã có sáng kiến chuyển sang nuôi heo bằng thức ăn sạch với ý định tạo ra nguồn thực phẩm chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Bởi hiện đa số khách hàng, nhất là khách hàng khó tính đều tẩy chay thực phẩm bẩn và săn tìm sản phẩm sạch, vệ sinh, an toàn. Ông Hoàng Dũng chia sẻ: “Từ khi nắm bắt được thông tin người nuôi heo sử dụng chất cấm, chất tạo nạc và chất tăng trọng khiến cho nhiều người quay lưng lại với loại thịt này. Mới đây, ngành chăn nuôi heo lại bị khủng hoảng về giá cả do cung vượt cầu. Từ thực trạng đó, tôi đã mày mò nghiên cứu về cách nuôi heo bằng thức ăn sạch, thức ăn tự nhiên, không sử dụng kháng sinh phòng bệnh. Sau một thời gian nuôi thử nghiệm, tôi nhận thấy heo vẫn tăng trưởng bình thường, khỏe mạnh, nhưng đối với heo thịt, thời gian nuôi sẽ kéo dài hơn 2 tháng so với heo nuôi có dùng chất tăng trọng và chất kháng sinh”. Gần đây tôi được ông Dương Hoàng Dũng mời đến trang trại của ông dự một buổi tiệc liên hoan đặc biệt. Đó là một buổi tiệc mà thực đơn gồm toàn các món ăn chế biến bằng thịt heo sạch do ông sản xuất. Trong buổi tiệc có nhiều thành phần gồm đại diện Công ty Anova Pharma chuyên sản xuất sản phẩm Taca, phục vụ cho chăn nuôi heo sạch; đại diện Khoa Nông nghiệp và sinh học ứng dụng (ĐH Cần Thơ); Chi cục Thú y TP Cần Thơ; chính quyền địa phương và nhiều hộ chăn nuôi heo. Sau khi so sánh giữa 2 loại thịt heo thường và heo sạch, nhiều người đã khẳng định heo nuôi bằng thực phẩm sạch thịt dai hơn, thơm ngon hơn, đặc biệt là thịt heo sống, lúc chưa chế biến không có mùi tanh như heo thường. PGS.TS Lê Thị Mến, chuyên ngành Dinh dưỡng thức ăn, ĐH Cần Thơ đã có nhận xét: “Hiện chúng ta chưa có đủ cơ sở khoa học để đánh giá sự khác biệt về chất lượng giữa thịt heo nuôi thường và thịt heo nuôi bằng thức ăn sạch mà chỉ có thể đánh giá bằng cảm quan qua màu sắc và độ thủy dịch. Đúng là thịt heo sạch không quá ướt, cũng không quá khô, thơm ngon, hấp dẫn, mùi vị tự nhiên nhờ không có dùng kháng sinh”. Các ý kiến khác đều cho rằng heo nuôi bằng thức ăn thiên nhiên cho thịt ngọt, mỡ trong. Điều này chứng tỏ bước đầu trại heo Dũng Nhung đã thành công. Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, vợ của ông Hoàng Dũng, người đã có trên 10 năm kinh nghiệm về nuôi heo đẻ và heo thịt cho biết, heo nái và heo con ăn thức ăn tự nhiên cũng khỏe mạnh và an toàn, đặc biệt thức ăn tự nhiên như tấm, cám, bắp trộn chung với sản phẩm Taca, một loại nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên được chiết xuất từ than bùn sẽ giúp cho heo con và heo thịt tăng cường sức đề kháng và chống được virus. Ưu điểm kế đến là trong chăn nuôi không dùng chất kháng sinh, chuồng trại sẽ giảm mùi hôi, thịt heo lúc chưa chế biến gần như không có mùi tanh, khi nấu chín thịt sẽ săn chắc, mềm và hơi dai. Hiện trại heo Dũng Nhung đang thả nuôi 350 con cho ăn bằng thực phẩm sạch sẵn sàng cung cấp cho khách hàng trong nay mai. Ngoài thức ăn sạch, trại Dũng Nhung còn rất chú ý đến chất thải từ chăn nuôi. Để khắc phục tình trạng gây ô nhiễm môi trường, ông Hoàng Dũng đã tích cực hưởng ứng dự án “Phát triển nông thôn dựa trên cơ chế phát triển sạch ở ĐBSCL” bằng cách lắp đặt hầm biogas để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiêu diệt mầm bệnh trong chăn nuôi và tạo ra khí đốt để nấu nướng rất tiện lợi. Có thể nói trại heo Dũng Nhung đi tiên phong trong mô hình nuôi heo sạch và bước đầu đã mang lại hiệu quả đáng kể. Hy vọng mô hình này sẽ được nhân rộng để nhiều trang trại khác có cơ hội phát triển, tạo môi trường sống tốt, ít bệnh cho vật nuôi, góp phần cung cấp thực phẩm vệ sinh an toàn và bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng, nhất là các nhà hàng, quán ăn và siêu thị. THIÊN …
| Tin mới | admin | 13/07/2017 | | Nâng cao chất lượng bò thịt từ giống | (Người Chăn Nuôi) – Trong sản xuất hàng hóa, muốn phát triển bền vững, trước hết phải nâng cao chất lượng con giống, ngành chăn nuôi bò thịt cũng vậy. Cải thiện con giống Nhiều địa phương trên cả nước có tiềm năng chăn nuôi bò thịt, việc cải tiến giống được đẩy mạnh trong những năm qua. Ðơn cử như TP Hà Nội, từ năm 2010 đến nay, đã triển khai nhiều chương trình lai tạo, nâng cao chất lượng giống bò. Thông qua kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, tầm vóc, tỷ lệ thịt xẻ và chất lượng thịt của đàn bò đã được nâng lên đáng kể; Tỷ lệ thụ tinh nhân tạo cho bò tăng mạnh, từ 24% năm 2010 lên 61% năm 2016, qua đó giúp đàn bò lai đạt trên 90%, bò cóc chỉ còn dưới 10%. Để nuôi bò thịt hiệu quả cao, cần đặc biệt chú ý đến thức ăn ảnh: CTV Những năm qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã triển khai Dự án “Xây dựng mô hình cải tạo chất lượng đàn bò địa phương bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và vỗ béo bò thịt trong nông hộ” trên địa bàn một số tỉnh (Thái Nguyên, Tuyên Quang…). Dự án sử dụng tinh bò đực thuộc nhóm Zebu, Droughtmaste và BBB với quy mô 3.000 bò cái. Giống bò cái nền để lựa chọn thụ tinh nhân tạo có trọng lượng bình quân 230,9 kg/con và đã tạo ra khoảng 2.000 con bê lai, trọng lượng bê sơ sinh trung bình đạt 23,54 kg/con, mỗi bò lai có giá trị cao hơn bò nội khoảng 3 triệu đồng/con. Qua so sánh khả năng tăng trọng của đàn bò trong mô hình so với đàn bò cùng thời điểm, cho thấy bò trong mô hình có khả năng tăng trọng cao hơn 332,33 g/con/ngày. Hiệu quả từ mô hình bò vỗ béo cũng cho thu nhập cao hơn so với ngoài mô hình 3,5 – 5 triệu đồng/con. Chất lượng tiên quyết Ông Hà Minh Tuân, Phó Giám đốc Trung tâm Giống gia súc lớn Trung ương cho biết, việc tạo giống bò thịt của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Việt Nam hiện chưa có giống bò lai hướng thịt nào được cố định về di truyền giống và được công nhận là giống mới. Thêm nữa, lại chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia nào về đánh giá, bình tuyển bò lai hướng thịt. Việc ghi chép số liệu, quản lý giống còn thiếu khoa học, không xác định được bò thịt lai bao nhiêu giống và bao nhiêu máu, do vậy chưa tạo được đàn bò thịt hạt nhân làm giống. Ngoài việc tiếp tục hỗ trợ công tác thụ tinh nhân tạo cho bò thịt, sử dụng tinh ngoại chất lượng cao, chọn bò cái tốt làm giống sinh sản, cần tiếp tục triển khai các dự án nhằm giúp người chăn nuôi chủ động trong phát triển giống. Trong các dự án phát triển bò thịt đã thực hiện, Dự án “Ứng dụng kết quả nghiên cứu lai giống bò BBB trên nền bò lai Sind tạo đàn bò lai F1” được đánh giá là bước đột phá ở Thủ đô. Thông qua Dự án, bước đầu xuất hiện những trang trại thu gom bê giống F1 BBB với số lượng lớn để vỗ béo đến giết thịt, đây là tiền đề để đưa chăn nuôi bò thịt trở thành ngành sản xuất hàng hóa trọng điểm. Ông Nguyễn Văn Hải, Phó Giám đốc Công ty CP Giống gia súc Hà Nội cho rằng, để chăn chuôi bò thịt phát triển thành một ngành nghề ổn định, bền vững, hiệu quả, trước hết cần phải chủ động sản xuất các loại tinh bò thịt cao sản. “Theo tính toán của chúng tôi, riêng TP Hà Nội nếu tự sản xuất được tinh bò BBB thì giá thành chỉ 120.000 – 150.000 đồng/ liều, chỉ bằng 30 – 40% giá nhập ngoại. Với mức giá trên, khi hết Dự án, nếu thành phố không còn hỗ trợ, người chăn nuôi vẫn dễ dàng tiếp cận”, ông Hải cho biết thêm. Còn theo bà Nguyễn Thị Hải, Trưởng phòng Chăn nuôi và Thú y (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia): Trong chăn nuôi, chất lượng gen là yếu tố quan trọng nhưng vẫn chưa đủ, cần có một quá trình chăm sóc vỗ béo theo đúng kỹ thuật mới có thể cho hiệu quả kinh tế cao nhất. Do đó, khi triển khai Dự án vỗ béo cho đàn bò, cán bộ kỹ thuật đã đến khảo sát từng hộ, đo khối lượng, xác định độ tuổi bò, giống từ đó phân loại. Ðối với vỗ béo bò thịt, Dự án đã lựa chọn được 1.074 con. Trong suốt thời gian vỗ béo, bà con chăn nuôi được hướng dẫn 6 công thức phối trộn thức ăn vỗ béo cho bò, tận dụng được các loại nguyên liệu sẵn có ở địa phương, đồng thời được hướng dẫn đo khối lượng hàng tháng để theo dõi mức tăng trọng của bò. Vì vậy, cải tạo giống là nâng cao chất lượng đàn bò từ gốc, từ bên trong, phục vụ mục tiêu lâu dài. Nếu có cách làm hay, hướng đi đúng, chắc chắn thị trường nội địa sẽ được giữ vững, và quan trọng nhất là làm lợi cho người chăn nuôi, góp phần ổn định cuộc sống. Anh …
| Tin mới | admin | 11/07/2017 | | 6 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 17,1 tỷ USD | Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 6/2017 ước đạt 2,97 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2017 đạt 17,1 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 9,1 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2016; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 3,5 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2016; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 3,8 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2016. Trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu, gạo, cao su và chè là những ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cả về lượng và giá trị. Cụ thể, đối với ngành hàng gạo, xuất khẩu tháng 6/2017 ước đạt 413 nghìn tấn với giá trị đạt 182 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2016 ước đạt 2,8 triệu tấn và 1,2 tỷ USD, tăng 6,3% về khối lượng và tăng 4,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2017 với 46,5% thị phần. Xuất khẩu gạo sang thị trường này trong 5 tháng đầu năm 2017 đạt 1,1 triệu tấn và 488 triệu USD, tăng 34,2% về khối lượng và tăng 31,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Mặt hàng cao su 6 tháng đầu năm 2017 ước đạt 462 nghìn tấn và 867 triệu USD, tăng 5% về khối lượng và tăng 58,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá cao su xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm 2017 đạt 1.957 USD/tấn, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm 2016. Khối lượng xuất khẩu chè tháng 6/2017 ước đạt 13 nghìn tấn với giá trị đạt 22 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 6 tháng đầu năm 2017 ước đạt 63 nghìn tấn và 98 triệu USD, tăng 17% về khối lượng và tăng 15% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Cà phê và hạt điều là hai ngành hàng giảm về khối lượng nhưng tăng về giá trị. Cụ thể, xuất khẩu cà phê 6 tháng đầu năm 2017 ước đạt 817 nghìn tấn và 1,86 tỷ USD, giảm 16,7% về khối lượng nhưng tăng 9,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm 2017 đạt 2.264 USD/tấn, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2016. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2017 với thị phần lần lượt là 16,8% và 14,8%. Đối với hạt điều, 6 tháng đầu năm 2017 xuất khẩu ước đạt 149 nghìn tấn và 1,5 tỷ USD, giảm 4,4% về khối lượng nhưng tăng 20,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm 2017 đạt 9.562 USD/tấn, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm 2016. Đặc biệt, giá trị xuất khẩu hàng rau quả tháng 6/2017 ước đạt 283 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu hàng rau quả 6 tháng đầu năm 2017 ước đạt 1,7 tỷ USD, tăng 44,6% so với cùng kỳ năm 2016. Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của hàng rau quả Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2017, chiếm 84,7% tổng giá trị xuất khẩu hàng rau quả. Trong 5 tháng đầu năm 2017, các thị trường có giá trị xuất khẩu hàng rau quả tăng mạnh là Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất (96,3%), Nga (67,2%), Nhật Bản (56,1%), Trung Quốc (50,5%), Hoa Kỳ (23,5%), Hàn Quốc (14,9%) và Thái Lan (12,5%). Theo …
| Tin mới | admin | 29/06/2017 | | Công văn số 939/CN-GSL ngày 26/6/2017 về việc khuyến nghị phát triển chăn nuôi bền vững | …
| Công văn | admin | 26/06/2017 | | Tổng Giám đốc Cty Koyu & Unitek cảm ơn Bộ NN-PTNT | Trao đổi với NNVN qua điện thoại, ông Khưu Nhon Hiếu – Tổng Giám đốc Cty Koyu & Unitek rất vui mừng khi nhận được tin hôm 22/6, Nhật Bản đã chính thức cho phép Cty xuất khẩu thịt gia cầm và sản phẩm thịt gia cầm sang thị trường Nhật Bản. Đoàn Thanh tra Nhật Bản làm việc tại Công ty TNHH Koyu & Unitek tháng 5/2017 Xin ông cho biết cảm xúc của mình? Tôi rất vui. Trước hết, qua Báo NNVN, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Bộ NN-PTNT, Cục Thú y đã hết sức hỗ trợ, hướng dẫn Cty thực hiện “Đề án sản xuất thịt gà chế biến theo chuỗi khép kín để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản” để đạt được các yêu cầu khắt khe hàng đầu thế giới về vệ sinh thú y, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm… của thị trường Nhật Bản và được họ chính thức cho phép xuất khẩu các sản phẩm của Cty sang thị trường này từ ngày hôm nay. Ông có nhắn nhủ gì đến các hộ chăn nuôi, trang trại chăn nuôi đã đồng hành cùng Cty để có được kết quả ngày hôm nay? Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các hộ dân, trang trại chăn nuôi đã hợp tác chặt chẽ với Cty thực hiện quy trình chăn nuôi nghiêm ngặt của Cty đề ra để đảm bảo yêu cầu của thị trường Nhật Bản. Tôi mong muốn sản lượng xuất khẩu thịt gia cầm chế biến sang Nhật Bản sẽ ngày một gia tăng để tiêu thụ ngày một nhiều hơn sản phẩm chăn nuôi của bà con nông dân. Đồng thời cũng mong muốn bà con chăn nuôi tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Cty, thực hiện tốt quy trình chăn nuôi khép kín nghiêm ngặt nhất như đã ký kết với Cty để đảm bảo xuất khẩu bền vững sang thị trường này. Như vậy là sau hơn 1 năm chuẩn bị, sản phẩm gia cầm Việt Nam do Cty sản xuất đã chính thức được xuất khẩu sang Nhật Bản, lần đầu tiên xuất khẩu chính ngạch, ông có “bí kíp” gì không? Như tôi đã chia sẻ, trước hết là sự hỗ trợ rất tích cực của Bộ NN-PTNT, Cục Thú y và người chăn nuôi. Ngoài ra, Cty cũng có chiến lược xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản rõ ràng. Cách đây 3 năm Cty đã tiến hành hợp tác với đối tác Nhật Bản. Từ đó giúp Cty hiểu rõ thị trường này, tìm hiểu cặn kẽ về các quy định, thủ tục… để có các bước chuẩn bị phù hợp, hiệu quả và điều ấy đã tạo nên thành công ngày hôm nay. Kế hoạch xuất khẩu cụ thể trong thời gian tới là gì ,thưa ông? Ngay sau đây Cty sẽ tiến hành các thủ tục xuất khẩu 300 tấn thịt gia cầm chế biến/tháng sang Nhật Bản. Tức là nhà máy chạy hết công suất. Đến cuối năm, khi mọi việc suôn sẻ Cty sẽ mở rộng sản xuất, chế biến gia cầm vì thị trường Nhật Bản là một thị trường vô cùng lớn. Ông có sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, nếu các DN khác muốn xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản? Cty sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ các DN khác xuất khẩu các sản phẩm gia cầm sang thị trường Nhật Bản. Cảm ơn ông! …
| Tin mới | admin | 23/06/2017 | | Công văn số 5027/BNN-CN ngày 19/6/2017 về việc trả lời kiến nghị về Danh mục thức ăn chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 23/06/2017 | | Công văn số 848/CN-GSN ngày 09/6/2017 về việc tăng cường các biện pháp phòng chống thiên tai cho vật nuôi | …
| Công văn | admin | 23/06/2017 | | 8 giải pháp đột phá cơ cấu lại nông nghiệp | Theo báo cáo trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV, Bộ NNPTNT xác định 8 giải pháp đột phá nhằm cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 như sau: Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức và tạo sự thống nhất về tính tất yếu và tầm quan trọng của thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp đến các cấp, ngành, địa phương và người dân và về xây dựng nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu; tăng cường vai trò, trách nhiệm của Lãnh đạo các cấp, ngành, địa phương trong tổ chức thực hiện chủ trương này. Thứ hai, tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện các mục tiêu tại Nghị quyết 26/NQ-TW của Trung ương 7, Khóa X và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và ứng phó với biến đổi khí hậu. Thứ ba, rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu Tiếp tục rà soát quy hoạch, chiến lược, kế hoạch sản xuất từng lĩnh vực và lợi thế của từng địa phương, tính đến nhu cầu thị trường (trong nước và thế giới) và ứng phó với BĐKH; cơ cấu lại sản phẩm theo 3 nhóm: (1) Nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia (những sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu từ 1,0 tỷ USD trở lên và thịt lợn, gia cầm), tiến hành rà soát quy hoạch và xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tổ chức hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến; (2) Nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh, các địa phương căn cứ lợi thế và điều kiện cụ thể, lựa chọn nhóm sản phẩm này để quy hoạch và đầu tư theo hướng như đối với sản phẩm quốc gia nhưng quy mô cấp địa phương; có chiến lược và giải pháp để mở rộng quy mô, sức cạnh tranh, từng bước bổ sung vào nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia; (3) Nhóm sản phẩm vùng/miền là đặc sản của các địa phương, có chỉ dẫn địa lý cụ thể, nhưng có quy mô nhỏ, sẽ được xây dựng và phát triển gắn với xây dựng nông thôn mới ở xã theo mô hình “Mỗi làng, xã một sản phẩm”. Thứ tư, tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển doanh nghiệp nông nghiệp, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu; đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, phát triển trang trại theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, cạnh tranh quốc tế; thực hiện chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn. Thứ năm, tăng cường nghiên cứu,chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ giải quyết các vấn đề căn cốt trong chuỗi sản xuất, nhất là công nghệ giống, quy trình và các khâu chế biến, phân phối với cả 3 nhóm sản phẩm quốc gia, cấp tỉnh, sản phẩm địa phương; phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của ngành; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả của ngành; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nông dân, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của ngành. Thứ sáu, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển thị trường Bộ sẽ thành lập cơ quan quản lý tập trung, thúc đẩy chuỗi chế biến nông sản gắn với mở rộng thị trường; kết hợp với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, các địa phương, các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và tổ chức của nông dân để khai thác, mở rộng thị trường xuất khẩu, kể cả thị trường truyền thống và nhóm thị trường mới; tăng cường năng lực hội nhập quốc tế; nghiên cứu đánh giá các tác động của hội nhập quốc tế đem lại; tăng cường năng lực dự báo và thông tin thị trường trong nước và quốc tế; đẩy mạnh xúc tiến thương mại; hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế. Phát triển mạnh thị trường trong nước, điều hành cân đối cung cầu các mặt hàng thực phẩm thiết yếu, nhạy cảm; phát triển hệ thống bán lẻ, xây dựng hình ảnh nông sản chất lượng cao, an toàn thực phẩm và phù hợp thị hiếu người tiêu dùng; đẩy nhanh hoàn thành xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực quốc gia, đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý. Thứ bảy, tiếp tục huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hội nhập quốc tế; tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; cơ bản nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã, bao gồm cả các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội theo hướng CNH, HĐH và rút dần khoảng cách phát triển giữa các vùng miền. Thứ tám, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý ngành từ trung ương đến địa phương. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban chỉ đạo và bộ máy giúp việc các cấp, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Theo Bộ NNPTNT, để tạo được chuyển biến rõ rệt trong thực tế, cần triển khai đồng bộ cả 8 giải pháp trên, trong đó trọng tâm là phải (1) hoàn thiện cơ chế chính sách, (2) tăng cường nghiên cứu chuyển giao và ứng dụng KHCN và (3) đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất (đổi mới mô hình tăng trưởng) để tạo “đột phá” trong cơ cấu lại nông nghiệp./. …
| Tin mới | admin | 14/06/2017 | | Doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh giảm giá thịt lợn VietGAP đến 49% | Trước tình hình người nông dân chăn nuôi lợn vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đầu ra và sản lượng tồn vẫn còn, các doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động đẩy mạnh các chương trình kích cầu tiêu dùng như “bán hàng không lợi nhuận,” “bán giá sỉ”… Chiều 10/6, Công ty Cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản – Vissan đã công bố tiếp tục thực hiện chương trình giảm giá cực sốc các mặt hàng thịt lợn VietGAP loại I (loại ngon nhất) lên đến 49% tại toàn bộ điểm bán thịt tươi sống trên kênh siêu thị của công ty. Chương trình này được thực hiện từ ngày 11-15/6, áp dụng cho các mặt hàng gồm: cốt lết lợn với giá giảm còn 40.000 đồng/kg; sườn chặt 48.500 đồng/kg; nạc đùi, vai lợn 70.000 đồng/kg; thịt lợn xay 66.000 đồng/kg… Từ ngày 12-15/6, Công ty Vissan cũng triển khai chương trình bán lợn mảnh có giá chỉ từ 25.500 đồng/kg đến 36.000 đồng/kg, tùy từng loại. Dự kiến trong ngày đầu tiên bán lợn mảnh, sản lượng bán ra của Công ty Vissan sẽ đạt từ 150-200 con lợn VietGAP loại I. Tương tự, tính từ đầu tháng Sáu đến nay, Chương trình bán lẻ thịt lợn VietGAP giá sỉ trực tiếp đến tay người tiêu dùng của Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ An Hạ, đã đạt hiệu quả cao trong việc kích cầu tiêu dùng thịt lợn, tạo đầu ra cho người nông dân tại huyện Củ Chi, Hooc Môn (Thành phố Hồ Chí Minh) đồng thời góp phần giải quyết số lượng lợn tồn trong dân. Dẫn chứng cụ thể, bà Nguyễn Thị Hồng Thắm, Giám đốc Công ty An Hạ cho biết từ khi thực hiện Chương trình bán lẻ thịt lợn VietGAP giá sỉ trực tiếp đến tay người tiêu dùng, số lượng khách hàng ngày càng tăng lên và tại điểm bán, công ty phải phát số thứ tự cho khách hàng để quá trình kinh doanh diễn ra trật tự và lành mạnh. Cụ thể, mỗi ngày, công ty bán trực tiếp đến tay người tiêu dùng với số lượng khoảng 40 con lợn VietGAP và ngày nhiều nhất đạt khoảng 70 con lợn VietGAP. Cũng trong ngày 10/6, ghi nhận của phóng viên tại điểm bán hàng của Công ty An Hạ tại 308B-308 C Nơ Trang Long, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy điểm bán này lúc nào tấp nập khách hàng, tuy nhiên thời gian cao điểm nhất vẫn là buổi sáng và buổi chiều. [Bất chấp giá thịt lợn thấp kỷ lục, chăn nuôi gia công vẫn “sống khỏe”] Ông Trần Chánh Minh, cư ngụ tại phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, cho biết từ khi biết thông tin về điểm bán này, gia đình chỉ mua thịt lợn ở đây. So với giá ngoài chợ bán lẻ thì giá thịt lợn ở đây thấp hơn, đặc biệt nguồn gốc xuất xứ sản phẩm rõ ràng. Theo các chuyên gia, sự hưởng ứng tích cực của người tiêu dùng và sự đồng hành của doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh sẽ góp phần giúp bà con nông dân chăn nuôi lợn giải quyết được đầu ra và tiến đến hình thành những chuỗi liên kết cung ứng, hợp tác cung cấp hàng hóa trong tương …
| Tin mới | admin | 13/06/2017 | | Việt Nam xuất khẩu lô thịt gà đầu tiên sang Nhật Bản vào tháng Tám | Thông tin này vừa được ông Nguyễn Văn Quyền, Trưởng ban đề án xuất khẩu Công ty Trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek cho biết tại Hội nghị hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức sáng nay (7/6), tại Hà Nội. Ông Quyền cũng cho biết, việc xuất khẩu sản phẩm thịt gà vào thị trường khó tính như Nhật Bản cần hoàn thiện nhiều khâu thủ tục vì đòi hỏi của phía Nhật Bản rất cao về chất lượng và quy trình kiểm soát chặt chẽ. “Chúng tôi đã thực hiện đề xuất và đàm phán từ hoàn thiện các khâu thủ tục để xuất khẩu sang Nhật Bản trong vòng gần hai năm đến nay mới chính thức xuất khẩu được lô hàng đầu tiên. Bởi sau khi đàm phán nếu được phía Nhật đồng ý thì các tổ chức ở quốc gia này sẽ tiến hành kiểm tra điều kiện và phát triển chăn nuôi, sau đó doanh nghiệp mới cam kết với đơn vị nhập khẩu của Nhật,” ông Nguyễn Văn Quyền cho hay. Ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi cũng cho biết, hiện nay hầu hết các nước nhập khẩu đều có quy chuẩn riêng của mình. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng được những quy chuẩn kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn vùng nuôi của nước nhập khẩu. Cũng theo ông Vân, từ trước đến nay, Việt Nam mới chỉ sản xuất và tiêu thụ thịt gà ở trong nước, chưa có sản phẩm thịt xuất khẩu. “Hiện nay, mới có hai công ty đăng ký xuất khẩu sản phẩm thịt gà đã qua chế biến nhiệt sang Nhật Bản (Công ty Trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek đăng ký năm 2016 và Công ty Trách nhiệm hữu hạn CP Việt Nam đăng ký vào cuối tháng 5/2017),” ông Hoàng Thanh Vân cho biết. Phát biểu tại Hội nghị, Cục trưởng Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) Phạm Văn Đông cũng cho rằng, hầu hết các cơ sở giết mổ gia cầm đều không có hệ thống cấp đông, bảo quản lạnh, không có chuỗi sản xuất thịt bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm đến sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay mới chỉ có Công ty trách nhiệm hữu hạn Koyu & Unitek đã đầu tư hoàn thiện chuỗi sản xuất khép kín từ khâu chế biến thức ăn chăn nuôi đến sản phẩm thịt gà chế biến xuất khẩu. “Trong khi đó, tất cả các nước có nhu cầu nhập khẩu đều yêu cầu phải có chuỗi sản xuất khép kín đến sản phẩm cuối cùng, bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm để xuất khẩu,” Cục trưởng Phạm Văn Đông chỉ rõ. Về giải pháp trước mắt, ông Đông đề nghị các doanh nghiệp có nguồn lực tổ chức xây dựng đề án sản xuất thịt gà theo chuỗi khép kín. Doanh nghiệp cần thực hiện khép kín từ khâu sản xuất thức ăn, con giống, nuôi thương phẩm, hệ thống dây chuyền giết mổ, hệ thống bảo quản mát, hệ thống cấp đông, hệ thống kho bảo quản, chế biến bảo đảm an toàn dịch bệnh (cúm gia cầm, Newcastle…), an toàn thực phẩm (không có vi sinh vật gây ô nhiễm thực phẩm như vi khuẩn Salmonella, E.Coli,…; không có tồn dư các hóa chất như kháng sinh, hóc môn, thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng) theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Về giải pháp lâu dài, Cục Thú y đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các Bộ, ngành liên quan và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh/thành phố kiến nghị Chính phủ tập trung đầu tư kinh phí cho việc quy hoạch vùng chăn nuôi lợn và gia cầm, tăng cường đầu tư năng lực cho ngành thú y (ở trung ương và địa phương) đồng thời cấp đầy đủ kinh phí để thực hiện các chương trình quốc gia về phòng chống dịch bệnh. “Có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng được các vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi sang các nước theo đúng quy định của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE),” ông Đông nhấn mạnh. Về định hướng xuất khẩu, Thứ trưởng Vũ Văn Tám cho rằng, trong bối cảnh hiện nay các DN nên hướng đến sản xuất các sản phẩm đã qua chế biến, muốn vậy các DN phải có đầu tư đồng bộ, có kho lạnh trữ hàng, có dây chuyền sản xuất hiện đại đạt chuẩn quốc tế. “Đối với xuất khẩu động vật sống, các nước nhập khẩu có yêu cầu rất khắt khe về điều kiện đảm bảo an toàn dịch bệnh, họ có rất nhiều rào cản kỹ thuật nhằm đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng của nước họ. Chính vì vậy chúng ta cần đảm bảo an toàn dịch bệnh, có các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh, các cơ sở phải thực hiện chăn nuôi, sản xuất an toàn dịch bệnh, về vấn đề này cần có quy hoạch cụ thể và có chính sách phù hợp nhằm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của nước nhập khẩu”, ông Tám nói. Đối với các chính sách tín dụng, nếu DN vẫn thấy có khó khăn, Bộ NN&PTNT sẽ tiếp nhận ý kiến và kiến nghị Chính phủ để có những giải pháp tháo gỡ kịp nhằm hỗ trợ tốt nhất để DN mở thị trường./. Thanh …
| Tin mới | admin | 08/06/2017 | | Thủ tướng chỉ đạo tăng mức phạt vi phạm về an toàn thực phẩm | Thủ tướng Chính phủ vừa có ý kiến chỉ đạo về việc thực hiện Kết luận số 11-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khẩn trương tổ chức quán triệt đầy đủ, toàn diện chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Kết luận số 11, nhất là các chủ trương, chính sách mới về quản lý, bảo đảm an toàn thực phẩm, trước hết là đối với các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo đảm an toàn thực phẩm; hoàn thành trong quý 3/2017. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền các cấp từ xã đến tỉnh tổ chức thực hiện nghiêm Kết luận số 11, đồng thời tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp quản lý, bảo đảm an toàn thực phẩm theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 9/5/2016 về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền các cấp từ xã đến tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về an toàn thực phẩm. Tập trung khơi dậy và phát huy tính trung thực, đạo đức kinh doanh, ý thức trách nhiệm vì cộng đồng của từng doanh nghiệp, từng doanh nhân, từng hộ gia đình và từng người dân để đảm bảo an toàn thực phẩm, nhất là trong sản xuất, kinh doanh. Các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm có trách nhiệm cung cấp kịp thời, chính xác các thông tin về an toàn thực phẩm, về các doanh nghiệp, hộ kinh doanh vi phạm an toàn thực phẩm để công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tăng mức phạt vi phạm an toàn thực phẩm Thủ tướng chỉ đạo tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm về an toàn thực phẩm; phối hợp với Ban chỉ đạo 389 quốc gia ngăn ngừa thực phẩm giả, nhái, kém chất lượng. Xử lý nghiêm theo pháp luật việc đưa tin sai sự thật, không chính xác về an toàn thực phẩm, tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh và niềm tin của nhân dân về thực phẩm an toàn. Các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm chú trọng bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Tư pháp và các bộ, cơ quan liên quan tiến hành tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật an toàn thực phẩm, hoàn thành trong năm 2017, trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật an toàn thực phẩm cho phù hợp và nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. [Cần làm rõ trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm] Bộ Y tế khẩn trương hoàn thành việc xây dựng và trình Chính phủ Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm; chậm nhất tháng 11/2017 trình Chính phủ Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm theo hướng tăng mức xử phạt, bảo đảm tính răn đe. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương và các cơ quan liên quan hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp để bảo đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Khuyến khích sản xuất, chế biến thực phẩm theo chuỗi Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ sản xuất sản phẩm sạch, an toàn; khuyến khích đầu tư sản xuất, chế biến thực phẩm với quy mô lớn theo chuỗi, bảo đảm an toàn thực phẩm; đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến thực phẩm, xây dựng thương hiệu, phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn; thúc đẩy việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm tiên tiến như VietGap, GMP, HACCP, ISO22000… Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi trong sản xuất nông lâm thủy sản. Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, cơ quan: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban chỉ đạo 389 quốc gia và các cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp phòng, chống hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng nhái; tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp quản lý an toàn thực phẩm đối với các chợ, siêu thị. Đẩy mạnh quảng bá các thương hiệu mạnh về an toàn thực phẩm an toàn thực phẩm Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các báo, đài phát thanh, truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các báo, đài khác tiếp tục thực hiện hiệu quả các chuyên mục, chương trình về an toàn thực phẩm theo hướng đa dạng, hấp dẫn, có sức thuyết phục, phù hợp trình độ, nhu cầu của người dân ở từng vùng, miền; biểu dương các điển hình tiên tiến trong sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm an toàn; đẩy mạnh quảng bá các thương hiệu mạnh của quốc gia về an toàn thực phẩm; công bố tên, địa chỉ những doanh nghiệp, hộ kinh doanh, sản phẩm hàng hóa vi phạm an toàn thực phẩm. Ủy ban Nhân dân các cấp tổ chức thực hiện nghiêm các quy định về quản lý, bảo đảm an toàn thực phẩm trên địa bàn; đưa nhiệm vụ bảo đảm an toàn thực phẩm là chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội hằng năm ở các cấp. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm an toàn thực phẩm trên địa bàn. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có cửa khẩu, biên giới cần tập trung kiểm soát thực phẩm nhậu khẩu qua đường tiểu …
| Tin mới | admin | 07/06/2017 | | Thông thư số 11/2017/TT-BNNPTNT ngày 29/5/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Thông tư | admin | 06/06/2017 | | Thông tư số 10/2017/TT-BNNPTNT ngày 29/5/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành | …
| Thông tư | admin | 06/06/2017 | | CCHC để phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn | Chiều ngày 02/6/2017, tại Trụ sở Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đồng chí Nguyễn Trọng Thừa, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo cải cách hành chính (CCHC) của Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Đoàn công tác của Ban Chỉ đạo CCHCcủa Chính phủ đã có buổi kiểm tra, làm việc với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về công tác cải cách hành chính. Thứ trưởng Hà Công Tuấn Tiếp và làm việc với đoàn, về phía Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có đồng chí Hà Công Tuấn, Thứ trưởng Thường trực; đại diện lãnh đạo một số đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ, các công chức là thành viên Ban chỉ đạo CCHCcủa Bộ. Tại buổi làm việc, đồng chí Ngô Hồng Giang, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã báo cáo tóm tắt công tác CCHC của Bộ trong năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017 và định hướng CCHCcủa Bộ trong 6 tháng cuối năm 2017. Theo Báo cáo, trong năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017, công tác chỉ đạo điều hành CCHCcủa Bộ được quan tâm chỉ đạo quyết liệt và tiếp tục được thực hiện có hệ thống, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực. Công tác xây dựng văn bản, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được triển khai tích cực. Trong năm 2016, Bộ đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 12 dự thảo Nghị định và 03 dự thảo Quyết định, trong đó có 05 Nghị định và 03 Quyết định đã được ban hành, ban hành theo thẩm quyền 33 Thông tư… Tập trung chỉ đạo rà soát, kiến nghị sửa đổi các văn bản quy định về kiểm tra chuyên ngành, phí, lệ phí, điều kiện kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Tập trung xây dựng, hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Nghị định mới quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ và sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan đơn vị phù hợp nhiệm vụ CCHC và thực tiễn chỉ đạo, điều hành xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Triển khai được nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức. Xây dựng, cung cấp dịch vụ công trực tuyến: bước đầu triển khai xây dựng, cung cấp 08 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 tại 02 đơn vị là Cục Bảo vệ thực vật và Cục Chăn nuôi, khai trương Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ và tích hợp với Cổng thông tin một cửa quốc gia. Triển khai cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại. Tính đến ngày 25/5/2017, kết quả tiếp nhận, xử lý giải quyết hồ sơ cấp phép điện tử của các đơn vị qua Cổng thông tin một cửa quốc gia, tổng số 81.601 hồ sơ; đã xử lý, giải quyết và cấp phép/ Giấy chứng nhận điện tử 72.486 hồ sơ; đang tiếp tục xử lý 9.115 hồ sơ. Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ đã ghi nhận và đánh giá cao những kết quả tích cực mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đạt được trong công tác CCHC năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017 là tương đối toàn diện trên các lĩnh vực; trong đó, đánh giá cao công tác chỉ đạo điều hành, công tác cải cách thể chế và hiện đại hóa hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin. Thứ trưởng Nguyễn Trọng Thừa Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa đề nghị, trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, đối với những vấn đề còn tồn tại, cần xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai một cách đồng bộ và đạt hiệu quả cao hơn; tiếp tục tổ chức sắp xếp bộ máy hợp lý, góp phần thực hiện tinh giản biên chế hiệu quả; chủ động trong công tác thi tuyển cũng như tăng cường thêm phân cấp về bổ nhiệm và tuyển dụng… Đối với các kiến nghị của Bộ, Bộ có văn bản chính thức gửi về cơ quan thường trực CCHC của Chính phủ để được trả lời kịp thời, đầy đủ nhất. Thứ trưởng Hà Công Tuấn khẳng định, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Đoàn kiểm tra, tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những tồn tại, hạn chế nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác CCHC tại Bộ cũng như góp phần tích cực vào công cuộc CCHC chung của toàn hệ thống. Trước đó, thực hiện kế hoạch của Đoàn kiểm tra, sáng ngày 02/6/2017, Đoàn đã có buổi kiểm tra, làm việc về công tác CCHC tại Tổng cục Lâm nghiệp và Cục Bảo vệ thực vật – 2 đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông …
| Tin mới | admin | 06/06/2017 | | 1 triệu tấn lợn Việt Nam sẽ xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc | Sáng nay (26/5), trao đổi với Dân Việt, ông Nguyễn Xuân Dương – Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NNPTNT) vui mừng cho biết phía Trung Quốc đã đồng ý nhập khẩu thịt lợn của Việt Nam. Có khả năng Việt Nam sẽ xuất lợn sang Trung Quốc từ năm nay ngay sau khi hoàn thiện hồ sơ thủ tục. Ông Nguyễn Xuân Dương – Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết: “Bộ NNPTNT đã có đoàn công tác do Thứ trưởng Trần Thanh Nam dẫn đầu sang Trung Quốc làm việc với lãnh đạo Bộ Nông nghiệp Trung Quốc bàn về việc xuất khẩu chính ngạch lợn Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Chuyến công tác đã có kết quả tốt đẹp, theo đó về chủ trương phía Trung Quốc đã đồng ý mở cửa thị trường cho lợn Việt Nam”. Vừa qua, báo Nông thôn ngày nay/Danviet phối hợp với các doanh nghiệp tiến hành thu mua lợn nuôi cho nông dân một số địa phương. Ảnh: Trần Dũng. Tuy nhiên để lợn Việt Nam có thể xuất sang thị trường Trung Quốc theo đường chính ngạch, Việt Nam cần đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Ông Dương cho biết: “Phía Trung Quốc không chỉ yêu cầu rất khắt khe về chất lượng sản phẩm, mà họ còn đòi hỏi Việt Nam phải kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh, đặc biệt là bệnh lở mồm long móng…”. Về quy trình thủ tục, nước bạn yêu cầu các cơ quan chuyên môn ở Việt Nam, cụ thể là Cục Thú y (Bộ NNPTNT) sớm rà soát và xử lí các vấn đề kỹ thuật liên quan tới quản lý, kiểm soát dịch bệnh để phía Trung Quốc có căn cứ tiến hành dỡ bỏ lệnh cấm. Sau đó, hai bên sẽ từng bước có những buổi tiếp xúc, đàm phán cụ thể hơn để tiến tới ký kết xuất nhập khẩu chính ngạch thịt lợn Việt Nam sang thị trường Trung Quốc”. “Trong thời điểm này, chúng ta cần hoàn thiện hồ sơ đáp ứng đúng các yêu cầu của Trung Quốc, chứng minh Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch bệnh lở mồm long móng. Trong quá trình hoàn thiện hồ sơ, cơ quan thú y của nước bạn sẽ hỗ trợ mình để làm sao hồ sơ hoàn thiện nhanh nhất có thể. Sắp tới phía Trung Quốc sẽ cử một đoàn cán bộ sang thăm Việt Nam đồng thời khảo sát nắm bắt tình hình kiểm soát dịch bệnh của Việt Nam, nếu Việt Nam thực sự đã kiểm soát tốt vấn đề dịch bệnh, họ sẽ mở của nhập khẩu lợn của chúng ta ngay trong năm nay” – ông Dương chia sẻ. Ông Dương cho hay: “Để lợn Việt Nam thuận lợi xuất sang Trung Quốc, phía bạn cho rằng, Việt Nam nên xuất lợn đã giết mổ cấp đông, hạn chế xuất lợn sống, việc xuất lợn cấp đông nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn dịch bệnh. Tôi cũng cho rằng tới đây chúng ta sẽ đẩy mạnh xuất các sản phẩm thịt lợn cấp đông để đáp ứng nhu cầu của nước bạn”. Trước đây giá thịt lợn của Trung Quốc dao động từ từ 60.000-65.000 đồng/kg, rất hấp dẫn, tuy nhiên hiện nay thịt lợn của họ chỉ ở mức 40.000-45.000 đồng/kg, đây là mức giá không quá hấp dẫn. Bên cạnh đó nước bạn cũng đã mở cửa nhập khẩu thịt lợn ở một số nước khác. “Tuy nhiên nếu so sách về giá thì giá thịt lợn của chúng ta vẫn thấp hơn Trung Quốc mấy giá. Vậy nên chúng ta vẫn phải rất tích cực để xuất thịt lợn sang Trung Quốc sớm nhất có thể. Bên cạnh giá cả, Trung Quốc có thể tiêu thụ một lượng lớn thịt lợn của Việt Nam. Mỗi năm Trung Quốc thừa sức nhập trên dưới 1 triệu tấn thịt lợn từ Việt Nam, đây là con số khả quan, có thể thực hiện được” – ông Dương đánh giá. Để thâm nhập và giữ vững thị trường Trung Quốc, ông Dương cho rằng: “Chúng ta phải tổ chức sản xuất lại, tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng liên kết sản xuất theo chuỗi, các hộ chăn nuôi liên kết lại thành Hợp tác xã, Tổ hợp tác, liên kết với doanh nghiệp chế biến để hình thành chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn. Bên cạnh đó chúng ta cần đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ, tạo ra các giống lợn chất lượng năng suất, sức sinh sản cao để hạ giá thành thấp nhất có thể, phải bán đấu giá trong tương lai giá lợn Việt Nam sẽ thấp nhất trong khu vực Asean. Bên cạnh tạo ra các giống lợn chất lượng, chúng ta cần đẩy mạnh khâu chế biến nhằm có nhiều sản phẩm từ thịt lợn, phải đa dạng sản phẩm thì mới thúc đẩy tiêu thụ cả trong và ngoài nước được”. Một vấn đề nữa cần chú trọng đó là các cơ quan liên quan như Bộ Công Thương, Bộ Ngoại Giao cùng phối hợp với Bộ NNPTNT để tăng cường xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường nhiều nước khác để nắm bắt được phong tục tập quán, thói quen ăn uống, hàng rào kỹ thuật, từ đó nghiên cứu tổ chức sản xuất trong nước để đáp ứng yêu cầu các nước nhập khẩu” – ông Dương cho biết thêm. Theo Đình Thắng Dân …
| Tin mới | admin | 26/05/2017 | | Triển khai các biện pháp phòng chống dịch trên đàn gia súc | Để phòng chống nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên gia súc, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có văn bản số 4214/BNN-TY về việc tăng cường phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc. Văn bản nêu rõ, trước tình hình giá lợn hơi giảm thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây do nguồn cung lớn hơn nhiều so với nhu cầu của thị trường có thể dẫn tới việc nhiều hộ và cơ sở chăn nuôi không chăm sóc, nuôi dưỡng tốt đàn lợn làm giảm sức đề kháng của lợn, không tiêm phòng vắc xin phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên lợn, vứt xác lợn ốm, chết ra môi trường công cộng,… Do vậy, trong thời gian tới, nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên gia súc là rất cao, nhất là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gia súc. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh phát sinh trên gia súc, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái, trong đó chú trọng tuyên truyền tại các địa phương về nguy cơ bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc như lở mồm long móng ở gia súc, tai xanh ở lợn, dịch tả lợn,… và tác hại lâu dài về kinh tế, môi trường nếu dịch bệnh ở gia súc bùng phát trên diện rộng sẽ gây thiệt hại rất lớn cho người chăn nuôi và ngân sách của nhà nước. Người chăn nuôi cũng cần báo ngay cho chính quyền địa phương và cơ quan chuyên ngành thú y, nếu phát hiện dấu hiệu nghi ngờ dịch bệnh trên gia súc, không buôn bán, vận chuyển, giết mổ, tiêu thụ gia súc mắc bệnh, gia súc chết. Bên cạnh đó, cần tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện dịch bệnh trên đàn gia súc tại địa phương để xử lý kịp thời, bảo đảm không để dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ tiêm phòng định kỳ, tiêm phòng bổ sung các loại vắc xin phòng bệnh cho đàn gia súc theo quy định và đảm bảo về việc tăng cường công tác vận chuyển giết mổ động vật, bảo đảm an toàn thực phẩm. …
| Tin mới | admin | 26/05/2017 | | Công văn số 697/CN-KHTC ngày 16/5/2017 về việc tăng cường công tác báo cáo tình hình sản xuất chăn nuôi định kỳ | …
| Công văn | admin | 25/05/2017 | | Nông nghiệp Việt Nam phải làm gì để tăng trưởng và cân bằng thị trường | Năm 2017, ngành nông nghiệp Việt Nam tiếp tục đứng trước những khó khăn thách thức được dự báo chưa giảm hơn so với năm 2016. Nông nghiệp Việt Nam phải làm gì để giải bài toán tăng trưởng và cân bằng thị trường xuất khẩu-nội địa? Đây là một trong những nội dung trọng tâm được đưa ra tại Hội thảo Triển vọng thị trường nông nghiệp Việt Nam 2017, do Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) phối hợp với Vụ Kinh tế, Văn phòng Quốc hội tổ chức ngày 24/5 tại Hà Nội. Trả lời cho vấn đề đưa ra, ông Nguyễn Trung Kiên – Bộ môn Nghiên cứu thị trường và Ngành hàng (IPSARD) cho rằng, đối với bài toán tăng trưởng, ngành nông nghiệp cần cần có tầm nhìn vượt lên trên hoạt động sản xuất ngành, kết hợp với ẩm thực, văn hóa, du lịch để tạo ra những cơ hội và động lực mới. Theo ông Nguyễn Trung Kiên, ngành nông nghiệp cần có sự hợp tác đa ngành, đa cấp để xác định đúng-đủ các động lực tăng trưởng chính của ngành, bao gồm đất đai, lao động, nước, năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP), để điều phối các nguồn lực theo đúng định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp. “Đặc biệt, bên cạnh việc tăng cường hợp tác song song với cạnh tranh quốc tế, ngành nông nghiệp Việt Nam cần thực hiện tái định vị và xây dựng thương hiệu nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế,” ông Kiên cho hay. [Bị cạnh tranh, ngành nông nghiệp Việt Nam đứng trước ngã ba đường] Cụ thể, ông Kiên cũng cho biết, việc định vị và xây dựng thương hiệu nông nghiệp Việt Nam sẽ được thực hiện thông qua vấn đề công nhận và bảo vệ sở hữu trí tuệ trong ngành nông nghiệp. Theo đó, hợp tác với doanh nghiệp trong tiếp thị nông sản gắn với di sản, văn hóa, môi trường và xây dựng thương hiệu gắn với tiếp thị, bảo hộ pháp lý, quản lý chất lượng và chỉ dẫn địa lý. Đối với bài toán cân bằng thị trường xuất khẩu-nội địa, ông Kiên cũng chỉ rõ, ngành nông nghiệp cần hợp tác với doanh nghiệp để tạo ra kênh truyền thông lớn, tiếp cận người tiêu dùng cuối cùng, để khôi phục và củng cố niềm tin của người tiêu dùng nội địa với nông sản Việt. “Đồng thời, ngành nông nghiệp Việt Nam cần tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngách cho nông sản, lương thực, thực phẩm cho các nhà sản xuất có năng lực,” ông Kiên nói. [Mở rộng thị trường, tháo gỡ khó khăn cho mặt hàng nông sản] Phát biểu tại hội thảo, chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên cũng cho rằng, phải tư duy căn bản về cách phát triển nông nghiệp, nông thôn, bởi lâu nay sản xuất nông nghiệp chỉ chú trọng nhiều đến sản lượng. Theo chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên, vấn đề đặt ra là đã xác định được nguyên nhân nhưng cách làm ra sao để thay đổi, trong đó khó khăn nhất là chính sách về đất đai, vốn, đặc biệt cần quan tâm hơn nữa đến vai trò doanh nghiệp trong xây dựng chuỗi giá trị, khơi thông thị trường tiêu thụ nông sản trong nước và xuất khẩu. “Cần chú trọng đến sự đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp. Lâu nay, sản xuất nông nghiệp chỉ có nông dân với Nhà nước, nông dân bị động loay hoay sản xuất và tiêu thụ hầu như không được đầu tư. Doanh nghiệp hiện nay là chủ lực và mang tính giải cứu nhiều mặt hàng nông sản. Nhiều mặt hàng thời gian qua như: dưa hấu, chuối, thịt lợn phải giải cứu nguyên nhân là do chưa có doanh nghiệp tham gia. Doanh nghiệp ở đây là những doanh nghiệp làm bài bản theo chuỗi, không mang tính đầu cơ,” chuyên gia Trần Đình Thiên nhấn mạnh. Theo Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD), hiện nay, bối cảnh thị trường quốc tế với ba vấn đề nổi cộm đang ảnh hưởng tới thương mại nông sản Việt Nam, gồm: các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tăng phụ thuộc lẫn nhau trong thương mại toàn cầu, đồng thời tập trung hơn vào phát triển thị trường nội địa. Các thị trường phát triển dần bão hòa và tăng bảo hộ. Bối cảnh này ảnh hưởng đến việc duy trì tăng trưởng, khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam. IPSARD cũng dự báo thị trường nông sản quốc tế trong năm 2017 và các năm tiếp theo, tiêu dùng nông sản toàn cầu sẽ tiếp tục mở rộng và phát triển theo hướng hàng hóa có giá trị cao hơn; tăng trưởng tiêu dùng sẽ chậm lại so với thập kỷ trước. Cụ thể, giá nông sản thực tế có xu hướng giảm nhẹ trong dài hạn, tăng trưởng năng suất sẽ là động lực chính cho sản xuất cây lương thực và thức ăn chăn nuôi. Do đó, tại Hội thảo ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng IPSARD cũng cho rằng, ngành nông nghiệp cần xác định động lực chính thúc đẩy ngành nông nghiệp đi lên. Trong đó, xác định vị thế và cơ cấu lại từng ngành hàng nông sản trên thị trường toàn cầu để ưu tiên nguồn lực phát triển đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. “Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành hàng, vượt qua những rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe cũng như chống lại những cú ‘sốc’ mà thị trường thế giới mang lại cần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu các nông sản xuất khẩu chủ lực, nâng cao chất lượng chuỗi giá trị; xây dựng thương hiệu cho nông sản và có các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu,” Viện trưởng Nguyễn Đỗ Anh Tuấn khẳng …
| Tin mới | admin | 25/05/2017 | | Nâng cao chất lượng nông sản Việt Nam trong hội nhập | Nâng cao chất lượng và tiêu chuẩn cho nông sản Việt Nam trong hội nhập” là chủ đề hội thảo quốc tế do Bộ Khoa học Công nghệ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao tổ chức sáng nay tại Hà Nội. Các tham luận tại hội nghị nêu lên bức tranh tổng quan về các tiêu chuẩn, quy chuẩn cũng như xu hướng mới về an toàn thực phẩm toàn cầu. Khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới, các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, điển hình như nông sản, thực phẩm có cơ hội tiếp cận với nhiều thị trường lớn. Tuy nhiên, để khai thác tối đa lợi thế thương mại này, trước hết, nông sản phải đảm bảo những tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường nhập khẩu. Thực tế cho thấy, hiện chỉ có 4% doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam có quy trình chế biến nông lâm thủy sản đáp ứng được quy định của các thị trường lớn như: Liên minh Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia. Đa số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong ngành nông sản, thực phẩm chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hạn chế về quy mô vốn và công nghệ. Số doanh nghiệp trong ngành chủ động tìm hiểu và trang bị khả năng cho hội nhập chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số doanh nghiệp…. Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao cho rằng, trong bối cảnh mới, đòi hỏi doanh nghiệp phải thay đổi quan niệm thay vì chỉ hướng đến sản phẩm cuối cùng thì trên toàn bộ chuỗi giá trị, các khâu sản xuất phải được phòng vệ rủi ro như: những hóa chất nào được phép sử dụng, công nghệ bảo quản như thế nào là phù hợp, vấn đề truy xuất nguồn gốc, tem nhãn của sản phẩm, những yếu tố này trong chuỗi giá trị đều phải được công khai, minh bạch. Một số ý kiến đề nghị, về quản lý Nhà nước các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học công nghệ, Công thương phải nhanh chóng nghiên cứu những quy định mới để đưa ra nhận định và cảnh báo rủi ro cho doanh nghiệp. Theo Thứ trưởng Bộ khoa học công nghệ Trần Văn Tùng, để vượt qua và đáp ứng những rào cản kỹ thuật của các nước, doanh nghiệp ngoài việc áp dụng sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản an toàn, cần chủ động xây dựng quy trình sản xuất theo các tiêu chuẩn được các Bộ, ngành đã xây dựng và ban hành. Bên cạnh đó nâng cao năng lực cho nông dân khi tham gia chuỗi sản xuất của doanh nghiệp. Ông Trần Văn Tùng lưu ý: Khi doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ và các thị trường trên thế giới sẽ phải chịu sự giám sát và báo cáo đầy đủ về từng khâu của quá trình sản xuất ra sản phẩm đó, có như vậy mới đáp ứng và thâm nhập được những thị trường này. Bộ khoa học công nghệ sẽ cùng với các Bộ ngành liên quan nhanh chóng xây dựng và ban hành công bố các hệ thống tiêu chuẩn an toàn về thực phẩm phù hợp với các quy định quốc tế để thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản./. Minh …
| Tin mới | admin | 24/05/2017 | | Kiểm tra hệ thống giết mổ, tiêu thụ sản phẩm ngành chăn nuôi lợn | Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu kiểm tra, rà soát lại hệ thống giết mổ, tiêu thụ sản phẩm ngành chăn nuôi lợn. Trước đó, ngày 28/4/2017, báo Tiền phong điện tử đưa tin: Tại cuộc họp của Bộ Công Thương về bàn cách “giải cứu” đàn heo cho người dân, có nhiều ý kiến cho rằng một trong những nguyên nhân khó khăn trong chăn nuôi lợn là do việc tiêu thụ phần lớn phụ thuộc vào các tiểu thương mua gom và giết mổ bán cho các tiểu thương khác ở các chợ, gây khó khăn cho tổ chức lưu thông phân phối và quản lý. Về việc này, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương khẩn trương kiểm tra, rà soát lại hệ thống giết mổ, tiêu thụ sản phẩm ngành chăn nuôi lợn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30/5/2017. …
| Tin mới | admin | 17/05/2017 | | Tây Ninh: Mỗi ngày tiêu thụ trên 2.000 con lợn thịt cho nông dân | Ông Nguyễn Văn Mấy, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Tây Ninh cho biết, hiện mỗi ngày trên địa bàn tỉnh Tây Ninh tiêu thụ trên 2.000 con lợn (sản lượng đạt trên 200 tấn thịt). Trong đó, sản lượng giết mổ, tiêu thụ trong tỉnh là 1.000 con (trên 100 tấn thịt hơi/ngày và xuất sang thị trường Campuchia bằng đường tiểu ngạch khoảng 1.000 con/ngày (trọng lượng từ 100-103 kg/con). Như vậy, với số lượng đầu lợn được tiêu thụ đều đặn mỗi ngày như hiện nay, các doanh nghiệp cơ bản giải quyết tình trạng ứ đọng đàn lợn quá lứa tại các trang trại và hộ chăn nuôi nhỏ lẻ trong tỉnh. Tuy nhiên, thời gian qua, giá lợn hơi trên địa bàn tỉnh giảm gần 50% so cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, giá lợn hơi loại 1 hiện chỉ bán với giá 26.000 đồng/kg, trong khi giá lợn hơi cùng kỳ năm ngoái đạt khoảng 45.000 đồng/kg. Do ảnh hưởng chung của thị trường cả nước nên các hộ chăn nuôi lợn trong tỉnh thua lỗ từ 11.000-14.000 đồng/kg so với giá thành. Trong khi đó, giá thịt lợn bán cho người tiêu dùng tại các siêu thị, chợ chỉ giảm nhẹ (bình quân chỉ giảm 5.000 đồng/kg thịt các loại). Như vậy, người tiêu dùng phải mua sản phẩm thịt giá cao. Đây là điều bất hợp lý hiện nay, đại diện Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Tây Ninh cho biết thêm. Nói về giải pháp lâu dài, ông Nguyễn Thái Sơn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tây Ninh cho biết, trong đề án phát triển chăn nuôi lợn giai đoạn 2017-2020, tỉnh định hướng sẽ rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch ngành chăn nuôi, giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn. Cách làm này nhằm bảo đảm tổng đàn có cơ cấu hợp lý, không để phát triển nóng ngành chăn nuôi. Địa phương khuyến khích chăn nuôi tập trung, giảm chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán; đi vào quản lý chất lượng con giống theo hướng tăng trọng nhanh, thịt nhiều, tiêu tốn thức ăn ít để giảm giá thành trong chăn nuôi… [Đồng Nai còn hơn 300.000 con lợn xấp xỉ 1 tạ cần được “giải cứu”] Theo ông Sơn, toàn tỉnh hiện có 8 trang trại (mỗi trang trại đạt khoảng 2.200 con) chăn nuôi lợn được công nhận cơ sở an toàn vệ sinh dịch bệnh và 10 trang trại được cấp giấy chứng nhận VietGap. Đến cuối năm 2017, tỉnh sẽ nâng lên 30 trang trại được công nhận VietGap. Đây là điều kiện thuận lợi để các cơ sở chăn nuôi lợn tiêu thụ được sản phẩm chăn nuôi dễ dàng, hướng tới mở rộng xuất khẩu sang thị trường Campuchia. Tại tỉnh Kiên Giang, tổng số lượng đàn lợn trên địa bàn tỉnh trên 328.000 con (tăng 1,10% so với năm trước); trong đó, đàn lợn nái trên 48.000 con, lợn thịt trên 280.000 con. Do thị trường tiêu thụ khó khăn đã đẩy hàng nghìn hộ chăn nuôi lợn trên địa tỉnh Kiên Giang lỗ vốn và phải “treo chuồng.” Bà Nguyễn Mỹ Trinh, người nuôi lợn ngụ ấp Thạnh Trung, xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng cho biết, giá lợn trước đây thấp cũng ở giá 4-4,5 triệu đồng/100kg người nuôi có lãi, giờ xuống thấp quá người chăn nuôi lợn lỗ vốn. Từ lợn nhà đẻ ra nuôi còn lỗ từ 500-600 đồng/100kg, nếu mua lợn con nuôi thì phải lỗ gần 1 triệu đồng/100kg. Theo bà Trinh, giờ người nuôi lợn chỉ trông chờ vào Nhà nước sớm giúp người chăn nuôi ổn định lại giá, để tiếp tục chăn nuôi, bù lại số tiền đã lỗ vốn, nếu tình trạng kéo dài thì người dân chỉ còn cách “treo chuồng.” Hiện nay, toàn tỉnh Kiên Giang có khoảng 40% số hộ chăn nuôi lợn sẽ không tiếp tục tái đàn. Một nghịch lý của giá lợn thịt hiện nay là giá lợn hơi sụt giảm mạnh, trong khi đó giá lợn bán ở các sạp vẫn ổn định ở mức cao. Theo đề án tái cơ cấu nông nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, lộ trình từ nay đến năm 2020 Kiên Giang sẽ tăng giá trị sản xuất trong chăn nuôi đạt 9,5%/năm và cơ cấu giá trị sản xuất từ chăn nuôi đạt 15,3% trong cơ cấu nông nghiệp của …
| Tin mới | admin | 12/05/2017 | | Công văn số 654/CN-KHTC ngày 09/5/2017 của Cục Chăn nuôi về việc báo cáo tình hình chăn nuôi lợn | …
| Công văn | admin | 09/05/2017 | | Công văn số 654/CN-KHTC ngày 09/5/2017 của Cục Chăn nuôi về việc báo cáo tình hình chăn nuôi lợn | …
| Tin mới | admin | 09/05/2017 | | Thứ trưởng Hà Công Tuấn nêu 3 giải pháp cân bằng cung – cầu trên thị trường lợn | Trả lời báo chí tại cuộc họp báo của Chính phủ chiều ngày 4/5/2017, Thứ trưởng Hà Công Tuấn nêu 3 giải pháp mà Bộ sẽ tập trung nhằm cân bằng cung – cầu trên thị trường lợn Theo Thứ trưởng Hà Công Tuấn, với rất nhiều giải pháp, những ngày qua giá thịt lợn hơi đã tăng lên và có mức tăng bình quân so với thời điểm thấp nhất khoảng trên 5.000 đồng/kg thịt lợn hơi. Ở các siêu thị so với cách đây 10 ngày thì giá bán thịt lợn cũng đã giảm, rất nhiều doanh nghiệp cung ứng cho các siêu thị lớn như Big C, Saigon Co.op… đã giảm giá bán 10-20%. “Chúng ta sẽ cố gắng giải quyết trong thời gian tới để cân bằng lại cung-cầu trong khoảng 2-3 tháng nữa”, Thứ trưởng Hà Công Tuấn nói và cho biết sắp tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tập trung vào 3 giải pháp giải cứu lợn. Thứ nhất là phải giải quyết tốt quan hệ cung-cầu, đồng thời rà soát để bảo đảm tổng đàn lợn, quy mô đàn có cơ cấu hợp lý. Trước mắt, Bộ đang có các giải pháp để kiểm soát lợn nái, đồng thời nâng cao vệ sinh an toàn thực phẩm. Thứ hai là tổ chức liên kết chuỗi. Như vậy sẽ có một số cơ chế chính sách chúng tôi sẽ đề xuất với Chính phủ thay đổi. Tuy nhiên, quan điểm chung là không có việc hỗ trợ trực tiếp mà hỗ trợ thông qua chuỗi và theo tín hiệu của thị trường. Thứ ba là giải quyết vấn đề mở thị trường, ở đây là thị trường Trung Quốc. Những năm trước, thị trường Trung Quốc là thị trường xuất nhập khẩu theo tiểu ngạch rất lớn với thịt lợn của chúng ta. Năm nay, trong 4 tháng đầu năm, lượng này chỉ còn khoảng dưới 10% so với năm ngoái, vì vậy cũng ảnh hưởng đến tiêu thụ lợn. Thứ trưởng Hà Công Tuấn cũng cho biết thêm, hiện nay việc tạm nhập tái xuất qua Việt Nam để sang các nước khác, trong đó có Trung Quốc, thịt gia súc, gia cầm bằng khoảng 52-55% sản lượng sản xuất. Chính phủ đã chỉ đạo, không phải cấm tạm nhập tái xuất mà kiểm soát chặt chẽ tạm nhập tái xuất theo quy định để không có việc luân chuyển tạm nhập tái xuất thẩm thấu vào thị trường nội địa một cách không hợp pháp. Đồng thời, chúng ta cũng thấy nếu như tạm nhập tái xuất tăng mãi thì có thể ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ gia súc, gia cầm của chúng ta. Tất nhiên chúng ta sẽ thực hiện kiểm soát này theo đúng quy định của Việt Nam và theo các hiệp định thương mại, nhất là của WTO, ông Tuấn nói. Cũng tại buổi họp báo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải đã loại trừ nguyên nhân việc nhập khẩu thịt lợn và các mặt hàng liên quan làm ảnh hưởng đến tiêu thụ các sản phẩm này trong nước. Theo Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải, trong năm 2016, Việt Nam nhập 39.400 tấn thịt lợn và các sản phẩm liên quan đến thịt lợn từ các nước EU, Australia, Hoa Kỳ, Canada, Liên bang Nga… “Như vậy, về kim ngạch chỉ đạt 44 triệu USD, bằng 0,1% sản lượng tiêu thụ thịt lợn trong nước. Do đó, có thể khẳng định việc nhập khẩu thịt lợn và các sản phẩm liên quan đến thịt lợn không ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước”, ông Hải cho biết. Cũng theo ông Hải, liên quan đến tạm nhập – tái xuất, năm 2016 chỉ tạm nhập – tái xuất 20 triệu USD thịt lợn. Hiện nay Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả đang rất lưu ý và có nhiều biện pháp phòng tránh thẩm lậu các mặt hàng tạm nhập – tái xuất vào thị trường nội địa. Các mặt hàng tạm nhập – tái xuất chủ yếu là nội tạng lợn. Do đó sau khi được Chính phủ chấp thuận, Bộ Công Thương đã có các biện pháp để có thể sẵn sàng trong trước mắt tạm dừng tạm nhập – tái xuất các sản phẩm thịt lợn và liên quan đến thịt lợn. Theo Báo Đầu …
| Tin mới | admin | 08/05/2017 | | Kienlongbank giảm lãi suất vay cho các hộ chăn nuôi heo | Ngân hàng sẽ giảm 30% lãi suất cho vay hiện hữu đối với các hộ chăn nuôi heo đã nhận cấp vốn tín dụng của Kienlongbank thời gian qua. Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienlongbank) vừa thông qua chủ trương hỗ trợ các hộ chăn nuôi heo trên toàn quốc. Theo đó, từ ngày 10/5 tới, Kienlongbank xem xét giảm 30% lãi suất cho vay hiện hữu đối với các khách hàng hoạt động sản xuất – kinh doanh chăn nuôi heo đã nhận cấp vốn tín dụng của Kienlongbank thời gian qua. Dự kiến chương trình hỗ trợ diễn ra trong 3 tháng. Trong thời gian này, Kienlongbank sẽ hỗ trợ khách hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giảm lãi vay, lãi quá hạn, ưu tiên thu nợ gốc trước thu nợ lãi sau giúp khách hàng có điều kiện khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh. Đại diện Kienlongbank cho biết, chương trình hưởng ứng chủ trương của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về việc chia sẻ khó khăn với ngành chăn nuôi trong nước, nhất là hộ chăn nuôi heo, khi giá heo hơi Việt Nam đột ngột giảm mạnh. Thông qua các giải pháp hỗ trợ tín dụng kịp thời cho người chăn nuôi heo, Kienlongbank kỳ vọng chung tay cùng khách hàng tiết giảm giá thành, ổn định sản xuất, nhanh chóng vượt qua khó khăn, tiếp tục gắn bó lâu dài với ngân hàng. Triển khai mô hình chăn nuôi heo gần 2 năm nay với đàn heo hiện có trên 200 con (trên 70kg mỗi con), gia đình ông Ngô Thanh Tùng (ngụ tại ấp Đường Xuồng, Xã Long Thạnh, H.Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang) đang bị “tắc” đầu ra. Ông xác định mất trắng doanh thu khoảng 1 tỷ đồng; trong khi ông có khoản vay khoảng 500 triệu đồng tại Kienlongbank. Khi nhận được sự chia sẻ từ Kienlongbank thông qua các gói giảm lãi suất cho vay, ông Tùng và con trai cho biết, cả gia đình rất mừng, chính sách miễn giảm của Kienlongbank rất kịp thời cho những người nông dân. “Chúng tôi kinh doanh lỗ vậy mà còn được ngân hàng chia sẻ, gách vác sự khó khăn với người dân. Điều này khiến tôi và các hộ nông dân càng tin tưởng và gắn bó lâu dài với ngân hàng”, chủ hộ chăn nuôi này bày tỏ. Khách hàng Thái Thị Kim Hồng (xã Trường Xuân, huyện Tháp Mười, Đồng Tháp) xúc động cho hay, mấy ngày nay chị suốt ruột vì không thể xuất chuồng bất kể một con heo nào. Khi biết đến chính sách giảm lãi vay tại Kienlongbank cho khách hàng trong đó có gia đình chị, chị mới an tâm phần nào. Với phương châm hoạt động “Sẵn lòng chia sẻ”, trong năm 2016, Kienlongbank đã thực hiện chia sẻ khó khăn với rất nhiều trường hợp khách hàng gắn bó lâu dài với tổng số tiền miễn, giảm lãi hơn 220 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ngân hàng xây dựng nhiều chương trình xã hội đồng hành cùng khách hàng như: tặng 200 bồn chứa nước inox cho khách hàng khu vực miền Tây bị hạn hán; Công đoàn ngân hàng hỗ trợ người nông dân trồng dưa hấu, thanh long bị mất giá… Thanh …
| Tin mới | admin | 05/05/2017 | | Công văn số 3755/BCT-TTTN ngày 28/4/2017 về việc thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiêu thụ mặt hàng thịt lợn | …
| Công văn | admin | 05/05/2017 | | Công văn số 3091/NHNN-TD ngày 28/4/2017 của Ngân hàng Nhà nước về việc tháo gỡ khó khăn của ngành chăn nuôi lợn | …
| Công văn | admin | 05/05/2017 | | Công văn số 597/TTg-NN ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc một số giải pháp ổn phát triển chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 05/05/2017 | | Công văn số 3063/UBND-NN3 ngày 03/5/2017 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc một số giải pháp cấp bách ổn định chăn nuôi lợn | …
| Công văn | admin | 05/05/2017 | | Công văn số 2026/SCT-QLTM ngày 28/4/2017 của UBND thành phố Hà Nội về việc hỗ trợ tiêu thụ thịt lợn cho các hộ chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 05/05/2017 | | Công báo của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc số 2460 | TS. Tống Xuân Chinh, Cục Chăn nuôi (sưu tầm và dịch) Để phù hợp với Luật Chăn nuôi của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các biện pháp kiểm tra và phê duyệt xuất, nhập cảnh và nghiên cứu hợp tác với nước ngoài về giống gia súc và gia cầm, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đã sửa đổi và ban hành yêu cầu kỹ thuật về nhập khẩu lợn giống, tinh lợn; yêu cầu kỹ thuật về nhập khẩu bò giống, tinh bò đông lạnh và phôi bò đông lạnh; yêu cầu kỹ thuật về nhập khẩu gà giống. Các yêu cầu kỹ thuật này sẽ có hiệu lực từ 01/01/2017. Công báo số 1677 của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc sẽ bị bãi bỏ. Công báo của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc ngày 26/10/2016. Kèm theo Công báo này là 03 yêu cầu kỹ thuật được gửi kèm: 1. Các yêu cầu kỹ thuật về lợn giống và tinh lợn nhập khẩu; 2. Các yêu cầu kỹ thuật về bò giống, tinh và phối đông lạnh nhập khẩu; 3. Các yêu cầu kỹ thuật về về gà giống nhập khẩu. I. Tài liệu 1: Các yêu cầu kỹ thuật về lợn giống và tinh lợn nhập khẩu Để cải tiến các yêu cầu thẩm định kỹ thuật đối với lợn giống và tinh lợn giống nhập khẩu và đảm bảo chất lượng của chúng, các yêu cầu kỹ thuật được xây với phù hợp với Luật Chăn nuôi của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các biện pháp kiểm tra và phê duyệt xuất, nhập cảnh và nghiên cứu hợp tác với nước ngoài về giống gia súc, gia cầm. 1. Điều kiện chung: 1.1. Lợn giống và lợn đực giống cho tinh nhập khẩu phải đáp ứng những đặc điểm về giống, chất lượng giống và yêu cầu về lợn giống được nhập. 1.2. Nhà nhập khẩu có đơn đề nghị nhập khẩu lợn giống và tinh sẽ phải cung cấp đầy đủ tài liệu sổ giống có số liệu phả hệ 3 đời được định dạng chuẩn phù hợp cho vật nuôi do các cơ quan có thẩm quyền hoặc các doanh nghiệp của nước xuất khẩu ban hành. Số liệu phả hệ sẽ bao gồm cả giá trị di truyền cộng gộp. 1.3. Nhà xuất khẩu sẽ phải xác nhận trong số liệu về phả hệ hoặc ghi trong hợp đồng bán lợn giống và tinh lợn không mắc các bệnh di truyền chính gồm về rốn, xa bìu, một tinh hoàn và tinh hoàn ẩn. 1.4. Lợn giống và tinh lợn nhập khẩu sẽ phải tuân theo các quy định kiểm dịch tương ứng về động vật và sản phẩm động vật nhập khẩu của Trung Quốc. 2. Các điều kiện kỹ thuật đối với lợn đực giống nhập khẩu: Chỉ số di truyền cộng gộp sẽ không được thấp hơn 120 (trung bình + 1 độ lệch chuẩn). 3. Các điều kiện kỹ thuật đối với lợn nái giống: Chỉ số di truyền cộng gộp sẽ không được thấp hơn 105 (trung bình + 0,25 độ lệch chuẩn). 4. Các điều kiện kỹ thuật đối tinh lợn giống nhập khẩu: 4.1. Đực giống lấy tinh phải có nguồn gốc từ quần thể lợn giống đang hoạt động. 4.2. Chỉ số di truyền cộng gộp của lợn đực lấy tinh sẽ không được thấp hơn 130 (trung bình + 1,5 độ lệch chuẩn). II. Tài liệu 2: Các yêu cầu kỹ thuật về bò giống, tinh và phôi đông lạnh nhập khẩu Để cải tiến các yêu cầu thẩm định kỹ thuật đối với bò giống, tinh và phôi bò đông lạnh nhập khẩu và đảm bảo chất lượng của chúng, các yêu cầu kỹ thuật được xây với phù hợp với Luật Chăn nuôi của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các biện pháp kiểm tra và phê duyệt xuất, nhập cảnh và nghiên cứu hợp tác với nước ngoài về giống gia súc, gia cầm. 1. Điều kiện chung: 1.1. Bò giống, bò đực giống cho tinh và bò giống cho phôi nhập khẩu phải đáp ứng những đặc điểm về giống, chất lượng giống và yêu cầu về giống bò được nhập. 1.2. Nhà nhập khẩu có đơn đề nghị nhập khẩu bò giống, tinh và phôi đông lạnh sẽ phải cung cấp đầy đủ tài liệu giống có số liệu phả hệ 3 đời được định dạng chuẩn phù hợp cho vật nuôi do các cơ quan có thẩm quyền hoặc các doanh nghiệp của nước xuất khẩu ban hành (hoặc vùng). 1.3. Nhà xuất khẩu sẽ phải xác nhận trong số liệu về phả hệ hoặc ghi trong hợp đồng bán bò giống, tinh và phôi bò đông lạnh không mắc các bệnh di truyền liên kết qua gen chính gồm CVM (Complex vertebral Malformation = Bệnh khuyết thiếu phức hợp ở cột sống), BLAD (Bovine Leukocyte Adhesion Deficiency = bệnh suy giảm kết dính ở bạch cầu bò), BY, MF (mulefoot = dính móng), DUMPS (Deficiency of uridine monophosphate synthase = ), CN và AS. 1.4. Bò giống, tinh bò và phôi nhập khẩu sẽ phải tuân theo các quy định kiểm dịch tương ứng về động vật và sản phẩm động vật nhập khẩu của Trung Quốc. 2. Các yêu cầu kỹ thuật đối với bò đực giống nhập khẩu: 2.1. Hệ số di truyền ước tính hoặc hệ số di truyền tổng hợp của bò đực giống đã trưởng thành được xác nhận sẽ phải nằm trong số 15% bò đực giống có hệ số di truyền cao nhất của nước xuất khẩu (vùng xuất khẩu). 2.2. Hệ số di truyền ước tính hoặc hệ số di truyền tổng hợp của bò đực giống chưa trưởng thành sẽ phải nằm trong số 15% bê đực giống có hệ số di truyền cao nhất của nước xuất khẩu (vùng xuất khẩu); hoặc Hệ số di truyền ước tính hoặc hệ số di truyền tổng hợp của bê đực giống sẽ phải nằm trong số 10% bê đực giống có hệ số di truyền cao nhất của nước xuất khẩu (vùng xuất khẩu). Hệ số di truyền ước tính hoặc hệ số di truyền tổng hợp của bò mẹ sinh ra bê đực giống sẽ phải nằm trong số 5% bò cái giống có hệ số di truyền cao nhất của nước xuất khẩu (vùng xuất khẩu); 3. Yêu cầu kỹ thuật của bò cái giống nhập khẩu: Hệ số di truyền ước tính hoặc hệ số di truyền tổng hợp của bê đực giống do bò mẹ sinh ra sẽ phải nằm trong số 20% bê đực giống có hệ số di truyền cao nhất của nước xuất khẩu (vùng xuất khẩu) và hệ số di truyền ước tính hoặc hệ số di truyền tổng hợp của bò mẹ sinh ra bò cái giống được nhập khẩu sẽ phải nằm trong số 30% bò mẹ làm giống có hệ số di truyền cao nhất của nước xuất khẩu (vùng xuất khẩu) 4. Yêu cầu kỹ thuật đối với tinh và phôi đông lạnh nhập khẩu: 4.1. Bò đực giống lấy tinh phải là bò đã được đánh giá qua đời sau hoặc bò đực giống chưa trưởng thành phải được đánh giá di truyền bằng công nghệ gen. 4.2. Các thông số di truyền của bò đực giống lấy tinh có thể tìm thấy trên trang web của INTERBULL, hiệp hội giống tương ứng hoặc các tổ chức giống bò khác. 4.3. Tinh bò thường đông lạnh và tinh bò phân giới đông lạnh phải đáp ứng tiêu chuẩn tương ứng của Trung Quốc. 4.4. Hệ số di truyền ước tính hoặc hệ số di truyền tổng hợp của bò bố đực giống và bò mẹ cái giống sinh ra phôi bò thịt nhập khẩu sẽ phải nằm trong số 20% bò giống có hệ số di truyền cao nhất của nước xuất khẩu (vùng xuất khẩu). III. Tài liệu 3: Các yêu cầu kỹ thuật về gà giống nhập khẩu: Để cải tiến các yêu cầu thẩm định kỹ thuật đối với gà giống nhập khẩu và đảm bảo chất lượng của chúng, các yêu cầu kỹ thuật được xây với phù hợp với Luật Chăn nuôi của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các biện pháp kiểm tra và phê duyệt xuất, nhập cảnh và nghiên cứu hợp tác với nước ngoài về giống gia súc, gia cầm. 1. Gà giống nhập khẩu: 1.1. Hạn chế nhập các dòng thuần và khuyến khích nhập các dòng gà giống lai cụ kỵ (GGPs) và ông bà (GPs). 1.2. Gà giống nhập khẩu sẽ phải tuân theo các quy định kiểm dịch tương ứng về động vật và sản phẩm động vật nhập khẩu của Trung Quốc. 2. Yêu cầu kỹ thuật về nhập giống gà thuần chủng: 2.1. Các giống gà thuần chủng nhập khẩu phải đáp ứng các yêu cầu về giống của giống và dòng gà đó. 2.2. Nhà xuất khẩu phải cung cấp đầy đủ sổ giống có số liệu phả hệ của 4 thế hệ, thể trạng, điểm khảo nghiệm hoặc giá trị di truyền của các đặc điểm sản xuất của giống được định dạng chuẩn phù hợp cho vật nuôi do các cơ quan có thẩm quyền hoặc các doanh nghiệp của nước xuất khẩu ban hành (hoặc vùng). 3. Yêu cầu kỹ thuật đối với các dòng lại cụ kỵ và ông bà: 3.1. Khi có sự thay đổi trong tổ hợp lai giữa các giống, thì tổ hợp này phải được khảo nghiệm đảm bảo phù hợp với các yêu cầu kỹ thuật về nhập khẩu lần đầu vật liệu di truyền của gia súc, gia cầm. 3.2. Gà giống cấp cụ kỵ phải có nguồn gốc từ trại giống hạt nhân. Nếu gà giống cấp cụ kỵ được nhập khẩu lần đầu từ trại giống hạt nhân nào đó thì thông tin liên quan đến trại này gồm địa chỉ, thời gian lập trại, trang thiết bị chăn nuôi, quy mô sản xuất, khả năng cung cấp giống, địa chỉ của trại ấp, trang thiết bị and diện tích bán giống và vv phải được công ty giống cung cấp. 3.3. Gà giống cấp ông bà phải có nguồn gốc từ trại giống cấp ông bà (bao gồm trang trại giống hạt nhân và trại giống cụ kỵ). Nếu gà giống cấp ông bà được nhập khẩu lần đầu từ trại giống cấp ông bà nào đó thì thông tin liên quan đến trại này gồm địa chỉ, thời gian lập trại, trang thiết bị chăn nuôi, quy mô sản xuất, khả năng cung cấp giống, địa chỉ của trại ấp, trang thiết bị and diện tích bán giống và vv phải được công ty giống cung cấp. 3.4. Trại gà giống phải đảm bảo tính bền vững, tính xác thực và tính ổn định của các giống gà nhập khẩu. Bộ Nông nghiệp Trung Quốc có thể giao cho một đơn vị thanh tra chất lượng có thẩm quyền để tiến hành phân tích những phân ly di truyền cơ bản của các giống gà nhập về nếu thấy cần thiết./. Nguồn tham khảo: …
| Tin mới | admin | 04/05/2017 | | Doanh nghiệp tạm ngưng nhập khẩu để hỗ trợ tiêu thụ thịt lợn nội địa | Ngày 3/5, Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh đã có buổi làm việc với các doanh nghiệp sản xuất, hệ thống phân phối trên địa bàn về tình hình thu mua, kích cầu tiêu thụ thịt lợn nội địa. Nhiều đơn vị sản xuất cho biết trong những tháng gần đây, họ đã tạm ngưng nhập khẩu thịt lợn phục vụ chế biến thực phẩm, đồng thời triển khai chương trình khuyến mãi để hỗ trợ tiêu thụ lợn nội địa. Tạm ngưng nhập khẩu Ông Nguyễn Đăng Phú, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ súc sản (Vissan) cho biết Công ty Vissan đã thống nhất với Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Công Thương tỉnh Long An về giải pháp tạm ngưng nhập khẩu thịt lợn phục vụ chế biến thực phẩm để hỗ trợ tiêu thụ lợn tại tỉnh Long An. Tuy nhiên, việc “giải cứu” lợn thịt cho người nông dân được Công ty Vissan thực hiện trên cơ sở ưu tiên sản phẩm chăn nuôi theo quy trình VietGap, Lifsap và có truy xuất nguồn gốc. Đánh giá về khả năng thu mua, tạm trữ và cấp đông, ông Nguyễn Đăng Phú cho rằng Công ty Vissan có thể tăng cường giết mổ khoảng 1.800 con lợn. Hiện tại, Công ty Vissan thu mua giá lợn loại 1 đạt tiêu chuẩn VietGap, Lifsap và có truy xuất nguồn gốc với giá 26.900 đồng/kg, cao hơn một số đơn vị thu mua khác. Lợn mỡ hoặc lợn quá lứa, không đạt các tiêu chuẩn VietGap, Lifsap và có truy xuất nguồn gốc được thu mua với giá khoảng 21.000 đồng/kg. Tương tự, đại diện Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Cầu Tre cho biết để sản xuất, chế biến sản phẩm, doanh nghiệp sử dụng song song nguồn nguyên liệu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trước tình hình giá lợn trong nước chạm đáy, doanh nghiệp đã tạm ngưng nhập khẩu để hỗ trợ thu mua sản phẩm lợn trong nước. Cụ thể, doanh nghiệp đã thu mua, tạm trữ từ 200-250 tấn sản phẩm thịt lợn. Đây là sản lượng tương đương với nguồn nguyên liệu sản xuất trong 3 tháng của doanh nghiệp. Song song với việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ giải cứu ngành chăn nuôi lợn, các doanh nghiệp cũng kêu gọi người nông dân chủ động phối hợp để đảm bảo quyền lợi của các bên. Bởi khi hỗ trợ nông dân thu mua lợn, doanh nghiệp chịu áp lực về gánh nặng chi phí đầu vào như chi phí cấp đông làm chi phí đầu vào lên 20-30%; chi phí kho lạnh tạm trữ… Bên cạnh đó, sản phẩm cấp đông khi đưa ra thị trường tiêu thụ đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu dán nhãn nên giá thành cao hơn thịt lợn tươi 4.000 đồng/kg. Theo một số doanh nghiệp khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, do năng lực nhà máy sản xuất, kho dự trữ có hạn nên họ không thể thu mua tạm trữ như kỳ vọng. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thị phần khiêm tốn nên chưa mạnh dạn thu mua sản lượng lớn. [Họp khẩn kêu gọi doanh nghiệp giải cứu ngành chăn nuôi lợn] Báo cáo từ Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy giá lợn hơi hiện nay tại khu vực phía Nam dao động từ 25.000-30.000 đồng/kg tùy loại; giảm từ 13.000-15.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2016 (khoảng 40%). Đặc biệt, các loại lợn hơi chăn nuôi không theo quy trình VietGap, Lifsap và có truy xuất nguồn gốc có giá giảm mạnh nhất. Qua khảo sát thực tế của Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh tại một số tỉnh, thành Đông, Tây Nam Bộ như Long An, Đồng Nai, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bến Tre…, đa số các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, tự phát nên chưa cập nhật đầy đủ thông tin thị trường, chủ yếu bán sản phẩm cho thương lái nhận tiền mặt, ngại liên kết. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu lợn thịt sang các nước lân cận gặp nhiều khó khăn khi trong những năm gần đây, người chăn nuôi không giảm đàn dẫn đến dư thừa về lượng. Sức mua tăng 30% Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất mà nhiều hệ thống phân phối lớn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng nỗ lực đưa mặt hàng thịt lợn vào các chương trình khuyến mãi, giảm giá để kích cầu tiêu dùng. Đại diện Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) cho biết trong một tháng qua, ngoài thực hiện giảm giá mặt hàng thịt lợn bình ổn thị trường, Saigon Co.op phối hợp với các nhà cung cấp triển khai hoạt động khuyến mãi liên tục cho nhiều sản phẩm thị lợn với mức bình quân từ 10-20%. Nhờ đó, sản lượng tiêu thụ thịt lợn tại Saigon Co.op tăng từ 20-30% so với thời điểm trước đó. Theo ông Hồ Quốc Nguyên, Giám đốc bộ phận Quan hệ công chúng Central Group và Big C Việt Nam, sau một tuần thực hiện chương trình giảm giá sâu mặt hàng thịt lợn từ 20-30%, để hưởng ứng các giải pháp hỗ trợ người nông dân, sức tiêu thụ tại hệ thống siêu thị Big C đã tăng hơn 30% so với thời điểm chưa có khuyến mãi. Mặt khác, hệ thống Big C đang chủ động liên tục cập nhật giá theo tình hình biến động của thị trường và linh hoạt điều chỉnh giảm giá tương ứng để hỗ trợ tiêu thụ thịt lợn nội địa. Nhằm chung tay hỗ trợ các cơ sơ sản xuất chăn nuôi và bà con nông dân tiêu thụ thịt lợn, hệ thống Lotte Mart tiến hành giảm giá bán, kích thích cầu tiêu dùng, tăng sản lượng tiêu thụ thịt lợn tại siêu thị. Hệ thống Lotte Mart thực hiện giảm giá tất cả sản phẩm thịt lợn ở mức từ 10-20%, tùy sản phẩm. Hiện tại, giá bán phổ biến một số sản phẩm thịt lợn tại các hệ thống siêu thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh như thịt lợn đùi là 59.000 đồng/kg, thịt ba rọi 71.500 đồng, cốt lết 69.000 đồng/kg, thịt vai 58.000 đồng/kg, thịt lợn xay 70.000 đồng/kg, chân giò 55.000 đồng/kg… Nhận định về công tác hỗ trợ tiêu thụ mặt hàng thịt lợn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Huỳnh Trang, Phó Giám đốc Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cho hay ngoài việc làm việc với các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp, hệ thống phân phối tại Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Công Thương thành phố cũng xúc tiến gặp gỡ các Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn của nhiều tỉnh, thành như Long An, Đồng Nai… đẩy mạnh các giải pháp. Dự kiến, tổng sản lượng đưa vào hai chợ đầu mối nông sản thực phẩm của Thành phố Hồ Chí Minh sẽ từ 9.000-10.000 con/ngày, giữ ổn định giá bán. Về lâu dài, Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang thí điểm Đề án quản lý và truy xuất nguồn gốc thịt lợn, định hướng hoạt động sản xuất, chăn nuôi phát triển theo chiều sâu, tập trung chất lượng, giảm dần hoạt động chăn nuôi tự phát, nhỏ lẻ, qua đó xây dựng chuỗi cung ứng hiệu quả, liên thông trực tiếp người chăn nuôi với thương nhân, từng bước hình thành mô hình liên kết, giảm tối đa chênh lệch giá bán từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng./. Theo …
| Tin mới | admin | 04/05/2017 | | “Phát triển chăn nuôi bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả ngành chăn nuôi trong giai đoạn mới” | TS. Hoàng Thanh Vân – Cục trưởng Cục Chăn nuôi Tổng quan chăn nuôi giai đoạn 2011-2016 Chăn nuôi là ngành kinh tế quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, cùng với sự đổi mới mạnh mẽ trong nền kinh tế, chăn nuôi có sự phát triển khá tốt, đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng ngành nông nghiệp. Chăn nuôi và sản phẩm chăn nuôi phát triển không ngừng và đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước với số lượng, chất lượng ngày càng tăng. Giai đoạn từ 2011-2016, ngành chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng bình quân từ 4,5-5%/năm. Tổng sản lượng thịt hơi tăng bình quân 3,78%/năm; trong đó thịt lợn tăng 3,41%/năm; thịt gia cầm và trứng tăng tương ứng là 6,68/năm và 6,49%/năm; sản lượng sữa tươi tăng 18,14%/năm. Năm 2011, tổng đàn lợn cả nước là 27,06 triệu con, năm 2014 giảm xuống còn 26,7 triệu con và năm 2016 tăng mạnh lên 29,07 triệu con; tăng trưởng bình quân đạt 1,45%/năm. Tổng sản lượng thịt lợn xuất chuồng năm 2011 đạt 3,09 triệu tấn, tăng lên 3,66 triệu tấn trong năm 2016, tăng bình quân 3,41%/năm. Trọng lượng thịt xuất chuồng bình quân là 67,1 kg/con (năm 2011) ước tăng lên 71,7 kg/con trong năm 2016. Năm 2016, tổng đàn gia cầm là 361,7 triệu con (trong đó gà chiếm 76,63% tổng đàn). Sản lượng thịt gia cầm tăng từ 696,0 ngàn tấn năm 2011 lên 961,6 ngàn tấn năm 2016, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,68%/năm. Sản lượng trứng gia cầm năm 2011 đạt 6,9 tỷ quả đến năm 2016 tăng lên 9,45 tỷ quả; đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 6,5%/năm. Tổng đàn trâu cả nước giai đoạn 2011-2016 giảm do sản xuất không đáp ứng nhu cầu trâu thịt hàng năm; số lượng giảm hơn 190 ngàn con từ năm 2011 đến năm 2016 (tương ứng là 2,71 triệu con và 2,52 triệu con). Số lượng bò thịt của cả nước tăng bình quân 0,22%/năm trong giai đoạn 2011-2016, từ 5,43 triệu con lên 5,49 triệu con. Sản lượng thịt bò hơi tăng trưởng 1,45%/năm, từ 287,2 ngàn tấn năm 2011 lên 308,6 ngàn tấn năm. Chăn nuôi bò thịt được hầu hết các địa phương có chủ trương phát triển các chương trình giống. Đa số các tỉnh có đàn bò lớn như Nghệ An, Thanh Hoá, Bình Định…đều có thực hiện tốt chương trình thụ tinh nhân tạo bò và coi đây là giải pháp quan trọng trong việc Zêbu hoá đàn bò địa phương, kết hợp hài hoà với chăm sóc và nuôi dưỡng nhằm cải tiến cả chất lượng và số lượng bò tại địa phương. Một số giống bò thịt năng suất cao được đưa vào sản xuất như: Brahman, Red Angus, BBB… Số lượng bò sữa cả nước năm 2011 là 142,7 ngàn con, đến năm 2016 đạt 283,0 ngàn con, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14,67%/năm. Tổng sản lượng sữa đã tăng gần 450 ngàn tấn trong cả giai đoạn, từ 345,4 ngàn tấn năm 2011 lên 795,1 ngàn tấn năm 2016, tốc độ tăng trưởng bình quân 18,14%/năm. Những thành tự đạt được trong quá trình phát triển. 1. Nhiều loại giống mới được sử dụng có hiệu quả – Giống lợn: sử dụng các giống Yorkshire, Landrace, Duroc, Pietrian, Pietrian kháng Stress và một số giống lợn ngoại có nguồn gốc khác nhau; tỷ lệ giống lợn ngoại, 2-3 máu ngoại được nghiên cứu và chăn nuôi tại các trang trại ngày càng tăng; đã lựa chọn được một số công thức lai phù hợp với các phương thức chăn nuôi khác nhau. – Giống gia cầm: giống gia cầm đa dạng về chủng loại. Năng suất, chất lượng một số giống cũng đã cải thiện, trong đó đáng chú ý là các giống gà hướng thịt lông màu, giống vịt chuyên thịt. Trong nước đã chủ động sản xuất được một số giống gà lông màu, giống vịt. Đã chọn lọc, lai tạo được nhiều bộ giống, tổ hợp lai gà, vịt phù hợp với một số phương thức chăn nuôi khác nhau. (Vịt siêu thịt lúc 56 ngày tuổi có khối lượng 3,2-3,6 kg/con, con lai với vịt địa phương 2,8-3,2 kg/con). Nhìn chung, chăn nuôi gia cầm đã áp dụng nhiều công thức lai nhằm khai thác ưu thế lai ở đời sau để tăng thêm giá trị khoảng 8-9 %. – Giống bò: Các giống bò sữa cao sản nguồn gốc ôn đới như HF, bò lai HF với tỷ lệ máu khác nhau có thể nuôi tại 1 số vùng sinh thái. Bình quân, năng suất sữa đạt trên 5.000 kg/con/năm đối với bò HF thuần (đoạn 2011-2016). Các giống bò thịt như Red unges, Drosmaster , Brarman…đã được CN phổ biến. Nhiều giống bò bản địa được chọn lọc và cải thiện…công tác cải tạo giống nâng cao, đưa CN bò thịt ngày càng phát triển. Nhiều trang trại CN hàng vạn con, tạo hình ảnh mới về CN bò thịt tại VN. 2. Các giống bản địa phát huy lợi thế – Một số giống vật nuôi bản địa (lợn Móng Cái, bò nền, bò H’Mông, trâu và nhất là các giống gà như: gà Tiên Yên, gà Hồ, gà Mía, gà Đông Tảo…) được nghiên cứu, bảo tồn nguồn gen và phát huy nhiều lợi thế về chất lượng, sự thích nghi với điều kiện và phương thức nuôi tại Việt Nam. – Đối với các giống gia cầm, hàng năm ước tính có khoảng trên 150 triệu con thương phẩm được sản xuất. – Đa số các tỉnh có đàn bò lớn như Nghệ An, Thanh Hoá, Sơn La, Gia Lai, Quảng Ngãi, Bình Định…đều thực hiện tốt chương trình thụ tinh nhân tạo bò và coi đây là giải pháp quan trọng trong việc “Zebu hoá” đàn bò địa phương, kết hợp hài hoà với chăm sóc và nuôi dưỡng nhằm cải tiến cả chất lượng và số lượng bò tại địa phương. 3. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi – Công nghệ lai tạo giống + Bước đầu ứng dụng các phương pháp tiên tiến để đánh giá và chọn lọc giống theo giá trị di truyền, chọn lọc bò đực giống hướng sữa theo quy trình kiểm tra qua đời sau; + Đối với lợn đã lựa chọn được một số công thức lai phù hợp với các phương thức chăn nuôi khác nhau; + Đã làm chủ được công nghệ sản xuất tinh đông lạnh chất lượng cao từ bò đực giống nhập khẩu và chọn lọc trong nước; ứng dụng thành công bước đầu đối với công nghệ phối giống tinh bò phân biệt giới tính với tỷ lệ bê cái sinh ra trên 80%; công nghệ cấy phôi đã được ứng dụng có hiệu quả tại Tập đoàn TH truemilk; + Chương trình cải tiến giống trâu có đạt được một số tiến bộ. Bước đầu áp dụng biện pháp thụ tinh nhân tạo trâu địa phương; đã tạo được đàn nghé lai có khả năng tăng trọng cao hơn, sản xuất nhiều thịt hơn. – Công nghệ sử dụng TĂCN Trong giai đoạn 2011-2016, việc quản lý, sản xuất và sử dụng TĂCN công nghiệp đã được nhà nước quan tâm; các doanh nghiệp trong và ngoài nước đẩy mạnh đầu tư mở rộng sản xuất, cung ứng ra thị trường đa dạng các sản phẩm thức ăn cho gia súc, gia cầm và các loại vật nuôi. Hiện nay, trên cả nước có 207 nhà máy sản xuất TĂCN với tổng công suất hơn 31,0 triệu tấn/năm. Tổng khối lượng thức ăn hỗn hợp sản xuất tăng từ 10,6 triệu tấn (năm 2011) lên 15,3 triệu tấn năm 2015, đặc biệt trong năm 2016, tổng khối lượng thức ăn sản xuất tăng mạnh lên trên 20,15 triệu tấn (đưa Việt Nam thành nước đứng đầu Đông Nam Á và trong tốp 10 nước có sản lượng lớn nhất trên thế giới về thức ăn chăn nuôi công nghiệp); ước tính tỷ lệ đạt 75% số lượng thức ăn sử dụng trong cả nước. Với mức tăng trưởng hàng năm giai đoạn 2011-2016 trên 10%, Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong khu vực Châu Á. – Công nghệ chăn nuôi khép kín Số lượng trang trại chăn nuôi năm 2014 đạt khoảng 9.897 trang trại; đa số các cơ sở chăn nuôi này đều sử dụng phương thức chăn nuôi công nghiệp, chuồng trại khép kín. Nhiều mô hình chăn nuôi công nghiệp gắn liền với giết mổ, chế biến tập trung, công nghiệp và phân phối sản phẩm đã được hình thành. Chăn nuôi đã cơ bản chuyển sang chăn nuôi sản phẩm để bán và sản phẩm hàng hoá; hình thức chăn nuôi sử dụng kết hợp cày kéo còn tỷ lệ rất thấp. – Công nghệ đệm lót sinh học, bể biogas Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương trên cả nước chỉ đạo triển khai xây dựng hơn 2,5 triệu công trình khí sinh học, với khoảng 140 ngàn hộ được hỗ trợ xây dựng trong giai đoạn 2011-2015, nguồn kinh phí chủ yếu từ ngân sách địa phương và do các hộ tham gia đóng góp. Theo số liệu tổng hợp báo cáo về sử dụng biện pháp xử lý chất thải chăn nuôi của 55/63 tỉnh/TP tháng 11 năm 2013, kết quả cho thấy trong tổng số 12.427 trang trại thống kê có 729 trang trại làm đệm lót sinh học (chiếm 6,37%), có 3.950 trang trại sử dụng biogas (chiếm 31,79%), áp dụng ủ phân compost 235 trang trại (chiếm 1,89%), 6.694 trang trại bán phân (chiếm 25,61%), áp dụng biện pháp khác có 270 trang trại (chiếm 2,17%) và số trang trại chưa áp dụng các biện pháp xử lý là 781 trang trại (chiếm 6,28%). Tính đến năm 2015, tỷ lệ trang trại có hệ thống xử lý chất thải đạt 88% so với tổng số trang trại chăn nuôi. – Công nghệ quản lý đàn bằng công nghệ thông tin Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, sản xuất, chế biến sản phẩm chăn nuôi và thức ăn chăn nuôi. Nhiều hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác chăn nuôi đạt hiệu quả bước đầu như: HTX chăn nuôi Nam Hưng-Hải Dương, HTX chăn nuôi và dịch vụ Cổ Đông-Hà Nội, Hợp tác xã Nông nghiệp Evergrowth-Sóc Trăng, HTX chăn nuôi và thủy sản Gò Công-Tiền Giang… Công tác gia công sản phẩm ngày càng phát triển nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo vòng tròn khép kín trong chăn nuôi, điển hình có: Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam, Công ty TNHH Emivest Việt Nam, Công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam, Công ty Cổ phần Tập đoàn DABACO… Những tồn tại, hạn chế. 1. Năng suất chăn nuôi thấp so với khu vực và thế giới – Năng suất sinh sản: Năng suất, chất lượng đàn giống tuy những năm gần đây đã đạt được những tiến bộ nhất định, nhưng nhìn chung vẫn ở mức thấp (chăn nuôi lợn mới đạt 17-20 con cai sữa/nái/năm) so với các nước phát triển và khu vực (ví dụ của Đan Mạch là 31-33 con cai sữa/nái/năm; Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan chỉ tiêu này là 24-26 con cai sữa/nái/năm). Tỷ lệ hao hụt lợn con vẫn còn lớn, từ lúc sơ sinh đến cai sữa 20 đến 25%; cải thiện về năng suất sinh sản chậm; chưa nghiên cứu những công thức lai phù hợp nâng cao năng suất sinh sản, nhất là khu vực chăn nuôi nông hộ. – Năng suất cho sữa: Trong 5 năm qua, năng suất sữa bình quân trên đàn bò HF thuần tăng từ 4,0-4,1 tấn/con/năm lên 4,2-4,5 tấn/con/năm. Năng suất sữa của các giống bò HF thuần nhập khẩu nuôi tại các doanh nghiệp (BQ trên 6000 lít/CK). Bò sữa chưa được cải tiến về năng suất, còn hiện tượng lai tạo không kiểm soát, không quản lý đời sau, nghiên cứu về sữa còn ít. – Năng suất cho thịt: Theo công bố trên Tạp chí Pig International số 7 và 8 năm 2013: các năm 2011 và 2012 Việt Nam đều đứng ở vị trí thứ 3 (sau Trung Quốc và Mỹ) trong TOP 20 các nước nuôi nhiều lợn nái nhất thế giới. Nhưng sản lượng thịt lợn sản xuất năm 2011 chỉ đứng ở vị trí thứ 8, và năm 2012 ở vị trí thứ 7 (sau Trung Quốc, Mỹ, Đức, Tây Ban Nha, Brazil, Nga). Hiện nay, Việt Nam đã lai tạo được một số tổ hợp lai gia cầm thương phẩm, nhất là gà lông màu, nhưng phần lớn năng suất của các giống gia cầm này chưa ổn định, vòng đời con giống ngắn. 2. Chăn nuôi phân tán nhỏ lẻ Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê (TCTK) qua báo cáo TĐT – NLTS năm 2011 cho thấy: Trong số 4.131,6 ngàn hộ nuôi lợn thì số hộ nuôi quy mô nhỏ (<10 lợn/hộ) chiếm tới 86,4% tổng số hộ, nhưng chỉ sản xuất 34,2% tổng sản lượng thịt lợn. Còn về gia cầm: tổng số 7.864,7 ngàn hộ, số hộ nuôi quy mô (< 100 con gia cầm/hộ) chiếm tới 89,62%, nhưng chỉ sản xuất 30% tổng sản lượng thịt gia cầm. Xu thế trong những năm gần đây, số hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, siêu nhỏ giảm dần nhưng cơ bản vẫn là phân tán, tận dụng và thiếu tính hệ thống, phát triển chăn nuôi chưa bền vững, giá trị gia tăng thấp. 3. Công tác giống chưa đồng bộ, chậm đổi mới Hầu hết các giống bò, lợn, gia cầm cao sản nước ta đều phải nhập từ Mỹ, Canada, Pháp, Úc, Hà Lan, Anh, Đan Mạch. Việc nghiên cứu, chọn lọc lưu giữ các giống nội có chất lượng và phát triển, lai tạo các giống tiên tiến nhập ngoại chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập. 4. Tổ chức sản xuất còn nhiều yếu kém Các hình thức tổ chức sản xuất còn bị cắt khúc, chưa xây dựng được mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị trong chăn nuôi lợn, gia cầm nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Mặt khác quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, việc áp dụng quy trình sản xuất công nghiệp ở hầu hết các cơ sở chăn nuôi quy mô hộ, gia trại và ở đa số doanh nghiệp còn hạn chế. Trong lúc quy trình sản xuất công nghiệp này đã được áp dụng ở nước ngoài từ hàng chục năm trước. Hiện nay, mới chỉ có ở các tỉnh và thành phố lớn hoặc các lĩnh vực có tính đặc thù cao như chăn nuôi bò sữa, trứng gia cầm… áp dụng cách thức tổ chức sản xuất với quy mô trang trại công nghệ cao, đầu tư công nghệ tiến tiến khép kín. 5. Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh Dịch bệnh mới phát sinh và diễn biến phức tạp nhất là các bệnh LMLM, các chủng loại cúm gia cầm, bệnh tai xanh… Công tác quản lý dịch bệnh tuy được triển khai nhưng còn nhiều yếu kém, chi phí phòng chống dịch cao (chiếm từ 5-10% tổng chi phí đầu vào). Nhiều khó khăn, bất cập trong công tác kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, giống nhập lậu và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất trong nước. 6. Chi phí sản xuất Chi phí nguyên liệu, vật tư đầu vào cho ngành chăn nuôi nhất là nguyên liệu thức ăn chăn nuôi phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu từ nước ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm và dẫn đến giảm sức cạnh tranh sản phẩm trong nước so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới. 7. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ trong chăn nuôi Ứng dụng khoa học trong quản lý diễn ra còn chậm, chưa theo kịp thế giới: năng lực và kinh nghiệm của cả cán bộ quản lý và công nhân viên chưa cao đặc biết ở những hộ/gia trại/trang trại chăn nuôi quy mô nhỏ. Lực lượng cán bộ trẻ, có trình độ tiếp cận với khao học công nghệ tham gia quản lý còn ít nên tư duy đổi mới sáng tạo trong ngành nói chung hay trong từng đơn vị chăn nuôi nói riêng còn hạn chế. Bên cạnh đó, do khả năng tài chính yếu nên các cơ sở chăn nuôi không có khả năng nhập khẩu những công nghệ hiện đại đầu tư mở rộng chuồng trại, máy móc, thiết bị nên công nghệ thường lạc hậu và thiếu đồng bộ. Định hướng và giải pháp phát triển chăn nuôi trong tình hình mới Định hướng phát triển 1. Quan điểm phát triển – Thực hiện mạnh mẽ tái cơ cấu ngành chăn nuôi dựa trên quan điểm tái cơ cấu tổng thể ngành nông nghiệp, phù hợp với quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn và Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020. – Thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi sản xuất ra các sản phẩm chăn nuôi đa dạng, hàng hoá có tính cạnh tranh cao, phát triển bền vững theo cơ chế thị trường với 5 khâu đột phá về giống, khoa học công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm chăn nuôi chế biến và an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng nguồn lực và tổ chức liên kết để sản xuất theo chuỗi giá trị đảm bảo các mục tiêu cơ bản về phúc lợi cho người chăn nuôi và người tiêu dùng. – Chú trọng phát triển những sản phẩm có tiềm năng và lợi thế vùng theo hướng tăng nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả để tăng sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; gắn với bảo vệ môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu. – Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp, tạo cơ chế chính sách thuận lợi cho phát triển chăn nuôi trong nước; khuyến khích tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi. – Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tiếp cận nhanh nhất các chính sách nhà nước, tiếp cận nhanh với các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới, áp dụng thực hiện công nghệ thông tin trong quản lý điều hành. – Hoạt động chăn nuôi tiếp cận và phù hợp với Thông lệ Quốc tế. 2. Mục tiêu: a) Mục tiêu chung: Đẩy mạnh tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ, hội nhập nhằm phát triển hiệu quả, bền vững góp phần tăng thu nhập cho người chăn nuôi và đạt mục tiêu tăng trưởng của toàn ngành. b) Mục tiêu cụ thể đến năm 2020: – Tổng sản lượng thịt hơi các loại đạt 6,5-7,0 triệu tấn. – Sản lượng sữa tươi nguyên liệu sản xuất trong nước đạt 1,2-1,5 triệu tấn. – Sản lượng trứng gia cầm đạt 12 tỷ quả. – Giá trị xuất khẩu đạt 1 tỷ USD. Nhóm giải pháp phát triển sản xuất chăn nuôi. Đây là vấn đề quan trọng nhất, có tính đột phá, là khâu khó nhất rất cần có sự tập trung nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, sản xuất hiệu quả. Tại cuộc hội thảo hôm nay, tôi đi sâu vào giải pháp về giống vật nuôi. 1. Về giống vật nuôi: a) Đối với chủng loại giống: Hướng chung là đa dạng các chủng loại giống, song song với chọn lọc những giống tốt nhất, có giá trị di truyền cao, ổn định, nhất là giống phù hợp với điều kiện chăn nuôi của nước ta. – Trong đó, cần nghiên cứu 2 xu hướng: + Một là, số sản phẩm cho 1 đời hay 1 năm của 1 con giống; xu hướng chọn giống có số sp sx ra cao nhất. + Hoặc, hai là số giá trị mà con giống mang lại. Xu hướng chọn giống cho sp mà giá trị của nó đạt tối đa cao nhất. Bên cạnh đó còn nghiên cứu va thử nghiệm một số giống thích ứng với biến đổi khí hậu về hạn hán, ngập mặn, thiếu tă xanh…. Trên cơ sở đó, khuyến cáo người chăn nuôi quyết định, trong đó, đặc biệt lưu ý đến giá trị gia tăng của sản xuất, tính thích ứng và sự tiếp nhận của người chăn nuôi. – Bằng việc nghiên cứu các loại giống từ đó có so sánh giữa các giống – lưu ý việc sử dụng thức ăn, môi trường, chi phí vật tư như: sử dụng điện, nước, chuồng trại… – Các loại giống cần ưu tiên là giống đáp ứng được nhiều tiêu chí, đồng thời phù hợp thị hiếu tiêu dùng trước mắt và lâu dài. b) Về các tiêu chí cơ bản: hiện nay, để có một giống phù hợp sản xuất cần đi sâu vào các tiêu chí cơ bản sau: – Sự thích ứng tối đa với điều kiện chăn nuôi và các tác động nhân tạo – Sản phẩm của giống đạt giá trị về kinh tế, kỹ thuật, sự tồn tại lâu dài; giống dễ cải tiến. – Giống có sự đồng đều cao; dễ chọn lọc, nâng cao chất lượng thông qua chọn lọc. – Giống có tính ổn định; dễ lai tạo với các giống khác. c) Đáp ứng sự đa dạng về chăn nuôi: Chăn nuôi tồn tại dưới 3 dạng: – Chăn nuôi công nghiệp: là chủ lực, được thực hiện bởi các doanh nghiệp, tập đoàn lớn; đây được coi là bộ phận có tính quyết định trong thời gian tới. Khu vực này rất cần giống có độ thuần cao, tính đồng đều, tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn để tiêu dùng và xuất khẩu. – Chăn nuôi trang trại: đây là loại hình chăn nuôi phổ biến ngày càng chiếm tỷ lệ cao; đa phần phụ thuộc nguồn giống từ các cơ sở sản xuất giống, nhưng họ cũng có thể tự túc được một phần. Khu vực này cần giống có ưu thế lai cao, năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng thị trường để tạo sản phẩm cung cấp cho thị trường tiêu thụ trong nước, chế biến và xuất khẩu. – Khu vực chăn nuôi nông hộ: khu vực này hoàn toàn vào nguồn giống từ các cơ sở sản xuất và người chăn nuôi giống, song rất cần giống phù hợp, kháng bệnh cao, năng suất trung bình, chất lượng tốt. Một số nơi sản xuất giống bản địa nhưng đã bị thoái hóa, rất cần có sự nghiên cứu bài bản, tập trung… tạo vùng sản xuất hàng hóa các giống bản địa phục vụ nội tiêu, du lịch và đặc sản. 2. Về tổ chức sản xuất giống: – Thực hiện sản xuất giống theo chuỗi, gắn với Hội, Hiệp hội và nâng cao trách nhiệm của người sản xuất. – Nghiên cứu thành lập các Hội chuyên ngành có sự tham gia của các doanh nghiệp, các nhà khoa học. – Thành lập các HTX, các doanh nghiệp có đủ sức mạnh về sản xuất giống, nâng cao khả năng cạnh tranh, thích ứng cơ chế thị trường. 3. Đầu tư cho nghiên cứu chuyên sâu và tiếp thu khoa học công nghệ của các nước – Xây dựng đề tài cấp Quốc gia có tính chiến lược, nội dung nghiên cứu theo hướng vừa tiếp thu vừa đi tắt đón đầu. – Chủ động trong nghiên cứu, khai thác thế mạnh của các nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước. – Chủ động trong nghiên cứu về các giống bản địa quý; lưu trữ, bảo tồn nguồn gen. Khai thác thị trường tạo ra sự đa dạng trong sản phẩm giống. – Khuyến khích sự vào cuộc nghiên cứu của các tập đoàn, doanh nghiệp; ưu tiên cho doanh nghiệp có đủ các điều kiện trong nghiên cứu và ứng dụng. Trong lĩnh vực này cần quan tâm đến sản phẩm khoa học công nghệ mới, ứng dụng mới, các nghiên cứu cơ bản… tạo ra động lực khoa học công nghệ mới gắn chặt thực tiễn sản xuất. Trên cơ sở dựa vào các chuyên gia đầu ngành trong nước, quốc tế; lực lượng sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng….. – Coi khoa học công nghệ là chìa khoá quan trọng nhất mở ra đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm chăn nuôi. Tại hội thảo này, các chuyên gia thảo luận về khoa học sinh sản vật nuôi là điểm nghẽn của chăn nuôi nước ta. Chỉ cần nâng cao năng suất sinh sản lên 10% so với hiện nay, mỗi năm chúng ta sẽ tiết kiệm được hàng trăm ngàn tỷ đồng. 4. Nhóm giải pháp về chính sách a) Chính sách đất đai – Tăng hạn điền cho tổ chức và cá nhân sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp; Nhà nước cho phép mở ngân hàng cổ phần đất nông nghiệp để khuyến khích nông dân dùng quyền sở hữu đất làm hàng hóa trong nông nghiệp. – Có chính sách cho phép chuyển đổi 10-15% đất nông nghiệp sang trồng cây thức ăn chăn nuôi. b) Rà soát các chính sách về đầu tư cho sản xuất, nghiên cứu… để đổi mới cho phù hợp. Tăng cường chính sách từ các doanh nghiệp, cá nhân tổ chức trong nghiên cứu về kinh tế kỹ thuật trong chăn nuôi. Mong rằng qua hội thảo lần này, chúng ta sẽ có thêm kỹ thuật mới trong lĩnh vực sinh sản vật …
| Tin mới | admin | 03/05/2017 | | Tạo điều kiện tối đa cho xuất khẩu thịt lợn | (Chinhphu.vn) – Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký văn bản số 597/TTg-NN trong đó yêu cầu các bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh các biện pháp đàm phán tìm thị trường xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, tạo điều kiện tối đa cho việc xuất khẩu thịt lợn. Ngành chăn nuôi của nước ta trong những năm qua đã phát triển nhanh, đáp ứng đủ nhu cầu sản phẩm thịt trong nước và từng bước vươn ra xuất khẩu với sản phẩm đa dạng hơn, chất lượng ngày càng cao, giá thành ngày càng hạ; ngành chăn nuôi đã có đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, từ cuối năm 2016 đến nay, ngành chăn nuôi lợn phát triển quá nóng dẫn đến cung vượt cầu quá lớn, giá thịt lợn giảm sâu đã ảnh hưởng trực tiếp đến người chăn nuôi, nhất là các hộ nông dân nghèo, các cơ sở kinh doanh thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y. Để tháo gỡ những khó khăn cho ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn, giúp người chăn nuôi giảm bớt khó khăn, ổn định phát triển, để sản phẩm chăn nuôi đủ sức cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và quốc tế, cả về chất lượng, an toàn thực phẩm và giá cả yêu cầu phải có các giải pháp cả trước mắt và lâu dài. Đẩy nhanh các biện pháp đàm phán tìm thị trường xuất khẩu Về giải pháp giảm nguồn cung, mở rộng thị trường tiêu thụ, tháo gỡ khó khăn cho người chăn nuôi, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, các địa phương tuyên truyền, làm việc cụ thể với các doanh nghiệp chế biến, các hộ tiêu thụ lớn về thịt (các khu công nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ trang) để đẩy mạnh tiêu thụ, sử dụng sản phẩm thịt trong nước nhằm chia sẻ bớt khó khăn với người chăn nuôi. Bên cạnh đó, phối hợp với Bộ Tài chính và các địa phương tăng cường chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh áp dụng các giải pháp về công nghệ, quản lý phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, giá bán các sản phẩm đầu vào của ngành chăn nuôi, nhất là thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y. Đồng thời, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao đẩy nhanh các biện pháp đàm phán tìm thị trường xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi, nhất là sản phẩm của ngành chăn nuôi lợn. Tăng cường thu mua giết mổ cấp đông thịt lợn Thủ tướng Chính phủ cũng giao Bộ Công Thương chủ trì hướng dẫn UBND các tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh tạo điều kiện tối đa cho việc xuất khẩu thịt lợn. Chỉ cho phép tái xuất thịt lợn và phụ phẩm thịt lợn đông lạnh sau khi đã xuất khẩu các lô hàng lợn, thịt lợn trong nước đang chờ thông quan tại các cửa khẩu trên địa bàn. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường và lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát tạm nhập tái xuất thịt lợn và phụ phẩm thịt lợn, bảo đảm quản lý chặt chẽ không xảy ra buôn lậu gian lận thương mại. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương chỉ đạo Sở Công Thương làm việc với các doanh nghiệp, cơ sở chế biến, giết mổ có năng lực dự trữ, chế biến tăng cường thu mua giết mổ cấp đông thịt lợn trong các tháng mùa hè sắp tới; rà soát chi phí trong các khâu nhằm giảm chi phí trung gian, giảm sự chênh lệch giữa giá thu mua và giá bán lẻ; tổ chức chương trình kết nối giữa doanh nghiệp và vùng sản xuất, tăng cường thu mua chế biến cấp đông; kêu gọi các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn thị trường ký kết các hợp đồng tiêu thụ lợn thịt với các trang trại chăn nuôi để tạo nguồn cung ổn định phục vụ công tác bình ổn và bảo đảm thu mua lợn thịt cho người chăn nuôi với giá cả hợp lý. Phó Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng xem xét giãn nợ, miễn giảm lãi đối với các khoản vốn đã vay; tiếp tục cho vay mới đối với những hộ gia đình, cá nhân, tổ chức có nhu cầu vay cho phát triển chăn nuôi và sản xuất. Giảm quy mô đàn lợn, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết Về giải pháp lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, các địa phương tiếp tục có các giải pháp tổng thể, lâu dài để hướng dẫn các địa phương phát triển chăn nuôi có hiệu quả, bền vững. Trong đó, xây dựng, hướng dẫn, giám sát việc thực hiện phát triển chăn nuôi gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm; tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành và chế biến sâu các sản phẩm chăn nuôi để tăng sức mua trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; rà soát điều chỉnh hạn chế mở mới các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp; giảm quy mô đàn lợn, nhất là đàn lợn nái, điều chỉnh lại cơ cấu chất lượng đàn giống, phương thức chăn nuôi phù hợp với từng phân khúc thị trường; tổ chức lại sản xuất chăn nuôi theo các chuỗi liên kết từ cung cấp đầu vào cho sản xuất đến chế biến, tiêu thụ, lấy doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại làm động lực nhằm kiểm soát tốt chất lượng, an toàn thực phẩm và điều tiết cung cầu thị trường các sản phẩm chăn nuôi. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của các Bộ, ngành chức năng có giải pháp tháo gỡ khó khăn để tiếp tục ổn định phát triển chăn nuôi trên địa bàn. Chí …
| Tin mới | admin | 03/05/2017 | | Thứ trưởng Vũ Văn Tám trao đổi với báo chí về các giải pháp “giải cứu” ngành chăn nuôi lợn | “Bộ NNPTNT đề nghị các doanh nghiệp (DN) thức ăn chăn nuôi có cam kết giảm giá bán bằng văn bản gửi Bộ chứ không phải hứa suông. Trong cam kết phải ghi rõ giảm giá như thế nào, giảm các mặt hàng cụ thể gì để Bộ lập danh sách kiểm soát và khen thưởng kịp thời”. Thứ trưởng Bộ NNPTNT Vũ Văn Tám khẳng định như vậy khi trao đổi với phóng viên báo chí Đẩy mạnh thị trường tiêu thụ thịt lợn các nước châu Á Trước sự tăng trưởng nóng của ngành chăn nuôi lợn và giá lợn tụt sâu trong nhiều tháng qua, đến nay Bộ NNPTNT đã đưa ra những giải pháp gì để “kìm” sự khủng hoảng của ngành chăn nuôi lợn? – Thời điểm đầu và giữa năm 2016, khi giá lợn hơi lên cao (56.000 – 58.000 đồng/kg – PV), người chăn nuôi có lãi tương đối khá, Bộ NNPTNT dự đoán trước người nuôi sẽ tăng đàn nên đã liên tục gửi công văn khuyến cáo các địa phương không nên tăng đàn ồ ạt. Mấy tháng gần đây giá lợn xuống dốc, lãnh đạo Bộ NNPTNT rất trăn trở. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng đã gửi công văn tới Thủ tướng Chính phủ đề xuất một số giải pháp ổn định phát triển chăn nuôi. Trước mắt, Bộ NNPTNT đã đề xuất và đang triển khai tới các địa phương, DN tìm mọi biện pháp để giảm đàn, thải loại lợn không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật cũng như chất lượng, trong đó giảm lợn nái từ 4,2 triệu con xuống còn 3 triệu con vào năm 2019. Bộ cũng đã chỉ đạo các địa phương hướng dẫn người nuôi tìm mọi biện pháp giảm giá đầu vào; làm việc với các DN giảm giá thành và giá bán các sản phẩm đầu vào chăn nuôi, nhất là thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y. Bên cạnh đó, Bộ NNPTNT có chỉ đạo đối với các đơn vị và DN có năng lực dự trữ, chế biến và tiêu thụ nhiều thịt tăng cường thu mua giết mổ cấp đông đối với thịt lợn, thịt gia cầm giết mổ, nhất là trong những tháng mùa hè sắp tới. Nếu DN cùng đồng hành thì tôi tin sự khó khăn của nông dân sẽ được chia sẻ. Thứ ba, Bộ NNPTNT có chỉ đạo đối với các đơn vị và DN có năng lực dự trữ, chế biến và tiêu thụ nhiều thịt như Vissan, Hapro Hà Nội, Việt Đức, Saigon Coop, Tổng Công ty nông nghiệp Sài Gòn, các đơn vị quân đội… tăng cường thu mua giết mổ cấp đông đối với thịt lợn, thịt gia cầm giết mổ, nhất là trong những tháng mùa hè sắp tới. Nếu DN cùng đồng hành giải cứu ngành chăn nuôi lợn thì tôi tin sự khó khăn của nông dân sẽ được chia sẻ. Những khó khăn hiện tại của người nuôi lợn liệu có ảnh hưởng đến tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp? – Chắc chắn giá lợn giảm sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành, không phải chỉ đối với chăn nuôi lợn mà kể cả ngành công nghiệp phụ trợ như sản xuất thức ăn, thuốc thú y… Nhưng đối với Việt Nam, lợn là một trong những đối tượng chăn nuôi chủ lực, người dân có nhiều kinh nghiệm, khi có sự điều chỉnh và có tín hiệu thị trường tốt, thì việc tái đàn, phát triển không có gì đáng lo ngại. Còn về lâu để ngành chăn nuôi lợn phát triển ổn định, tăng trưởng bền vững, toàn ngành cần có những giải pháp đột phá gì thưa Thứ trưởng? Trước hết phải thực hiện tái cơ cấu trong chăn nuôi theo hướng tập trung vào giải pháp đột phá về khoa học công nghệ làm sao giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm chăn nuôi. Tổ chức lại trong chăn nuôi, tạo ra chuỗi chăn nuôi an toàn hiệu quả, tăng cường liên kết giữa DN với các hộ nuôi, hình thành vùng sản xuất an toàn dịch bệnh để phục vụ xuất khẩu. Tăng cường công tác truyền thông và thông tin giúp người nuôi chủ động hoạch định kế hoạch chăn nuôi một cách khoa học, dựa vào thị trường. Tuyên truyền cho người dân theo hướng thay đổi tập quán tiêu dùng, từ dùng thịt nóng sang dùng thịt nguội, dùng sản phẩm thịt lợn cấp đông. Khuyến khích tạo điều kiện đầu tư nâng cấp các cơ sở giết mổ theo hướng hiện đại, khuyến khích cơ sở chế biến, tiêu thụ mở rộng quy mô, các sản phẩm chế biến sâu cũng như sản phẩm cấp đông. Trong chăn nuôi cần kiểm soát tốt dịch bệnh, đảm bảo những yêu cầu của thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế làm sao đáp ứng được mọi điều kiện, rào cản kỹ thuật để xuất khẩu tốt hơn. Về vấn đề thị trường, Bộ NNPTNT sẽ đẩy mạnh xúc tiến thương mại vào các thị trường tiềm năng như Trung Quốc, và các nước Asean như Singapore, Philippinnes, Brunei… Những khó khăn hiện tại của sản xuất chăn nuôi lợn có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của ngành chăn nuôi, ngành nông nghiệp không thưa Thứ trưởng? Chắc chăn giá lợn giảm sẽ ảnh hưởng đến phát triển của ngành, không phải chỉ có đối với chăn nuôi lợn mà kể cả ngành công nghiệp phụ trợ như sản xuất thức ăn và ngành công nghiệp phụ trợ khác. Nhưng đối với Việt Nam, chăn nuôi lợn là một trong những đối tượng chăn nuôi chủ lực, người chăn nuôi có nhiều kinh nghiệm, khi có sự điều chỉnh và có tín hiệu thị trường tốt, thì việc tái đàn, phát triển không có gì đáng lo ngại. Sau khi Bộ NNPTNT gửi công văn, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo gì chưa, các bộ ngành liên quan đã vào cuộc chưa, thưa Thứ trưởng? – Tôi được biết ngay sau khi văn phòng Chính phủ nhận được văn bản của Bộ NNPTNT đã báo cáo Thủ tướng và Thủ tướng đã chỉ đạo giao cho Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng sẽ làm việc với các bộ, ngành để giải quyết những đề xuất và kiến nghị của Bộ NNPTNT. Hiện nay Phó Thủ tướng đang đi công tác, đến lúc công tác về, Phó Thủ tướng sẽ làm việc với các bộ ngành về vấn đề này. Được biết trong tuần này Thứ trưởng sẽ có chuyến công tác miền Nam làm việc với địa phương, DN để giải cứu ngành chăn nuôi lợn, Thứ trưởng có thể chia sẻ cụ thể hơn về chuyến công tác này? Chuyến công tác của tôi trong tuần này sẽ vào Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh để bàn bạc với các địa phương, hiệp hội, các DN các giải pháp giải cứu ngành chăn nuôi, giải quyết vấn đề giá thịt lợn. Tôi cùng đoàn công tác sẽ đi khảo sát một số cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh sau đó làm việc với UBND Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn cho ngành chăn nuôi. Đồng Nai và các tỉnh miền Đông là khu vực sản xuất lợn nguyên liệu rất lớn để cung cấp cho TP Hồ Chí Minh, các tỉnh này đang rất khó khăn. Tôi muốn cùng các đơn vị của bộ khảo sát tình hình, chia sẻ với bà con chăn nuôi, đồng thời tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí sản xuất, chi phí đầu vào, tăng cường liên kết vùng sản xuất chăn nuôi lợn với vùng tiêu thụ TP Hồ Chí Minh. Chúng tôi cũng sẽ đến thăm một DN đang hợp tác với Nhật Bản để xuất khẩu gà sang Nhật Bản, thăm các cơ sở chế biến tiêu thụ để tìm hiểu tình hình thực tế. Bộ NNPTNT đang xem xét để tổ chức hội nghị gặp gỡ các DN đang có nguyện vọng xuất khẩu để lắng nghe các DN trao đổi, đồng thời cùng tìm ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi. Siết chặt điều kiện chăn nuôi Các DN đã cam kết giảm giá bán thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, con giống, vậy Bộ NNPTNT có hỗ trợ cụ thể gì cho DN cùng các hộ nuôi trong thời điểm này không? Trước hết Bộ NNPTNT kêu gọi sự vào cuộc của các DN một cách tự nguyện trên cơ sở chia sẻ với người nuôi. 20 năm qua Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi hết mức cho các DN thức ăn chăn nuôi, giảm thuế bằng 0%, gần 20 năm hưởng nhiều lợi ích, thì lúc này là thời điểm DN cần đáp lại sự quan tâm của Chính phủ cũng như chia sẻ với người nuôi lợn. Trong lúc này Bộ NNPTNT chưa đặt vấn đề hỗ trợ DN, mà tập trung hỗ trợ cho sản xuất chăn nuôi, hỗ trợ cho các hộ chăn nuôi. Các DN đã tự nguyện sẽ giảm giá bán, Bộ NNPTNT đề nghị các doanh nghiệp (DN) thức ăn chăn nuôi có cam kết giảm giá bán bằng văn bản gửi bộ chứ không phải hứa suông, trong cam kết phải ghi rõ giảm giá như thế nào, giảm các mặt hàng cụ thể gì để bộ lập danh sách kiểm soát và khen thưởng kịp thời các DN đi đầu, hành động quyết liệt để giải cứu ngành chăn nuôi lợn. Để hạn chế tăng đàn, nhiều DN kiến nghị Bộ NNPTNT siết chặt điều kiện chăn nuôi, sớm đưa ra các yêu cầu kiều kiện để mở trang trại chăn nuôi lợn, đặc biệt quan tâm vấn đề môi trường. Thứ trưởng có đồng tình với kiến nghị này của DN? Thực ra Bộ NNPTNT đã có các quy định về chăn nuôi cũng như các tiêu chuẩn về môi trường. Tuy nhiên hiện nay đang gặp khó khăn đối với chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn nuôi nông hộ xen ghép trong khu dân cư. Khi thị trường tốt, các hộ chăn nuôi tăng đàn tự phát, việc tăng quy mô sẽ không thích ứng được với điều kiện vệ sinh môi trường, tạo ra ô nhiễm môi trường trong khu dân cư. Tới đây Bộ NNPTNT sẽ siết chặt vấn đề này, sẽ quy định rõ các điều kiện chăn nuôi, thâm chí cần có cấp phép cho các cơ sở chăn nuôi đủ điều kiện, nước Thái Lan đang làm như thế. Nhiều ý kiến cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn tới tăng đàn nóng là do cơ quan nhà nước không quản lý được chất lượng con giống cũng như các đơn vị sản xuất giống. Hiện nay việc quản lý chất lượng con giống đang được thực hiện như thế nào thưa Thứ trưởng? Thực ra ở đây có hai vấn đề đặt ra đó là chất lượng con giống và quản lý chất lượng. Về chất lượng con giống, Bộ NNPTNT đã mở kết cỡ để các DN có điều kiện nhập giống tốt nhất trên thế giới về Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam đã có đầy đủ các giống lợn tốt nhất trên thế giới, tuy nhiên đấy mới chỉ dừng lại ở các DN có điều kiện. Đối với các nông hộ (chiếm 55%) thì chất lượng giống có vấn đề, bởi vì người chăn nuôi tự để lợn thịt làm giống luôn, việc này Bộ NNPTNT đã khuyến cáo nhưng thực tế rất khó kiểm soát vì chăn nuôi nhỏ lẻ, cần tiếp tục tuyên truyền để nâng cao nhận thức người nuôi. Bộ NNPTNT đang có hướng dẫn và ban hành các quy định về điều kiện đối với các cơ sở sản xuất giống chăn nuôi nói chung trong đó có giống lợn thương phẩm, tức là phải có đủ điều kiện mới được sản xuất giống thương mại. Về quản lý chất lượng đây là cái đang khắc phục dần trên cơ sở xây dựng Luật Chăn nuôi và hoàn thiện các cơ sở pháp lý, các thể chế để quản lý tốt hơn. Luật Chăn nuôi sẽ trình Quốc hội trong năm 2018, đây là lần đầu tiên chúng ta có Luật Chăn nuôi. Việc quản lý chất lượng con giống trước hết cần thiết lập lại hệ thống thống kê, cũng như cơ sở dữ liệu trên toàn quốc để kiểm soát giống ông bà, cụ kỵ và giống chất lượng cao. Thứ hai, chúng ta phải xây dựng các tiêu chuẩn quy chuẩn về giống. Cần ban hành điều kiện để các cơ sở đủ điều kiện mới có thể chăn nuôi. Xin cảm ơn Thứ trưởng! Theo Báo Nông thôn ngày …
| Tin mới | admin | 28/04/2017 | | Công văn số 3511/NN-CN ngày 27/4/2017 về việc giải pháp cấp bách nhằm ổn định phát triển chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 27/04/2017 | | Công văn số 3511/NN-CN ngày 27/4/2017 về việc giải pháp cấp bách nhằm ổn định phát triển chăn nuôi | …
| Tin mới | admin | 27/04/2017 | | Công văn số 608/CN-KHTC ngày 25 tháng 4 năm 2017 về việc thu mua, tích trữ sản phẩm thịt lợn ủng hộ người chăn nuôi | …
| Tin mới | admin | 26/04/2017 | | Công văn số 608/CN-KHTC ngày 25 tháng 4 năm 2017 về việc thu mua, tích trữ sản phẩm thịt lợn ủng hộ người chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 26/04/2017 | | Bộ Nông nghiệp và PTNT họp bàn giải pháp phát triển chăn nuôi lợn bền vững | Sáng 24/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường đã chủ trì hội nghị tìm giải pháp ổn định phát triển chăn nuôi, đặc biệt là bàn việc “cứu” giá thịt lợn đang giảm sâu chưa từng có từ đầu năm đến nay. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, trong 15 năm qua, chăn nuôi Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao, bình quân 5-6%/năm. Đến năm 2016, sản lượng thịt các loại đã tăng gấp gần 3 lần sau 15 năm, đạt 5,2 triệu tấn (thịt lợn chiếm 3,9 triệu tấn). Tuy nhiên, thịt lợn đang “khủng hoảng thừa” nghiêm trọng. Giá giảm thấp nhất từ trước đến nay tại Việt Nam, và cũng là thấp nhất trên thế giới. Hiện giá thịt lợn hơi nhiều số dưới 25.000 đồng/kg. Nguyên nhân đầu tiên là nguồn cung thịt lợn quá lớn dẫn tới dư thừa. Việc phát triển nóng dẫn đến hậu quả nguồn cung trên thị trường tăng mạnh. Nguyên nhân thứ hai là khâu chế biến trong nước còn rất yếu. Bộ trưởng cho rằng trong nước chủ yếu bán thịt tươi, chưa có chế biến, bảo quản lâu dài. Giá trị gia tăng của thịt lợn không cao. Nguyên nhân thứ ba là khâu tổ chức thị trường kém. Thị trường tiêu thụ chủ yếu trong nước, xuất khẩu không đáng kể. Ngoài ra, việc quy hoạch các lò giết mổ trên cả nước có nhiều nhưng thực hiện rất yếu, chưa đạt hiệu quả để tăng cường giá trị gia tăng trong chuỗi. Ngoài ra, việc chăn nuôi diễn ra nhỏ lẻ trong dân nhiều, chưa có tổ chức quy mô lớn, tập trung, liên kết trong chuối yếu kém. Người chăn nuôi gặp nhiều rủi ro trước những biến động thị trường. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng đề ra nhóm giải pháp mang tính định hướng để giải quyết tình hình khủng hoảng giá lợn hiện nay. Thứ nhất, nhanh chóng tái cơ cấu ngành chăn nuôi lợn theo hướng quy mô, tập trung, có tốc độ đến mức phù hợp nhất theo nhu cầu. Thứ hai, giảm số lượng, đặc biệt là số lượng lợn nái từ 4,2 triệu con hiện nay xuống 3 triệu con vào năm 2020. Đồng thời tăng chất lượng đàn heo nái trong tương lai để 3 triệu con có hiệu suất như 4,2 triệu con. Thứ ba, tập trung tổ chức lại ngành hàng sản phẩm chăn nuôi. Theo đó cần mở rộng chăn nuôi tập trung, giảm 3 triệu hộ chăn nuôi đơn lẻ hiện nay. Thứ tư, tại một số bộ phận nông hộ có điều kiện có thể tìm đối tượng khác thay thế, ko nhất thiết phải nuôi lợn. Có thể tăng chăn nuôi đại gia súc khác như trâu, bò, dê… Giải pháp tiếp theo là tăng cường công tác chế biến sâu. Bộ cũng đề nghị các doanh nghiệp lớn vào cuộc, chính quyền vào cuộc cùng chung tay giúp đỡ chăn nuôi trong nước. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh đến giải pháp phát triển xuất khẩu chính ngạch thịt lợn ra thế giới. Hiện nay, Bộ đang quyết liệt trong việc mở thị trường xuất khẩu, đặc biệt là sang thị trường Trung Quốc. Thịt lợn xuất khẩu của Việt Nam chưa nhiều, trong khi nhu cầu các nước ASEAN, đặc biệt là Trung Quốc rất nhiều. Bộ Nông nghiệp đang tích cực cử các đoàn công tác đi đàm phán xuất khẩu thịt lợn sang Trung Quốc. Sắp tới hai bên sẽ trao đổi nhiều đoàn cấp cao để bàn về vấn đề này. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng thông tin nhân Hội nghị cấp cao APEC tại Việt Nam sắp tới, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc sẽ sang làm việc trực tiếp với Việt Nam về vấn đề xuất khẩu chính ngạch thịt lợn. Bộ trưởng kỳ vọng hai bên sẽ tìm được giải pháp để xuất khẩu thịt lợn sang thị trường lớn này. Đại diện CP Việt Nam đồng tình việc giảm đàn heo nái trên cả nước. CP Việt Nam kiến nghị chính quyền cần thông tin rõ ràng cho người dân về thị trường chăn nuôi. Hiện có tin đồn sắp được bán heo ra nước ngoài nên một số vẫn vay mượn nuôi thêm. CP hứa sẽ giảm giá thức ăn chăn nuôi và con giống, chung tay cùng ngành chăn nuôi trong nước. Đại diện Masan thì cảnh báo việc giá heo giảm nên người chăn nuôi không chú trọng khâu phòng chống dịch bệnh. Masan đề xuất Bộ cần thông tin tuyên truyền người dân đảm bảo an toàn dịch bệnh. Ngày 27 tháng 4 năm 2017 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND tỉnh Đồng Nai họp bàn giải pháp tăng cường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Công văn số …
| Tin mới | admin | 25/04/2017 | | 1.294 con bò sữa cao sản từ Mỹ vừa cập cảng | Sau 36 ngày lênh đênh trên biển, sáng 14/4/2017 chuyến tàu đã đưa gần 1.300 con bò Mỹ đã đậu thai từ 2 đến 5 tháng cập cảng Cửa Lò (Nghệ An) một cách an toàn. Sau sự kiện Tập đoàn TH true Milk công bố áp dụng thành công kỹ thuật cấy chuyển phôi phân ly giới tính bò sữa cao sản (nhập khẩu từ Mỹ) cho đàn bò HF “mang thai hộ” làm bao người sửng sốt, tập đoàn này lại đang khiến nhiều người “choáng” khi đón nhận thêm gần 1.300 con bò sữa HF cao sản của Mỹ…. Đầu tư bài bản để tạo bước đột phá mới Sau 36 ngày lênh đênh trên biển, sáng 14/4/2017 chuyến tàu đã đưa gần 1.300 con bò Mỹ đã đậu thai từ 2 đến 5 tháng cập cảng Cửa Lò (Nghệ An) một cách an toàn. Lãnh đạo Tập đoàn TH đã chuẩn bị các phương án để sẵn sàng tiếp nhận bò về nuôi tân đáo tại trang trại TH. Đoàn xe đang sẵn sàng đón đàn bò sữa cao sản về Nghĩa Đàn Từ năm 2009 đến nay, kể từ khi Trang trại chăn nuôi bò sữa tập trung của TH đã đón nhận 17 chuyến bò sữa HF được nhập khẩu từ New Zealand, Tập đoàn TH hiện là doanh nghiệp có trong tay đàn bò sữa HF thuần chủng quy mô lớn nhất cả nước với trên 45.000 con. Trong đó có 22.000 con đang cho sữa, năng suất bình quân đạt trên dưới 30 lít/con/ngày (khoảng 9.000 lít/con/chu kỳ), cao nhất Việt Nam và khu vực. Đây là yếu tố quan trọng, là nơi cung cấp sữa tươi nguyên liệu để sản xuất các sản phẩm sữa tươi thanh trùng, tiệt trùng mang thương hiệu TH true Milk và các sản phẩm sữa chua ăn, sữa chua uống, bơ, pho mat… Các sản phẩm trên khiến thương hiệu sữa tươi sạch chất lượng cao “TH true Milk” ghi dấu ấn quan trọng trên thị trường và vươn lên chiếm ưu thế số 1 trong phân khúc thị phần sữa tươi của cả nước. Để đạt được điều đó, song song với việc xây dựng thêm trang trại và nhập khẩu 17 chuyến bò sữa HF từ New Zealand về Nghĩa Đàn, ngay từ những ngày đầu tiên vận hành trang trại, đội ngũ chuyên gia Israel và Việt Nam của TH đã lập tức triển khai nhập khẩu và sử dụng tinh bò sữa phân ly giới tính của Mỹ và Israel về thụ tinh cho đàn bò HF tại trang trại nhằm tăng số lượng, chất lượng đàn bò cái của mình. Tặng hoa cho các đại biểu và thủy thủ đoàn Không dừng lại ở đó, năm 2016, Tập đoàn TH đã chủ động nhập khẩu và thực hiện thành công việc cấy truyền 2.000 phôi phân ly giới tính của Cty Sexing Technology (phôi mang gen di truyền tốt nhất của cả bố và mẹ) cho đàn bò HF tại trang trại “mang thai hộ”. Đàn bê cái này, trong tương lai gần sẽ cho sản lượng sữa từ 12.000 đến 13.000 lít sữa/con/chu kỳ (305 ngày). Tháng 2/2015, Trang trại TH đã xác lập kỷ lục “Trang trại chăn nuôi bò sữa tập trung ứng dụng công nghệ cao quy mô lớn nhất châu Á”. Và lần này Tập đoàn TH nhập khẩu thêm gần 1.300 con bò HF cao sản từ Mỹ về Việt Nam. Các chuyên gia nói gi? Ông Hoàng Kim Giao, Chủ tịch Hiệp hội Gia súc lớn là chuyên gia ngành bò sữa cho biết: Để cải thiện chất lượng và nâng cao năng suất đàn bò sữa ở Việt Nam, năm 2001, lần đầu tiên Việt Nam đã nhập khẩu 199 bò sữa thuần chủng Holstein Friesian (HF) và 184 bò sữa Jersey từ Mỹ (trước đó và hiện tại Việt Nam chủ yếu nhập bò sữa từ New Zealand, Australia…). “Tặng” hoa cho chú bò đầu tiên rời tàu Qua theo dõi các thế hệ con, cháu của đàn bò Mỹ đầu tiên đều cho thấy năng suất sữa luôn cao hơn so với đàn bò sữa Việt Nam bình quân từ 30% trở lên. Tuy nhiên, sản lượng sữa của đàn bò Việt Nam hiện nay mới đạt bình quân từ 5.000 – 6.000 lít/con/chu kỳ (305 ngày). Sau 16 năm, Tập đoàn TH là doanh nghiệp đầu tiên triển khai nhập đàn bò sữa có quy mô lên tới gần 1.300 con từ Mỹ về Nghệ An. Điều làm nhiều người sửng sốt chính là 100% cá thể bò sữa nhập về lần này đều là giống bò cao sản thuần chủng HF, đang mang thai từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 5. Như vậy, chỉ 6 tháng nữa, Tập đoàn TH sẽ có trong tay đàn bò sữa cao sản có nguồn gốc từ Mỹ lên tới trên 2.500 con. Ông Giao cho biết thêm: Đàn bò này có nhiều ưu điểm như 100% bò thuần chủng HF; trọng lượng và tháng tuổi gần giống nhau (bò tơ mang thai, tuổi 15 – 20 tháng); được chọn lọc kỹ từ những con bố và mẹ có năng suất cao, sản lượng sữa đạt 12.000 lít/con/chu kỳ (305 ngày); được lựa cẩn thận từ ngoại hình, thể chất, tiềm năng năng suất sữa và khả năng chống đỡ bệnh tật ở vùng khí hậu nhiệt đới. Những chú bò đầu tiên rời tàu lên xe tải về trang trại Theo ông Tal Cohen, Tổng giám đốc Cty CP thực phẩm sữa TH, việc triển khai nhập đàn bò sữa cao sản của Hoa Kỳ về trang trại sẽ giúp đội ngũ chuyên gia và kỹ sư của tập đoàn triển khai nhanh tiến độ chọn lọc, nhân thuần giống bò sữa cao sản tại trang trại TH sớm hơn mục tiêu đề ra. Theo các chuyên gia ngành chăn nuôi, yếu tố khiến Hoa Kỳ hiện trở thành nước có nền chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa rất phát triển là nhờ có chất lượng con giống tốt. Hiện Hoa Kỳ có đàn bò sữa cao sản lên tới 9 – 10 triệu con, sản lượng bình quân từ 11.000 đến 12.000 lít/con/chu kỳ. Sản lượng nói trên vẫn chưa bằng Israel, một quốc gia chăn nuôi bò sữa ở xứ nóng (sản lượng bình quân 12.000 lít/con/chu kỳ) nhưng tổng đàn bò sữa của Israel hiện chưa đến 200.000 con. Đây là lý do khiến Tập đoàn TH quyết định nhập bò sữa cao sản của Mỹ. Tổng đàn lớn sẽ giúp TH có điều kiện để chọn lọc cho phù hợp với điều kiện thời tiết của Việt Nam, đồng thời sẽ có thêm sự hỗ trợ về kỹ thuật, nhân đàn từ quốc gia có đàn bò sữa lớn trên thế giới. Ông Tal Cohen, Tổng giám đốc Cty CP thực phẩm sữa TH cho biết thêm: Sau khi cập cảng Cửa Lò, đàn bò sữa cao sản này sẽ được chuyển về Nghĩa Đàn nuôi tân đáo, cách ly đúng quy định để bò có thời gian thích nghi dần với điều kiện nóng ẩm của Việt Nam đồng thời thích ứng với quy trình chăm sóc nuôi dưỡng của Trang trại TH. SAO …
| Tin mới | admin | 18/04/2017 | | Không sử dụng kháng sinh trong thức ăn thủy sản | Đó là nội dung tại Nghị định 39/2017/NĐ-CP về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản vừa được Chính phủ ban hành. Nghị định này quy định về điều kiện kinh doanh, sử dụng, khảo nghiệm, chứng nhận, kiểm tra và quản lý nhà nước về thức ăn chăn nuôi, thủy sản thương mại. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, xã hội đầu tư nghiên cứu, đào tạo, khuyến công, khuyến nông và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật về dinh dưỡng, chế biến thức ăn chăn nuôi, thủy sản. Ưu tiên đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển, sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thủy sản trong nước và các chính sách khác, trong đó có việc dành thêm quỹ đất và tín dụng ưu đãi cho việc trồng, thu hoạch, bảo quản, sản xuất, gia công, chế biến nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thủy sản trong nước. Đầu tư và xã hội hóa đầu tư nâng cao năng lực hoạt động thử nghiệm, chứng nhận sự phù hợp phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chất lượng thức ăn chăn nuôi, thủy sản. Khuyến khích phát triển mạnh hình thức xã hội hóa các dịch vụ công trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi. Nguyên tắc quản lý thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh Nghị định quy định rõ nguyên tắc quản lý thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh. Cụ thể, không sử dụng kháng sinh trong thức ăn thủy sản. Kháng sinh sử dụng trong thức ăn chăn nuôi nhằm mục đích kích thích tăng trưởng cho gia súc, gia cầm phải có trong danh mục kháng sinh được phép sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Kháng sinh sử dụng trong thức ăn chăn nuôi nhằm mục đích trị bệnh cho gia súc, gia cầm và phòng bệnh cho gia súc, gia cầm non phải là thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam và theo đơn của bác sỹ thú y có chứng chỉ hành nghề phòng, trị bệnh cho động vật theo quy định của pháp luật về thú y. Sản xuất và sử dụng thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, mục đích sử dụng, thời gian sử dụng đảm bảo không gây tồn dư kháng sinh vượt mức giới hạn cho phép trong sản phẩm chăn nuôi và không gây ảnh hưởng đến kháng kháng sinh trong điều trị bệnh của con người và vật nuôi. Chỉ được phép sử dụng tối đa 2 loại kháng sinh trong một sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh nhằm mục đích phòng, trị bệnh cho gia súc, gia cầm phải có bác sỹ thú y có chứng chỉ hành nghề phòng, trị bệnh cho động vật theo quy định của pháp luật về thú y. Thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải ghi rõ tên và hàm lượng kháng sinh, hướng dẫn sử dụng, thời gian ngưng sử dụng trên bao bì hoặc tài liệu kèm theo. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 20/5/2017. Theo …
| Tin mới | admin | 14/04/2017 | | Công văn số 3046/BNN-CN ngày 12/4/2017 về việc một số giải pháp ổn định phát triển chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 14/04/2017 | | Nghị định số 41/2017/NĐ-CP của Chính phủ : Sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi; quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản | …
| Nghị định | admin | 14/04/2017 | | Nghị định số 39/2017/NĐ-CP của Chính phủ : Về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản | …
| Nghị định | admin | 14/04/2017 | | Quyết định số 1398/QĐ-TCCB-BNN ngày 13 tháng 4 năm 2017 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Chăn nuôi | …
| Quyết định | admin | 14/04/2017 | | Các đơn vị, địa điểm bán sản phẩm Gà đồi Yên Thế, Bắc Giang | Số TT Họ và tên Số điện thoại Ô tô BKS Địa bàn tiêu thụ 1 Nguyễn Văn Tình 01668481114 98 C 00171 Hà Nội 2 Nguyễn Văn Công 01686166555 98 C 02197 Hà Nội, Thái Nguyên 3 Nguyễn Văn Mạnh 01665735913 Hà Nội, Quảng Ninh 4 Nguyễn Văn Linh Hà Nội 5 Trần Văn Thọ 0988834629 98 C 02592 Hà Nội, Phú Thọ 6 Trần Văn Thiệp 0987523440 Hải Phòng, Hà Nội, Quảng Ninh, Phú Thọ 7 Quách Văn Hùng 0977421055 Hà Nội 8 Bùi Văn Huy 0988720241 Hà Nội 9 Nguyễn Văn Xuân 0979382051 Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng 10 Cao Sĩ Điệp 0977478011 Hà Nội 11 Vũ Văn Tuyên 0966383228 Bắc Ninh, Quảng Ninh 12 Hoàng Xuân Điều 0978392582 Hà Nội 13 Hoàng Văn Sơn 01688757793 Hà Nội 14 Hoàng Văn Đông 01686015004 98 H 1294 Hà Nội, Bắc Ninh 15 Hoàng Văn Dương 0977644174 98 L 00929 Hà Nội 16 Lê Văn Huy 0985727025 98 H 3115 Hải Dương, Quảng Ninh 17 Lê Văn Hưng 0978450692 98 C 00932 Hải Dương, Lạng Sơn 18 Lương Đức Hùng 0982832099 98 H 0696 Thanh Hóa, Nghệ An 19 Phạm Văn Dũng 0985415346 99 L 0427 Hà Nội, Bắc Ninh 20 Hoàng Văn Hoàn 01634.093.182 98F6-9660 Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội 21 Trần Văn Tâm Ô tô Hà Nội 22 Nguyễn Văn Hanh 0986361401 Ô tô Hà Nội 23 Phạm Viết Bằng Xe Máy Thường Tín, Hà Nội 24 Lê Duy Thắng Xe Máy Hà Nội 25 Phạm Khắc Bầng 01683706899 98 H 3243 Đồ Sơn – Hải Phòng 26 Trần Văn Tuyền Hà Nội 27 Công ty Giang Sơn Hà Nội 28 Vũ Đình Phong 0.966043989 34C-03276 Hải Dương 29 Phùng Xuân Nhật 0.984040999 33M-5953 Hà Nội 30 Lê Xuân Quyền 0.987707396 Quảng Ninh 31 Lã Văn Sơn Quảng Ninh, Hà Nội 32 Phạm Văn Thành Thường Tín – Hà Nội 33 Mã Văn Linh Thường Tín – Hà Nội 34 Chu Quang Long Quảng Ninh, 35 Nguyễn Văn Khiêm Hà Nội 36 Nguyễn Thị Thơm Quảng Ninh, 37 Nguyễn Thị Nhung 0.974832737 xe ô tô Hà Nội 38 Nguyễn Thị Lợi 29X 6018 Hải Phòng 39 Nguyễn Thị Nghiệp 0987347649 16M 2512 40 Nguyễn Văn Chiêng 30Z 3733 41 Mã Thị Linh 0983534416 98K 9661 42 Mã Thị Loan 0974226397 33M 2879 43 Dương Văn Chiến 20L-0082 Kiến An – Hải Phòng 44 Phạm Văn Nghĩa 12K-4003 Thường Tín – Hà Nội 45 Quách Văn Hường 98K-8134 Thường Tín – Hà Nội 46 Ngô Thị Sự 98H-2065 Cao Lộc – Lạng Sơn 47 Hoàng Văn Tâm 98H-2361 Thủy Nguyên – Hải Phòng 48 Chu Văn Quản 0.912767830 29X-6318 Ân Thị – Hưng Yên 49 Trần Văn Thọ 34L-9270 Thường Tín – Hà Nội 50 Phí Văn Thắng 0.1634065754 17C-00837 Đông Hưng – Thái Bình 51 Dương Đông Hưng 29C-11878 An Dương – Hải Phòng 52 Bùi Văn Duyên 98K-7890 Thường Tín – Hà Nội 53 Mai Thị Thuần 90T-6840 Thường Tín – Hà Nội 54 Quách Văn Dũng 98C-02829 Thường Tín – Hà Nội 55 Bùi Quang Dương 98C-02883 Quảng Yên – Quảng Ninh 56 Tô Văn Hùng 0.1657384498 14C-05194 57 Tạ Thị Vượng 98C-2373 Thường Tín – Hà Nội 58 Lê Duy Thắng 0.1634055754 98H-4005 Phúc Thọ – Hà Nội 59 Nguyễn Thị Liệu 98H-1647 Ba Chẽ – Quảng Ninh 60 Hoàng Thị Đào 98K-3558 Thường Tín – Hà Nội 61 Nguyễn Quang Bảy 0.982877058 98H-1105 Phúc Thọ – Hà Nội 62 Dương Xuân Triệu 26C-01779 TP Sơn La, Sơn la 63 Nguyễn Phúc Tuấn 11C-01039 TP Cao Bằng, Cao Bằng 64 Thân Văn Chính 20C-03632 Bảo Lâm, Cao Bằng 65 Phan Văn Phi 37C-19791 Nam Thái, Nam Đàn, Nghệ An 66 Nông VĂn Vượng 11C-02738 P Sông Hiến, TP Cao Bằng, Cao Bằng 67 Trần VĂn Sang 37C-24501 Nam Thái, Nam Đàn, Nghệ An 68 Trần Văn Diệu 30K-3924 TP Điện Biên, Điện Biên 69 Nông Văn Giảng 98C-12739 Nghi Lộc, NGhệ An 70 Nguyễn Tiến Mạnh 16M-9022 Hải Phòng, Hải Dương 71 Nguyễn Anh Tú 27C-00946 Mường Nhé, Điện Biên 72 Nguyễn Việt Đức 98C-05626 Hữu Văn Chương Mĩ, Hà Nội 73 Đỗ Thị Hải Vân 98C-02129 Đông Anh, Hà Nội 74 Thân Văn Hồng 98C-12571 Cẩm Phả, Quảng Ninh 75 Thân Thị Hùng 98C-11566 Cẩm Phả, Quảng Ninh 76 Thân Văn Vụ 98C-13168 Cẩm Phả, Quảng Ninh 77 Nguyễn Thị Thương 98C-01908 Giếng Vuông, Lạng Sơn 78 Từ VĂn Thắng 14C-08087 Vân Đồn, Quảng Ninh 79 Vũ Trung Tạo 25C-01428 Tam Đường, Lai Châu 80 Trần VĂn Anh 37C-00067 Nam Thái, Nam Đàn, Nghệ An 81 Trần Văn Độ 37C-08763 Nam Thái, Nam Đàn, Nghệ An 82 Lê VĂn Cường 29C-32618 Chợ HÀ Vĩ, Thường Tín Hà Nội 83 Hoàng Công Hoan 98C-06779 Đồng Văn Hà Giang 84 Hà Trung Văn 98C-02989 Đồng Văn Hà Giang 85 Hoàng Xuân Bách 23C-00078 Mèo Vạc, HÀ Giang 86 Đỗ Văn Cường 98C-14059 Từ Sơn, Bắc Ninh 87 NGuyễn Văn Bẩy 99K-6395 Baỏ Lâm Cao Bằng 88 Nguyễn Duy Đà 98C-01355 Yên Phúc, VĂn Quan, Lạng Sơn 89 Phạm Thị Phương 98C-09541 TP Lạng Sơn, Lạng Sơn 90 Trần Văn Tập 34M-4500 LỤc Ngạn, Bắc GIang 91 Khương Minh Thư 98C-11614 Tây Hồ Hà …
| CSSXKD giống vật nuôi | admin | 12/04/2017 | | Chỉ thị số 3005/CT-BNN-TY ngày 11/4/2017 v/v Tăng cường công tác quản lý vận chuyển, giết mổ động vật bảo đảm an toàn thực phẩm | …
| Chỉ Thị | admin | 12/04/2017 | | Tỉnh Quảng Ninh: Để có nông sản sạch – an toàn: Cần sự vào cuộc mạnh mẽ | Năm 2017, UBND tỉnh Quảng Ninh xác định tiếp tục là năm cao điểm hành động vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này cho thấy quyết tâm của tỉnh trong việc xây dựng một nền nông nghiệp chất lượng cao, an toàn cho người dân. Chế biến sản phẩm giò, chả ở cơ sở Oanh Thời, phường Cao Thắng, TP Hạ Long, cơ sở được đánh giá đảm bảo VSATTP. Những chuyển biến tích cực Hiện nay, việc xây dựng một nền nông nghiệp chất lượng cao, tạo ra nông sản an toàn được cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân chú trọng, quan tâm. Đặc biệt từ năm 2016 đến nay, nhiệm vụ đảm bảo ATTP trong nông nghiệp được nâng cao hơn một bước, trở thành năm cao điểm hành động trong lĩnh vực này. Có thể thấy nhận thức và sự vào cuộc của các đơn vị, địa phương trong cuộc chiến chống nông sản không an toàn trở nên mạnh mẽ, quyết liệt nhất từ trước đến nay. UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch hành động năm cao điểm VSATTP trong nông nghiệp; thành lập tổ giúp việc Chủ tịch UBND tỉnh về công tác ATTP; công khai đường dây nóng để tiếp nhận thông tin phản ảnh, tố giác các tổ chức, cá nhân vi phạm về ATTP. 15 đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch triển khai năm cao điểm VSATTP. Sở Công Thương lần đầu tiên tiến hành chương trình kiểm tra, giám sát ATTP tại các chợ đầu mối, chợ loại I, trong đó lắp đặt, đưa vào sử dụng hiệu quả bộ test nhanh thực phẩm miễn phí, có thể phát hiện 14 chất độc hại trong thực phẩm tại 5 chợ lớn. Riêng Sở NN&PTNT, đơn vị chủ quản về lĩnh vực này đã ban hành 113 văn bản hướng dẫn, chỉ đạo và triển khai về công tác đảm bảo ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp; thành lập tổ giúp việc cho Giám đốc Sở về đảm bảo ATTP… Chính vì vậy, công tác triển khai các hoạt động đảm bảo ATTP trong nông nghiệp thời gian qua đã đạt được kết quả khả quan, nổi bật. Chỉ tính trong năm 2016, hầu hết các nhiệm vụ liên quan đến ATTP trong nông nghiệp đều đạt kết quả cao. Cụ thể công tác thông tin, tuyên truyền được chú trọng, không chỉ nội dung phong phú, hình thức đa dạng với tần suất, số lượng tăng mạnh 440% so với kế hoạch; tăng trên 400% so với năm 2015. Hoạt động lấy mẫu giám sát ATTP với 2.384 mẫu, đạt trên 440% kế hoạch, tăng 2.130 mẫu so với năm 2015. Hoạt động thanh, kiểm tra liên ngành, đột xuất đã phát hiện 1.106 vi phạm, tăng 854 vụ so với năm 2015; số tiền xử phạt vi phạm hành chính tăng trên 3,4 tỷ đồng… Chính sự vào cuộc quyết liệt trên đã tạo nên chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động về công tác đảm bảo ATTP của cả người sản xuất và tiêu dùng, nâng cao hơn một bước hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Tình trạng sử dụng chất cấm, lạm dụng kháng sinh và thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục, chất bảo quản, phụ gia độc hại trong nông nghiệp được kiểm soát. Bên cạnh đó, các địa phương, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm nông nghiệp an toàn, trong đó hiệu quả rõ nét nhất là xây dựng được hơn 120 sản phẩm OCOP được người tiêu dùng đánh giá cao. Còn nhiều việc phải làm Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng mừng nói trên, tuy nhiên công tác đảm bảo ATTP trong nông nghiệp hiện vẫn là vấn đề nóng, trong quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn. Năm 2016, việc ký cam kết sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn với các hộ nông dân vốn được xem là giải pháp ràng buộc người sản xuất vào các tiêu chí an toàn song kết quả thực hiện ở mức thấp. Đây là lỗ hổng lớn bởi thực tế hoạt động sản xuất nông nghiệp của tỉnh chủ yếu là từ các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ. Các đơn vị chức năng cũng chưa triển khai được hoạt động kiểm tra vào các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản quy mô nông hộ. Bên cạnh đó, hiện việc cấp giấy chứng nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản đủ điều kiện ATTP đạt tỷ lệ thấp. Năm 2016, toàn tỉnh chỉ cấp được gần 300 cơ sở đủ điều kiện ATTP, đạt 37,66%. Trong quý I-2017, con số này còn thấp hơn nhiều với 9 cơ sở. Toàn tỉnh chưa thực hiện được việc kiểm tra VSATTP tàu cá (từ 90CV trở lên), vốn là một quy định bắt buộc. Các đơn vị chức năng cũng chưa kiểm soát được vấn đề an toàn tại các cơ sở sản xuất nước thô được sử dụng để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Qua kết quả khảo sát thực tế của HĐND tỉnh vừa qua cho thấy, hiện nay cấp huyện, xã không có cán bộ chuyên trách và chưa phân công nhiệm vụ cụ thể về lĩnh vực ATTP nông nghiệp; kinh phí dành cho việc này của các địa phương cũng nhỏ, chưa tương xứng. Việc thiết lập các mô hình sản xuất, điểm bán nông thuỷ sản được kiểm soát ATTP còn hạn chế, đặc biệt thói quen của người tiêu dùng khi mua sản phẩm thực phẩm ít quan tâm tới nguồn gốc xuất xứ đã gây khó khăn cho công tác đảm bảo ATTP trong nông nghiệp… Năm 2017, theo kế hoạch của tỉnh, tất cả các chỉ tiêu, nhiệm vụ về ATTP trong nông nghiệp đều nâng cao và giải pháp thực hiện cũng mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Cụ thể, phấn đấu cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP cho 100% số cơ sở đủ điều kiện; tổ chức ký cam kết sản xuất thực phẩm an toàn đối với 100% cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ và kiểm tra việc thực hiện cam kết đối với 80% số cơ sở; kiểm tra 100% các cơ quan cấp huyện về triển khai công tác quản lý ATTP nông nghiệp; công khai cơ sở vi phạm, không đảm bảo ATTP; quy trách nhiệm người đứng đầu nếu để xảy ra sự cố về ATTP… Đây là thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực lớn của các đơn vị quản lý, địa phương, doanh nghiệp và cả người dân trong việc thực hiện đảm bảo ATTP trong nông nghiệp. Việt …
| Tin mới | admin | 12/04/2017 | | Sáu ngân hàng cam kết tài trợ nông nghiệp công nghệ cao tại Thái Bình | Sáu ngân hàng thương mại đã cam kết tài trợ hơn 3.000 tỷ đồng cho các dự án nông nghiệp công nghệ cao tại tỉnh Thái Bình. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ, cùng với việc tiếp tục đầu tư tín dụng cho các dự án có hiệu quả về phát triển nông nghiệp nói chung, tại Hội nghị xúc tiến đầu tư vào tỉnh Thái Bình, 6 ngân hàng thương mại cổ phần bao gồm: Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV, SHB và Ngân hàng Bắc Á đã cam kết tài trợ hơn 3.000 tỷ đồng đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao. Các dự án tâp trung chủ yếu vào nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi lợn và trồng rau sạch, xây dựng nhà máy nước, xây dựng cơ sở hạ tầng… Đồng hành cùng các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Bình, VietinBank đã trao hợp đồng tài trợ 500 tỷ đồng cho 2 doanh nghiệp là Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Chăn nuôi Hòa Phát Thái Bình (Tập đoàn Hòa Phát) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vật tư Nông nghiệp Cường Liên. Ngân hàng Vietcombank cũng đã trao quyết định tài trợ vốn cho 2 dự án phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp tại tỉnh Thái Bình. Vietcombank cũng đã đăng ký gói tài trợ 10.000 nghìn tỷ đồng đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao với những ưu tiên về nhận tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay và ưu đãi lãi suất thấp hơn so với các thành phần kinh tế khác. Còn Agribank đã đăng ký và cam kết tài trợ vốn cho Công ty Cổ phần Phương Nam để sản xuất tôm giống, chăn nuôi tôm công nghệ cao và Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Minh Phú để đầu tư dự án sản xuất ngao giống tại tỉnh Thái Bình với số tiền 100 tỷ đồng. Ngoài tài trợ cho các dự án, doanh nghiệp đầu tư, các ngân hàng còn góp sức vào hoạt động an sinh xã hội góp phần nâng cao chất lượng đời sống cộng đồng tại …
| Tin mới | admin | 11/04/2017 | | Thông tư số 05/2017/TT-BNNPTNT ngày 01/3/2015 Hướng dẫn một số nôi dung thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 | …
| Thông tư | admin | 05/04/2017 | | Quyết định số 397/QĐ-CN-MTCN ngày 04/04/2017 ban hành hướng dẫn phương án bảo vệ môi trường trong khu chăn nuôi tập trung | …
| Quyết định | admin | 05/04/2017 | | Cách chăn nuôi ‘độc đáo’ của bò hữu cơ tại Úc | Tại “trang trại” chăn nuôi gia súc hữu cơ danh tiếng OBE Organic tại Úc, bò Úc hữu cơ là những chú bò được chăn nuôi theo phương thức rất đặc biệt. Bò Úc hữu cơ OBE Organic đang tự do ăn cỏ trên cánh đồng rộng lớn của nước Úc. (Ảnh: OBE Organic) 1. Bò thả rông trong môi trường tách biệt Trang trại gia súc hữu cơ OBE Organic nằm tại “Channel Country Region” – khu vực nằm giữa 4 bang Northern Territory, Queensland, New South Wales và South Australia. Gọi là “trang trại”, nhưng bò luôn được thả rông 24/24 trên những đồng cỏ vô cùng rộng lớn. Thậm chí, việc sinh sản của bò hầu hết đều xảy ra theo tự nhiên chứ không cần đến sự can thiệp của con người. Nơi bò Úc hữu cơ OBE Organic sinh sống nằm trong khu vực “Channel Country Region” (màu nâu đậm). (Ảnh: OBE Organic) Vị trí của trang trại OBE Organic tách biệt hoàn toàn so với nhà ở của người dân, nhằm đảm bảo rằng chúng có thể tận hưởng một cuộc sống thoải mái như ở trong tự nhiên. Khu vực này cũng xuất hiện nhiều hệ thống sông ngòi, giúp những đồng cỏ nơi đây luôn xanh tốt. 2. Nguồn thức ăn đa dạng Trên lãnh thổ của đàn bò OBE Organic có tới khoảng 250 loại cỏ và thực vật tự nhiên khác nhau, nhằm nạp đầy đủ chất dinh dưỡng cho đàn bò. Bò cũng được cho uống nước sạch, với nguồn nước được kiểm soát chặt chẽ. 3. Nuôi lớn tự nhiên Thức ăn của bò hoàn toàn không chứa hóa chất. (Ảnh: OBE Organic) Quá trình chăn nuôi bò, cũng như trong thức ăn của bò hoàn toàn không chứa các loại hóc môn tăng trưởng, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu hay bất kỳ loại hóa chất nào. Bò cũng không cần dùng đến kháng sinh, mà tự trưởng thành với sức khỏe rất tốt nhờ được ăn uống đầy đủ và vận động thường xuyên. 4. Được chứng nhận 100% hữu cơ Thịt bò Úc OBE Organic được chứng nhận 100% Organic & Natural (100% hữu cơ & tự nhiên) bởi Hiệp hội Nông nghiệp Bền vững Quốc gia Australia (NASAA). Thăn lưng bò Úc hữu cơ của thương hiệu OBE Organic. (Ảnh: OBE Organic) Việc chứng nhận này luôn phải tuân theo những chỉ tiêu quốc tế chung về tiêu chuẩn hữu cơ, được lập nên bởi 3 tổ chức: Nền tảng Quốc tế của Phong trào Nông nghiệp Hữu cơ (IFOAM), Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), và Chuẩn chương trình Hữu cơ Quốc gia (USNOP). 5. Hệ thống giết mổ hiện đại Mọi gia súc được xuất ra từ trang trại OBE Organic buộc phải vượt qua những tiêu chuẩn hữu cơ nghiêm ngặt. Thậm chí cả bãi giữ bò để chuẩn bị giết mổ cũng phải đạt chỉ tiêu của Hệ thống Quản trị Hữu cơ OBE Organic (OBE Organic Management System), và cả số cỏ mà người ta cho chúng ăn trên đường đi giết mổ cũng phải là cỏ hữu cơ. Đàn bò Úc hữu cơ OBE Organic rong ruổi khắp các đồng cỏ. (Ảnh: OBE Organic) Quá trình giết mổ và xử lý thịt bò đều được thực hiện bởi các trang thiết bị và công nghệ hiện đại nhất, với hệ thống rà soát và đóng gói rất hiệu quả và an toàn vệ sinh thực phẩm tuyệt đối. Nhờ Hệ thống Quản trị Hữu cơ OBE Organic, thịt bò Úc OBE Organic chính là một trong những loại thịt bò khiến chúng ta có thể yên tâm nhất trên thị trường thịt bò nhập khẩu hiện nay. Nguồn: OBE Organic Linh Đặng …
| Tin mới | admin | 03/04/2017 | | Công nghệ chăn nuôi bò sữa vượt bậc của Israel | Nếu muốn biết về tương lai của ngành nông nghiệp cũng như những công nghệ nông nghiệp tương lai, Agritech Tel Aviv chính là điểm lý tưởng để tham quan. Triển lãm nông nghiệp được tổ chức tháng 4 năm nay với sự góp mặt của rất nhiều công nghệ và sản phẩm ưu tú trong lĩnh vực này, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa. Mặc dù chỉ với 834 trại bò sữa, Israel lại được biết đến trên toàn thế giới về năng suất sữa cao (12000 kg sữa/con bò/năm) đi đôi với công nghệ đột phá. Để đạt được thành công, bí quyết của họ là trở nên suất sắc ở mọi khía cạnh. Ngày nay, xu hướng chăn nuôi bò sữa là dựa vào công nghệ. Nhờ vào phần mềm tinh tế, người ta có thể thu thập và phân tích thông tin chi tiết trên từng con bò: những hoạt động của bò, lượng thức ăn nó đã ăn, lượng sữa nó sản sinh… nhằm tối ưu hóa sản xuất và tối đa lợi nhuận. Afimilk là công ty Israel chuyên về chăn nuôi bò sữa, được thành lập từ một kibbutz và có danh tiếng ở Pháp. Công ty còn có phòng thí nghiệm (Afilab) trong khu chăn nuôi bò. Công việc phân tích hàm lượng sữa được thực hiện tại đây, cho phép người sản xuất biết được mức độ dinh dưỡng và tình trạng sức khỏe của bò. Phát hiện sớm các vấn đề về vệ sinh là một vấn đề lớn đặt ra ở Israel và Châu Âu, với mục đích giảm thiểu việc sử dụng kháng sinh, tăng năng suất sữa và giảm chi phí. Phòng thí nghiệm Afilab phân loại mẫu sữa để phục vụ cho các mục đích khác nhau, ví dụ như sữa nhiều protein sẽ được sử dụng để sản xuất pho mát. Ngoài ra, công ty SCR cũng đang phát triển thiết bị theo dõi và phát hiện vấn đề vệ sinh ở giai đoạn đầu, với phần mềm phân tích thông tin. Phân tích gen cũng là một phương pháp cải thiện năng suất. Công ty XMatch đã phát minh ra một ứng dụng giúp nông dân chọn giống bò đực hợp lý. Để giữ được vị trí hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này, Israel đầu tư vào các công ty khởi nghiệp. Ví dụ là Mi-robot, một công ty khởi nghiệp đã phát triển mô hình robot vắt sữa bò, có thể coi là giải pháp tốt nhất hiện nay cho tình trạng thiếu nhân công. Hệ thống này sẽ được đưa vào thử nghiệm tại trang trại vào năm tới. Một cách quản lý trang trại bò sữa mới Patrice Guignan là một người chăn nuôi bò sữa ở Pháp. Ông có 135 con bò và đã sử dụng hệ thống Afiact trong trang trại của mình được khoảng 1 năm nay. Phần mềm được Afimilk điều chỉnh cho hợp lý với bò. Hệ thống Afilab cũng sẽ được thiết lập ở trang trại. Patrice khá hài lòng với sản phẩm này ở mọi khía cạnh, giúp tiết kiệm thời gian và đảm bảo quá trình sản xuất. Việc thử nghiệm được thực hiện thông qua công ty tư vấn quản lý BCEL Ouest cho trang trại bò sữa. Afimilk đã bắt đầu xâm nhập thị trường Pháp. Kể từ những ngày đầu, công nghiệp chăn nuôi bò sữa là một ngành mũi nhon của phát triển nông nghiệp trong cả nước. Chăn nuôi bò sữa đã được công nghiêp hóa, với việc kết hợp hoàn hảo giữa đơn vị sản xuất (bò), công nghệ và thiết bị (kỹ thuật), người vận hành (nông dân hoặc chủ trang trại) và môi trường sản xuất (trang trại bò sữa). Tăng năng suất đồng thời giảm số bò giúp cải thiện lợi nhuận kinh tế, và giảm đáng kể tình trạng mất cân bằng sinh thái. Israel không bị bó hẹp bởi những thói quen nông nghiệp truyền thống. Trái lại, nhà nông Israel đã kết hợp rất nhiều ý tưởng mới vào hệ thống chăn nuôi, tạo ra những cách tiếp cận kĩ thuật tới kỹ thuật hiện đại và tiên tiến. Bài viết gốc của Pascale Le Cann trên L’éleveur Laitier số. 237- July …
| Tin mới | admin | 03/04/2017 | | Công văn số 468/CN-TĂCN ngày 31 tháng 3 năm 2017 về việc nhập khẩu TĂCN chứa kháng sinh đáp ứng Thông tư số 06/2016/TT-BNNPTNT ngày 31/5/2016 | …
| Công văn | admin | 31/03/2017 | | Tổng quan ngành sữa New Zealand | 1. Giới thiệu Ngành sữa New Zealand có lịch sử phát triển từ năm 1814, từ đó đến nay ngành này liên tục phát triển và trở thành ngành công nghiệp toàn cầu mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Hiện nay, đàn bò sữa của New Zealand có 5,8 triệu con, sản lượng sữa 21 tỷ lít sữa, chiếm 3% sản lượng sữa thế giới, là quốc gia sản xuất sữa lớn thứ 8 trên toàn cầu. Chăn nuôi bò sữa tập trung chủ yếu ở đảo bắc: 73% tổng đàn bò sữa, 57% tổng sản lượng sữa. 95% lượng sữa sản xuất ra được xuất khẩu tới nhiều nước trên thế giới, ngược với xu hướng của hầu hết các nước trên thế giới là sản xuất sữa để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong những năm gần đây, mặc dù giá sữa thế giới giảm tuy nhiên New Zealand vẫn là quốc gia xuất khẩu sữa lớn nhất thế giới, sữa xuất khẩu của nước này chiếm 35% thị phần trên toàn cầu và đóng góp 25% ngoại tệ của kim ngạch xuất khẩu. Trong 5 năm qua, giá trị xuất khẩu ngành sữa hàng năm đạt mức trung bình 14.4 triệu USD. Giá trị xuất khẩu của ngành sữa tăng từ 15% năm 1990 lên 29% năm 2016, sau khi đạt đỉnh 35% năm 2014. Trong vòng 26 năm qua, giá trị xuất khẩu của ngành sữa tăng trưởng 7,2%/năm. Năm 2016, mặc dù ngành du lịch có tốc độ tăng trưởng mạnh, tổng chi tiêu của khách du lịch quốc tế đạt 10 tỷ USD vẫn thấp hơn giá trị xuất khẩu của ngành sữa. Tính đến tháng 3/2016, giá trị xuất khẩu của ngành sữa có giá trị xuất khẩu cao nhất so với tất cả các ngành hàng xuất khẩu, gấp đôi so với ngành thịt, 4 lần ngành gỗ và gần 9 lần so với rượu vang. Sản phẩm sữa xuất khẩu chủ yếu là sữa gầy, sữa bột nguyên kem và kem. 2. Vai trò của ngành sữa đối với nền kinh tế 2.1. Đóng góp đối với tổng thu nhập quốc dân (GDP) và tạo việc làm New Zealand nổi tiếng thế giới về các sản phẩm sữa và là quốc gia xuất khẩu sữa lớn nhất thế giới. Trong hơn 15 năm qua, ngành sữa đã đóng góp đáng kể cho kinh tế của New Zealand với tốc độ tăng trưởng 3,5% năm và số lượng việc làm được tạo ra tăng 1,7%/năm. Năm 2016, ngành sữa đóng góp 7,8 tỷ USD (tương đương 3,5%) cho tổng GDP trên cả nước trong đó 5,96 tỷ từ chăn nuôi bò sữa và 1,88 tỷ từ chế biến sữa. Hiện nay, ngành này tạo ra việc làm cho 40.000 người (trong đó 27.500 việc làm tại các trang trại và hơn 13.000 việc làm tại các cơ sở chế biến sữa). Ngành sữa luôn tạo ra nhiều việc làm hơn so với các ngành khác trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng việc làm do ngành nông nghiệp tạo ra là 0,6%, ngành lâm nghiệp và thủy sản là 1%/năm. 2.2. Tạo thu nhập cho hộ gia đình Năm 2016, ngành sữa đã tạo ra 2.4 tỷ tiền lương cho người chăn nuôi bò sữa và người lao động làm việc trong lĩnh vực chế biến sữa với mức lương trung bình cao hơn so với thu nhập bình quân đầu người (34.000 USD/năm) cũng như các ngành khác trong lĩnh vực nông nghiệp và ngành chế biến thực phẩm khác. Thu nhập trung bình của người chăn nuôi bò sữa 54.640 USD, chăn nuôi hươu 48,320 USD, trồng nấm gần 40.000 USD, nuôi cừu và bò thịt 42.000 USD, trồng cây ăn quả và cây lấy hạt khoảng 42.000USD. Lương trung bình của người lao động làm việc trong ngành chế biến sữa là 72.910 USD cao hơn so với các ngành chế biến thực phẩm khác 58.200 USD. 2.3. Các tác động của ngành sữa đối với tăng trưởng kinh tế Ngành sữa không chỉ có tác động trực tiếp tới tăng trưởng xuất khẩu, việc làm và gia tăng thu nhập mà nó còn có vai trò quan trọng đối với các hoạt động hỗ trợ các thành phần kinh tế khác của New Zealand. Năm 2016, doanh thu của người chăn nuôi bò sữa đạt 12,2 tỷ USD, trong khi đó họ chi 711 triệu USD cho phân bón và hóa chất cho nông nghiệp, 393 triệu USD cho trồng cỏ và 190 triệu USD cho máy nông nghiệp. Đồng thời, người chăn nuôi bò sữa còn đầu tư vào hệ thống xử lý môi trường với mức trung bình 90.000USD/trang trại. Bên cạnh đó, các yếu tố đầu vào của chế biến sữa chiếm khoảng 18.8 tỷ USD (đóng gói: 288 triệu, thuê thiết bị 199 triệu) góp phần thúc đẩy ngành phụ trợ cho công nghiệp chế biến sữa. Ngoài ra, ước tính hàng năm người chăn nuôi bò sữa chi 5,7 tỷ USD cho giải trí, quần áo, du lịch. Mục tiêu của Chính phủ New Zealand phấn đấu giá trị xuất khẩu ròng của ngành sữa sẽ đạt 64 tỷ USD vào năm 2025. 3. Nhân tố đóng góp cho sự thành công của ngành sữa Từ năm 1984, Chính phủ New Zealand đã loại bỏ toàn bộ chính sách hỗ trợ, bảo hộ đối với nông nghiệp và là bước đột phá góp phần tạo sự thành công phát triển nông nghiệp nói chung và chăn nuôi bò sữa nói riêng. Những nhân tố đóng góp cho thành công của ngành sữa bao gồm: Việc loại bỏ chính sách hỗ trợ và hàng rào thuế quan đã thúc đẩy nhà sản xuất sữa tự nâng cao năng lực sản xuất, tận dụng triệt để các lợi thế sẵn có: điều kiện tự nhiên thuận lợi (khí hậu ôn hòa, đồng cỏ tốt) kết hợp với ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến quản lý sản xuất. Nhờ đó, ngành sữa đạt được thành công đáng kể. Phương thức liên kết phát triển sản xuất giữa chủ sở hữu trang trại, quản lý trang trại góp phần tạo nên sự phát triển bền vững của ngành sữa. Việc chia sẻ chi phí sản xuất và lợi nhuận thu được giữa chủ trang trại và người quản lý trang trại của họ góp phần phát triển nguồn nhân lực làm việc tại các trang trại chăn nuôi bò sữa một cách bền vững. Hiện nay, phương thức sản xuất này chiếm 40% trong hệ thống chăn nuôi bò sữa. Công nghiệp chế biến sữa phát triển hỗ trợ tích cực cho phát triển chăn nuôi bò sữa. Fonterra – công ty chế biến sữa lớn nhất New Zealand được thành lập theo quy định tại Luật tái cơ cấu ngành sữa năm 2001. Sự hình thành công ty này đã tạo ra sự độc quyền của Fonterra trong ngành sữa, tuy nhiên chính sách này hỗ trợ để tạo ra năng lực cạnh tranh đủ mạnh trên thị trường quốc tế thông qua sản xuất sản phẩm sữa có chất lượng cao và đa dạng hóa sản phẩm ở quy mô lớn bởi tăng trưởng xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với ngành sữa. Mặt khác, Chính phủ New Zealand đã đàm phán thành công về tự do hóa thương mại mở ra thị trường xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa tới 100 nước trên thế giới. Tăng trưởng xuất khẩu là nhân tố quan trọng đối với phát triển bền vững ngành sữa. Nguồn: www.nzier.org.nz (Feb 2017) và www.dairynz.com Thạc sĩ Hoàng Thiên Hương – Phòng Gia Súc Lớn – Cục Chăn …
| Tin mới | admin | 31/03/2017 | | BT Nguyễn Xuân Cường: Hưng Yên cần xây dựng nền nông nghiệp đô thị | “Hưng Yên cần định hướng phát triển nền nông nghiệp đô thị, lấy cây cảnh, con cảnh, cây dược liệu gắn du lịch dịch vụ, tham quan giải trí không chỉ phục vụ cho tỉnh mà đáp ứng cho cả Thủ đô’ – Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cườngđã nhấn mạnh như vậy tại buổilàm việcvới lãnh đạotỉnh Hưng Yên về tái cơ cấu ngành nông nghiệpngày 28.3. Nhiều cây, con cho thu nhập 300-500 triệu/ha Những năm qua, nông nghiệp Hưng Yên có sự chuyển đổi mạnh mẽ, nhất là thúc đẩy phát triển những cây, con có lợi thế, hiệu quả kinh tế cao như: gà Đông Tảo, nhãn, cây cảnh, cây ăn quả. Tại buổi làm việc, ông Nguyễn Văn Phóng, Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên cho biết, những năm gần đây, nhiều nông dân đã chuyển đổi mạnh đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả, cây cảnh, cây dược liệu có giá trị kinh tế rất cao. Như cây nghệ ở Khoái Châu, trồng 9 tháng là cho thu hoạch sản phẩm với giá trị 500-600 triệu/ha. Chính vì vậy, diện tích trồng đã tăng mạnh từ 160-170ha năm 2016 lên 250-300ha trong năm nay. “Sản phẩm nghệ làm ra không đủ để bán với các thị trường xuất khẩu đi Ấn Độ, Trung Quốc… Đặc biệt, cây nghệ rất thích hợp trong điều kiện biến đổi khí hậu, an toàn hơn cây chuối (cơn bão số 1 năm ngoái đã khiến hơn 100ha chuối bị ngã đổ)” – ông Phong cho biết. Đó chỉ là một trong những thế mạnh mà tỉnh Hưng Yên đang đẩy mạnh phát triển. Nhắc tới Hưng Yên, không thể không Ông Nguyễn Văn Doanh – giám đốc Sở NN-PTNT cho biết: Hiện nay, Sở NN-PTNT đang tham mưu cho UBND tỉnh Hưng Yên lập dự án xây dựng các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Theo đó, đến năm 2020, tỉnh sẽ xây dựng được 3 – 5 vùng nông nghiệp công nghệ cao (bao gồm các vùng hoa, cây cảnh, rau màu, lúa chất lượng cao) với tổng diện tích khoảng 1.000 ha. Trước mắt, dự án đầu tư xây dựng hạ tầng vùng sản xuất tập trung, công nghệ cao huyện Văn Giang (đã trình Bộ NN-PTNT chấp thuận chủ trương đầu tư). nhắc đến sản phẩm sản phẩm đặc sản gà Đông Tảo. Đến thăm trại nuôi gà Đông Tảo của ông Nguyễn Văn Thấm(thôn Đông Tảo Nam, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu), Bộ trưởngNguyễn XuânCường quan sát kỹ đàn gà rồi bảo: “Ở đây tuy có nhiều gà đẹp, nhưng ngoại hình không đồng nhất do tính trạng bị phân ly. Chắc chắn đàn gà có hiện tượng cận huyết, thoái hoá nguồn gen”. Để giới thiệu con đặc sản, ông chủ đã nhanh tay bắt một con gà trống đẹp mã, nặng 5kg, có đôi chân to khoẻ để Bộ trưởng và mọi ngườicùngchiêm ngưỡng. Với quy mô đàntừ 1.000-1.500 con/năm, trong đó có 600 gà mái Đông Tảo thuần chủng, ông Thấmtự sản xuất con giống để nuôi thương phẩm và cung ứng cho các hộ chăn nuôi lân cận. “Bán gà giống với mức 20.000 đồng là có lãi rồi, nhưng không ngờ năm nay giá gà giống cao, hiện gia đình tôi bán được 120.000-130.000đồng/con giống. Về gà thương phẩm, tôi bán giá buôn cao nhất được 12 triệu đồng/con’. Tính ra, mỗi năm gia đình ông thu lợi khoảng 600 – 700 triệu đồng/năm. Theo ông Nguyễn Văn Phóng, hàng năm, tỉnh đều tổ chức Hội thi gà Đông Tảo nhằm quảng bá con đặc sản của địa phương, kích cầu thị trường tiêu thụ. Hiện tại, giá 1 kg gà Đông Tảo thương phẩm rất cao (khoảng 500.000 đồng/kg). Tuy nhiên, Bộ trưởng Cường cảnh báo, người chăn nuôi Hưng Yên không nên thoả mãn với thành quả đạt được, bởi khi hết “cơn sốt”, có thể giá gà Đông Tảo sẽ sụt giảm dần. Điều quan trọng nhất là phải áp dụng khoa học công nghệ để nhân đàn và chăn nuôi quy mô lớn, bán với giá cạnh tranh thì mới phát triển bền vững được.Hiện nay, Sở Khoa học và Công nghệ Hưng Yên đang thực hiện đề tài thụ tinh nhân tạo cho gà Đông Tảo, với 15 hộ tham gia. Trung bình mỗi con gà trống có thể thụ tinh cho khoảng 25 – 30 gà mái, chất lượng con giống rất tốt. Nhưng khó ở chỗ, muốn ứng dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho gà thì phải nuôi nhốt. Những trại gà chăn thả tự do như gia đình ông Thấmkhông thể triển khai được.Chính vì thế, nhiều khi ông phải dùng đến thần dược ‘rocket 1h” để tăng khả năng sinh sản của gà. Trước thực tế này, Bộ trưởng đã giao cho Vụ KHCN&MT phối hợp với Cục Chăn nuôi, Tập đoàn Dabaco… phục tráng giống già Đông Tảo: “Trước mắt, cần tuyển chọn, đánh giá, phân chia thành từng nhánh tính trạng để chọn ra những dòng tốt nhất. Tiếp đến, cần hình thành các khu nuôi giữ gà Đông Tảo bố mẹ để nhân giống thương phẩm, cung ứng cho người chăn nuôi. Như vậy, nguồn gen của giống gà quý này sẽ luôn được bảo tồn”. Thăm vùng trồng Nhãn của HTX Nhãn lồng thôn Nễ Châu (xã Hồng Nam, TP Hưng Yên) sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP cung ứng cho hệ thống siêu thị Vinmart, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đánh giá cao công tác chỉ đạo sản xuất của ngành nông nghiệp của địa phương và sự năng động, sáng tạo của nông dân nơi đây. Bởi, với điều kiện thời tiết dị thường như năm nay, số ngày rét ít hơn, thời điểm cây nhãn ra hoa gặp tiết ẩm nên tỷ lệ rụng rất nhiều. Các chủ vườn nhãn đã vận dụng rất sáng tạo các kỹ thuật tiện cây, bón phân và phun thuốc kích nụ… để đảm bảo tỷ lệ đậu quả trên 60%. Giá 1 kg nhãn đường phèn (nhãn cổ truyền của Hưng Yên) lên tới 60 – 70 nghìn đồng, đem lại thu nhập cao cho nông dân. Điển hình như mô hình trồng nhãn rộng 2 mẫu của ông Bùi Xuân Tám, thôn Nễ Châu mỗi năm thu lãi 350 – 400 triệu đồng.Năm nay do áp dụng những biện pháp kỹ thuật cùng với chăm sóc kỹ càng nên vườn nhãn nhà ông đậu hoa, ra quả tới 95%. Với khoảng 1 vạnha đất bãi sản xuất nông nghiệp ngoài đê phù sa màu mỡ, Hưng Yên có thế mạnh đặc biệt để phát triển cây trồng giá trị cao như hoa màu và cây ăn quả. Riêng diện tích trồng chuối của toàn tỉnh đã lên tới gần 2.000 ha. Đây là đây đem lại thu nhập cao của rất nhiều nông dân các huyện Khoái Châu, Văn Giang.Bộ trưởng và đoàn công tácđã thăm khu đất bãi bạt ngàn chuối tại xã Đại Tập (Khoái Châu) do Cty TNHH Thuận Tâm Thành đầu tư sản xuất. Với tổng diện tích trồng 60 ha tại các tỉnh phía Bắc (trong đó có 30 ha chuối tại Hưng Yên, các diện tích còn lại nằm rải rác ở các tỉnh Bắc Giang, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá), sản lượng bình quân khoảng 3.000 tấn quả/năm. Số lượng này như muối bỏ bể so với nhu cầu của đối tác trong nước (như Vinmart, Fivimart) và các bạn hàng phía Hàn Quốc, Nga và thị trường Trung Đông. Bởi vậy, Cty đã liên kết bao tiêu sản phẩm cho hàng trăm hộ trồng chuối lân lận (khoảng 10.000 tấn/năm) với giá trung bình 8.000 đồng/kg. Anh Phạm Năng Thành (GĐ Cty Thuận Tâm Thành) chia sẻ: Với năng suất trung bình khoảng 50 tấn/ha, một hecta có thể cho doanh thu khoảng 400 triệu đồng. Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô sản xuất chuối của Cty gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề tích tụ ruộng đất. Bởi diện tích đất ở khu vực đồng bằng sông Hồng quá manh mún, việc thoả hiệp thuê đất với các chủ ruộng vô cùng nan giải. Bên cạnh đó, mưa bão cũng là kẻ thù lớn với cây chuối.Nghe thế, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường lập tức nói: “Ngay trong tuần này, anh hãy gặp Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình Nguyễn Hồng Diên để đặt vấn đề thuê đất trồng chuối xuất khẩu. Nếu có khó khăn gì, cứ bảo Bộ trưởng Cường giới thiệu. Hiện tại, tỉnh này đang có một quỹ đất mấy trăm hecta chờ các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, anh về đó chắc chắn sẽ được chính quyền địa phương giúp đỡ”. Bộ trưởng cũng lưu ý, muốn né bão, nông dân trồng chuối chỉ cần lùi mùa vụ là được. Khung thời vụ tốt nhất là tháng 2 – 3 âm lịch hàng năm, sau 6 tháng cây chuối sẽ cho thu hoạch (khoảng từ tháng 8 – 10 âm lịch), thời điểm ấy bão gió không còn căng thẳng nữa. Đồng thời, cần trồng hàng cây bạch đàn quanh khu trồng chuối để chắn gió (hàng cách hàng khoảng 200m). Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, gắn với du lịch Với việc thúc đẩy chuyển đổi và tổ chức lại sản xuất, đến nay thu nhập bình quân trên 1 héc ta đất canh tác của tỉnh Hưng Yên đạt 186 triệu đồng. Đây là mức cao gấp đôi so với bình quân của cả nước. Đánh giá cao những kết quả mà ngành nông nghiệp Hưng Yên đạt được, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng tỉnh Hưng Yên cần tiếp tục đẩy mạnh thâm canh, áp dụng KHCN, khai thác tốt thị trường; hình thành những vùng cây con hàng hóa phản ánh đúng lợi thế của tỉnh. Bộ trưởng Bộ NN&PTNTNguyễn Xuân Cường nêu rõ, với lợi thế về vị trí địa lý và tiềm năng các cây, con đặc sản, Hưng Yên có thể gia tăng thêm giá trị chuỗi nông sản. Để làm được điều này, trong tái cơ cấu nông nghiệp Hưng Yên phải xây dựng chiến lược lâu dài, gắn với lợi thế của địa phương. Theo đó, đẩy mạnh thâm canh gắn với ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và khai thác tốt thị trường không những đáp ứng tiêu thụ trong nước với 90 triệu dân mà còn hướng đến thị trường toàn cầu với 7 tỉ dân. Việc hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn phải trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ với chuỗi khép kín; phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với phát triển công nghiệp và du lịch, theo đó thu hút doanh nghiệp đầu tư khoa học công nghệ và hình thành các hợp tác xã kiểu mới…. Bộ trưởng nhấn mạnh: “Nông thôn, nông nghiệp của Hưng Yên phải tiếp cận đô thị như thế mới khai thác tiềm năng về lợi thế của địa phương trên nền tảng nông nghiệp công nghệ cao, lựa chọn sản phẩm đặc sản đặc sản, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp thông minh. Phải xây dựng một nền “nông nghiệp đô thị” biểu hiện ở chỗ phát triển cây cảnh, con cảnh. Riêng cá cảnh thành phố Hồ Chí Minh cây dựng chiến lược với giá trị 200 triệu đô, riêng cá Koin của Nhật Bản 1 năm doanh thu mấy tỉ đô la. Nông nghiệp đô thị phải phát triển gắn với du lịch thăm quan, giải trí nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe. Nông sản làm ra phải tươi sống đảm bảo chất lượng cao và an toàn”. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng: Để nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, trước mắt tỉnh Hưng Yên cần phải rà soát lại quy hoạch trong chiến lược phát triển các vùng sản xuất với các đối tượng cây trồng, vật nuôi. Sau đó, có cơ chế tích tụ đất đai, hình thành các vùng sản xuất tập trung, tổ chức lại sản xuất một cách bài bản cho từng đối tượng cây trồng. …
| Tin mới | admin | 29/03/2017 | | Người tiêu dùng chưa hiểu đúng về thịt mát | Sau gần 3 tháng phát động, đã có 8 chuỗi liên kết chăn nuôi, tiêu thụ sản phẩm đăng ký tham gia giới thiệu sản phẩm thịt mát, thịt cấp đông với sản lượng 9,4 tấn thịt lợn và 7 tấn thịt gà/ngày, song có một thực tế người tiêu dùng Thủ đô đa phần chưa hiểu đúng về thịt mát, thịt cấp đông. Chia sẻ tại hội nghị tổng kết tháng giới thiệu thịt mát, thịt cấp đông an toàn do Sở NN-PTNT Hà Nội tổ chức vừa qua, Giám đốc Cty CP Trang trại Bảo Châu Nguyễn Đại Thắng chia sẻ câu chuyện “dở khóc dở cười” doanh nghiệp gặp phải. Với thương hiệu thịt lợn hữu cơ đông đảo người tiêu dùng biết tới nên thương hiệu Bảo Châu được nhiều bếp ăn, trường học đặt hàng. Tuy nhiên, khi mang sản phẩm thịt mát được đóng túi hút chân không đến giao hàng, doanh nghiệp bị các trường trả lại, thậm chí nhiều hiệu trưởng còn gay gắt đe sẽ cắt hợp đồng nếu lần sau không mang đến loại thịt lợn mà sờ tay vẫn còn nóng. Từ câu chuyện thực tế của doanh nghiệp mình, ông Nguyễn Đại Thắng cho rằng, đa phần người tiêu dùng hiện đang hiểu chưa đúng về thịt mát. Ngay cả những cô giáo là bậc tri thức của xã hội vẫn còn ý nghĩ thịt mát, thịt cấp đông là thịt bán ế không hết nên để trong tủ lạnh và coi thịt nóng hổi vừa giết mổ song mới là thịt tươi là điều đáng buồn. Cũng gặp phải những tình huống tương tự, ông Đào Quang Vinh, Giám đốc Cty CP Công nghệ Thực phẩm Vinh Anh, một trong những đơn vị sở hữu dây chuyền giết mổ lợn công nghiệp hiện đại nhất Thủ đô cho biết, đơn vị đầu tư không biết bao nhiêu tiền của xây dựng kho lạnh đạt tiêu chuẩn cũng như xe lạnh chuyên dụng nhằm giết mổ, cấp mát, vận chuyển thịt lợn đúng quy trình, tiêu chuẩn thế giới. Vậy mà rất nhiều đơn vị, thậm chí cả quân đội yêu cầu lò mổ không được dùng xe lạnh vận chuyển thịt lợn vì làm thịt không còn tươi nóng, dù doanh nghiệp giải thích thế nào cũng không được. Chính bởi thói quen khó thay đổi này nên hiện nay chỉ chiếm 5 -10% sản phẩm thịt lợn của Vinh Anh được giết mổ, cấp mát theo đúng quy định, còn lại vẫn phải cung cấp thịt nóng truyền thống theo yêu cầu, thói quen của khách hàng. Giám đốc Trung tâm Phát triển Chăn nuôi Hà Nội Tạ Văn Tường, đơn vị khởi xướng, tham mưu và phát động mạnh mẽ phong trào sản xuất, sử dụng thịt mát, thịt cấp đông nhấn mạnh, thịt mát, thịt cấp đông mới thực là thịt tươi còn thịt nóng chính là thịt ôi. Tất nhiên thịt mát, thịt cấp đông ông Tường nói đến ở đây không phải là thịt đem cho vào tủ lạnh hay tủ bảo ôn cho đông cứng thành đá. “Thịt mát, thịt cấp đông chúng tôi đang khuyến cáo người tiêu dùng sử dụng ở đây là thịt cấp mát, cấp đông theo đúng quy trình. Theo đó, lợn, gà phải có nguồn gốc rõ ràng được giết mổ bằng quy trình công nghiệp, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Thịt sau đó sẽ được làm ráo nước rồi đưa vào kho làm lạnh đột ngột ở nhiệt độ 0 – 4 độ C trong vòng 12 – 24 tiếng. Đến khi miếng thịt đạt nhiệt độ 8 độ C sẽ được cắt thành từng miếng theo yêu cầu, đóng túi hút chân không hoặc bọc màng co đem bán. Trong suốt quá trình lưu thông, sản phẩm phải được bảo quản ở nhiệt độ 2 – 6 độ C”, ông Tạ Văn Tường chia sẻ. Theo Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Hà Nội Nguyễn Huy Đăng, thời gian tới Sở sẽ tăng cường quản lí, kiểm tra các lò giết mổ cũng như việc bán thịt tại các chợ truyền thống với yêu cầu phải chứng minh được nguồn gốc xuất xứ và phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, qua đó đẩy mạnh, khuyến khích, tạo thói quen sử dụng thịt mát, thịt cấp đông cho người tiêu dùng. NGUYÊN …
| Tin mới | admin | 27/03/2017 | | Kiến nghị xem xét tạm ngừng nhập khẩu thịt từ Brazil | Ngày 22/3, Cục Thú y cho biết đang đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét tạm ngừng nhập khẩu thịt từ Brazil có nguồn gốc từ các nhà máy có nguy cơ mất an toàn thực phẩm. Từ đầu năm 2017 đến nay, Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 3.000 tấn thịt và sản phẩm thịt từ Brazil. Với số lượng này, lượng thịt nhập khẩu từ Brazil vào Việt Nam là khá nhỏ so với con số gần 6 triệu tấn thịt từ Brazil xuất khẩu hàng năm tới các nước trên thế giới. Toàn bộ số thịt nhập khẩu từ Brazil vào Việt Nam đều được lưu giữ tại khu vực cảng và các cơ quan thú y cửa khẩu tổ chức kiểm soát chặt chẽ, lấy mẫu xét nghiệm từng lô hàng. Nếu kết quả xét nghiệm bảo đảm an toàn thực phẩm mới được phép nhập khẩu. Ngay sau khi có thông tin về việc một số nhà máy sản xuất thịt của Brazil sử dụng chất có nguy cơ mất an toàn thực phẩm, Cục Thú y đã tổ chức họp khẩn cấp để chỉ đạo các cơ quan thú y cửa khẩu tăng cường hơn nữa việc kiểm soát thịt gia súc, gia cầm nhập khẩu từ Brazil. Trước đó, Cục Thú y đã chỉ đạo các đơn vị liên quan, nhất là các cơ quan thú y cửa khẩu tổ chức kiểm soát chặt chẽ thịt gia súc, gia cầm nhập khẩu từ Brazil vào Việt Nam. Nếu phát hiện sản phẩm của nhà máy giết mổ, chế biến thịt JBS SA và BRF SA thì tạm dừng kiểm dịch nhập khẩu. Đối với nguồn thịt của Brazil đã nhập về Việt Nam, thông tin phản hồi từ một số siêu thị như Big C, Saigon Co.op cho biết, các siêu thị này không bán các sản phẩm thịt bò, gà nhập khẩu từ Brazil. Riêng các siêu thị thuộc hệ thống Saigon Co.op sản lượng thịt tiêu thụ chủ yếu là mặt hàng chăn nuôi trong …
| Tin mới | admin | 23/03/2017 | | Mẫu báo cáo thành tích đề nghị bằng khen Bộ trưởng | Mẫu báo cáo thành tích đề nghị bằng khen Bộ …
| Văn bản khác | admin | 22/03/2017 | | Nên tích tụ ruộng đất ‘mềm’ | (Chinhphu.vn) – Góp ý về kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020, ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho rằng cần áp dụng tích tụ ruộng đất “mềm”. Ngày 17/3, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức Hội nghị tham vấn ý kiến về dự thảo kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020. Ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho rằng, điểm quan trọng nhất mà ngành nông nghiệp cần triển khai trong thời gian tới là xác định rõ thị trường và chế biến sâu cho sản phẩm nông nghiệp và khẳng định đây là hai khâu yếu nhất hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải kiểm soát chặt chất lượng nông sản, nếu không sẽ mất hết thị trường cả trong và ngoài nước. Liên quan đến vấn đề đất đai, ông Dương cho rằng, việc các doanh nghiệp lớn đầu tư vào nông nghiệp thì đã thấy rõ hiệu quả kinh tế, nhưng liệu nông dân nằm trong vùng dự án đó có việc làm hay không? Thực tế, đã có nhiều dự án sau khi triển khai thì nông dân không có việc làm. Do đó, theo ông Dương cần áp dụng tích tụ ruộng đất “mềm”, tức là doanh nghiệp nhận nông dân vào làm công nhân tại các dự án đó. Thực tế, tỉnh Hà Nam đã và đang triển khai rất tốt cách làm này. Đối với lĩnh vực chăn nuôi, ông Dương nhấn mạnh, cần xác định rõ phân khúc của thị trường để từ đó tái cơ cấu lại vật nuôi. Hiện nay, vật nuôi quan trọng nhất vẫn là lợn và gia cầm. Đối với vùng nuôi cần chú ý và phát triển tại các vùng đất rộng, có tiềm năng như khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, duyên hải miền Trung. Đây là những vùng lâu nay chưa được chú trọng. Từ thực tế địa phương, ông Bùi Như Ý, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vĩnh Phúc cho rằng, cần có cơ chế đột phá trong lĩnh vực đất đai thì mới tái cơ cấu được. Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp tại Vĩnh Phúc chỉ chiếm 10%, nhưng kết quả thực hiện tái cơ cấu thời gian qua thì chưa rõ rệt. Thực tế, nhiều nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả lâu nay nhưng cơ chế chính sách thì vẫn chưa có. Do đó, ông Ý cho rằng dự thảo cần ghi rõ “chuyển mạnh diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác” chứ không phải rà soát như hiện nay. Đồng thời, cần ghi rõ mục tiêu giảm diện tích trồng lúa là bao nhiêu… Theo dự thảo kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020, mục tiêu đến năm 2020, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất. Bên cạnh đó, áp dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn; bảo vệ và sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Mục tiêu cụ thể, đến năm 2020 tốc độ tăng GDP toàn ngành đạt tối thiểu 3%; tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản bình quân hằng năm đạt trên 3,5%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 40%, tỷ lệ nông dân được đào tạo nghề nông đạt trên 35%… Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Ban soạn thảo sẽ tiếp thu những đóng góp của các đại biểu cho dự thảo. Sau đó, sẽ lấy ý kiến rộng rãi của các bộ, ngành để hoàn chỉnh dự thảo trình Thủ tướng Chính phủ. Đỗ …
| Tin mới | admin | 21/03/2017 | | Nhấn nút khai trương Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và PTNT | Ngày 15/3, Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức Lễ khai trương Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ (địa chỉ tại https://dvc.mard.gov.vn) với mục tiêu phấn đấu hết năm 2017, hầu hếtdịch vụ công phổ biến, liên quan đến nhiều người dân, doanh nghiệp được cung cấp ở mức độ 3. Đồng thời, cho phép sử dụng thanh toán lệ phí trực tuyến, nhận hồ sơ và trả kết quả trực tuyến hoặc gửi qua mạng (dịch vụ công trực tuyến mức độ 4). Xử lý thủ tục qua mạng: Nhanh gọn, tiện lợi Thực hiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức 3,4, Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định Cục Bảo vệ thực vật, Cục Chăn nuôi là những đơn vị tiên phong triển khai công tác này. Đây cũng là những đơn vị có nhiều thủ tục hành chính liên quan nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp, người dân. Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đã giúp nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp. Chị Đỗ Thị Anh Thư, làm việc cho Công ty Sygenta chỉ cần một vài thao tác trên hệ thống máy tính, đã có thể gửi hồ sơ cấp phép tới Cục Bảo vệ thực vật. Cách làm này giúp chị tiết kiệm thời gian đi lại làm giấy tờ, chờ đợi lấy kết quả. “Dịch vụ công trực tuyến mình thấy nó rất thuận tiện vì có giao diện thân thiện, mình có thể nộp online một cách dễ dàng; thứ hai, mình có thể tra cứu, theo dõi hồ sơ từ lúc nộp cho đến các tiến trình hồ sơ đi đến đâu, giải quyết như thế nào và có thể lấy được các báo phí để nộp tiền” – chị Thư cho hay. Nhờ việc tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính qua Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ, tại các đơn vị như Cục BVTV, Cục Chăn nuôi… của Bộ không còn cảnh tượng người người vào ra tấp nập, hồ sơ giấy chất đống ngập đầu người, vượt mặt người tiếp nhận, xử lý. Thay vào đó là không gian cơ quan thoáng đoãng, các cán bộ, công chức tiếp nhận, xử lý thủ tục hành chính hoàn toàn trên phần mềm máy tính. Điều này không chỉ giúp tăng sự tiện lợi mà còn là nền tảng tạo ra sự minh bạch và tăng hiệu suất làm việc cho các cán bộ, công chức. “Từng khâu từ ngày nộp hồ sơ, ai xử lý, được hay không, các lý do như thế nào… đều được thể hiện hết trên môi trường mạng. Chúng tôi có thể ngồi kiểm soát được ngay ở bất cứ chỗ nào; đồng thời tiện lợi cho quá trình thống kê, kiểm tra” – ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho hay. Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, giải quyết thủ tục hành chính thông qua Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ vừa giảm thời gian, vừa giảm chi phí, vừa tránh những phiền hà, nhũng nhiễu. Thực hiện từ năm 2016 và những tháng đầu năm 2017, Cục Chăn nuôi đã tiếp nhận, xử lý khoảng 40.000 hồ sơ thông qua dịch vụ công trực tuyến và một cửa hải quan cấp độ 4 – doanh nghiệp không phải lên Cục, góp phần giảm rất nhiều chi phí. “Trước kia gửi nhanh thì cũng mất 3 ngày, bây giờ chỉ mấy phút là xong. Theo tính toán, giải quyết thủ tục hành chính thông qua dịch vụ công trực tuyến đã tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp khoảng 50%; tiết kiệm các chi phí khác của doanh nghiệp theo ước tính khoảng 70 tỷ đồng” – ông Dương nêu cụ thể. Tính đến nay, Bộ NN&PTNT đã hoàn thành thành xây dựng Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ (địa chỉ tại https://dvc.mard.gov.vn). Bộ đã cập nhật, công khai các thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Bộ thực hiện cung cấp trực tuyến mức độ 2 trên Cổng; kết nối với các dịch vụ công thực hiện theo Cơ chế một cửa quốc gia, cung cấp trực tuyến mức độ 3 đối với 9 thủ tục hành chính thực hiện tại 7 đơn vị thuộc Bộ. Bộ cũng đã tổ chức tập huấn sử dụng phần mềm dịch vụ công trực tuyến cho 106 doanh nghiệp lĩnh vực Bảo vệ thực vật và 515 doanh nghiệp lĩnh vực chăn nuôi trên cả nước. Kể từ cuối tháng 12/2016, cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ đã đi vào hoạt động chính thức. Đến nay, gần 500 dịch vụ công mức độ 2 của Bộ đã được tích hợp lên cổng; 9 thủ tục kết nối một cửa quốc gia tại Bộ cũng đã được kết nối lên cổng. Bộ đã xây dựng, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 cho 8 thủ tục hành chính, gồm Nhóm dịch vụ công “Cấp giấy chứng nhận đăng ký thuốc bảo vệ thực vật” thực hiện 5 thủ tục hành chính tại Cục Bảo vệ thực vật và Nhóm dịch vụ công “Công nhận thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước được phép lưu hành tại Việt Nam” thực hiện 3 thủ tục hành chính tại Cục Chăn nuôi. Đến nay, hệ thống đã tiếp nhận khoảng 590 hồ sơ, xử lý cấp phép điện tử được 132 hồ sơ, các hồ sơ còn lại thuộc diện đang tiếp tục giải quyết hoặc đã được xử lý nhưng không đạt. Đẩy mạnh triển khai trên diện rộng Từ những kết quả bước đầu đã đạt được, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn nhấn mạnh: “Chúng ta phải dứt khoát chuyển biến theo tinh thần Chính phủ hành động, phải có hành động cụ thể, khởi sắc cụ thể;phải thực hiện rất đồng bộ, toàn diện Quyết định 08 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 36a/NQ-CP về Chính phủ điện tử”. Thứ trưởng cũng lưu ý, trong quý I/2017, các đơn vị trong ngành phải hoàn thành việc rà soát, công bố công khai và chuẩn lại quy trình về thủ tục hành chính. Đầu năm 2016, Bộ NN&PTNT đã rà soát và chuẩn hóa 508 thủ tục hành chính. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ tiếp tục chuẩn hóa các thủ tục hành chính để triển khai dịch vụ công trực tuyến. Phấn đấu hết năm 2017, hầu hết các dịch vụ công phổ biến, liên quan đến nhiều người dân, doanh nghiệp được cung cấp ở mức độ 3; cho phép sử dụng thanh toán lệ phí trực tuyến, nhận hồ sơ và trả kết quả trực tuyến hoặc gửi qua mạng (dịch vụ công trực tuyến mức độ 4). Để thực hiện việc tối ưu hóa các thủ tục hành chính, Bộ NN&PTNT đã có những nỗ lực trong vấn đề đầu tư trang, thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho việc thực hiện các dịch vụ công trực tuyến. Hiện tại, Trung tâm Tin học và Thống kê của Bộ đã xây dựng hệ thống máy chủ hiện đại, hoạt động liên tục. Đội ngũ cán bộ của Trung tâm Tin học và Thống kê liên tục làm việc, giải đáp các vướng mắc từ các Cục, Tổng Cục. Bất kì sự cố nào cũng được các cán bộ của Trung tâm đồng hành, giải quyết. “Chúng tôi sẽ đảm bảo hệ thống phần cứng hoạt động thông suốt kèm theo đó là các phần mềm đảm bảo hệ thống vừa an toàn, an ninh và các doanh nghiệp sử dụng không bị xảy ra các sự cố trong quá trình khai thác, sử dụng” – ông Ngô Thế Hiên, Giám đốc Trung tâm Tin học và Thống kê của Bộ cam kết. Trong năm 2017, Bộ NN&PTNT đẩy mạnh triển khai xây dựng hệ thống và hướng dẫn thực hiện qua mạng điện tử trên toàn quốc đối với việc kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật, kiểm tra vệ sinh thú y, kiểm dịch thực vật, quản lý vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Bộ phấn đấu xây dựng hệ thống cơ quan hành chính thuộc Bộ thông suốt, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có đủ năng lực, phẩm chất, trình độ đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ công vụ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ công, tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp./. …
| Tin mới | admin | 16/03/2017 | | Quyết định số 728/QĐ-BNN-CN ngày 14 tháng 3 năm 2017 về việc công bố thủ tục hành chính chuẩn hóa thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Quyết định | admin | 15/03/2017 | | Công văn số 1426/BNN-CN ngày16/02/2017 về việc chăn nuôi lợn và thức ăn chăn nuôi CN | …
| Công văn | admin | 13/03/2017 | | Xuất hiện ổ dịch cúm gia cầm mới | (Chinhphu.vn) – Theo tin từ Cục Thú y (Bộ NN&PTNT), trong ngày 10/3 đã ghi nhận thêm 2 ổ dịch cúm gia cầm tại tỉnh Cao Bằng. Trước đó, tỉnh Bắc Ninh cũng ghi nhận ổ dịch cúm gia cầm mới xuất hiện. Tại tỉnh Cao Bằng, một ổ dịch cúm A/H5N1 phát sinh tại 34 hộ thuộc xóm Lũng Đẩy Dưới, xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh. Số gia cầm bị chết và tiêu hủy là 1.360 con. Ngoài ra, còn có một ổ dịch cúm A/H5N6 phát sinh tại hộ dân thuộc phường Sông Bằng, TP. Cao Bằng. Tổng số gia cầm chết và tiêu hủy là 150 con gà. Chi cục Thú y tỉnh Cao Bằng đã phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định. Trước đó, ngày 9/3, Cục Thú y cho biết tại tỉnh Bắc Ninh, dịch cúm gia cầm A/H5N1 đã xảy ra tại 5 hộ chăn nuôi của thôn Hữu Chấp, xã Hòa Long, TP. Bắc Ninh. Tổng số gia cầm mắc bệnh và tiêu hủy là 6.100 con (3.600 gà và 2.500 vịt). Chi cục Chăn nuôi-Thú y tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định. Tính đến ngày 10/3, ổ dịch cúm A/H5N1 tại xã Phú Mỹ Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang đã qua 21 ngày không phát sinh ca bệnh mới. Như vậy, hiện nay, cả nước có 6 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N1 xảy ra tại 43 hộ chăn nuôi thuộc 6 xã của 6 tỉnh và một ổ dịch ổ dịch cúm gia cầm A/H5N6 xảy ra tại một hộ chăn nuôi thuộc một xã của một tỉnh chưa qua 21 ngày. Trước diễn biến phức tạp của cúm A/H7N9 ở Trung Quốc và một số hộ chăn nuôi tại một số địa phương nước ta có đàn gia cầm mắc bệnh cúm A/H5N1, A/H5N6, Cục Thú y đã hướng dẫn các địa phương phòng, chống dịch cúm gia cầm. UBND TP. Hà Nội cũng đã có công văn hỏa tốc đề nghị các sở, ban, ngành và UBND các quận, huyện, thị xã tăng cường thực hiện công tác phòng chống dịch cúm gia cầm trên địa bàn, nhất là cần kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn nhập lậu gia cầm và các sản phẩm gia cầm; xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển, buôn bán gia cầm và sản phẩm gia cầm nhập lậu, không rõ nguồn gốc tập trung ở các chợ đầu mối. Đỗ …
| Tin mới | admin | 13/03/2017 | | Doanh nhân Việt chi 18 triệu USD mua trang trại Australia | Đây được xem là vụ đầu tư lớn đầu tiên của người Việt Nam vào ngành chăn nuôi bò ở vùng phía Bắc của Australia… Một doanh nhân giàu có của Việt Nam vừa chi 18 triệu USD để thâu tóm một trang trại gia súc ở miền Bắc Australia. Theo trang ABC.net.au, đây được xem là vụ đầu tư lớn đầu tiên của người Việt Nam vào ngành chăn nuôi bò ở vùng phía Bắc của Australia. Trang trại được mua lại có tên Vermelha Station và rộng 2.039 km vuông. Không nêu thông tin cụ thể về chủ nhân mới của trang trại, đại diện công ty môi giới bất động sản Tanami Rural Property, cho biết trang trại này sẽ tiếp tục hoạt động chăn nuôi gia súc và cân nhắc đa dạng hóa hoạt động sau thương vụ. Cũng theo đại diện trên, trang trại được bán bao gồm 10.000 đầu gia súc là những con bò lai giống Brahman. ABC cho biết, vùng lãnh thổ phía Bắc Australia đã có rất nhiều nông dân đến từ Việt Nam làm ăn tốt, nhưng chủ yếu trong lĩnh vực trông rau quả. Hãng tin này nói rằng mấy năm trước, công ty CT Group của Việt Nam đã đến Australia tìm mua đất nông nghiệp để trồng thanh long và đã xem xét trang trại Vermelha. Tuy nhiên, thỏa thuận giữa hai bên đã thất bại vào đầu năm nay. Thăng …
| Tin mới | admin | 09/03/2017 | | Lào Cai – Đẩy mạnh quản lý trong lĩnh vực chăn nuôi, thú y | LCĐT – Chăn nuôi của tỉnh ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp, áp dụng quy trình VietGAP, góp phần thực hiện quy hoạch phát triển chăn nuôi và kế hoạch tái cơ cấu ngành chăn nuôi thuận lợi. Toàn tỉnh từ chỗ chỉ có 1 trang trại chăn nuôi tổng hợp đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại, đến nay, đã có 321 trang trại có doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm trở lên, 5 cơ sở chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao tập trung tại các huyện Bảo Thắng, Bắc Hà. Các trang trại đều được xây dựng kiên cố, xử lý chất thải bằng hầm biogas và đệm lót sinh học. Toàn tỉnh hiện có 298/535 trang trại được chứng nhận kinh tế trang trại, 237 gia trại sản xuất các sản phẩm an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng; khoảng 4.000 hầm biogas xử lý chất thải trong chăn nuôi… Công tác quản lý dịch bệnh, kiểm dịch động vật và sản phẩm động vật được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, quy định. Từ năm 2011 – 2016, toàn tỉnh triển khai tiêm phòng được trên 11 triệu liều vắc xin các loại cho đàn gia súc, gia cầm, góp phần quan trọng trong việc phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi. Thực hiện kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y được trên 685.000 con gia súc; xử lý tiêu hủy 367 trường hợp thịt động vật không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh thú y. Kiểm dịch trên 2.200 con lợn; 35.000 con gia súc; 147.000 con gia cầm; trên 3,2 triệu con giống thủy sản… xuất bán ra ngoài tỉnh. Kiểm soát động vật, sản phẩm động vật nhập vào địa bàn tỉnh được trên 2.400 con đại gia súc; 122.000 con lợn; trên 500.000 con giống thủy sản; trên 5,5 triệu con gia cầm… Toàn bộ động vật, sản phẩm động vật nhập vào địa bàn tỉnh đều có hồ sơ kiểm dịch vận chuyển theo quy định, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thú y. Công tác kiểm tra vệ sinh thú y, kiểm soát giết mổ được triển khai thực hiện nghiêm túc. Hằng năm, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Lào Cai đều tổ chức kiểm tra, đánh giá, phân loại các cơ sở giết mổ theo quy định; tham mưu cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phối với UBND các huyện, thành phố, các sở, ngành tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung. Công tác quản lý thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y đã được Chi cục triển khai nghiêm túc, đúng pháp luật. Toàn tỉnh hiện có 98 cơ sở kinh doanh thức ăn chăn nuôi, với khoảng 200 mặt hàng thức ăn và 66 cơ sở kinh doanh thuốc thú y, với trên 300 danh mục thuốc thú y. Hằng năm, Chi cục thành lập các đoàn kiểm tra, đánh giá, phân loại, xếp loại cơ sở kinh doanh; thanh tra, kiểm tra, lấy mẫu phân tích chất cấm thuộc nhóm Beta – Agonist và các chỉ tiêu bắt buộc phải công bố trên nhãn mác, bao bì sản phẩm trong thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y. Chi cục đã tổ chức kiểm tra, lấy 58 mẫu thức ăn chăn nuôi và 15 mẫu thuốc thú y, qua kiểm tra, cơ quan chức năng chưa phát hiện các chất cấm thuộc nhóm Beta – Agonist, Auramine O và kháng sinh cấm sử dụng Chloramphenicol. Chi cục đã xử phạt vi phạm hành chính, ra quyết định thu hồi 2 loại thuốc thú y không đạt tiêu chuẩn… Năm 2016, Chi cục tổ chức 5 hội nghị tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật cho các hộ kinh doanh thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y với 250 lượt người tham gia. Ngoài ra, Chi cục còn tổ chức ký cam kết không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi với 150 người tham gia; phối hợp với 2 công ty thuốc thú y tổ chức hội nghị hướng dẫn sử dụng thuốc và vắc xin an toàn, hiệu quả cho 370 người… Từ năm 2011 – 2016, ngành thú y tổ chức 9 cuộc kiểm tra định kỳ, 167 cuộc kiểm tra đột xuất về công tác phòng, chống dịch bệnh; hoạt động kiểm dịch, kiểm soát giết mổ trên địa bàn; đồng thời, tham gia các đoàn kiểm tra, thanh tra của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về quản lý vật tư, nông – lâm – thủy sản; phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra hoạt động kiểm dịch động vật ra, vào địa bàn tỉnh. Kết quả, đã phát hiện và xử lý 118 vụ vi phạm hành chính trong công tác thú y; tịch thu, xử lý tiêu hủy trên 2.400 kg thịt động vật; trên 5.000 kg nội tạng động vật…; đình chỉ 2 cơ sở kinh doanh thuốc thú y, tịch thu tiêu hủy 270 liều vắc xin dịch tả lợn, 60 liều vắc xin tụ huyết trùng lợn không đạt tiêu chuẩn… Thời gian tới, Chi cục Chăn nuôi và Thú y xác định phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành trong việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của người chăn nuôi, nhằm tạo ra sản phẩm đảm bảo, hướng tới phát triển chăn nuôi bền vững và an toàn. Phạm Minh …
| Tin mới | admin | 08/03/2017 | | Công ty TNHH giống gia cầm Minh Dư – Sản xuất và cung cấp gà giống chất lượng cao | Ngày 20/02/2017, Đoàn công tác của Cục Chăn nuôi do ông Hoàng Thanh Vân – Cục trưởng Cục Chăn nuôi làm trưởng đoàn đã đến thăm và làm việc với cán bộ, nhân viên Công ty TNHH Giống gia cầm Minh Dư. Công ty TNHH giống gia cầm Minh Dư (thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, Bình Định) được thành lập từ năm 2006, trên cơ sở tiền thân là một trại gà giống của gia đình, trải qua nhiều năm chọn lọc và nhân giống gà ta, đến nay Công ty đã khẳng định được thương hiệu và chất lượng cao trên thị trường. Đến thời điểm hiện tại, Quy mô đàn gà cụ kỵ, gà ông bà và gà bố mẹ là 350.000 con. Trong đó, đàn gà cụ kỵ và ông bà là 20.000 con, một năm sản xuất 25 triệu gà giống, với 03 giống chủ lực được đông đảo người chăn nuôi lựa chọn là MD1.BĐ, MD2.BĐ và MD3.BĐ. Đây là các giống gà đã được đã được Cục Chăn nuôi – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới tại Quyết định số 33/QĐ-CN-GSN ký ngày 10 tháng 01 năm 2017. Sản phẩm gà giống của Minh Dư 1. Giống gà MD1.BĐ: Giống gà MD1.BĐ: Ngoại hình đẹp: chân vàng, da vàng, lườn ức đầy thịt săn chắc, độ đồng đều và sức đề kháng cao. Màu lông phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Gà trống có màu lông chủ yếu là màu xanh đen có điểm màu đỏ mận (tía đen). Gà mái có màu lông chính xám đen chiếm 61,6%; màu vàng có sọc đen giữa lông chiếm 27,3%; nâu đậm, nâu nhạt chiếm 8,1%; màu trắng vàng (mã thó) và màu khác chiếm 3,0%. Tai tích màu đỏ, mào (mồng) lá chiếm 35%; mào nụ, mào sít 65%. Chỉ tiêu năng suất: – Tỷ lệ nuôi sống tính tới 90 ngày tuổi đạt 98%-99%; – Tiêu tốn thức ăn khoảng 2,63kg thức ăn/kg tăng trọng; – Trọng lượng lúc 90 ngày tuổi bình quân 1,738kg. Giống gà MD2.BĐ: Ngoại hình đẹp, mào cờ, lông đuôi dài và cong, tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn ít hơn giống gà MD1.BĐ. Gà trống chủ yếu có màu lông tía. Gà mái có màu lông xám đen chiếm 60,3%; vàng nhạt có sọc đen giữa lông chiếm 28,3 %; nâu đậm, nâu nhạt chiếm 7,8%; màu trắng vàng (mã thó) và màu khác chiếm 3,6%. Tai, tích có màu đỏ, mào lá chiếm 40%; mào nụ, mào sít chiếm 60%. Chỉ tiêu năng suất: – Tỷ lệ nuôi sống tính tới 90 ngày tuổi đạt 98%-99%; – Tiêu tốn thức ăn khoảng 2,46 kg thức ăn/kg tăng trọng; – Trọng lượng lúc 90 ngày tuổi bình quân 1,983kg. Giống gà MD3.BĐ: Gà có tầm vóc lớn nhất và màu lông đậm nhất trong 3 dòng, tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp nhất trong 3 dòng. Gà trống có màu lông chủ yếu là màu tía đen, màu sậm hơn dòng MD1.BĐ. Gà mái có màu lông chính xám đen chiếm 58,7%; vàng nhạt có sọc đen giữa chiếm 28,7%; lông nâu đậm, nâu nhạt chiếm 9,0%; màu trắng vàng (mã thó) và màu khác chiếm 3,6%. Tai tích màu đỏ, mỏ xám vàng, mào lá chiếm 50%; mào nụ, mào sít chiếm 50%. Chỉ tiêu năng suất: – Tỷ lệ nuôi sống tính tới 90 ngày tuổi đạt 98%-99%; – Tiêu tốn thức ăn khoảng 2,34 kg thức ăn/kg tăng trọng; – Trọng lượng lúc 90 ngày tuổi bình quân 2,113kg. Công ty có đội ngũ trên 300 cán bộ quản lý, chuyên gia, kỹ sư và công nhân chuyên ngành có trình độ chuyên môn cao, có bề dày kinh nghiệm, năng động, sáng tạo, đáp ứng sự thay đổi phát triển về quy trình công nghệ và cơ chế kinh doanh trên thị trường. Công ty đã đầu tư khép kín các trang thiết bị hiện đại từ chuồng trại chăn nuôi, hệ thống máy ấp, máy nở, hệ thống phòng và kiểm soát dịch bệnh, kiểm tra chất lượng sản phẩm nên sản phẩm con giống luôn đảm bảo chất lượng cao. Đến thời điểm hiện tại, Công ty đã có hầu hết các điểm cung cấp con giống tại các tỉnh thành trên cả nước. Đây là các điểm cung cấp gà giống chất lượng cao được đông đảo người chăn nuôi tin tưởng lựa chọn./. Phòng Gia súc lớn – Cục Chăn …
| Tin mới | admin | 07/03/2017 | | Chưa phát hiện mẫu dương tính với cúm A/H7N9 | (Chinhphu.vn) – Việt Nam vẫn đang ở tình huống thứ nhất, tức là chưa phát hiện virus cúm A/H7N9 đối với cả mẫu trên gia cầm, môi trường và con người. Ông Đàm Xuân Thành, Phó Cục trưởng Cục Thú y (Bộ NN&PTNT) cho biết như vậy tại cuộc họp báo thường kỳ tháng 3 của Bộ NN&PTNT tổ chức ngày 3/3. Theo đại diện Cục Thú y, do đã chủ động trong công tác phòng chống dịch, nên dịch cúm gia cầm A/H5N1, A/H5N6 đã trở thành dịch bệnh địa phương. Hiện nay, cả nước còn các ổ dịch cúm gia cầm xảy ra tại 15 hộ chăn nuôi thuộc 11 xã của 7 tỉnh chưa qua 21 ngày. Trong đó cúm A/H5N1 xảy ra tại 10 hộ của 8 xã và cúm A/H5N6 xảy ra tại 5 hộ chăn nuôi của 3 xã. Những ổ dịch này được khoanh vùng, tiêu hủy gia cầm nhiễm bệnh và chết, khử trùng tiêu độc nên không lây lan trên diện rộng. Đáng lo nhất hiện nay là virus cúm A/H7N9 vì khi gia cầm mắc virus không có triệu chứng lâm sàng, nhưng khi nhiễm sang người thì tỉ lệ tử vong cao gần 40%. Hiện Bộ NN&PTNT phối hợp với Bộ Y tế triển khai các biện pháp hết sức quyết liệt để ngăn chặn virus cúm A/H7N9 xâm nhiễm vào Việt Nam. Cả hai Bộ đều đã có kế hoạch hành động khẩn cấp, ứng phó 4 tình huống. Tình huống 1 là khi chưa phát hiện H7N9 ở gia cầm, người, môi trường. Tình huống 2 là khi chưa phát hiện H7N9 ở môi trường và gia cầm, nhưng phát hiện trên người. Tình huống 3 là phát hiện H7N9 trong môi trường, gia cầm, nhưng chưa phát hiện trên người. Tình huống 4 là phát hiện ra trên gia cầm, môi trường và có người mắc bệnh. “Hiện nay Việt Nam đang ở tình huống 1. Các cơ quan chức năng đã lấy trên 202.000 mẫu môi trường, gia cầm, người tại 200 chợ, tụ điểm có nguy cơ cao của 20 tỉnh, thành phố, trong đó có cả Hà Nội, nhưng các mẫu chưa phát hiện dương tính với cúm A/H7N9”, ông Đàm Xuân Thành cho biết. Thành lập 5 đoàn kiểm tra công tác phòng chống dịch Trước diễn biến của dịch cúm gia cầm, Bộ NN&PTNT đã có công điện khẩn về tăng cường phòng chống cúm A/H7N9 và ban hành kế hoạch khử trùng tiêu độc đợt 1. Đồng thời thành lập 5 đoàn đi kiểm tra công tác phòng chống dịch cúm gia cầm tại các tỉnh biên giới; lập 8 đội phản ứng nhanh gồm 100 người có kinh nghiệm; tập huấn công tác lấy mẫu cho đội ngũ cán bộ thú y. Theo Cục Thú y, việc quan trọng nhất hiện nay là ngăn chặn nhập lậu gia cầm và sản phẩm gia cầm từ biên giới vào Việt Nam. Việc này cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là các tỉnh biên giới. Đối với nguy cơ lây nhiễm dịch từ chim trời, đại diện Cục Thú y cho biết, giải pháp quan trọng nhất là khử trùng, tiêu độc môi trường và lấy mẫu để giám sát, tránh bị động. Ông Đàm Xuân Thành khuyến cáo người tiêu dùng mua sản phẩm gia cầm có nguồn gốc rõ ràng, có kiểm soát thú y, kiểm soát giết mổ; không nên ăn tiết canh; khi tiếp xúc với gia cầm ốm chết phải rửa tay xà phòng. Đối với người chăn nuôi, nên mua giống từ nơi có nguồn gốc rõ ràng, chăn nuôi bảo đảm an toàn sinh học, khử trùng tiêu độc và tiêm phòng vaccine cúm A/H5N6, cúm A/H5N1 cho đàn gia cầm, đặc biệt không vứt xác gia cầm ốm chết bừa bãi. FAO cam kết kết hợp tác để bảo vệ sinh kế của người dân Tổ chức FAO tại Việt Nam cũng vừa có cam kết hợp tác chặt chẽ với Cục Thú y để bảo vệ sinh kế của người dân trước virus cúm A/H7N9. Theo FAO, dù hiện nay Việt Nam chưa phát hiện virus cúm A/H7N9, nhưng tổ chức này và Cục Thú y đang hết sức quan tâm và huy động các nguồn lực bổ sung nhằm ngăn chặn sự xâm nhiễm, cũng như sớm phát hiện cúm A/H7N9 dọc theo khu vực biên giới phía bắc. Từ năm 2004, Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát khẩn cấp dịch bệnh động vật xuyên biên giới thuộc FAO Việt Nam đã hỗ trợ Cục Thú y ứng phó với dịch bệnh cúm gia cầm độc lực cao (HPAI) H5N1. Năng lực dịch tễ học thực địa và chẩn đoán xét nghiệm được xây dựng trong suốt quá trình hợp tác giúp cải thiện đáng kể khả năng chẩn đoán cúm gia cầm và phòng chống hiệu quả việc phát tán cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam. Năng lực này cũng sẽ giúp giảm nguy cơ virus cúm A/H7N9 xâm nhập Việt Nam và đáp ứng trong trường hợp phát hiện loại virus này tại Việt Nam. Hiện FAO và Cục Thú y thường xuyên thu thập các mẫu bệnh phẩm từ các tỉnh dọc biên giới phía Bắc, nơi nguy cơ bị viruscúm A/H7N9 xâm nhiễm cao nhất. Đỗ …
| Tin mới | admin | 06/03/2017 | | Thông tư số 35/2016/TT-BNNPTNT ngày 26 tháng 12 năm 2016 hướng dẫn thực hiện tiêu chí huyện đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 | …
| Thông tư | admin | 03/03/2017 | | Người tiêu dùng không nên ‘quay lưng’ với các sản phẩm gia cầm | Theo các chuyên gia nông nghiệp, trong mùa dịch cúm gia cầm, người tiêu dùng nên sử dụng gia cầm, trứng gia cầm có nguồn gốc rõ ràng của các cơ sở uy tín và có giấy chứng nhận kiểm dịch. Người tiêu dùng nên lựa chọn các sản phẩm gia cầm rõ nguồn gốc, có kiểm dịch trong mùa cúm gia cầm. Ảnh: An Hiếu/TTXVN. Ông Trần Duy Khanh, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam cho rằng: “Nếu gà sống được nhập lậu từ Trung Quốc về chợ Hà Vĩ (Hà Nội), sau đó chuyển đi các chợ trong thành phố thì người dân rất khó phân biệt”. Đặc biệt, hiện nay dịch cúm gia cầm H7N9 đang hoành hành tại Trung Quốc, hầu hết các tỉnh phía nam Trung Quốc đều có trường hợp mắc cúm H7N9. Do vậy, khả năng lây lan sang Việt Nam là rất cao, hơn nữa loại vi rút này rất khó phát hiện ở gia cầm. Do đó, trước mắt người dân nên sử dụng gia cầm rõ nguồn gốc, có xuất xứ, thay vì mua gia cầm sống không rõ nguồn gốc ngoài chợ. Đặc biệt, người tiêu dùng không được ăn các loại thức ăn chế biến từ gia cầm sống, chưa qua chế biến, nhất là tiết canh sống. Tuy vậy, “Người tiêu dùng không nên quay lưng lại với các sản phẩm gia cầm. Vì gia cầm có nguồn gốc xuất xứ, được tiêm vắc xin đúng quy trình, có giấy chứng nhận kiểm dịch thì vẫn có thể sử dụng bình thường”, TS Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết. Gia cầm đã tiêm vắcxin phòng cúm có thể giết mổ, sử dụng bình thường, không tồn dư độc tố. Tuy nhiên, nếu gia cầm đã được tiêm kháng sinh, sau một khoảng thời gian nhất định mới được giết mổ, chế biến. Theo các chuyên gia nông nghiệp, hiện nay đã có quy định về việc cấm pha trộn kháng sinh vào thức ăn chăn nuôi, sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi. Chỉ được sử dụng kháng sinh khi có sự chỉ định của các cơ quan chức năng. Ông Trần Duy Khanh, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam cho biết: “Gà, gia cầm đã được tiêm kháng sinh thì sau 3 tuần mới không còn tồn dư kháng sinh. Nếu sử dụng gà, gia cầm còn tồn dư kháng sinh thì con người sẽ vô tình tự đưa kháng sinh vào cơ thể thông qua thức ăn, gây ra hiện tượng kháng kháng sinh. Sau này có bệnh phải dùng tới kháng sinh sẽ lâu khỏi hơn, khó điều trị hơn hoặc dùng kháng sinh vẫn không khỏi bệnh”. Còn đối với gia cầm được tiêm vắc xin, “Gia cầm đã được tiêm vác xin đúng quy trình thì không ảnh hưởng cho người sử dụng. Hơn nữa, vác xin cũng không gây tồn dư độc tố ở trong các sản phẩm gia cầm đã được chế biến. Với gia cầm có tiêm kháng sinh, phải ngưng sử dụng kháng sinh trước thời điểm giết mổ theo quy định của các cơ quan chuyên môn. Tuy từng loại, thường là 2-3 tuần trước khi giết mổ”, TS Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết. Theo Tin Tức …
| Tin mới | admin | 01/03/2017 | | Canada tài trợ Việt Nam 15 triệu đôla CAD đẩy mạnh an toàn thực phẩm | Chiều 27/2, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Nguyễn Xuân Cường đã có cuộc làm việc với đoàn công tác của Bộ trưởng Nông nghiệp và Nông sản Thực phẩm Canada, Lawrence MacAulay. Tại cuộc làm việc, Bộ trưởng Canada Lawrence Macaulay cho biết, Canada sẽ sớm tài trợ dự án “An toàn cho tăng trưởng” với khoảng 15 triệu đôla Canada với Việt Nam. Đây là dự án tiếp nối dự án “Xây dựng và kiểm soát chất lượng nông sản, thực phẩm” đã được thực hiện trong giai đoạn 2008-2014. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đánh giá, Canada là một trong những nước phát triển nhất thế giới. Tiềm năng thương mại giữa Việt Nam-Canada còn rất lớn. Nông nghiệp Canada rất phát triển và có tiềm năng về sức sản xuất hàng hóa lớn. Tất cả hàng hóa hai nước mang tính bổ trợ chứ không xung đột. Điều này sẽ góp phần quan trọng phát triển kinh tế cho nhân dân hai nước. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nói: “Hai bên cùng tạo điều kiện, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam và Canada tăng cường đầu tư, góp phần phát triển thị trường nông sản giữa hai nước.” Các mặt hàng nông sản thực phẩm và hải sản xuất khẩu chủ lực của Canada sang Việt Nam gồm hải sản, bột mì, đậu tương, thịt bò, thịt lợn, hoa quả, nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Mặt hàng có sự tăng trưởng đặc biệt cao trong năm ngoái là tôm hùm tươi sống, các loại cá, hải sản, đậu tượng, lúa mì… Bộ trưởng Canada mong muốn đẩy mạnh xuất khẩu tôm hùm sang Việt Nam hơn nữa và sớm được xuất khẩu quả việt quất sang Việt Nam. Canada cũng là nước sản xuất thịt lợn lớn trên thế giới, do đó cũng mong muốn hợp tác với Việt Nam về các giống gien lợn. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, Việt Nam khuyến khích nhập khẩu các giống lợn chất lượng cao. Việt Nam là nước cũng rất phát triển thủy sản, do đó tôm hùm của Canada có thể nghiên cứu nuôi tại Việt Nam để vừa bán tại thị trường Việt Nam, vừa đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác. Việt Nam hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Canada trong 10 nước ASEAN. Nông sản thực phẩm và hải sản ngày càng đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu của Canada với Việt Nam. Năm 2016 Việt Nam xuất khẩu sang Canada 2,65 tỷ USD, nhập khẩu 389,9 triệu USD. Trong thời gian qua, Chính phủ Canada đã hỗ trợ trực tiếp cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2 dự án. Đó là, dự án “Xây dựng và kiểm soát chất lượng nông sản, thực phẩm” với tổng kinh phí là 17 triệu CAD. Mục tiêu của dự án là cải thiện chất lượng, an toàn và khả năng tiếp cận thị trường của một số nông sản, gồm rau, quả, chè, thịt lợn, thịt gà thông qua tăng cường hệ thống sản xuất và chế biến. Dự án đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thực phẩm, thí điểm một số mô hình chuỗi sản xuất kinh doanh thực phẩm nông sản. Dự án thứ hai là “Hỗ trợ kỹ thuật và chính sách để thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam” với tổng kinh phí là 500.000 CAD. Dự án đã trợ đẩy mạnh đầu tư tư nhân cho phát triển nông nghiệp, đổi mới chính sách và tăng cường năng lực. Dự án đã vừa kết thúc hoạt động tháng …
| Tin mới | admin | 28/02/2017 | | Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 22/02/2017của Thủ tướng Chính phủ : Ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Quyết định | admin | 27/02/2017 | | Thành lập 8 đội ứng phó nhanh với cúm A | (Chinhphu.vn) – Trước diễn biến của dịch cúm gia cầm, Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã thành lập 5 đoàn kiểm tra các tỉnh biên giới phía Bắc gồm Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh và các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh là những nơi có nguy cơ tiêu thụ gia cầm không rõ nguồn gốc. Theo tin từ Cục Thú y, đến ngày 24/2, ngoài 7 ổ dịch cúm gia cầm tại 6 tỉnh chưa qua 21 ngày gồm Bạc Liêu, Nam Định, An Giang, Sóc Trăng, Đồng Nai, Quảng Ngãi, trên địa bàn cả nước không ghi nhận thêm ổ dịch nào cũng như gia cầm mắc mới. Cục Thú y đã thành lập các đoàn công tác đang đi kiểm tra công tác phòng chống bệnh cúm gia cầm tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên và Hà Nội. Đồng thời thành lập 8 đội ứng phó nhanh để xử lý khi phát hiện virus cúm A/H7N9 tại Việt Nam. Ông Đàm Xuân Thành, Phó Cục trưởng Cục Thú y đề nghị, đối với các tỉnh biên giới phía Bắc, cần tăng cường kiểm tra các đầu nậu, đường dây buôn bán gia cầm và sản phẩm gia cầm nhập khẩu trái phép, các điểm giết mổ gia cầm trái phép ở biên giới, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trong việc tập kết, vận chuyển buôn bán gia cầm không rõ nguồn gốc. Ông Thành cũng khuyến cáo người chăn nuôi cần thực hiện đầy đủ quy trình phòng chống dịch bệnh theo hướng dẫn của cơ quan thú y. Cục Thú y khuyến cáo người dân cần mua con giống ở những cơ sở có nguồn gốc rõ ràng, có kiểm soát của lực lượng thú y, tránh mua con giống trôi nổi ngoài thị trường vì có nguy cơ mang mầm bệnh cúm gia cầm. Trong quá trình chăn nuôi cần báo cáo ngay với cơ quan thú y và chính quyền địa phương nơi gần nhất nếu phát hiện thấy tình hình dịch bệnh trên đàn gia cầm bất thường hoặc phát hiện thấy gia cầm ốm chết. Hiện virus cúm gia cầm A/H7N9 chưa có ở Việt Nam nhưng có nguy cơ xâm nhiễm vào trong nước ta thông qua các hoạt động vận chuyển, buôn bán, tiêu thụ gia cầm và sản phẩm gia cầm nhập lậu, không rõ nguồn gốc, nhất là đối với các tỉnh biên giới phía Bắc và các tỉnh, thành phố khác có tiêu thụ gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu. Thực tế, trong thời gian qua, các cơ quan chức năng Việt Nam đã phát hiện và bắt giữ một số vụ buôn lậu gia cầm sống. Ngày 17/2, lực lượng hải quan Lạng Sơn đã bắt giữ 1.700 con vịt, bàn giao cho cơ quan kiểm dịch tiêu hủy. Trước đó, vào tối 7/2, lực lượng quản lý thị trường Chi Lăng (Lạng Sơn) cùng các cơ quan chức năng đã phát hiện 6.500 con vịt giống được nhập lậu từ Trung Quốc. Đỗ …
| Tin mới | admin | 27/02/2017 | | Phát động “Tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng môi trường đợt 1 năm 2017” | Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có Công văn gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về việc phát động “Tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng môi trường đợt 1 năm 2017”, với mục đích tăng cường công tác phòng chống dịch cúm gia cầm. Thời gian thực hiện từ ngày 22/2/2017 đến 21/3/2017. Nội dung Công văn nêu rõ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo các đơn vị liên quan bố trí hố sát trùng tại khu vực đường mòn, lối mở biên giới trên địa bàn quản lý, nhất là đối với các tỉnh biên giới phía Bắc. Đặc biệt, những trang trại chăn nuôi tập trung, cơ sở giết mổ tập trung, cơ sở ấp trứng gia cầm tự lo vật tư, kinh phí, tổ chức thực hiện theo sự giám sát của chính quyền địa phương và chuyên môn thú y. Tại các cửa khẩu biên giới, cơ quan kiểm dịch động vật phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ tại cửa khẩu tham mưu cho Ban quản lý cửa khẩu bố trí hố sát trùng và thực hiện vệ sinh, tiêu độc, khử trùng các phương tiện vận chuyển động vật, sản phẩm động vật đi qua cửa khẩu. Chính quyền cấp xã tổ chức đội phun thuốc sát trùng cho khu vực chăn nuôi hộ gia đình, chợ buôn bán động vật sống ở nông thôn, nơi công cộng; Đường làng, ngõ xóm, khu nhốt động vật, sản phẩm động vật, nhập lậu. Việc phun khử trùng chỉ được thực hiện sau khi đã được vệ sinh cơ giới như: quét dọn, cọ, rửa sạch… Theo Tổ chức Thú y thế giới, trong tháng 1 năm nay đã xảy ra nhiều ổ dịch cúm gia cầm động lực cao như cúm gia cầm A/H5N2, A/H5N8 và A/H5N6 tại Trung Quốc. Vi rút cúm gia cầm H7N9 và các chủng vi rút cúm động lực cao khác như: cúm A H5N2, H5N8 chưa có ở Việt Nam nhưng nguy cơ xâm nhiễm vào Việt Nam là rất cao, thông qua các hoạt động vận chuyển, buôn bán, tiêu thụ gia cầm và sản phẩm gia cầm nhập lậu, không rõ nguồn gốc, nhất là đối với các tỉnh biên giới phía Bắc và các tỉnh, thành phố khác có tiêu thụ gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu. Vì vậy, biện pháp ngăn chặn gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu và tiêu độc, khử trùng để chủ động tiêu diệt vi rút cúm gia cầm là những biện pháp được ngành nông nghiệp ưu tiên hiện nay./. Minh …
| Tin mới | admin | 22/02/2017 | | Nghị định số 15/2017/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Nghị định | admin | 20/02/2017 | | Cổng dich vụ công trực tuyến Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn | Cổng dich vụ công trực tuyến Bộ nông nghiệp và Phát triển nông …
| Cổng dịch vụ công trực tuyến | admin | 18/02/2017 | | Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | (Chinhphu.vn) – Chính phủ vừa ban hành Nghị định 15/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực: Nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi, phòng, chống thiên tai, phát triển nông thôn; quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của bộ theo quy định của pháp luật. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ. Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, trong đó về thủy sản, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện quy hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung; quan trắc cảnh báo môi trường trong nuôi trồng thủy sản; quy trình, kỹ thuật, mùa vụ nuôi trồng thủy sản; kiểm dịch, phòng, chống dịch bệnh thủy sản; chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giống, thức ăn nuôi trồng thủy sản; hoá chất, chế phẩm sinh học, vi sinh vật dùng để xử lý cải tạo môi trường trong nuôi trồng thủy sản theo quy định của pháp luật;… Về an toàn thực phẩm nông, lâm, thuỷ sản và muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo, tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm đối với sản xuất ban đầu nông, lâm, thủy sản, muối thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ. Bên cạnh đó, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, thu gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc; thịt và các sản phẩm từ thịt; thủy sản và sản phẩm thủy sản; rau, củ, quả và sản phẩm rau, củ, quả; trứng và các sản phẩm từ trứng; sữa tươi nguyên liệu; mật ong và các sản phẩm từ mật ong; thực phẩm biến đổi gen; muối; gia vị; đường; chè; cà phê; cacao; hạt tiêu; điều và các nông sản thực phẩm; dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của bộ; quản lý an toàn thực phẩm đối với chợ đầu mối, đấu giá nông sản. Đồng thời, chủ trì quản lý an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương; tổ chức giám sát, đánh giá nguy cơ, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của bộ; kiểm tra, giám sát việc thực hiện truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý của bộ; Về thương mại nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng cơ chế, chính sách phát triển thương mại, thị trường nông sản; kế hoạch, chương trình xúc tiến thương mại; chương trình thương hiệu quốc gia về nông, lâm, thủy sản và muối; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động phân tích, dự báo thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động liên quan đến chương trình thương hiệu quốc gia về nông, lâm, thủy sản và muối thuộc phạm vi quản lý của bộ. Phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại và các biện pháp tự vệ đối với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài, hàng nông sản nhập khẩu của nước ngoài vào Việt Nam…. Cơ cấu tổ chức Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 27 đơn vị gồm: 1- Vụ Kế hoạch; 2- Vụ Tài chính; 3- Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường; 4- Vụ Hợp tác quốc tế; 5- Vụ Pháp chế; 6- Vụ Tổ chức cán bộ; 7- Vụ Quản lý doanh nghiệp; 8- Văn phòng Bộ; 9- Thanh tra Bộ; 10- Cục Trồng trọt; 11- Cục Bảo vệ thực vật; 12- Cục Chăn nuôi; 13- Cục Thú y; 14- Cục Quản lý xây dựng công trình; 15- Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn; 16- Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản; 17- Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản; 18- Tổng cục Lâm nghiệp; 19- Tổng cục Thuỷ sản; 20- Tổng cục Thuỷ lợi; 21- Tổng cục Phòng, chống thiên tai; 22- Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn; 23- Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I; 24- Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn II; 25- Trung tâm Tin học và Thống kê; 26- Báo Nông nghiệp Việt Nam; 27- Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các đơn vị từ (1) đến (21) nêu trên là các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các đơn vị từ (22) đến (27) là các tổ chức sự nghiệp công lập phục vụ chức năng quản lý nhà nước của bộ. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Thủ tướng Chính phủ: Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thủy lợi, Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục Thủy sản, Tổng cục Phòng, chống thiên tai; ban hành danh sách các tổ chức sự nghiệp công lập khác thuộc bộ. Hoàng …
| Tin mới | admin | 17/02/2017 | | CETA mang lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp châu Âu tại Canada | Trong phiên họp toàn thể ngày 15/2 tại Strasbourg, Nghị viện châu Âu sẽ bỏ phiếu phê chuẩn Hiệp định kinh tế và thương mại toàn diện (CETA) giữa Liên minh châu Âu (EU) và Canada. Nếu được thông qua, hiệp định có thể đi vào áp dụng tạm thời ngay từ tháng Tư và đem tới cho các doanh nghiệp châu Âu cơ hội tốt nhất tại thị trường bên kia bờ Đại Tây Dương. Thủ tướng Canada Justin Trudeau (giữa), Chủ tịch Ủy ban châu Âu Jean-Claude Juncker (phải) và Chủ tịch Hội đồng châu Âu Donald Tusk (trái) tại lễ ký CETA tại Brussels. (Nguồn: THX/TTXVN) CETA sẽ dỡ bỏ các dòng thuế quan đối với hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ giữa EU và Canada, trừ những lĩnh vực liên quan đến giải trí, nghe nhìn, giao thông và một vài trường hợp trong ngành nông nghiệp, đồng thời cũng mở cửa thị trường mua sắm công. EU nhập khẩu hơn 28 tỷ euro (khoảng 30 tỷ USD) hàng hóa từ Canada trong năm 2015 và xuất khẩu hơn 35 tỷ euro hàng hóa sang Canada. Các con số này được dự báo sẽ tăng hơn 20% khi CETA được thực thi đầy đủ. Trên phương diện việc làm, CETA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho một số lĩnh vực mà châu Âu có lợi thế khi tiếp cận thị trường Canada như các ngành kế toán và kỹ thuật. Trên thực tế, CETA chủ trương một sự thừa nhận chung giữa hai bên về bằng cấp nghề nghiệp, cho phép nhiều người lao động châu Âu có cơ hội để tìm việc làm tại Canada và ngược lại. Vào thời điểm hiện nay, việc thiếu đồng nhất trong các quy định đối với một số ngành nghề nhất định đã làm hạn chế khả năng cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới. Đối với giới doanh nghiệp, việc đơn giản hóa thủ tục cho phép các doanh nghiệp châu Âu có thể mở chi nhánh và có điều kiện phát triển dễ dàng hơn tại thị trường Canada. Với CETA, các doanh nghiệp châu Âu có thể dễ dàng tham gia vào thị trường công của Canada, cả ở cấp liên bang và cấp thành phố. EU sẽ là đối tác thương mại đầu tiên của Canada đạt được mức độ tiếp cận cao như vậy vào thị trường công của nước này. Canada cũng cam kết thực hiện tiến trình gọi thầu minh bạch hơn và công bố tất cả các cuộc mời thầu lên một trang web duy nhất. Hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ vẫn thường xuyên gặp trở ngại khi tiếp cận đến các thông tin này. Về phía người tiêu dùng, việc mở cửa thị trường tạo ra cơ hội tiếp cận các sản phẩm nhập khẩu với mức giá phù hợp đồng thời với sự lựa chọn phong phú hơn. Khi CETA có hiệu lực, khoảng 92% sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm của EU xuất sang thị trường Canada có thể được miễn thuế. Ngoài ưu đãi về thuế, yếu tố chỉ dẫn địa lý của nhiều sản phẩm của châu Âu cũng sẽ được bảo vệ thông qua hiệp định này. Cụ thể, CETA có cơ chế riêng đối với nhiều sản phẩm nông nghiệp của EU có nguồn gốc địa lý đặc biệt. Cơ chế này được áp dụng tại Canada đối với những sản phẩm nhập khẩu từ những vùng sản xuất truyền thống của châu Âu như một số sản phẩm thực phẩm của Pháp như phomát Roquefort, mận Agen, thịt xông khói Bayonne hay ớt Espelette…, sẽ được công nhận và bảo vệ nguồn gốc xuất xứ tại thị trường Canada. Trong khi đó, những sản phẩm nhập khẩu của Canada khi vào thị trường EU sẽ phải đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định của châu Âu. CETA sẽ không thể thay đổi hay hạ thấp tiêu chuẩn châu Âu trong các lĩnh vực y tế, an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường và phúc lợi xã hội. CETA cũng không tác động đến cách thức mà EU ban hành luật về an ninh lương thực, trong đó bao gồm vấn đề về sản phẩm biến đổi gen hay cấm các sản phẩm từ thịt bò có sử dụng hormone trong chăn nuôi. Hiệp định này không bao quát các dịch vụ công. Các nhà nước thành viên được quyết định giữ lĩnh vực nào là dịch vụ công và cho phép loại hình dịch vụ nào được tư nhân hóa. Trước những áp lực của các đại biểu châu Âu, cơ chế giải quyết khác biệt giữa nhà đầu tư với nhà nước, vốn bị cho là làm lợi cho các doanh nghiệp, đã được thay thế thông qua việc thành lập một tòa án thường trực và được thể chế hóa. Các thành viên của tòa không phải do nhà đầu tư và Nhà nước liên quan đến tranh chấp đề cử, mà do các quan chức châu Âu và Canada chỉ định từ trước. Cơ chế giải quyết tranh chấp mới này được đánh giá là dựa trên một khuôn khổ thể chế vững chắc. Tuy nhiên, những người phản đối hiệp định đã trình lên Nghị viện châu Âu một bản kiến nghị với 3,5 triệu chữ ký của công dân châu Âu. Những người ký tên vào bản kiến nghị đã cáo buộc CETA là mối đe dọa đối với nền dân chủ, nhà nước pháp quyền, các lĩnh vực y tế, môi trường, dịch vụ công cũng như quyền của người tiêu dùng và quyền của người lao động, đồng thời là yếu tố củng cố quyền lực cho các công ty đa quốc gia. CETA được ký kết một cách khó khăn vào cuối tháng 10 vừa qua. Nếu được Nghị viện châu Âu phê chuẩn, để được áp dụng một cách đầy đủ và chính thức, CETA còn phải được thông qua bởi toàn bộ 38 nghị viện quốc gia và vùng thuộc …
| Tin mới | admin | 15/02/2017 | | Công văn số 133/CN-VP ngày 06 tháng 02 năm 2017 V/v thực hiện tiếp nhận hồ sơ điện tử đối với nhóm thủ tục hành chính thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước. | …
| Công văn | admin | 15/02/2017 | | Biểu mẫu khai báo cấp chứng thư số và cấp email công vụ của Cục Chăn nuôi. | 1. Mẫu đăng ký email công vụ tải tại đây 2. Khai báo văn bản đề nghị cấp chứng thư số cho cá nhân tải tại …
| Văn bản khác | admin | 14/02/2017 | | Thủ tướng thăm một số cơ sở sản xuất ở Bắc Ninh | (Chinhphu.vn) – Trong chuyến công tác tại Bắc Ninh sáng 12/2, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm, làm việc với Tập đoàn Dabaco, một tổ hợp công nghiệp nông nghiệp từ khâu giống, sản xuất, chế biến đến tiêu thụ và thăm Tổ hợp Samsung KCN Yên Phong. Thủ tướng tới thăm Tập đoàn Dabaco. Ảnh: VGP/Quang Hiếu Báo cáo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, ông Nguyễn Như So, Chủ tịch Tập đoàn Dabaco cho biết, Dabaco tiền thân là doanh nghiệp Nhà nước, thành lập năm 1996, cổ phần hóa năm 2005. Sau hơn 20 năm cổ phần hóa, từ doanh nghiệp nhỏ nay Dabaco trở thành tập đoàn kinh tế đa ngành với trên 50 công ty, nhà máy và đơn vị thành viên, doanh thu trên 10.000 tỉ đồng/năm, tổng tài sản trên 5.500 tỉ đồng, trên 5.000 lao động với thu nhập bình quân trên 9 triệu đồng/người/tháng. Tập đoàn là một trong số ít doanh nghiệp hoạt động theo mô hình chuỗi giá trị khép kín 3F (trang trại – thức ăn – thực phẩm) – sạch từ trang trại tới bàn ăn. Tập đoàn đã có tổng đàn lợn nái 40.000 con, 1,1 triệu con gà đẻ trứng (sản xuất 1 triệu trứng thương phẩm mỗi ngày). Dabaco là đơn vị duy nhất tại Việt Nam có trang bị hệ thống phần mềm xử lý dữ liệu tự động (FAN’S), cho phép theo dõi, đánh giá tất cả các chỉ tiêu trong chăn nuôi lợn tự động, nhanh và chính xác. Ngoài các vùng trồng rau sạch, Dabaco đã đầu tư một nhà máy sấy và kho chứa nguyên liệu nằm tại “rốn” của vùng sản xuất ngô, sắn lớn nhất Tây Bắc tại Hòa Bình. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường đánh giá, Tập đoàn có đóng góp phần tích cực trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần rút ngắn khoảng cách ngành chăn nuôi Việt Nam và thế giới. Thủ tướng thăm khu vực sản xuất sản phẩm xúc xích của Tập đoàn Dabaco. Ảnh: VGP/Quang Hiếu Phát biểu tại buổi làm việc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, Tập đoàn phát triển mạnh như ngày nay là nhờ chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, vai trò của người đứng đầu doanh nghiệp được phát huy và sự quan tâm của chính quyền địa phương Bắc Ninh. Thủ tướng đánh giá cao Tập đoàn tăng trưởng mạnh thời gian qua và công nghệ ngày càng tiến bộ, đa dạng sản phẩm cả trồng trọt, chăn nuôi và tiêu thụ. Chuỗi giá trị mà công ty xây dựng khá tốt, nhất là trong khâu giống, góp phần giữ gìn các gene giống quý của Việt Nam. Thủ tướng biểu dương Dabaco đóng góp vào ngân sách của tỉnh, giải quyết nhiều việc làm, hoan nghênh doanh nghiệp liên tục mở rộng sản xuất ở nhiều địa phương khác nhau với nhiều sản phẩm đa dạng, bảo đảm an toàn thực phẩm, một vấn đề mà Đảng, Nhà nước rất quan tâm. Thời gian tới, Thủ tướng lưu ý Dabaco ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao tự động hóa trong sản xuất và chế biến, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để xuất khẩu các sản phẩm ra thị trường thế giới. Tập đoàn cần liên kết với các hộ nông dân, HTX trong vùng để các bên cùng có lợi và phát triển. Về các kiến nghị của Dabaco, Thủ tướng giao các cơ quan chức năng tập hợp, xem xét để từ đó có thể xây dựng các chính sách phục vụ phát triển nông nghiệp mạnh mẽ hơn nữa. *Cũng trong sáng nay, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã thăm và làm việc tại Tổ hợp Samsung KCN Yên Phong, Bắc Ninh. Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) hiện có 6 nhà máy tại Việt Nam, trong đó Bắc Ninh có 3 nhà máy. Tổng vốn đầu tư của 6 nhà máy là 15 tỉ USD và đã giải ngân được 10 tỉ USD. Hiện các nhà máy của Samsung đã thu hút 136,7 nghìn lao động. Tính đến cuối năm 2016, Samsung Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm tới 52 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch năm ngoái đạt khoảng 40 tỉ USD. Thủ tướng thăm một nhà máy đang được xây dựng tại Tổ hợp Samsung KCN Yên Phong. Ảnh: VGP/Quang Hiếu Công ty TNHH Samsung Display Việt Nam, một đơn vị thành viên của Tổ hợp Samsung Việt Nam, đang đề nghị tăng vốn thêm 2,5 tỉ USD cho nhà máy tại Bắc Ninh, nâng tổng vốn đầu tư của đơn vị này lên 6,5 tỉ USD. Lãnh đạo Tập đoàn Samsung tại Việt Nam cho biết, dự kiến đến cuối năm nay, số lao động tại Việt Nam sẽ nâng lên 150.000 người; xuất khẩu đạt trên 50 tỉ USD. Tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm của Samsung tại Việt Nam hiện là khoảng 50%. Phát biểu tại buổi làm việc, Thủ tướng cho rằng, Samsung đã hoạt động rất thành công thời gian qua tại Việt Nam và chúc mừng kết quả đầu tư của Samsung, đồng thời tin tưởng Samsung tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Nhấn mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ quyết định thành công của doanh nghiệp, Thủ tướng cũng đánh giá cao Samsung hình thành Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Chuyển giao phần mềm tại Việt Nam. Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam và tỉnh Bắc Ninh tiếp tục ủng hộ, tạo điều kiện cho Samsung hoạt động và mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Đó là bảo đảm ổn định chính trị, nguồn nhân lực dồi dào… tạo sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Đề nghị Samsung duy trì cam kết đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, Thủ tướng mong muốn Samsung tiếp tục nâng tỷ lệ nội địa hóa và thu hút nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất của Samsung; sớm đạt được mục tiêu xuất khẩu trên 50 tỉ USD trong năm nay. Về kiến nghị của Samsung đối với hạ tầng nhà ở, điện, đường phục vụ sản xuất, Thủ tướng giao lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh quan tâm giải quyết; bảo đảm trật tự an ninh, không để sự cố xảy ra, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Đức …
| Tin mới | admin | 13/02/2017 | | Công văn số 165/CN-KHTC ngày 09/2/2017 về việc báo cáo tình hình liên kết sản xuất, chăn nuôi theo chuỗi | …
| Công văn | admin | 13/02/2017 | | Công văn số 1408/BTC-NSNN ngày 03 tháng 02 năm 2016 của Bộ Tài chính về việc kinh phí thực hiện Kinh phí thực hiện Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg ngày 4/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ | …
| Công văn | admin | 08/02/2017 | | Thúc đẩy thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 | Ngày 7/2, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn đã đi kiểm tra dịch vụ công trực tuyến tại Cục Bảo vệ thực vật và Cục Chăn nuôi nhằm nắm bắt tình hình triển khai cũng như thúc đẩy việc giải quyết các thủ tục hành chính trực tuyến một cách thông suốt, hiệu quả. Thứ trưởng Hà Công Tuấn (thứ hai bên phải) kiểm tra quy trình thực hiện dịch vụ công trực tuyến tại Cục Chăn nuôi Thứ trưởng Hà Công Tuấn cho rằng, việc triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 không trực tiếp tạo ra giá trị, nhưng là một trong những việc quan trọng để thực hiện chủ trương Chính phủ hành động, kiến tạo, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, bà con nông dân, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông sản và góp phần quản lý nhà nước có hiệu quả hơn. Đường truyền cần ‘liên thông’ hơn Theo ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, kể từ ngày 1/2/2017, Cục đã bắt đầu nhận hồ sơ đăng ký 5 nhóm thủ tục hành chính (từ cấp mới, gia hạn, cấp lại… đối với thủ tục hành chính cấp Giấu chứng nhận đăng ký thuốc bảo vệ thực vật) của các tổ chức, cá nhân tại cổng dịch vụ công trực tuyến theo địa chỉ: https://dvc.mard.gov.vn. Đến hết ngày 6/2 đã nhận 109 hồ sơ, trong đó giải quyết được 74 hồ sơ và đã trả kết quả cho doanh nghiệp; đang giải quyết 15 hồ sơ; 20 hồ sơ không đạt. “Thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân (đơn giản hóa hồ sơ, tiết kiệm chi phí, thời gian…), góp phần nâng cao hiệu quả của công tác cải cách hành chính” – ông Hoàng Trung đánh giá. Tuy nhiên, theo lãnh đạo Cục Bảo vệ thực vật, việc triển khai thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 là việc làm mới, chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn ban đầu triển khai thực hiện. Cụ thể, việc triển khai thực hiện kế hoạch chậm chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến độ; phần mềm mới đi vào hoạt động, chưa hoạt động thông suốt; việc chuyển đổi lưu trữ hồ sơ từ hồ sơ giấy sang lưu trữ điện tử chưa có hướng dẫn cụ thể (hiện Cục vẫn thực hiện lưu trữ hồ sơ giấy). “Ngay ngày hôm qua, phần mềm bị lỗi, máy bị treo; có hồ sơ phải kích đi làm lại, chờ cả nửa tiếng” – ông Hoàng Trung dẫn chứng. Liên quan đến vấn đề này, ông Ngô Thế Hiên, Giám đốc Trung tâm Tin học và Thống kê (Bộ NN&PTNT) cho rằng kiểm tra phần mềm tại Bộ thì vẫn chạy nhanh, thông suốt. Vì thế, ông đề xuất Cục nên bố trí đường truyền riêng hoặc tăng tổng dung lượng băng thông đến Cục để xử lý vấn đề lỗi treo máy. Để thúc đẩy việc triển khai dịch vụ công trực tuyến có hiệu quả, lãnh đạo Cục Bảo vệ thực vật kiến nghị Bộ NN&PTNT hướng dẫn các đơn vị thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 – hiện các thủ tục hành chính thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 trong phương thức thực hiện chưa có quy định yêu cầu thực hiện bằng hồ sơ điện tử. Đồng thời, Cục sẽ sớm triển khai kế hoạch 2017, trong đó lựa chọn 4 Chi cục để triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4. Với những kết quả khả quan bước đầu mà Cục Bảo vệ thực vật đã đạt được, Thứ trưởng Hà Công Tuấn đánh giá Cục đã triển khai thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 đúng yêu cầu; có hệ thống mạng xử lý thủ tục thông suốt. Tuy vậy, việc vừa phải giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ công trực tuyến nhưng vẫn phải lưu trữ hồ sơ giấy đã tạo thêm việc cho các cán bộ xử lý trực tiếp. Thứ trưởng Hà Công Tuấn ví von điều này không khác gì việc “vừa chạy, vừa xếp hàng” và yêu cầu Cục Bảo vệ thực vật nếu có niềm tin thì thực hiện dứt khoát hơn việc triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 nhằm tạo ra đột phá mới trong công tác cải cách thủ tục hành chính của đơn vị. Thứ trưởng Hà Công Tuấn (thứ hai bên phải) kiểm tra quy trình thực hiện dịch vụ công trực tuyến tại Cục Chăn nuôi Thúc đẩy ứng dụng thông suốt dịch vụ công trực tuyến Trong các đơn vị thực hiện cơ chế một cửa quốc gia cũng như triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4, Cục Chăn nuôi được đánh giá là đơn vị đi đầu. Tính đến 6/2, tổng hồ sơ tiếp nhận trên hệ thống là 36.999 hồ sơ, trong đó Cục Chăn nuôi tiếp nhận 18.843 hồ sơ; các tổ chức được Cục chỉ định tiếp nhận 18.156 hồ sơ. Tổng số hồ sơ đã được phê duyệt Giấy đăng ký là 36.282 hồ sơ, chiếm 98%; số hồ sơ đang xử lý là 717 hồ sơ (chiếm 2%). “Cục Chăn nuôi là đơn vị triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 hàng đầu, triển khai trên toàn bộ hệ thống. Tổng số hồ sơ xử lý qua hải quan một cửa của toàn bộ khoảng 50.000 hồ sơ thì riêng Cục Chăn nuôi đã chiếm tới 2/3 tổng số hồ sơ” – ông Ngô Thế Hiên nhìn nhận. Hiện nay, Cục Chăn nuôi đang trực tiếp giải quyết 31 thủ tục hành chính, tuy nhiên không phải thủ tục nào cũng phát sinh hồ sơ (có 16 thủ tục hành chính không phát sinh hồ sơ; 7 thủ tục hành chính có không quá 10 hồ sơ; chỉ có 8 thủ tục hành chính có phát sinh trên 10 hồ sơ). Trong 31 thủ tục hành chính có 11 thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu (có 4 thủ tục hành chính không phát sinh hồ sơ; 2 thủ tục hành chính có không quá 10 hồ sơ; 5 thủ tục có phát sinh trên 10 hồ sơ). Cục Chăn nuôi đã lựa chọn 3 thủ tục hành chính (Công nhận thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước được phép lưu hành tại Việt Nam, Công nhận thay đổi thông tin của thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước đã được phép lưu hành tại Việt Nam; Công nhận lại thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước được phép lưu hành tại Việt Nam) để thực hiện cơ chế một cửa quốc gia. Để triển khai thực hiện thông suốt, Cục Chăn nuôi đang phải thuê đường truyền tốc độ cao của VNPT để kết nối với máy chủ của Bộ với chi phí gần 120 triệu đồng. Nhưng đổi lại, theo bà Quách Tố Nga, Chánh văn phòng Cục Chăn nuôi, khi thực hiện cơ chế một cửa quốc gia, cứ 1 lô hàng khi thông quan tiết kiệm được chi phí tuân thủ thủ tục hành chính là 75 USD. Như vậy, với 36.282 lô hàng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu đã được thông quan khi thực hiện cơ chế một cửa quốc gia, thì tổng chi phí đã tiết kiệm được là 2.721.150 USD, khoảng 60 tỷ đồng. Cũng theo bà Nga, riêng chi phí chuyển phát nhanh cho số hồ sơ kể trên nay chuyển qua điện tử đã tiết kiệm được trên 700 triệu đồng. Đáng lưu ý, ngày 6/2, Cục Chăn nuôi đã ban hành Công văn số 133/CN-VP về việc thực hiện tiếp nhận hồ sơ điện tử đối với nhóm thủ tục hành chính lĩnh vực thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước kể từ ngày 15/2. Như vậy, Cục sẽ chấm dứt tiếp nhận hồ sơ giấy đối với thủ tục hành chính lĩnh vực này. “Phòng một cửa tiếp nhận thủ tục hành chính bây giờ trông rất sạch sẽ thông thoáng. Nếu như trước kia vào phòng hồ sơ đầy phòng, chất cao hơn cả đầu người thì nay chỉ có 3 cán bộ và máy vi tính.” – ông Hoàng Thanh Vân vui vẻ báo cáo Thứ trưởng Hà Công Tuấn. Với những kết quả nổi bật kể trên, Thứ trưởng Hà Công Tuấn đánh giá cao những thành công bước đầu mà Cục Chăn nuôi đã đạt được. Thứ trưởng kỳ vọng trong năm 2017 Cục sẽ hoàn thành công bố triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 đối với 15/31 thủ tục – tiếp tục là đơn vị đi đầu của Bộ về lĩnh vực này. Nhằm đẩy nhanh việc ứng dụng dịch vụ công trực tuyến, Thứ trưởng giao các đơn vị Cục Bảo vệ thực vật, Cục Chăn nuôi và các đơn vị liên quan chủ động giải quyết những khó khăn, vướng mắc với phương châm nhanh chóng, quyết liệt nhằm tạo ra chuyển biến mới trong công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và bà con nông dân trong sản xuất, kinh doanh./. K. …
| Tin mới | admin | 08/02/2017 | | Quyết định số 252/QĐ-BNN-TCCB ngày 03/2/2017 về việc Ban hành chương trình hành động thực hiện Quyết định số 2185/QĐ-TTG về kế hoạch tổng thể triển khai cơ chế một cửa asean và cơ chế một cửa quốc gia giai đoạn 2016 – 2020 | …
| Quyết định | admin | 07/02/2017 | | Quyết định số 238/QĐ-BNN-PC ngày 24/01/2017 về việc Ban hành kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2017 | …
| Quyết định | admin | 06/02/2017 | | Quyết định số 152/QĐ-UBND ngày 19/01/2017 của UBND tỉnh Cần Thơ về việc phê duyệt kế hoạch phát triển chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm và cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn thành phố cần thơ đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 | …
| Quyết định | admin | 06/02/2017 | | Quyết định số 226/QĐ-BNN-KHCN ngày 09 tháng 01 năm 2017 Ban hành kế hoạch hành động của Bộ NN & PTNT thực hiện NQ số 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính Phủ | …
| Quyết định | admin | 06/02/2017 | | Công văn số 133/CN-VP ngày 06 tháng 02 năm 2017 V/v thực hiện tiếp nhận hồ sơ điện tử đối với nhóm thủ tục hành chính thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước. | Kính gửi: Các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam Thực hiện Kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc triển khai Dịch vụ công trực tuyến đối với nhóm thủ tục hành chính thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước bao gồm: Công nhận thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước được phép lưu hành tại Việt Nam; Công nhận lại thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước được phép lưu hành tại Việt Nam; Công nhận thay đổi thông tin của thức ăn chăn nuôi đã được phép lưu hành tại Việt Nam theo định hướng đơn giản, nhanh chóng, hiện đại. Thời gian qua, Cục Chăn nuôi đã triển khai thiết kế, xây dựng tập huấn sử dụng phần mềm trên phạm vi toàn quốc cho các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam. Đến nay, các doanh nghiệp đã sử dụng thành thạo phần mềm và tiến hành khai báo thành công hồ sơ điện tử trên hệ thống cổng dịch công trực tuyến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Để tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục hành chính này, kể từ ngày 15/02/2017 Cục Chăn nuôi không tiếp nhận hồ sơ bản giấy thông thường và chỉ tiếp nhận hồ sơ điện tử tại địa chỉ tên miền duy nhất https://dvc.mard.gov.vn. Để được hỗ trợ và giải đáp các vướng mắc trong quá trình thực hiện, các tổ chức, cá nhân liên hệ đến Bộ phận hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ĐT: (04) 35505999 Fax: (04) 38230381 E-mail: hoặc Bộ phận Một cửa của Cục Chăn nuôi: (04) 37345443 E-mail: …
| Tin mới | admin | 06/02/2017 | | Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Nông nghiệp kiến tạo phải là nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch | Ngay ngày đầu tiên đi làm trở lại sau lịch nghỉ Tết Nguyên Đán Đinh Dậu, sáng 2.2, Thủ tướng Nguyên Xuân Phúc đã khởi động sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại xã Xuân Khê, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Cùng tham dự có lãnh đạo các Bộ, ngành và 15 tỉnh, thành phố. Kiến tạo nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ Phát biểu tại lễ khởi động, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ nông nghiệp Việt Nam luôn là trụ đỡ nền kinh tế của đất nước. Nhờ tinh thần cởi trói cho sản xuất, từ một nước thường xuyên thiếu đói, hằng năm phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, Việt Nam không những bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới. Song, nông nghiệp của Việt Nam hiện nay chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu và còn là một nền nông nghiệp có chi phí lớn, đời sống người nông dân chưa cao; vẫn còn tình trạng thiếu an toàn thực phẩm, canh tác lạc hậu, lúa nước vẫn chiếm phần chủ đạo; xuất khẩu gạo luôn gặp khó khăn, hiệu quả chưa cao. Đặt vấn đề tinh thần kiến tạo của Chính phủ trong nông nghiệp là gì? Thủ tướng cho rằng, nông nghiệp kiến tạo phải là nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, thông minh theo nhu cầu thị trường hướng vào phục vụ 100 triệu dân với thực phẩm, lương thực sạch và hướng vào xuất khẩu, nhất là rau, củ quả, chăn nuôi. Nhấn mạnh đến việc phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao, Thủ tướng đề nghị Ngân hàng Nhà nước huy động gói tín dụng hỗ trợ sản xuất nông nghiệp từ 60.000 tỷ lên 100.000 tỷ đồng để thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Để giải bài toán nông nghiệp Việt Nam, theo Thủ tướng, phải dựa vào các doanh nghiệp tư nhân, các hợp tác xã. Thủ tướng cho rằng cần khuyến khích nhiều hơn nữa khởi nghiệp nông nghiệp, áp dụng điện toán đám mây trong làm nông nghiệp công nghệ cao.Đi liền với đó là mở rộng hạn điền, tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp mạnh mẽ hơn là chủ trương của Đảng, Nhà nước ta; phải chuyển giao khoa học công nghệ mạnh mẽ vào nông nghiệp; phải có vốn cho nông nghiệp công nghệ cao từ tư nhân. Trên tinh thần đó, Thủ tướng yêu cầu các địa phương quy hoạch sử dụng đất theo hướng mở rộng hạn điền để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Cùng với đó, phải có điều kiện thuận lợi hỗ trợ về hạ tầng điện, nước cho nông nghiệp công nghệ cao; khuyến khích áp dụng giống mới, khoa học công nghệ mới tiên tiến, hiệu quả cao. “Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và hợp tác xã làm nông nghiệp công nghệ cao”, Thủ tướng khẳng định. Chính phủ sẽ quyết liệt bảo vệ thương hiệu, quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp, hợp tác xã làm nông nghiệp công nghệ cao. Tại tỉnh Hà Nam, đến nay đã tích tụ được xấp xỉ 400ha đất nông nghiệp và giao cho các doanh nghiệp đầu tư dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo đúng tiến độ.Đánh giá cao Hà Nam đã có mô hình thuê đất của người dân phù hợp để có diện tích đất đủ lớn cho doanh nghiệp đầu tư, Thủ tướng yêu cầu các địa phương nghiên cứu kinh nghiệm này để triển khai ở địa phương mình; đồng thời yêu cầu các bộ, ngành sửa đổi chính sách hướng vào nông nghiệp công nghệ cao. Thủ tướng lưu ý: “Các bộ, ngành phải suy nghĩ, nghiên cứu hướng vào nông nghiệp công nghệ cao để sửa đổi chính sách, trong đó có các Bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trong tháng 3 này phải sửa xong Nghị định 210 tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Thứ hai, các văn bản liên quan khác không thuộc thẩm quyền của Chính phủ, kể cả Luật đất đai, phải được báo cáo Quốc hội sửa chữa, tạo điều kiện cho đầu tư nông nghiệp công nghệ cao”. Thủ tướng cũng khẳng định, Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như HTX đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, bảo vệ quyền lợi chính đáng và thương hiệu nông sản Việt Nam của các doanh nghiệp và HTX. Bản thân Thủ tướng sẽ trực tiếp cùng các ngành giới thiệu những sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, sản phẩm sạch của Việt Nam ra thị trường thế giới. Khởi động một loạt dự án nông nghiệp công nghệ cao Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ấn nút khởi động sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại Nông trường VinEco Hà Nam, do Tập đoàn Vingroup đầu tư tại xã Xuân Khê và xã Nhân Bình, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đây là 1 trong 14 nông trường của VinEco, thuộc Tập đoàn Vingroup. Dự án có diện tích 180ha với tổng số vốn đầu tư gần 300 tỷ đồng. Trong đó, khu cánh đồng mẫu lớn rộng gần 130ha, khu nhà kính Israel công nghệ cao quy mô 5ha và các khu vực hỗ trợ sản xuất. Dự kiến đến cuối năm 2017, VinEco Hà Nam sẽ hoàn thiện hạ tầng cơ sở, triển khai sản xuất trên toàn bộ diện tích dự án. Khu nhà kính số 1 được Thủ tướng ấn nút khởi động có diện tích 8.300m2, công suất trung bình khoảng 150 tấn/năm cho nhóm rau ăn lá. Nhà kính sử dụng công nghệ tưới nhỏ giọt tự động và kiểm soát các thông số nước, không khí và sinh trưởng cây trồng theo công nghệ của Israel. Với công nghệ nhà kính hiện đại hàng đầu thế giới, sản phẩm của VinEco Hà Nam sẽ rất phong phú, gồm các loại rau ăn lá và rau ăn quả cao cấp, các loại dưa ngọt… Trước đó trong sáng nay, Thủ tướng Nguyên Xuân Phúc đã thăm mô hình nông nghiệp công nghệ cao của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp công nghệ cao Hà Nam, tại xã Nhân Khang, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Khu nông nghiệp công nghệ cao này có diện tích gần 22 ha, chuyên canh dưa lưới và rau quả nông sản cao cấp phục vụ cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây là mô hình tích tụ ruộng đất từ các hộ nông dân và thời gian thuê là 20 năm. Dự kiến số vốn đầu tư giai đoạn 1 trong năm 2017 là trên 75 tỷ đồng. Khác với mô hình đầu tư bài bản lên tới 1 triệu USD/ha như của Vineco, theo bà Trần Kim Liên, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần giống cây trồng Trung ương (Vinaseeds), mô hình này đã được công ty cải tiến công nghệ của Nhật Bản và Israel cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam, chi phí chỉ bằng khoảng 32%, nhưng có thể nhằm vào mọi phân khúc của thị trường. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, mô hình doanh nghiệp, người nông dân và chính quyền gặp nhau ở cùng một điểm là rất tốt. “Thị trường 92 triệu dân cũng gồm rất nhiều phân khúc, đại trà ở sức mua ở mức vừa phải của một đất nước mới 2.200 USD/người. Do đó, việc Việt Nam hóa công nghệ của Nhật, Israel như của công ty là tốt, nó phù hợp lộ trình tái cơ cấu của ngành” – Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhận định. Thủ tướng nói và đánh giá cao hướng đi của cơ sở sản xuất này và cho rằng, đây là mô hình cho thấy, tư nhân làm nông nghiệp công nghệ cao là mô hình tốt ở Việt Nam cùng với mô hình hợp tác xã. Thủ tướng khẳng định sẽ tiếp tục tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đề nghị Công ty nghiên cứu sâu hơn những giải pháp kỹ thuật để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả sản xuất. Cũng trong sáng nay, Thủ tướng đã tới thăm Công ty TNHH Hệ thống dây dẫn Sumi Việt Nam (SVWS) – doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Nhật Bản có trụ sở tại Khu Công nghiệp Đồng Văn II, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Đây là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại dây dẫn điện trong ô tô và xe máy, bắt đầu hoạt động từnăm 2008 và đến thời điểm hiện tại đã có khoảng hơn 4.000 nhân viên, người lao động. Thủ tướng chúc mừng lãnh đạo Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả tại Việt Nam thời gian qua, đề nghị công ty mở rộng sản xuất kinh doanh trong thời gian tới./. K. …
| Tin mới | admin | 06/02/2017 | | Phòng dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng ở vùng biên giới | Theo ông Nguyễn Văn Mấy, Chi Cục trưởng, Chi cục Thú y tỉnh Tây Ninh, hiện khu vực tỉnh Svay Riêng của Campuchia, giáp biên giới với tỉnh Tây Ninh đang bùng phát ổ dịch cúm gia cầm (H5N1) và bệnh lở mồm long móng trên đàn trâu, bò, gây chết nhiều gia súc, gia cầm. Trước tình hình dịch bệnh có thể lây qua Việt Nam từ các hoạt động trao đổi, vận chuyển hàng hóa, du lịch của cư dân biên giới, Chi cục thú y tỉnh Tây Ninh chỉ đạo Trạm bảo vệ thực vật các huyện biên giới, các cửa khẩu triển khai phòng chống dịch. Cụ thể, phân công cán bộ trực; kiểm tra, kiểm soát chặt, không để người dân mang gia cầm, gia súc từ Campuchia sang; đồng thời phun, xịt sát trùng 100% các phương tiện từ vùng dịch sang. Đối với những hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm nhỏ lẻ và trang trại lớn trên tuyến biên giới, tỉnh khuyến cáo người dân tiêm vắcxin phòng bệnh đầy đủ, thường xuyên phun thuốc sát trùng, vệ sinh chuồng trại; không để người lạ tiếp xúc khu vực chăn nuôi… để phòng tránh dịch bệnh phát sinh. Hiện Chi cục thú y đề nghị tỉnh khẩn trương cấp kinh phí để triển khai tiêm phòng đợt một năm nay sớm hơn mọi năm đối với đàn gia súc, gia cầm; trong đó, ưu tiên tiêm phòng 2 loại bệnh H5N1 và lở mồm long móng cho 100% đàn gia súc, gia cầm của người dân tại 5 huyện biên giới của …
| Tin mới | admin | 03/02/2017 | | Dẹp loạn kháng sinh” trong chăn nuôi hướng đến nền nông nghiệp sạch | “Hiện nay, phần lớn bà con sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản để trị bệnh là theo kinh nghiệm mà không tuân theo hướng dẫn của bác sỹ, cán bộ thú y. Việc dùng không đúng kháng sinh, không đúng phác đồ là một vấn đề khó khăn rất lớn trong việc quản lý và sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi. Đặc biệt, tình trạng kháng kháng sinh hiện nay trên cả vật nuôi và người đã đến mức báo động.” Đó là nhấn mạnh của ông Đàm Xuân Thành – Phó Cục trưởng Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) tại Hội nghị “Quản lý, sử dụng kháng sinh vì nền nông nghiệp sạch, phát triển bền vững” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Báo Dân trí tổ chức vào ngày 12/1 tại Hà Nội. Phát biểu tại Hội thảo, Nhà báo Nguyễn Lương Phán, Phó Tổng Biên tập báo Dân trí chia sẻ: Tại báo Dân trí, hàng ngày các phóng viên tiếp nhận và xử lý nhiều thông tin phản ánh về tác hại của việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi. Nhiều thông tin cho thấy hậu quả của việc lạm dụng còn gây ra bệnh tật và dẫn tới đe doạ tính mạng người dân. Nhiều bạn đọc của báo Dân trí bức xúc, gọi điện thoại, gửi email và cung cấp nhiều clip phản ánh về tình trạng lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi. “Với tôn chỉ tờ báo là nâng cao dân trí, chúng tôi mong rằng sẽ góp sức cùng các cơ quan chức năng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giúp cộng đồng hiểu đúng bản chất sự việc, nhằm có thái độ đúng trong việc đấu tranh với việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản” – Nhà báo Nguyễn Lương Phán nói. “Thảm họa” kháng thuốc kháng sinh Ông Lê Anh Ngọc, Phó Trưởng phòng phụ trách phòng Quản lý chất lượng Thủy sản (Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm và Thủy sản-NAFIQAD) cũng cho hay, việc sử dụng chất cấm, lạm dụng thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản sẽ dẫn đến khả năng tồn dư hoá chất, kháng sinh trong thủy sản nuôi cao. “Dư lượng hoá chất, kháng sinh khi đã tồn lưu trong thủy sản nuôi thì không có phương pháp nào để loại bỏ được trong quá trình chế biến, bảo quản. Dư lượng hoá chất, kháng sinh tồn lưu trong thủy sản nuôi tùy từng loại sẽ gây hại tức khắc hoặc tích tụ sau một thời gian sử dụng và ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng,” ông Lê Anh Ngọc nói. Phát biểu tại hội thảo, ông Đỗ Văn Đông, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) cũng cho biết, việc sử dụng kháng sinh không đúng cách, không đúng mục đích và chưa được kiểm soát chặt chẽ có thể tạo ra “thảm họa” kháng kháng sinh. “Sự kháng thuốc kháng sinh là một cuộc khủng hoảng toàn cầu, trong đó thế giới đang đối mặt với kỷ nguyên hậu kháng sinh – khi mà những bệnh rất bình thường cũng có thể gây tử vong cho con người,” ông Đông cho hay. Ngoài ra, theo ông Ngọc về kinh tế, tác hại trước mắt của việc sử dụng chất cấm, lạm dụng thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản làm nhiều lô hàng thủy sản xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam bị cảnh báo do lượng tồn dư và bị trả về, gây thiệt hại kinh tế lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế. Theo số liệu của NAFIQAD, trong năm 2016, thông qua mạng cảnh báo nhanh, cơ quan thẩm quyền của các nước nhập khẩu thủy sản và các kênh ngoại giao khác (Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, Đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam), Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản đã nhận được thông tin cảnh báo về một số lô hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam không bảo đảm an toàn thực phẩm do phát hiện kháng sinh cấm hoặc do dư lượng hóa chất kháng sinh vượt mức giới hạn tối đa cho phép. Cụ thể, Tổng số lượng lô hàng bị cảnh báo năm 2016 là 40 lô, chiếm 0,03% và đã có chiều hướng giảm so với năm 2015 (70 lô, chiếm 0,07%), trong đó số lô bị cảnh báo gồm Nhật Bản (24 lô), EU (11 lô), Australia (3 lô) và Hàn Quốc (2 lô)… “Siết chặt đầu vào” Trước tình hình đó, Phó Cục trưởng Đàm Xuân Thành cũng cho biết, để “dẹp loạn” kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cần phải siết chặt khâu nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh để sử dụng làm thuốc thú y, từ đó sẽ hạn chế việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. “Để quản lý nguyên liệu kháng sinh nhập khẩu, hiện nay, việc cấp phép nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh làm thuốc thú y đã được Cục Thú y thực hiện một cách chặt chẽ,” Phó Cục trưởng Đàm Xuân Thành nói. Cụ thể, trong giấy phép nhập khẩu, Cục Thú y ghi rõ nguyên liệu kháng sinh nhập khẩu chỉ được dùng cho sản xuất thuốc thú y. Đồng thời yêu cầu đơn vị đăng ký nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh báo cáo việc sử dụng, kinh doanh, địa chỉ cơ sở mua nguyên liệu kháng sinh của lô nguyên liệu kháng sinh nhập khẩu lần trước thì khi nộp hồ sơ đăng ký nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh lô hàng tiếp theo mới xem xét giải quyết. Mặt khác, trong giấy phép nhập khẩu nguyên liệu ghi rõ đơn vị nhập khẩu chỉ được phép kinh doanh, sử dụng nguyên liệu trên để sản xuất các sản phẩm thuốc thú y đã được cấp giấy chứng nhận lưu hành hoặc có tên trong Danh mục thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành. “Đặc biệt, không bán nguyên liệu thuốc thú y cho các cơ sở chưa được cấp phép kinh doanh nguyên liệu làm thuốc thú y, đại lý, cửa hàng buôn bán thuốc thú y để bán cho người dân sử dụng trực tiếp phòng, trị bệnh cho gia súc, gia cầm và thủy sản hoặc bán trực tiếp cho các cơ sở chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản để sử dụng,” ông Thành nói. Bên cạnh đó, Phó Cục trưởng Đàm Xuân Thành cũng yêu cầu các địa phương cần tăng cường hoạt động tuyên truyền để người dân sử dụng thuốc kháng sinh theo đúng hướng dẫn của bác sỹ thú y. Mặt khác, các đơn vị cơ sơ cũng cần tăng cường công tác thanh tra kiểm tra và các chế tài xử phạt. “Trong việc sửa đổi Bộ luật hình sự thì những hành vi sử dụng thuốc cấm trong đó có kháng sinh cấm sẽ bị xử lý hình sự, ngoài ra đối với Nghị định xử phạt vi phạm hành chính của Chính phủ đang xây dựng cũng đã nâng mức chế tài xử phạt. Cụ thể, đối với người chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản nếu sử dụng nguyên liệu thuốc thú y và kháng sinh thì sẽ bị xử phạt rất nặng đồng thời biện pháp khắc phục hậu quả là sẽ tiêu hủy và tạm thời đóng cửa, ngoài ra tất cả các danh tính đó sẽ được công bố trên các phương tiên thông tin đại chúng,” ông Đàm Xuân Thành nhấn mạnh. Đề xuất tại buổi Hội thảo, ông Lê Anh Ngọc cũng cho rằng, các đơn vị liên quan cần giám sát, cảnh báo sớm dịch bệnh trên trong chăn nuôi, thủy sản để kịp thời khuyến nghị và hướng dẫn người nuôi phòng trị bệnh hiệu quả. “Đồng thời các đơn vị liên quan cần tăng cường vận động, hướng dẫn người nuôi không sử dụng chất cấm/kháng sinh nguyên liệu, không lạm dụng chất xử lý cải tạo môi trường, sử dụng thuốc thú y theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng liều, đúng lúc, đúng cách) để hướng đến một nền nông nghiệp sạch và phát triển bền vững,” ông Ngọc nêu rõ./. Thành …
| Tin mới | admin | 23/01/2017 | | Công nhận nhãn hiệu tập thể cho đặc sản gà Hồ của Bắc Ninh | Ngày 17/1, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Thuận Thành tổ chức lễ Công bố nhãn hiệu tập thể “Gà Hồ, Thuận Thành – Bắc Ninh.” Theo ông Nguyễn Tuấn Anh, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Ninh, nhãn hiệu tập thể “Gà Hồ, Thuận Thành – Bắc Ninh” được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ vào ngày 4/1. Việc công nhận nhãn hiệu tập thể đối với gà Hồ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn, phát triển nguồn gen quý, góp phần quảng bá thương hiệu gà Hồ đến đông đảo nhân dân trong cả nước; đồng thời nâng cao giá trị kinh tế cho người chăn nuôi. Gà Hồ được nuôi chủ yếu ở thôn Lạc Thổ, thị trấn Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đã tồn tại, phát triển khoảng 600 năm. Về ngoại hình, gà Hồ là giống gà to, mau lớn, có màu sắc đẹp, thân hình cường tráng, hùng dũng. So với các giống gà khác gà Hồ có đặc điểm chung là đầu gộc, mào sít, cao trường, vẩy chân mịn, mầu hạt đỗ tương, ngón chân mập, đuôi nơm. Gà trống khi trưởng thành hội đủ năm phẩm chất của bậc quân tử: văn, vũ, dũng, nhân, tín… Gà mái cũng có đầy đủ các tiêu chí như gà trống nhưng nhỏ hơn, dáng bầu bĩnh, hiền lành. Một con gà trưởng thành có trọng lượng lớn 4-6kg. Gà to được nuôi chủ yếu bằng thóc và rau nên thịt hồng, thơm ngon, da dầy, giòn có giá trị dinh dưỡng cao… Đây là giống gà có nhiều đặc điểm quý về ngoại hình, chất lượng thịt song lại có những hạn chế nhất định như phát triển chậm, sinh sản muộn, đẻ thưa, ít trứng. Gà mái ấp trứng vụng nên tỷ lệ trứng nở đạt tỷ lệ thấp. Do đó, đến nay số lượng gà được nuôi trong dân còn ít. Theo thống kê, hiện thôn Lạc Thổ có khoảng trên 100 hộ nuôi gà Hồ với tổng số gần 1.500 con gà sinh sản. Hàng năm, thôn cung cấp ra thị trường gần 10.000 gà giống và gần 1.000 gà thương phẩm. Đại diện cho những người chăn nuôi gà Hồ, ông Nguyễn Đăng Chung, Giám đốc hợp tác xã chăn nuôi gà Hồ thôn Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cho biết sau khi được công nhận nhãn hiệu tập thể, các thành viên trong hợp tác xã chăn nuôi gà Hồ sẽ quyết tâm gìn giữ bảo tồn, phát triển chăn nuôi, nhân rộng giống gà Hồ để nhân dân trong cả nước được biết, góp phần phát triển kinh tế địa phương, tạo việc làm cho người lao động. Theo ông Nguyễn Tiến Hoàng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thuận Thành, huyện sẽ quy hoạch diện tích đất cho hợp tác xã gà Hồ thuê để phát triển gà thương phẩm; đồng thời động viên nhân dân trong vùng nuôi dưỡng gà Hồ, góp phần bảo tồn nguồn gen …
| Tin mới | admin | 20/01/2017 | | Quyết định số 5463/QĐ-BNN-PC ngày 28/12/2016 Về việc bãi bỏ Thông tư số 20/2014/TT-BNNPTNT ngày 26/6/2014 quy định một số nội dung về phân công và thẩm quyền quản lý vật tư nông nghiệp | …
| Quyết định | admin | 16/01/2017 | | Thông tư số 01/2017/TT-BNPTNT ngày 16/01/2017 Bổ sung Danh mục hóa chất, kháng sinh cấm nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng trong thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm tại Việt Nam | …
| Thông tư | admin | 16/01/2017 | | Bộ trưởng Nông nghiệp gọi việc các tập đoàn lớn đầu tư vào nông nghiệp là “sự bùng nổ” | Chiều 10/1, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng Ban chỉ đạo các chương trình mục tiêu quốc gia chủ trì phiên họp tổng kết công tác năm 2016 và triển khai nhiệm vụ trong năm 2017. Tại cuộc họp, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường nhìn nhận: “Dấu ấn rất đậm của năm 2016 trong lĩnh vực này là sự chỉ đạo rất quyết liệt của Chính phủ để khắc phục những tồn tại hạn chế được chỉ ra tại báo cáo giám sát của Quốc hội. Ngay sau khi Chính phủ mới được kiện toàn đã có thực hiện khối lượng công việc khổng lồ. Chưa bao giờ xã hội có sự quan tâm đến nông nghiệp, đến người nghèo cao như hiện nay khi hàng loạt doanh nghiệp, tập đoàn lớn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”. Ông Cường cũng gọi đây là sự “bùng nổ”, với sự chung lòng, chung sức từ Chính phủ đến các địa phương và cả hệ thống chính trị. Nhận định của ông Cường được nhiều thành viên Ban chỉ đạo đồng tình. Trong năm nay, cả nước có thêm 15 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, tăng gấp 2 lần so với cuối năm 2015, thêm 828 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 9,2% so với cuối năm 2015. Xử lý nợ xây dựng cơ bản trong xây dựng nông thôn mới cũng có bước chuyển đáng ghi nhận. Ngân sách đã bố trí khoảng 11.000 tỷ đồng để thực hiện mua thẻ bảo hiểm y tế cho khoảng 16 triệu người nghèo. Năm 2016 cũng thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi với hơn 27.300 tỷ đồng cho trên 862.000 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay vốn và trên 21.000 học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn lần đầu trong năm. Kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng năm 2016 cả nước đã đạt những kết quả tích cực trong xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo. Phó Thủ tướng cũng cho biết thêm Chính phủ, các bộ, ngành đã cơ bản hoàn thành khung khổ pháp lý để thực hiện 2 chương trình với những cách tiếp cận mới so với giai đoạn trước ngay trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ. “Trong năm 2016, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo sát sao việc thực hiện, Ban chỉ đạo giao việc cụ thể, có thời hạn và đặc biệt hai cơ quan thường trực tích cực, các bộ ngành triển khai rất đều tay”, Trưởng Ban chỉ đạo đánh giá. Triển khai nhiệm vụ cho năm 2017, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề nghị hai cơ quan thường trực (Bộ NN&PTNT, Bộ LĐTB&XH) chủ động hơn nữa để đạt các chỉ tiêu, kế hoạch. Để đạt được mục tiêu, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, rà soát văn bản còn nợ thì trong Quý I/2017 phải xong. Về nguồn lực, Phó Thủ tướng lưu ý các Bộ quan tâm xây dựng hành lang pháp lý cho phân bổ nguồn lực nhất là đối với Chương trình giảm nghèo; tập trung giải quyết các thể chế, chính sách huy động doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và giảm nghèo trong khi nguồn lực ngân sách rất hạn …
| Tin mới | admin | 11/01/2017 | | Đồng Nai – Xuất gà đi Nhật | Bộ Nông nghiệp – phát triển nông thôn đang phối hợp với Đồng Nai giải quyết nhanh các thủ tục để Công ty TNHH Koyu & Unitek (Khu công nghiệp Long Bình, TP.Biên Hòa) có thể xuất khẩu ức gà sang thị trường Nhật Bản vào đầu năm 2017. Nếu thành công, đây sẽ là doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam xuất khẩu thịt gà ra nước ngoài. Theo Chi cục Chăn nuôi – thú y Đồng Nai (Sở Nông nghiệp – phát triển nông thôn), đến đầu tháng 11-2016 Cục Thú y Việt Nam và Cục Thú y Nhật Bản đã đàm phán xong việc thống nhất các quy định để đưa thịt gà của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Do đó, trong tháng 11 này, Cục Thú y Việt Nam sẽ tới Đồng Nai hướng dẫn các quy trình chăn nuôi theo chuỗi khép kín từ con giống đến khâu giết mổ bảo quản cho các trang trại tham gia vào chuỗi để xuất khẩu hàng sang Nhật Bản. Nhật Bản sẽ nhập ức gà Phó chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Đông Nam bộ Lê Văn Quyết cho biết hiệp hội đã hình thành được chuỗi liên kết sản xuất an toàn từ khâu giống, thức ăn đến giết mổ, tiêu thụ với sản lượng lớn để sẵn sàng đáp ứng khi sản phẩm gia cầm nội địa có cơ hội tham gia thị trường xuất khẩu. Người chăn nuôi tiếp tục cải tiến quy trình sản xuất để giảm giá thành chăn nuôi tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm gia cầm ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Thông tin từ đại diện Công ty TNHH Koyu & Unitek, trước tiên phía đối tác Nhật Bản sẽ nhập khẩu ức gà, phần thịt được nhiều người tiêu dùng của Nhật Bản ưa chuộng. Thịt gà của Việt Nam nếu làm theo quy trình khép kín an toàn từ khâu chọn con giống ông bà, khâu chăn nuôi, giết mổ đến bảo quản chất lượng thì được đánh giá là sẽ không thua kém gì các nước có nền chăn nuôi phát triển khác trên thế giới. Hiện các thủ tục cơ bản đã hoàn thành, Công ty TNHH Koyu & Unitek đang tiến hành xây dựng nhà máy chế biến trong Khu công nghiệp Long Bình theo đúng chuẩn của đối tác. Dự kiến đầu năm 2017, công ty bắt đầu xuất khẩu ức gà sang Nhật Bản với số lượng 300 tấn/tháng, sau đó số lượng có thể sẽ tăng thêm. Ông Nguyễn Minh Kha, chủ trang trại gà tại huyện Long Thành, đơn vị có tham gia vào chuỗi xuất khẩu nói trên, chia sẻ: “Dự kiến vào tháng 4-2017, những lô hàng thịt gà đầu tiên sẽ được xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Hiện Cục Thú y đã có hẹn cử đoàn cán bộ về tận trang trại, kiểm tra, hướng dẫn chúng tôi chuẩn hóa về quy trình chăn nuôi tuân thủ các yêu cầu vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm theo chuẩn thế giới”. Ông Kha cho biết thêm từ hơn 2 năm nay, trang trại của ông đã liên kết với doanh nghiệp do Nhật Bản đầu tư xây dựng quy trình chăn nuôi theo yêu cầu của thị trường này và hiện chỉ chờ đến thời điểm đưa hàng đi xuất khẩu. Ông Trần Văn Quang, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi – thú y Đồng Nai, phân tích: “Thị trường Nhật Bản có hơn 100 triệu dân, nếu xuất khẩu thịt gà vào được Nhật Bản sẽ là tiền đề tốt để các doanh nghiệp khác mở rộng xuất khẩu vào thị trường này cũng như các thị trường khác. Quy định về an toàn thực phẩm của Nhật Bản rất gắt gao nên các doanh nghiệp xuất khẩu gà vào được thị trường này cũng đồng nghĩa với việc có đủ khả năng xuất khẩu vào những thị trường khác”. Lâu nay, trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi heo, gà tại Việt Nam mới chỉ tập trung làm sao đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu, vẫn còn rất ít doanh nghiệp nghĩ đến việc sẽ xuất khẩu. “Rào cản lớn nhất với thịt gà của Đồng Nai là dịch bệnh và an toàn vệ sinh thực phẩm. Nhưng những vấn đề này có thể cải thiện được nếu các trang trại, doanh nghiệp liên kết tạo thành chuỗi khép kín và áp dụng các chương trình an toàn dịch bệnh. Ức gà là phần được người tiêu dùng nhiều nước thích, song ở Việt Nam lại không. Vì thế, chúng ta có thể xuất khẩu ức gà giá cao và bán các phần còn lại giá thấp sẽ không lo kém cạnh tranh hơn hàng nhập khẩu” – ông Quang bày tỏ. Mở ra nhiều cơ hội Cuối tháng 10-2016, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp – phát triển nông thôn Vũ Văn Tám đã làm việc với tỉnh Đồng Nai và Công ty TNHH Koyu & Unitek nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về chính sách để giúp doanh nghiệp sớm xuất khẩu gà vào thị trường Nhật Bản. Đây là doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam ký kết được hợp đồng và đang hoàn thành thủ tục để xuất khẩu ức gà ra nước ngoài. Sau doanh nghiệp trên, những doanh nghiệp khác muốn xuất khẩu gà ra nước ngoài cũng thuận lợi hơn bởi chính quyền và các cơ quan quản lý đã có kinh nghiệm hơn trong việc hỗ trợ, đề xuất các chính sách để mở rộng thị trường xuất khẩu. Có thể sau con gà, các doanh nghiệp có thể xuất khẩu thịt theo đường chính ngạch vào các nước. Thông tin gà Đồng Nai có thể xuất khẩu vào Nhật Bản khiến nhiều người chăn nuôi háo hức, tham gia thị trường xuất khẩu là cơ hội tốt để tăng sức cạnh tranh cho gà công nghiệp. Trong đó, gà nội địa có thể được đầu tư ở khâu sơ chế, chế biến để tập trung xuất khẩu những dòng sản phẩm như ức gà là mặt hàng có giá cao vì được người tiêu dùng tại nhiều nước chuộng. Ông Lê Văn Quyết, Phó chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Đông Nam bộ, nhận xét yêu cầu sản phẩm thịt gà an toàn để xuất khẩu khá khắt khe phải đảm bảo từ khâu con giống, thức ăn đến quy trình chăn nuôi, giết mổ, chế biến. Các trang trại chăn nuôi quy mô lớn tại vùng Đông Nam bộ đều có điều kiện tốt để thực hiện quy trình chăn nuôi theo tiêu chuẩn thị trường xuất khẩu. Hương Giang – Lê …
| Tin mới | admin | 06/01/2017 | | Công văn số 1125/BNN-CN ngày 29/12/2016 về việc hỗ trợ ổn định phát triển chăn nuôi lợn. | …
| Công văn, Quyết định | admin | 06/01/2017 | | Công văn số 1951/CN-TACN ngày 20/12/2016 về việc thực hiện Thông tư số 27/2016/TT-BNNPTNT | …
| Công văn | admin | 05/01/2017 | | Chu kỳ đẻ, hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại và những nhân tố ảnh hưởng đến năng suất trong chăn nuôi heo nái | Tóm tắt: Bài viết này giới thiệu Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại, sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm đến năng suất sản xuất của trang trại; các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất sản xuất heo nái và một số giải pháp tăng năng suất sản xuất của trang trại chăn nuôi heo nái sinh sản. 1. Chu kỳ lứa đẻ của heo nái trong trang trại là gì? Chu kỳ lứa đẻ (Farrowing Interval) là một trong những thông số sản xuất thường được sử dụng là một chỉ số phản ánh hiệu quả sản xuất nái sinh sản của trang trại. Chu kỳ lứa đẻ là số ngày trung bình từ lứa đẻ lần này đến lứa đẻ lần kế tiếp của nái sinh sản bao gồm thời gian mang thai, thời gian nái nuôi con và thời gian lên giống sau cai sữa. Chu kỳ đẻ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng heo con sau cai sữa của mỗi nái trong năm. Chu kỳ lứa đẻ của nái hậu bị ngắn hơn chu kỳ lứa đẻ của nái rạ (nái đẻ từ lứa thứ 2 trở đi). Chu kỳ đẻ có thể được tính cho từng cá thể heo nái và cho toàn bộ trang trại. Đối với một cá thể heo nái, Chu kỳ đẻ bằng số ngày mang thai cộng số ngày nuôi con cộng số ngày chờ lên giống sau cai sữa. Ví dụ nái có số ngày mang thai 115 ngày, số ngày nuôi con 25 ngày, số ngày lên giống sau cai sữa 5 ngày thì Chu kỳ đẻ của nái như sau: Chu kỳ lứa đẻ nái = 115 ngày mang thai + 25 ngày nuôi con + 5 ngày lên giống sau cai sữa = 145 ngày. Chu kỳ lứa đẻ của trang trại bằng bình quân gia quyền chu kỳ lứa đẻ của từng nái. Giả sử một trại có 600 nái sinh sản, nếu 600 nái đều có ngày mang thai, ngày nuôi con và ngày lên giống như nhau thì Chu ky lứa đẻ của nái trong đàn là 145 ngày. Giả sử trong một lý do nào đó trong đó 500 nái có cùng Chu kỳ lứa đẻ là 145 ngày (ví dụ trên), và trong đó có 100 nái có Chu kỳ lứa đẻ tăng lên thêm 21 ngày (145 + 21 ngày). Như vậy, Chu kỳ lứa đẻ của trại được tính như sau: (145 ngày x 500 nái ) + (166 x 100 nái) Chu kỳ lứa đẻ trang trại = ——————————————– = 147.1 ngày (1) Tổng 600 nái Như vậy chu kỳ ngày đẻ của trại tăng lên 2.1 ngày (147.1 – 145) 2. Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại Hệ số lứa đẻ/nái/năm của một nái là số lứa đẻ của nái trong một năm. Chúng ta có thể tính hệ số lứa đẻ/nái/năm cho từng nái và cho cả trại. Công thức tính hệ số lứa đẻ/nái/năm từng nái và chung cả trại được tính như sau: a) Hệ số lứa đẻ/nái/năm của một nái: Hệ số lứa đẻ/nái/năm = 365 ngày/Chu kỳ lứa đẻ của nái (2) b) Hệ số lứa đẻ/nái/năm của cả trại: Hệ số lứa đẻ/nái/năm của Trang trại = 365 ngày/Chu kỳ lứa đẻ trang trại (3) Ví dụ: Một trang trại có 600 heo nái sinh sản. Chu kỳ lứa đẻ của một nái bằng = 115 ngày mang thai + 25 ngày nuôi con + 5 ngày thời gian từ cai sữa đến lên giống = 145 ngày. 1) Nếu 600 nái có cùng chu kỳ đẻ giống nhau, thì Chu kỳ lứa đẻ của trang trại sẽ là 145 ngày. Hệ số lứa/nái/năm của nái sẽ là: 365 ngày/145 ngày = 2,52 lứa/năm. 2) Cũng ví dụ trên, giả sử có 500 nái có Chu kỳ đẻ giống nhau là 145 ngày, còn 100 nái có chu kỳ đẻ là 166 ngày (100 nái có số ngày lên giống sau cai sữa là 21 ngày, khi đó Chu kỳ lứa đẻ của 100 nái này bằng 115 ngày + 25 ngày nuôi con + 5 ngày từ cai sữa đến lên giống + 21 ngày tăng thêm = 166 ngày) vậy thì Chu kỳ lứa đẻ của trại được tính như sau: 365 ngày Hệ số lứa đẻ/nái/năm trang trại là = —————- = 2.48 lứa/nái/năm (4) 147.1 ngày (Ghi chú: chu kỳ lứa đẻ của trại 147.1 ngày được tính theo công thức (1)) Đối với 100 nái chậm lên giống (tăng thêm 21 ngày) có hệ số lứa đẻ/nái/năm là 2.20 (365 ngày/166 chu kỳ đẻ). Trường hợp này cũng giống như trường hợp nái khi nái không bầu hoặc nái sẩy thai sẽ làm ảnh hưởng đến năng suất của trại. Vì làm giảm số lứa/năm của nái và đồng nghĩa với giảm số heo con/năm. Trong thực tế, nếu chúng ta ngoại suy ví dụ trên với một trang trại nái sản trong một thời gian nhất định, chu kỳ lứa đẻ sẽ là tổng trung bình thời gian của chu kỳ cộng với trung bình thời gian cho con bú (thời gian heo con theo mẹ) và cộng với thời gian từ cai sửa đến phối và đậu thai trong suốt quãng thời gian này. Ngoài ra, chúng có cách thứ hai tính toán thông số này bằng cách dựa vào tổng số lần đẻ của nái/năm. Ví dụ: nếu chúng ta biết số lứa đẻ của trại trong 6 tháng vừa qua và tổng số trung bình của đàn nái trong giai đoạn này thì áp dụng công thức như sau: Tổng số lứa đẻ của trong 6 tháng * 2 Chu kỳ đẻ trung bình của nái/năm = ————————————————- Tổng số trung bình đàn nái trong 6 tháng Công thức này có vẻ thực tế hơn công thức trên vì nó dựa vào số liệu thực tế trong 6 tháng đầu của trại để suy tính chu kỳ trung bình đẻ của nái/năm. Tuy nhiên, công thức này dựa vào số liệu của 6 tháng sau cũng giống như 6 tháng trước đó. Nếu 6 tháng sau có biến động lớn trong đàn nái thì độ chính xác sẽ bị giảm. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến Chu kỳ lứa đẻ 1) Không cho nái ăn đầy đủ, nái ăn kém trong thời gian nuôi con. Đây là khoảng thời gian quan trọng nhất, nái cần phải được cho ăn đầy đủ để có năng lượng để duy trì hoạt động hàng ngày của nái và có đủ sữa nuôi con. Đặc biệt đối với nái đẻ lứa một, thể trạng nái chưa phát triển toàn diện nên cần phải duy trì thể trạng tốt sau khi cai sữa. Nếu thể trạng nái kém, sau khi cai sữa nái sẽ lên giống chậm và ảnh hưởng xấu đến chu kỳ lứa đẻ của nái. Có thể ảnh hưởng xấu đến năng suất của các lứa tiếp theo; Trong thực tế người ta có thể tính nhẫm như sau: nái nuôi con cần ăn khoảng 1.8 kg cám/ngày để duy trì các hoạt động hằng ngày của nái và cứ mỗi con heo con nái nuôi thì tăng thêm 0.50 kg cám/ngày/ heo con. Ví dụ nái nuôi 10 heo con, lượng cám nái ăn/ngày = 6.80kg (1.80+0.50X10). 2) Thay đổi mùa (thời tiết) trong năm. Nói chung, khi nhiệt tăng trong mùa hè chúng ta có thể thấy sự gia tăng ngày trong chu kỳ đẻ. Vì thời tiết nóng và nái sẽ ăn ít. Khi nái ăn ít sẽ thiếu sữa và nái sẽ lên giống chậm vì mất thể trạng, đặc biệt khi nái được nuôi trong chuồng hở. Ngoài ra, nái ăn ít sẽ cho ra ít sữa và ảnh hưởng đến trong lượng của heo con khi cai sữa. 3) Thời gian nuôi con: Nếu thời gian nuôi con quá ít (ví dụ 16 ngày) sẽ dẫn đến nái lên giống chậm, bởi vì trong thời gian tử cung chưa hoàn toàn phục hồi. Nếu ngày nuôi con quá dài thì cũng ảnh hưởng đến Chu kỳ đẻ của nái. 4. Sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ đến năng suất của trại Để thấy được sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ đến năng suất sản xuất của trang trại (số heo con cai sữa/năm) chúng ta xem ví dụ dưới đây. Giả sử một trại có bình quân số con heo con cai sữa/lứa là 10 con. Chúng ta xem xét sự khác biệt năng suất khi Chu kỳ lứa đẻ thay đổi: 1) Trường hợp thứ nhất: giả sử Chu kỳ lứa đẻ là 151 ngày: Hệ số lứa đẻ/nái/năm: 365/151 = 2.42 lứa/nái/năm Tổng số heo con cai sữa/nái/năm: 2.42 *10 con = 24.20 heo con cai sữa /nái/năm. 2) Trường hợp thứ hai: Giả sử Chu kỳ lứa đẻ là 158 ngày (tăng thêm 7 ngày): Hệ số lứa đẻ/nái/năm: 365 ngày/158 ngày = 2.31 lứa/nái/năm Tổng số heo con cai sữa/nái/năm: 2.31 *10 con = 23.1 heo con cai sữa /nái/năm. Qua ví dụ trên, ta thấy khi Chu kỳ lứa đẻ tăng thêm 7 ngày thì sẽ giảm 1.1 con heo con cai sữa/nái/năm. Giả sử trại có 600 nái sinh sản, thì tổng số heo con cai sữa của trại sẽ giảm là 660 con heo con cai sữa/năm (600 nái x 1.1 con = 660), tương đương 94.28 con heo con cai sữa tính trên mỗi ngày tăng thêm trong Chu kỳ lứa đẻ. Như vậy, Chu kỳ lứa đẻ có ảnh hưởng lớn đến của năng suất sản xuất của trang trại. Do đó, chủ trang trại cần phải giảm Chu kỳ lứa đẻ của trang trại. 5. Một số nhân tố ảnh hưởng tới Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại Trong các giai đoạn sản xuất của nái thì thời gian mang thai ít biến động và thường dao động từ 112 đến 116 ngày. Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của từng nái và chung của Trại bị ảnh hưởng bởi một số chỉ tiêu: Số ngày nuôi con, số ngày lên giống sau cai sữa. Dưới đây xem xét ảnh hưởng của từng nhân tố đến Chu kỳ lứa đẻ và Hệ số lứa đẻ/nái/năm: 1) Thời gian nuôi con (số ngày cai sữa): Thời gian nuôi con ảnh hưởng rất lớn đến Chu kỳ lứa đẻ và Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại và ảnh hưởng đến năng suất của trang trại. Khi tăng một ngày nuôi con thì Chu kỳ lứa đẻ tăng thêm một ngày nhưng Hệ số lứa đẻ/nái/năm của Trang trại giảm đi gần 1 phần trăm. Đây là một trong những nhược điểm của việc tăng số ngày nuôi con (ngày cai sữa). Tuy nhiên, trên thực tế nếu tăng số ngày nuôi con thì trọng lượng heo con cai sữa tốt hơn. Vì vậy trang trại cần giảm số ngày nuôi con nhưng vẫn đảm bảo được trọng lượng heo con cai sữa tốt. 2) Khoảng thời gian cai sữa đến phối và đậu thai: Thông số này cũng có ảnh hưởng lớn đến chu kỳ lứa đẻ của nái và chu kỳ lứa đẻ của Trang trại. Chủ yếu bởi hai chỉ số: khoảng thời gian cai sữa – phối giống và các tổn thất sinh sản do sẩy thai và nái không bầu… 3)Thời gian nái sau cai sữa đến lên giống: Nếu khoảng thời gian này càng dài thì Chu kỳ lứa đẻ càng lớn. Do vậy, Chủ trang trại cần phải giảm đến mức tối thiểu tỷ lệ nái chậm lên giống (không quá 7 ngày). Nếu nái sau 7 ngày không lên giống sau cai sữa thì nái đó được xếp loại nái có “vấn đề” và cần có giải pháp xử lý kịp thời. 4)Vấn đề sinh sản (sẩy thai, không bầu): Như chúng ta đã biết, mỗi khi nái có “vấn đề” sinh sản sẽ đưa đến khoảng thời gian đẻ tệ hơn, số ngày không làm việc (NPD) của nái sẽ lớn hơn. Ví dụ, một con nái bị sẩy thai ở gian đoạn 55 ngày sau khi phối và sau đó được phối lại sau 25 ngày. Như vậy tổng số ngày nái không làm việc là 80 ngày, điều này sẽ ảnh hưởng đến khoảng thời gian đẻ nhiều hơn 4 lần so với nái lên giống sau 20 ngày. Do vậy, chủ trang trại cần làm giảm số ngày không làm việc (NPD) của nái và của toàn trang trại càng thấp càng tốt. 6. Một số giải pháp giảm Chu kỳ lứa đẻ Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp giảm Chu kỳ lứa đẻ: 1) Phải đảm bảo thể trạng nái tốt liên tục, tránh biến đổi lớn về thể trạng giữa thời gian mang thai và nuôi con; 2) Đảm bảo nhiệt độ trong chuồng ổn định, phù hợp, tránh nhiệt độ quá cao. Sử dụng các hệ thống làm mát hiệu quả trong những ngày hè có nhiệt độ cao; 3) Cung cấp nước đầy đủ cho nái uống, cho ăn nhiều lần/ngày (ví dụ 3-4/lần/ngày). Những ngày nóng bức, nên cho ăn lúc sáng sớm và chiều tối; 4) Đối với những nái đẻ nhiều con, Chủ trại nên tách những con có trọng lượng lớn nhất sang bày khác và nên để nuôi ít nhất 7 heo con mỗi lứa. Không nên để nái nuôi quá ít con, nái có thể lên giống sớm trong lúc nuôi con; 5) Sử dụng sản phẩm SowStart cho nái ăn trong thời gian nuôi con (từ ngày thứ 7 đến khi cai sữa) và sản phẩm LitterStart sau khi nái cai sữa cho đến khi nái được phối. Hai sản phẩm SowStart và LitterStart nằm trong danh mục được phép nhập khẩu và kinh doanh tại Việt Nam do Hợp tác xã Dịch vụ chăn nuôi Xuân Phú (địa chỉ xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) nhập khẩu từ Canada và Công ty TNHH Dịch vụ Nông nghiệp An Phú (địa chỉ tại thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội) là nhà phân phối khu vực phía Bắc. Tóm lại người chăn nuôi cần nên chú ý đến Chu kỳ đẻ của trại, phân tích và truy suất các nguyên nhân làm ảnh hưởng xấu và từ đó cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục hậu quả. Trong tình trạng chăn nuôi tại Việt nam hiện nay Chu kỳ đẻ trung bình khoảng từ 2.1 đến 2.35, nếu chúng ta biết cách quản lý tốt hệ số này có thể tăng lển từ 2.45 đến 2.55./. Tác giả: Phan Văn Danh GĐ HTX Dịch vụ Chăn nuôi Xuân …
| Tin mới | admin | 04/01/2017 | | Ngành Nông nghiệp quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ năm 2017 | Ngày 28/12, bên lề Hội nghị Chính phủ với các địa phương, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường về những kết quả ngành đạt được trong năm 2016 và những thách thức đặt ra cho lĩnh vực trụ đỡ của nền kinh tế này trong năm 2017. Xin Bộ trưởng đánh giá khái quát những mặt đạt được của ngành nông nghiệp trong năm qua? Có thể nói, năm 2016 là năm khó khăn cho ngành Nông nghiệp. Từ đầu năm cho đến những ngày cuối năm, diễn biến thiên tai diễn ra rất khốc liệt ở tất cả 7 vùng kinh tế xã hội. Đầu năm là đợt rét lịch sử của 14 tỉnh miền núi phía Bắc, giữa năm là tình trạng hạn hán ở các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên và đợt mặn lịch sử của Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, từ tháng 10 – 12/2016 đã xảy ra 5 trận lũ liên tiếp ở Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Tổng thiệt hại về thiên tai trong năm 2016 đã lên tới 39.000 tỷ đồng. Thiên tai khắc nghiệt cùng với sự cố môi trường ở 4 tỉnh miền Trung cho thấy năm 2016 là một năm khốc liệt, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi đánh giá năm 2016 có được thuận lợi cơ bản là sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, các cấp các ngành, đặc biệt là các địa phương, các thành phần kinh tế và sự cố gắng vượt bậc của bà con nông dân. Nhờ vậy, ngành Nông nghiệp đã đạt được một số kết quả, trước hết là sự phục hồi đà tăng trưởng. Nếu như trong 6 tháng đầu năm 2016 là âm 0,18%, thì tính đến cả năm đã đạt được một con số tăng trưởng là 1,36%. Cùng với đó, năm nay chúng ta cũng đạt được một giá trị xuất khẩu vượt bậc, 32,1 tỷ USD. Đây là một kết quả rất khả quan, góp phần khắc phục những khó khăn do thiên tai gây ra đồng thời tạo đà phát triển cho năm tới. Nguyên nhân có được kết quả bước đầu này, theo tôi, trước hết, đó là sự cố gắng chung của cả hệ thống chính trị. Thứ hai là do những thành quả của quá trình tái cơ cấu nông nghiệp bước đầu đưa lại. Tất cả các ngành kinh tế mũi nhọn, từ chăn nuôi, trồng trọt, rau quả đã đem lại kết quả bằng việc hình thành vùng sản xuất tập trung, trong đó nòng cốt là các doanh nghiệp, các hợp tác xã cùng với sự sáng tạo của các hộ nông dân trên cả vùng kinh tế xã hội của chúng ta. Đây là những điểm góp phần tạo ra những kết quả bước đầu trong năm 2016. Trong năm tới, mục tiêu Thủ tướng đặt ra cho ngành Nông nghiệp rất lớn, vậyà ngành sẽ phải triển khai như thế nào để đạt được? Ngành nông nghiệp đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, nhưng thách thức trong năm 2017 là còn rất lớn, thậm chí có những mặt khắc nghiệt hơn năm 2016. Thứ nhất là cạnh tranh quyết liệt của thị trường nông sản thế giới. Các nước có xu hướng bảo hộ mậu dịch hơn, đặc biệt là những thị trường truyền thống nông sản của chúng ta như EU, Mỹ, một số nước khác. Đây sẽ là một thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nông nghiệp hướng xuất khẩu của nước ta. Thứ hai, diễn biến của biến đổi khí hậu năm nay đã có những biểu hiện rất rõ là rất mới và tàn khốc hơn năm 2016. Ví dụ: 9 đợt gió mùa Đông Bắc trong năm nay đã có 6 đợt lệch Đông, đổ thẳng vào Nam Trung bộ và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một hiện tượng dị thường của thời tiết, cũng chính là nguyên nhân gây ra 5 đợt lũ liên tiếp ở Nam Trung bộ. Thêm một hiện tượng lạ nữa là những ngày cuối năm, TP Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long đã có những ngày mưa phùn rét. Lượng mưa ở đồng bằng sông Cửu Long lớn hơn nhiều so với những năm trước. Đây là những biểu hiện bất thường của thời tiết kéo theo việc đảo lộn cơ cấu sản xuất truyền thống. Cùng với đó là những nút thắt nội tại của ngành nông nghiệp như: cơ chế, đất đai, quản lý chung chưa tháo gỡ được. Đây là những thách thức rất lớn của ngành Nông nghiệp. Đối với mục tiêu Chính phủ đặt ra cho ngành Nông nghiệp nói chung, cho khu vực quản lý Nhà nước nói riêng, tôi cho rằng cần phải có quyết tâm hơn và biện pháp đồng bộ hơn mới có thể đạt được mục tiêu đó. Trước hết là vấn đề quản lý ngành, phải rà soát từ Trung ương đến địa phương để làm sao có một sự đổi mới theo hướng quyết liệt, tập trung tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp và thuận lợi thông thoáng hơn cho người dân. Thứ hai, cần tập trung vào một trong những nội dung rất lớn của ngành, đó là tái cơ cấu nông nghiệp, trong đó cần rà soát cụ thể 10 mặt hàng chính của quốc gia có giá trị xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên. Theo đó, phải rà soát lại việc quy hoạch từ những nhóm giải pháp, thể chế, cơ chế, chính sách cho đến xác định những doanh nghiệp hạt nhân để từ đó xây dựng vùng nguyên liệu, đẩy nhanh hơn ứng dụng khoa học công nghệ, làm sao để tập trung phát triển 10 mặt hàng có giá trị quốc gia lớn với mục tiêu không chỉ tăng trưởng nhanh mà còn tạo ra điều kiện bền vững. Ở nhóm sản phẩm cấp tỉnh, ngành cần cùng với các tỉnh phối hợp xây dựng những vùng nguyên liệu, xác định những đối tượng lợi thế của từng tỉnh, từ đó tập trung nhóm giải pháp tổng thể vào để đưa những mặt hàng này thành những mặt hàng chủ lực của địa phương, làm sao tham góp vào chuỗi sản xuất sâu và cùng với những mặt hàng quốc gia để tăng thêm khối lượng xuất khẩu. Đối với các sản phẩm cấp độ địa phương, cần khai thác tối đa các tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên sinh học cùng với tài nguyên đất đai cùng với lao động sáng tạo của bà con nông dân để hình thành thêm một trục sản phẩm nữa đó là sản phẩm đặc sản mang tính vùng miền địa phương, theo chương trình mỗi làng một sản phẩm. Với ba hướng phát triển sản phẩm này, hướng tái cơ cấu phải tập trung rất sâu, cụ thể thì mới đưa được những nhóm mặt hàng mang tính lợi thế của Việt Nam trong hội nhập. Cùng với đó là chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành bộ tiêu chí mới theo hướng sáng tạo hơn, gần gũi với từng vùng miền để làm sao huy động được sức mạnh của cả xã hội cùng nguồn ngân sách Trung ương tập trung vừa được phân bổ trong trung hạn để xây dựng Chương trình mục tiêu Quốc gia về nông thôn mới phát triển một cách nhanh hơn, bền vững hơn. Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng! Theo …
| Tin mới | admin | 03/01/2017 | | Thông tư số 36/2016/TT-BNNPTNT ngày 26/12/2016 sửa đổi, bổ sung Điều 4 Thông tư 06/2016/TT-BNNPTNT ngày 31/5/2016 ban hành Danh mục, hàm lượng kháng sinh được phép sử dụng trong thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm với mục đích kích thích sinh trưởng tại Việt Nam | Thông tư số 36/2016/TT-BNNPTNT ngày 26/12/2016 sửa đổi, bổ sung Điều 4 Thông tư 06/2016/TT-BNNPTNT ngày 31/5/2016 ban hành Danh mục, hàm lượng kháng sinh được phép sử dụng trong thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm với mục đích kích thích sinh trưởng tại Việt …
| Thông tư | admin | 29/12/2016 | | Tăng cường hàng rào kỹ thuật đối với thịt nhập khẩu | (Mard – 21/12/2016) Ngày 21/12, ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, việc nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi vào Việt Nam là việc hoàn toàn bình thường, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, việc này sẽ ảnh hưởng đến giá cả và thị trường trong nước. Do đó, ông Vân cho rằng, để kiểm soát tốt chất lượng sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu cũng như ổn định thị trường trong nước, các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường hàng rào kỹ thuật đối với các sản phẩm này khi nhập khẩu vào Việt Nam phải đảm bảo chất lượng tốt, giá thành hợp lý… Mặt khác, ngành chăn nuôi trong nước cũng phải cải tiến kỹ thuật để giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm chăn nuôi. Ông Hoàng Thanh Vân cho biết, đến thời điểm hiện nay, tại khu vực Đông Nam bộ đã có những doanh nghiệp sản xuất được sản phẩm chăn nuôi với giá thành rất thấp. Cụ thể, giá gà trắng chỉ khoảng 20.000 đồng/kg, hiện Cục Chăn nuôi đang cố gắng tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể giảm xuống còn 19.000 đồng/kg. Như vậy giá gà của Việt Nam đã ngang bằng với Mỹ, trong khi đó Việt Nam có lợi thế hơn – ông Vân cho biết thêm. Đối với sản phẩm thịt lợn lâu nay tại thị trường trong nước có giá khoảng 38.000 – 40.000 đồng/kg. Tuy nhiên, gần đây đã có sự liên kết mới tạo ra giá thành khoảng 35.000 – 36.000 đồng/kg. Trong tương lai gần, Cục Chăn nuôi sẽ xây dựng chuỗi liên kết với giá thành thịt lợn chỉ còn khoảng 30.000 đồng/kg. Điều này rất có lợi cho người chăn nuôi cũng như người tiêu dùng. Đặc biệt, các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam có thể cạnh tranh được với sản phẩm ngoại nhập. Tính đến hết năm 2016, lượng thịt gà nhập khẩu vào Việt Nam chỉ khoảng 30.000 – 40.000 tấn, thịt lợn khoảng hơn 100.000 tấn, thịt bò khoảng 90.000 tấn. Như vậy, so với tổng sản lượng thịt của Việt Nam là 6 – 7 triệu tấn thì lượng sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu vào Việt Nam là không lớn./. Nguồn: Thông tấn xã Việt …
| Tin mới | admin | 23/12/2016 | | Công văn số 1943 /CN-TĂCN ngày 20 tháng 12 năm 2016 về việc phương pháp phân tích vitamin B12 | Kính gửi: – Các đơn vị sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi – Các PTN được chỉ định phân tích chất lượng TACN Qua việc kiểm tra chất lượng đối với các mặt hàng TACN có chứa vitamin B12, Cục Chăn nuôi đã phát hiện có sự sai khác khá lớn về kết quả thử nghiệm hàm lượng vitamin B12 giữa các phương pháp phân tích. Nhằm thống nhất kết quả thử nghiệm, đánh giá chính xác hàm lượng vitamin B12 trong các sản phẩm TACN và tránh việc tranh chấp trong xử lý các vi phạm về hoạt động kinh doanh TACN, Cục Chăn nuôi yêu cầu các đơn vị liên quan lưu ý thực hiện các nội dung sau đây: 1) Việc phân tích xác định hàm lượng vitamin B12 trong sản phẩm TACN phục vụ quản lý nhà nước chỉ thực hiện theo phương pháp trên thiết bị sắc ký (HPLC, LC/MS…). 2) Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh TACN phải công bố chất lượng sản phẩm về hàm lượng vitamin B12 theo phương pháp phân tích dựa trên thiết bị sắc ký hoặc phương pháp tương đương. 3) Các trường hợp TACN nhập khẩu đã công bố hàm lượng vitamin B12 theo phương pháp khác mà đã được Cục Chăn nuôi tiếp nhận Hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng trước ngày 20 tháng 01 năm 2017 thì được xác nhận chất lượng theo phương pháp đã công bố. Yêu cầu các đơn vị nghiêm túc thực hiện./. Nơi nhận:– Như trên;- TT. Vũ Văn Tám (để b/c);- Cục trưởng (để b/c);- Lưu: VT, TĂCN. KT. CỤC TRƯỞNG PHÓ CỤC TRƯƠNG (Đã ký) Nguyễn Xuân …
| Tin mới | admin | 22/12/2016 | | Công văn số 1943 /CN-TĂCN ngày 20 tháng 12 năm 2016 về việc phương pháp phân tích vitamin B12 | Kính gửi: – Các đơn vị sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi – Các PTN được chỉ định phân tích chất lượng TACN Qua việc kiểm tra chất lượng đối với các mặt hàng TACN có chứa vitamin B12, Cục Chăn nuôi đã phát hiện có sự sai khác khá lớn về kết quả thử nghiệm hàm lượng vitamin B12 giữa các phương pháp phân tích. Nhằm thống nhất kết quả thử nghiệm, đánh giá chính xác hàm lượng vitamin B12 trong các sản phẩm TACN và tránh việc tranh chấp trong xử lý các vi phạm về hoạt động kinh doanh TACN, Cục Chăn nuôi yêu cầu các đơn vị liên quan lưu ý thực hiện các nội dung sau đây: 1) Việc phân tích xác định hàm lượng vitamin B12 trong sản phẩm TACN phục vụ quản lý nhà nước chỉ thực hiện theo phương pháp trên thiết bị sắc ký (HPLC, LC/MS…). 2) Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh TACN phải công bố chất lượng sản phẩm về hàm lượng vitamin B12 theo phương pháp phân tích dựa trên thiết bị sắc ký hoặc phương pháp tương đương. 3) Các trường hợp TACN nhập khẩu đã công bố hàm lượng vitamin B12 theo phương pháp khác mà đã được Cục Chăn nuôi tiếp nhận Hồ sơ đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng trước ngày 20 tháng 01 năm 2017 thì được xác nhận chất lượng theo phương pháp đã công bố. Yêu cầu các đơn vị nghiêm túc thực hiện./. Nơi nhận:– Như trên;- TT. Vũ Văn Tám (để b/c); – Cục trưởng (để b/c); – Lưu: VT, TĂCN. KT. CỤC TRƯỞNG PHÓ CỤC TRƯƠNG (Đã ký) Nguễn Xuân …
| Công văn | admin | 22/12/2016 | | Lời kêu gọi đặc biệt của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc | Chinhphu.vn) – Gói 60 nghìn tỷ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao là gói tín dụng đầu tiên được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc quyết định dành cho một lĩnh vực cụ thể. Tại hội nghị về xây dựng nền công nghiệp nông nghiệp Việt Nam vừa diễn ra, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã quyết định gói tín dụng lên tới 60 nghìn tỷ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao. Quyết định nhanh chóng này của Thủ tướng đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của các đại biểu tại hội nghị và cả cộng đồng doanh nghiệp nói chung. Cùng với đó, Thủ tướng cũng nhất trí với các ý kiến là cần thiết phải sửa điều 193 Luật Đất đai về điều kiện nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và Thông tư 23 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về đất đai để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp. Theo các chuyên gia, tín dụng và đất đai chính là hai rào cản lớn nhất hiện nay để các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Hiện chỉ có khoảng 3.643 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, trên tổng số gần nửa triệu doanh nghiệp của cả nước, tức chưa tới 1%. Một số liệu từ TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn cho thấy có đến 63% doanh nghiệp nông nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận đất đai, trong đó 46% rất khó khăn; về tín dụng, có đến 70% doanh nghiệp khó tiếp cận. Vì vậy, trong số nhiều quyết định của Thủ tướng tại Hội nghị, có thể nói những chỉ đạo của Thủ tướng liên quan tới nguồn tín dụng và cơ chế tích tụ đất đai đã điểm trúng những “yết hầu” của ngành Nông nghiệp. Đây có thể coi là “cú hích” đặc biệt, là lời kêu gọi mạnh mẽ, thiết thực nhất từ Thủ tướng, Chính phủ đối với các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao. Nhưng điều đáng mừng hơn nữa, là chỉ đạo của Thủ tướng trong việc xóa bỏ cơ chế xin cho. “Chính phủ sẽ bỏ ngay cơ chế xin cho trong đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, thay vào đó là khuyến khích và hỗ trợ đầu tư”, Thủ tướng cho biết. Cụ thể hơn, sẽ không có chuyện chỉ một ngân hàng “độc quyền” trong gói tín dụng hàng chục nghìn tỷ, mà nhiều ngân hàng thương mại cùng tham gia, mục đích là chống tiêu cực, chi phí không chính thức, cơ chế vay thuận lợi, thông thoáng nhất. Ngay tại hội nghị, nhiều doanh nghiệp lớn đã tỏ rõ quyết tâm đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, từ xe hơi Trường Hải, thép Hòa Phát, Vingroup và cả FPT. Nhưng cùng với đó, Thủ tướng cũng nêu rõ thông điệp: Không phải địa phương nào được quy hoạch trong các vùng nông nghiệp công nghệ cao thì mới được phép đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Thay vào đó, cần phải bảo đảm rằng mọi nông dân Việt Nam bất kể vùng miền nào, bất kể quy mô nào, tính chất như thế nào cũng được khuyến khích áp dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Có thể thấy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang hết sức kỳ vọng vào sự phát triển mạnh mẽ và gia tốc của nền nông nghiệp Việt Nam. Theo Thủ tướng, khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ diễn ra rất quyết liệt trên toàn cầu thì Việt Nam có 3 thế mạnh rất quan trọng, một là nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao, hai thế mạnh còn lại là công nghệ thông tin và du lịch. Nông nghiệp là thế mạnh của Việt Nam, điều đó không phải bàn cãi. Nhưng trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, đúng như nhận định của Thủ tướng, đó phải là nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao mới có thể cạnh tranh. Kể từ khi nhậm chức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã rất nhiều lần trăn trở về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp được coi là trụ đỡ của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua và đã đạt được thành tựu kỳ tích từ sau Đổi mới. Thế nhưng hàng loạt rào cản đang khiến nông nghiệp Việt Nam chưa thể phát triển mạnh mẽ tương xứng với tiềm năng. Phát biểu tại Học viện Nông nghiệp mới đây, Thủ tướng cũng đặt câu hỏi, “chúng ta cần làm gì để nông nghiệp Việt Nam sẽ là một hình mẫu vươn ra chứ không phải bị bỏ lại phía sau”. Nông nghiệp Việt Nam tất yếu có vai trò chiến lược trong mục tiêu đưa nước ta thoát bẫy thu nhập trung bình và vươn lên trong tiến trình toàn cầu hóa, xác lập chỗ đứng vững chắc trong các chuỗi giá trị khu vực và quốc tế. Với những quyết sách rất nhanh chóng và mạnh mẽ của Thủ tướng, có thể kỳ vọng rằng những vướng mắc với nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao, sẽ sớm được tháo gỡ, một giai đoạn phát triển mới của nền nông nghiệp, đưa Việt Nam trở thành trung tâm cung ứng sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, đứng trong nhóm các quốc gia nông nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Hà …
| Tin mới | admin | 21/12/2016 | | Xây dựng ‘Thung lũng thực phẩm an toàn’ tại Đồng Nai, Bình Phước | (Chinhphu.vn) – Dự án này nhằm cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu thực phẩm sạch, an toàn và có truy xuất nguồn gốc theo dạng chăn nuôi khép kín từ giai đoạn con giống cho đến thành phẩm. Công ty TNHH Thương mại xuất khẩu tổng hợp và dịch vụ Hùng Nhơn (tỉnh Bình Phước) và Công ty TNHH De Heus (tỉnh Bình Dương) vừa ký kết hợp tác cùng xây dựng và phát triển dự án “Thung lũng thực phẩm an toàn” ở tỉnh Bình Phước và Đồng Nai, TTXVN cho biết. Dự án này được xây dựng nhằm cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu thực phẩm sạch, an toàn và có truy xuất nguồn gốc theo dạng chăn nuôi khép kín từ giai đoạn con giống cho đến thành phẩm. Cụ thể, sẽ có 6 sản phẩm nông sản được xây dựng trong chuỗi dự án “Thung lung thực phẩm an toàn”, gồm thịt lợn, thịt gà, trứng gà, rau củ quả, một số loại trái cây và phân bón. Sản lượng dự kiến gồm 3 triệu con gà thịt và 1 triệu con gà đẻ, 1.600 con lợn nái và 15.000 con lợn thịt mỗi năm, sản xuất và cung cấp rau, củ, quả với sản lượng 900 tấn/năm. Công ty De Heus đảm nhiệm vai trò làm việc với các đối tác cung cấp đầu vào cho chuỗi như gà giống, lợn giống, thức ăn, tham gia quản lý chuỗi,… nhằm bảo đảm chuỗi thực phẩm này có được đầu vào chất lượng. Công ty sẽ bố trí đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm để hỗ trợ kịp thời cho Công ty Hùng Nhơn trong việc nuôi, trồng và quản lý chuỗi theo cam kết giữa hai bên. Dự án này còn có sự tham gia và đồng hành của công ty chuyên tư vấn quản lý thực phẩm sạch là Fresh Studio Innovatuions Asia (Hà Lan) và nhà chuyên cung cấp con giống là Công ty TNHH Bel Gà (Vương quốc Bỉ). Dự kiến tổng giá trị đầu tư cho chương trình hợp tác là 50 triệu USD (hơn 1.100 tỷ đồng). Với dự án “Thung lũng thực phẩm an toàn”, các bên tham gia mong muốn không chỉ đáp ứng nguồn cung thực phẩm sạch, có truy xuất nguồn gốc cho thị trường nội địa, mà còn có thể xuất khẩu được ức gà Việt Nam trong tương lai …
| Tin mới | admin | 13/12/2016 | | Thông tư số 33/2016/TT-BNNPTNT ngày 31/10/2016 Quy định về trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành và trang phục, thẻ công chức thanh tra chuyên ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn | …
| Thông tư | admin | 07/12/2016 | | Ngành chăn nuôi chủ động hội nhập | Với làn sóng đẩy mạnh xuất khẩu thịt từ các nước châu Âu vào Việt Nam, nhiều DN và người chăn nuôi đang từng bước chủ động hơn để tránh bị cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà. Thịt ngoại ồ ạt “tấn công” Nếu như trước đây, thịt ngoại từ châu Âu, Mỹ, Úc vào Việt Nam với số lượng còn khiêm tốn, thuế cao nên giá thành cũng rất cao thì hiện tại đã gia tăng đáng kể và trong thời gian tới, khi các hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, thuế giảm mạnh chắc chắn thịt ngoại sẽ đẩy mạnh xuất khẩu vào Việt Nam. Bà Carlotta Colli – Tổng Lãnh sự Ý tại TP. Hồ Chí Minh – cho biết, các sản phẩm chế biến từ thịt năm 2015 xuất khẩu từ Ý sang Việt Nam đạt 24 triệu euro, tăng 10% so với năm 2014 và năm 2016 con số này có thể đạt cao hơn. Đã có nhiều DN Việt Nam nhập thịt chế biến từ Ý về thái nhỏ, đóng gói và rất được người tiêu dùng ưa chuộng. Sau thịt chế biến, Ý đang nỗ lực đưa thịt bò (dạng tươi và đông lạnh) sang Việt Nam. Theo ông Knud Buhl – đại diện Hội đồng Nông nghiệp và lương thực Đan Mạch, qua nghiên cứu thị trường, người Việt Nam rất thích ăn thịt heo (chiếm hơn 60% trong cơ cấu tiêu thụ thịt). Ở những thời điểm Việt Nam cung cấp không đủ, đặc biệt là thịt sạch và đây là cơ hội lớn cho các DN nước ngoài. Đại diện một DN chuyên nhập khẩu thịt bò cho biết, những năm gần đây, tốc độ nhập khẩu thịt bò luôn tăng 100%. Nguồn thịt đông lạnh nhập chủ yếu từ Hoa Kỳ, Canada và bò sống nguyên con từ Úc. Đáng chú ý, từ năm ngoái đến nay, thị trường còn xuất hiện thêm nguồn thịt từ các nước EU sau khi Việt Nam dỡ bỏ lệnh cấm. Chủ động hội nhập Ông Đoàn Viết Cường – Tổng giám đốc Công ty CP Thanh niên xung phong (Adeco) – nhìn nhận: Việc thịt ngoại xâm nhập thị trường Việt Nam đang tạo áp lực cạnh tranh rất lớn cho các DN Việt, nhất là những DN nhỏ và cơ sở chăn nuôi nhỏ lẻ. Vì thế, các DN nội phải liên kết với người nuôi, có sự hỗ trợ lẫn nhau, có như vậy ngành chăn nuôi mới không giậm chân tại chỗ. Tại Adeco, mấy năm trở lại đây mô hình liên kết với người nông dân tại một số các tỉnh Bình Phước, Bình Dương… được triển khai rộng rãi. Theo mô hình này, Adeco cung cấp thức ăn, con giống cho người nuôi và bao tiêu sản phẩm. Với cách làm này, DN quản lý được truy xuất nguồn gốc, chất lượng còn người nông dân có đầu ra ổn định. Ông Bạch Đăng Quang – Giám đốc HTX Tân Hiệp – chủ đầu tư Nhà máy Thực phẩm Tân Hiệp (huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh) – cho biết, để tăng sức cạnh tranh cho thịt heo, theo kế hoạch, nhà máy giết mổ heo công nghiệp hiện đại theo chuẩn HACCP của HTX sẽ đi vào hoạt động vào cuối năm 2017 với công suất 2.000 con/ngày. Nhà máy sử dụng công nghệ giết mổ của Đức với kinh phí đầu tư dây chuyền giai đoạn I từ 300 – 500 tỷ đồng nên bảo đảm yêu cầu về an toàn thực phẩm và đạt chuẩn quốc tế. Ngoài ra, HTX đang kết nối với vùng nguyên liệu để kiểm soát từ khâu chăn nuôi. Đồng thời xem xét việc trở thành vệ tinh gia công thịt heo theo yêu cầu của một tập đoàn thực phẩm của Brazil. Báo Công …
| Tin mới | admin | 07/12/2016 | | Thẩm định an toàn sinh học biến đổi gen mức phí 120 triệu đồng/lần | (Chinhphu.vn) – Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 225/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định cấp giấy chứng nhận an toàn sinh học biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi. Tổ chức, cá nhân khi nộp hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận an toàn sinh học biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi phải nộp phí theo quy định tại Thông tư này. Thông tư nêu rõ mức thu phí thẩm định cấp giấy chứng nhận an toàn sinh học biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi là 120.000.000 đồng/lần thẩm định. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là tổ chức thu phí thẩm định cấp giấy chứng nhận an toàn sinh học biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi. Tổ chức thu phí nộp 100% tiền phí thu được vào ngân sách nhà nước. Nguồn chi phí trang trải cho việc thẩm định cấp giấy chứng nhận an toàn sinh học biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi do ngân sách nhà nước bố trí trong dự toán của tổ chức thu theo chế độ, định mức chi ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2017. Khánh …
| Tin mới | admin | 05/12/2016 | | 1. Cấp sổ đăng ký chăn nuôi vịt chạy đồng | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Cá nhân, hộ gia đình chăn nuôi vịt chạy đồng gửi hồ sơ đăng ký cấp Sổ đăng ký chăn nuôi vịt chạy đồng về Ủy ban nhân dân cấp xã. + Bước 2: Thẩm tra hồ sơ. Đối với hồ sơ đạt yêu cầu, Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Sổ đăng ký chăn nuôi vịt chạy đồng. – Cách thức thực hiện: Trực tiếp. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ phải nộp: Đơn đăng ký cấp Sổ đăng ký chăn nuôi vịt chạy đồng (Phụ lục 5 ban hành kèm theo Thông tư số 19/2011/TT-BNNPTNT ngày 06/4/2011 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực chăn nuôi theo Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2010). + Hồ sơ xuất trình: Chứng minh thư nhân dân hoặc Sổ hộ khẩu gia đình. + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: Không quá 01 ngày làm việc kể từ khi nhận được kể từ khi nhận đơn đăng ký của cá nhân, hộ gia đình. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Cá nhân, hộ gia đình. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Ủy ban nhân dân cấp xã. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Sổ đăng ký chăn nuôi vịt chạy đồng. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận: Không. – Lệ phí: Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai: Đơn đăng ký cấp Sổ đăng ký chăn nuôi vịt chạy đồng (Phụ lục 5 ban hành kèm theo Thông tư số 19/2011/TT-BNNPTNT ngày 06/4/2011 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực chăn nuôi theo Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2010). – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính: Không. – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 19/2011/TT-BNNPTNT ngày 06/4/2011 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực chăn nuôi theo Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 15 tháng 12 năm …
| Uncategorized | admin | 03/12/2016 | | I.Thủ tục hành chính lĩnh vực chăn nuôi | Thủ tục hành chính lĩnh vực chăn …
| Uncategorized | admin | 03/12/2016 | | Không phát hiện Salbutamol trong các mẫu thịt kiểm nghiệm | Trong 4 tháng gần đây (từ tháng 7-10.2016), Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Bộ NNPTNT) không phát hiện Salbutamol trong các mẫu thịt kiểm nghiệm. Đây là kết quả tích cực sau hơn 1 năm các lực lượng chức năng của Bộ NN&PTNT và các bộ ngành liên quan quyết liệt vào cuộc để ngăn chặn, xử lý triệt để hành vi đưa chất cấm Salbutamol vào chăn nuôi. Kết quả giám sát trên diện rộng do các cơ quan trung ương và địa phương thực hiện 11 tháng đầu năm cho thấy, tỷ lệ mẫu thịt tươi vi phạm chất cấm Salbutamol là 1,27%, giảm so với năm 2015 (2,53%), đặc biệt trong 4 tháng gần đây (từ tháng 7-10.2016) không phát hiện Salbutamol trong các mẫu thịt kiểm nghiệm. Trong năm 2016, Bộ đã chỉ đạo các địa phương tổ chức phong trào nói không với chất cấm, trong đó có sự cam kết của người chăn nuôi, người sản xuất thức ăn chăn nuôi không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi. Có 63/63 tỉnh đã thực hiện với tổng số hơn 500.000 hộ chăn nuôi ký cam kết (kế hoạch ban đầu 100.000 hộ). Cùng với Salbutamol, tỷ lệ mẫu rau, quả vi phạm chỉ tiêu dư lượng thuốc BVTV vượt mức giới hạn cho phép là 3,15%, giảm so với năm 2015 (8,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ mẫu thủy sản nuôi vi phạm chỉ tiêu hóa chất, kháng sinh cấm và vượt giới hạn cho phép là 2,8%, tăng so với năm 2015 (0,89%); tỷ lệ các sản phẩm chế biến chứa tồn dư hóa chất phụ gia, chất bảo quản còn ở mức cao (thủy sản chế biến là 12,84%, thịt chế biến 8,18%, thực vật chế biến là 11,7%). Bộ NN&PTNT đã phối hợp với UBND TP.Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh tiếp tục triển khai chương trình phối hợp phát triển chuỗi cung ứng rau, thịt an toàn an toàn. Tại TP.Hà Nội, đã xây dựng và duy trì 60 chuỗi liên kết an toàn thực phẩm. Tại TP. Hồ Chí Minh, đã cấp 97 giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia “chuỗi thực phẩm an toàn” cho 45 cơ sở với tổng sản lượng 34.699 tấn/năm. Các cơ sở này đã liên kết, hình thành và duy trì 36 chuỗi liên kết cung ứng nông sản thực phẩm an toàn. Đã có 401 điểm kinh doanh đăng ký công bố điểm kinh doanh sản phẩm an toàn. Để mở rộng Chương trình phối hợp phát triển chuỗi cung ứng rau, thịt an toàn cho các đô thị lớn, Bộ đã ban hành Quyết định thành lập Ban Điều phối và tổ công tác giúp việc Ban điều phối Chương trình chuỗi cung ứng rau, thịt an toàn cho TP.Đà Nẵng. Theo Danviet.vn – Báo Nông thôn ngày …
| Tin mới | admin | 30/11/2016 | | Thông báo số 39/TB-CN-VP Danh sách thí sinh dự kiến trúng tuyển trong kỳ xét tuyển viên chức năm 2016 của Cục Chăn nuôi | …
| Thông tin tuyển dụng 2016 | admin | 28/11/2016 | | Thông báo số 38/TB-CN-VP ngày 28/11/2016 về việc Kết quả xét tuyển viên chức năm 2016 của Cục Chăn nuôi | …
| Thông tin tuyển dụng 2016 | admin | 28/11/2016 | | Thúc đẩy hợp tác nông nghiệp giữa Việt Nam – Ôxtrâylia | Trong 2 ngày (22-23/11), Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh và ông David John Parker, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Nguồn nước Ôxtrâylia cùng chủ trì đối thoại chính sách nông nghiệp cấp cao Việt Nam – Ôxtrâylia. Đây là cuộc đối thoại chính sách nông nghiệp cao cấp đầu tiên giữa hai Bộ nhằm xây dựng các mối quan hệ hợp tác về sản xuất, thương mại nông sản, hướng tới một nền nông nghiệp phát triển bền vững. Tại buổi đối thoại, hai bên trao đổi chính sách liên quan tới đào tạo, nghiên cứu khoa học và thương mại trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và phương hướng hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới.Việt Nam hiện là bạn hàng thứ 15 của Ôxtrâylia, ngược lại Ôxtrâylialà bạn hàng thứ 8 của Việt Nam. Kim ngạch thương mại giữa 2 nước luôn tăng khá trong những năm qua, từ mức 32,3 triệu đô la năm 1990 lên 5,1 tỷ đô la năm 2013 và xấp xỉ 6 tỷ đô la trong năm 2014. Hai bên đều là quốc gia sản xuất và xuất khẩu lớn các sản phẩm nông nghiệp. Trong năm 2015 kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Ôxtrâyliacủa Việt Nam đạt khoảng 500 triệu USD và Việt Nam nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản, vật tư từ Ôxtrâyliavới trị giá gần tương đương 500 triệu USD. Nói về quan hệ hợp tác với Ôxtrâylia, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đánh giá: “Ôxtrâylialuôn là đối tác quan trọng trong phát triển nông nghiệp. Nhiều chương trình hợp tác lớn đã và đang được thực hiện như: giải quyết nước sạch ở nông thôn, hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu, đặc biệt là nơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven biển. Bộ NN&PTNT mong muốn phía Ôxtrâyliatiếp tục chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng chính sách và thị trường nông sản để cùng tháo gỡ nhưng khó khăn vướng mắc thúc đẩy quan hệ thương mại nông sản giữa 2 bên. Chia sẻ với người đồng cấp, ông David John Parker, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Nguồn nước Ôxtrâyliamong muốn thông qua đối thoại các lĩnh vực hợp tác giữa Ôxtrâyliavà Việt Nam được nâng lên tầm cao mới, qua đó chuyển từ hỗ trợ sang cơ chế đối thoại nhằm tháo gỡ những vướng mắc về chính sách, thị trường nông sản xuất khẩu góp phần nâng cao quan hệ hợp tác toàn diện giữa 2 bên. “Hai quốc gia có sự khác biệt nhiều về vị trí địa lý một bên là Bắc một bên là Nam cho nên cần phải ngồi lại với nhau hội đàm để tìm ra những khác biệt để đi đến đồng thuận. Đây là diễn đàn để 2 bên kết nối sự hợp tác toàn diện, tăng cường năng lực tiếp cận thị trường nông sản của 2 quốc gia. Đồng thời thảo luận những cách thức để nâng cao chất lượng hàng nông sản đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu của 2 bên” – ông David Kater khẳng định. Đại diện tham tán thương mại nông sản Ôxtrâyliatại Việt Nam cho biết, trong những năm qua Ôxtrâyliaxuất khẩu nhiều đại gia súc sang Việt Nam, tiếp đến là sản phẩm sữa. Về hoa quả, Ôxtrâyliaxuất khẩu sang Việt Nam nho, cam quýt. Phía Ôxtrâyliađang xem xét hỗ trợ người dân các tỉnh phía Bắc về vấn đề sản xuất, tham gia thị trường nông sản, nhất là việc khởi nghiệp với các nữ doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Về hợp tác kinh doanh nông nghiệp, phía Ôxtrâyliađã có nhiều chương trình hợp tác về lâm nghiệp, thủy sản, chăn nuôi… Trong 20 năm qua, Ôxtrâyliađã tham gia nghiên cứu giống bạch đàn, keo để phát triển rừng trồng và hiện nay đang phát huy kết quả tốt, đóng góp rất lớn vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ, năm 2015 đạt 7,2 tỷ USD. Hiện Ôxtrâyliacũng đang thúc đẩy đầu tư, thúc đẩy ứng dụng KHCN trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, bò sữa với Việt Nam. Ngược lại, trong tháng 10/2016, Tập đoàn An Vinh của Việt Nam cũng đã đầu tư sang Ôxtrâylia, mua khoảng 2.300km2 đất để chăn nuôi đại gia súc. Thảo luận với phía bạn, ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật nhận định, trong 2 năm 2015-2016 thương mại nông sản Việt Nam và Ôxtrâylia tăng trưởng khá tốt. Sau khi Việt Nam mở cửa lại cho cam, quýt và nho của Úc vào thị trường Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này đã tăng mạnh. Trong 9 tháng đầu năm 2016, nhập khẩu hàng rau quả từ Ôxtrâylia đạt giá trị 35 triệu USD, tăng 166%; Việt Nam cũng nhập khẩu bông (tăng 80%), lúa mì… từ Ôxtrâylia. Trong khi đó, xuất khẩu rau quả Việt Nam sang Ôxtrâylia đạt gần 17 triệu USD, tăng 21%. Trong vụ vải vào tháng 6/2016, Việt Nam đã xuất khẩu sang Ôxtrâylia 30 tấn vải thiều và từ tháng 7/2016 đến nay hơn 10 tấn xoài Việt Nam đã được xuất khẩu vào Ôxtrâylia, góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại nông sản giữa hai nước. Về sản phẩm chăn nuôi, bà Nguyễn Thu Thủy, Phó Cục trưởng Cục Thú y nhận định, cán cân thương mại đang lệch về phía Ôxtrâylia. Việt Nam nhập khẩu nhiều bò từ Ôxtrâylia nhưng chưa xuất khẩu được sản phẩm động vật nào sang Ôxtrâylia. Trong khi đó, ông Trần Đình Luân, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho rằng, Việt Nam có thế mạnh về nuôi trồng và khai thác thủy sản. Ông mong muốn Việt Nam có thể xuất khẩu tôm nguyên con sang Ôxtrâylia; đồng thời hai bên sẽ có nhiều chương trình hợp tác về tiếp nhận, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sản xuất tôm sú giống; công nghệ cao trong nuôi trồng thủy sản… nhằm phát triển các đối tượng nuôi đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn về môi trường, dịch bệnh và an sinh xã …
| Tin mới | admin | 23/11/2016 | | Chỉ thị số 9407/CT-BNN-CN ngày 8/11/2016 v/v Phòng chống đói, rét cho gia súc trong vụ Đông – Xuân 2016-2017 | …
| Chỉ Thị | admin | 21/11/2016 | | Nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc tăng mạnh trong quý 3/2016 | Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN-PTNT Tổng khối lượng thịt xẻ nhập khẩu vào Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2016 là 1,28 triệu tấn, tăng gấp trên 2 lần so với năm 2015. Nhập khẩu thịt lợn của Trung Quốc năm nay tăng mạnh là do sản lượng thịt lợn sản xuất trong nước giảm mạnh so năm ngoái do nước này tái cấu trúc đàn lợn giống cho hợp lý hơn và đánh thuế cao đối về môi trường đối với các cơ sở chăn nuôi lợn và đây chính là lý do cản trở cơ sở chăn nuôi tăng quy mô đàn lợn. Cầu tăng cao so cung về thịt lợn ở nước này đã đẩy giá thịt lợn đạt đỉnh vào tháng 6/2016, sau đó có giảm nhưng vẫn duy trì giá ở mức cao. Thời tiết nóng đã làm giảm nhu cầu tiêu dùng thịt lợn trong những tháng mùa hè, trong khi tỷ lệ lợn đem giết mổ vẫn tăng gấp đôi, đã góp phần làm giảm giá thịt lợn xuống. Tuy nhiên, giá xuất khẩu trung bình đối với thịt lợn vẫn tăng 19% so với cùng kỳ năm 2015 và vẫn là thị trường nhập khẩu lớn cho những quốc gia chính xuất khẩu thịt lợn vào Trung Quốc lợi dụng tăng giá ở điểm này. Nhập khẩu thịt lợn vào Trung Quốc trong 9 tháng năm 2016 Nguồn nhập Nhập khẩu thịt lợn xẻ (1000 tấn) T1-T9/2014 T1-T9/2015 T1-T9/2016 Tổng 423,7 518,3 1.278,5 Tổng phụ EU: 266,6 277,4 873,1 Đức 72,8 137,5 263,0 Tây Ban Nha 68,5 90,3 208,5 Đan Mạch 47,9 51,8 134,7 Anh Quốc 20,4 23,7 32,8 Tổng phụ ngoài EU: 157,0 140,9 405,4 Hoa Kỳ 97,2 82,6 172,2 Canada 40,4 35,7 137,7 Brazil 0,8 0,9 61,0 Chiếm số lượng 873,1 ngàn tấn, EU trở thành nhà cung cấp thịt lợn hàng đầu cho Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2016. Tuy nhiên, tổng lượng này của EU chiếm 68% thị phần thịt lợn nhập vào Trung Quốc, giảm 5% so với cùng kỳ năm 2015. Trong EU, Đức là nước đứng đầu xuất khẩu thịt lợn vào Trung Quốc, tăng 91% hàng năm tính về khối lượng. Tây Ban Nha và Đan Mạch là những nhà nhập khẩu quan trọng, tăng gần gấp đối số lô hàng thịt lợn nhập vào Trung Quốc. Các nước ngoài EU nhập khẩu thịt lợn vào Trung Quốc, tính đến tháng 6/2016 Hoa Kỳ đã nhập tăng trên 2 lần về khối lượng, trong khi Canada đạt gần 4 lần về khối lượng. Brazil đã có sự tiếp cận thị trường thành công, xuất khẩu 61 ngàn tần tới Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2016, chiếm thị phần 5% đối với thị trường Trung Quốc. Nội tạng lợn nhập khẩu cũng tăng mạnh, khoảng 70%/năm, đạt gần một triệu tấn từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2016. Trong khi EU cung cấp tăng 39% thị thị phần của EU là giảm từ 70% xuống 60%. Lý do xuất phát từ nhập khẩu của cả Hoa Kỳ và Canada tăng hơn 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2015. Nguồn: …
| Tin mới | admin | 21/11/2016 | | Hai công ty sử dụng chất cấm bị phạt 800 triệu đồng, đóng cửa một tháng | Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa quyết định xử phạt xử phạt 2 công ty sử dụng chất cấm trong thức ăn chăn nuôi với số tiền phạt 810 triệu đồng và đình chỉ hoạt động trong vòng 1 tháng. Cụ thể, Công ty Cổ phần TM SX Bắc Âu Mỹ (phường Tân Tiến, TP Biên Hòa, Đồng Nai) bị phạt số tiền 470 triệu đồng kèm theo chế tài xử phạt bổ sung là đình chỉ sản xuất thức ăn chăn nuôi trong vòng một tháng. Trong đó, phạt tiền 140 triệu đồng về hành vi sản xuất thức ăn bổ sung CP ADE Calcitin B12 có chứa chất cấm Sabutamol. DN này còn bị phạt thêm số tiền 300 triệu đồng với hành vi sản xuất 10 loại thức ăn chăn nuôi không có trong danh mục thức ăn chăn nuôi được phép sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Đồng thời bị phạt 30 triệu đồng với lỗi vi phạm cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi không có phòng phân tích kiểm nghiệm hoặc không có hợp đồng thuê phân tích kiểm nghiệm sản phẩm. Thanh tra Bộ NN và PTNT cũng đã quyết định xử phạt ở mức 140 triệu đồng đối với công ty TNHH Thuốc Thú y – Thủy sản Cường Phát đóng tại ấp Phú Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, Đồng Nai về hành vi sản xuất thức ăn bổ sung CP ADE Calcitin B12 có chứa chất cấm Sabutamol. Đồng thời, xử phạt công ty này về hành vi kinh doanh 10 loại thức ăn chăn nuôi không có trong danh mục thức ăn chăn nuôi được phép sản xuất kinh doanh tại Việt Nam số tiền 200 triệu đồng. Tổng cộng, công ty TNHH Thuốc Thú y – Thủy sản Cường Phát bị xử phạt số tiền 340 triệu đồng kèm theo chế tài phạt bổ sung là đình chỉ kinh doanh thức ăn chăn nuôi trong vòng một tháng. Thanh tra Bộ NN và PTNT cũng buộc DN này phải phối hợp với công ty CP TMSX Bắc Âu Mỹ để thu hồi, tiêu hủy các sản phẩm vi …
| Tin mới | admin | 18/11/2016 | | Đề xuất cấm sử dụng Cysteamine trong thức ăn chăn nuôi | (Chinhphu.vn) – Hiện Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) đang soạn thảo thông tư đưa chất Cysteamine (Cys) vào danh mục chất cấm sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Thời gian qua, Thanh tra Bộ NN&PTNT đã phát hiện một số sản phẩm thức ăn chăn nuôi có sử dụng chất Cys nhập khẩu từ Thái Lan. Tháng 8/2016, đoàn thanh tra đã phát hiện Công ty TNHH MTV Công nghệ đổi mới (địa chỉ: 39 Trần Quốc Hoàn, Phường 4, quận Tân Bình, TP HCM) nhập 2 loại sản phẩm dinh dưỡng bổ sung là Maxsure và Synergrown từ Thái Lan và đã bán cho các đại lý, các cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi và các trang trại lợn khu vực phía bắc và phía nam. Mặc dù bao bì không ghi thành phần Cys nhưng khi kiểm tra đã phát hiện hàm lượng Cys là 29.898 mg/kg (29.898 ppm) và 30.645 mg/kg (30.645 ppm). Thanh tra Bộ NN&PTNT đã ban hành quyết định xử phạt về hành vi nhập khẩu và kinh doanh chất không được cơ quan thẩm quyền cấp phép với số tiền 180 triệu đồng. Nói về bản chất và tác dụng của chất Cys, Cục Chăn nuôi nhận định, chất Cys là một hợp chất sinh học được sinh ra tự nhiên trong đường tiêu hóa và vùng dưới đồi ở não của các loài động vật, có tác dụng ức chế hormone Somatostatin (SS). Trong cơ thể vật nuôi, hormone SS điều tiết sự sinh ra các hormone sinh trưởng và điều tiết quá trình sinh trường. Như vậy, theo logic, khi lượng Cys tăng lên thì lượng SS giảm đi và lượng hormone sinh trưởng tăng lên, do đó vật nuôi sẽ lớn nhanh hơn. Nói cách khác, Cys là chất kháng hormone có vai trò kích thích sinh trưởng vật nuôi một cách gián tiếp. Vận dụng cơ chế hoạt động tự nhiên của Cys, ngày nay người ta đã sản xuất Cys dạng công nghiệp với mục đích ứng dụng trong lĩnh vực sinh học. Trong chăn nuôi, Cys được nghiên cứu sử dụng như một chất phụ gia thức ăn chăn nuôi để kích thích sinh trưởng vật nuôi. Cho đến nay, tính độc của Cys chủ yếu được tìm thấy là gây viêm loét dạ dày, tá tràng ở vật nuôi nếu sử dụng ở hàm lượng cao và thời gian sử dụng kéo dài. Tuy nhiên, chưa có công trình nào công bố về về tính độc hay sự nguy hại của Cys đối với sức khỏe con người. Đặc biệt, chưa có đề tài nghiên cứu khoa học để đánh giá tác dụng và sự trao đổi của Cys trong chăn nuôi tại Việt Nam. Hiện nay, Cys được sản xuất nhiều tại Trung Quốc và đã được chính phủ nước này phê duyệt làm phụ gia thức ăn chăn nuôi dưới dạng Cysteamine hydrochloride (Cys.HCL) và Trung Quốc là quốc gia duy nhất hiện nay quy định Cys.HCL được sử dụng làm phụ gia thức ăn chăn nuôi. Trong khi chờ đợi thông tư này được ban hành (trong tháng 12/2016), Cục Chăn nuôi đề xuất trước mắt các đơn vị cơ sở cần tăng cường các biện pháp quản lý nhập khẩu và lưu hành các sản phẩm thức ăn chăn nuôi có chứa chất Cys. Theo đó, Cục Chăn nuôi đề nghị các đơn vị cần gia tăng tần suất kiểm tra, phân tích chất Cys đối với các sản phẩm thức ăn chăn nuôi và sản phẩm chăn nuôi như: nước tiểu, thịt và phủ tạng. Các trường hợp bị phát hiện phải xử lý hết khung xử lý vi phạm theo Luật Xử lý vi phạm hành chính Lãnh đạo Cục Chăn nuôi cho biết đến thời điểm hiện tại, không có bất kỳ sản phẩm thức ăn chăn nuôi công bố có chất Cys được phép lưu hành tại Việt Nam. Song, để quản lý việc sử dụng chất Cys trong thời gian tới, Cục Chăn nuôi đề nghị Bộ NN&PTNT đưa chất Cys vào danh mục cấm sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Đỗ …
| Tin mới | admin | 17/11/2016 | | Trang trại bò sữa đầu tiên của Việt Nam đạt tiêu chuẩn châu Âu | (Chinhphu.vn) – Trang trại bò sữa organic ở Lâm Đồng đã được Tổ chức Control Union của Hà Lan, tổ chức toàn cầu chuyên hoạt động kiểm định và đánh giá độc lập trên phạm vi toàn thế giới, đánh giá và cấp chứng nhận. Theo đó, trang trại bò sữa organic của Vinamilk đạt tiêu chuẩn châu Âu (theo hệ tiêu chuẩn EU Organic EC 834/2007 và 889/2008). Các sản phẩm từ đồng cỏ đến trang trại bò sữa và nhà máy chế biến được chứng nhận là các sản phẩm organic. Cuối tháng 6 vừa qua, Vinamilk đã tiếp nhận đàn bò sữa giống organic đạt chuẩn quốc tế về Việt Nam cho trang trại tại Lâm Đồng. Đàn bò sữa organic phải trải qua rất nhiều công đoạn nghiêm ngặt, từ khâu chọn giống bò, phương pháp chăm sóc, nguồn thức ăn 100% organic cho đến môi trường sống. Trang trại được đầu tư xây dựng với quy mô ban đầu là 500 con bò sữa hữu cơ. Đàn bò được chăn thả tự nhiên trong điều kiện thời tiết và môi trường được đánh giá tương đồng với châu Âu, phù hợp cho sinh lý bò sữa. Bên cạnh điều kiện sống lý tưởng, công nghệ chăm sóc bò tại Trang trại là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay, thân thiện và bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển bền vững. Ông Richard De Boer, đại diện Control Union nhận định, sau hơn 15 năm hình thành, ngành chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Trong năm 2016, Vinamilk đã tiến thêm một bước lớn trong ngành chăn nuôi bò sữa với việc được cấp chứng nhận trang trại bò sữa organic tiêu chuẩn châu Âu đầu tiên tại Việt Nam của Control Union. Việc nhận chứng chỉ trang trại bò sữa organic chuẩn châu Âu đầu tiên tại Việt Nam đã đánh dấu bước tiến dài trên con đường hội nhập với ngành sữa thế giới của Vinamilk. Minh …
| Tin mới | admin | 11/11/2016 | | Gió mùa Đông Bắc, các tỉnh phía Đông Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, phía Tây Bắc Bộ và Trung Trung Bộ chủ động phòng chống đói rét cho gia súc gia cầm | Theo Trung tâm khí tượng thủy văn trung ương, hiện nay (07/11) bộ phận không khí lạnh đã báo vẫn đang di chuyển xuống phía Nam. Dự báo, khoảng ngày và đêm mai (08/11), bộ phận không khí lạnh này sẽ ảnh hưởng đến các tỉnh Bắc Bộ, sau đó còn được tăng cường bổ sung và ảnh hưởng đến các tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế. Do ảnh hưởng của không khí lạnh, gió chuyển hướng Đông Bắc trong đất liền cấp 3, vùng ven biển cấp 4-5. Từ đêm mai (08/11), ở các tỉnh Bắc Bộ trời chuyển rét, vùng núi có nơi rét đậm với nhiệt độ thấp nhất ở đồng bằng, trung du phổ biến 16-19oC, vùng núi 13-15oC, núi cao 9-11oC. Từ ngày mai (8/11) xuất hiện đợt mưa ở Bắc Bộ, sau đó mở rộng xuống các tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế. Lượng mưa cả đợt ở phía Tây Bắc Bộ 50-150mm; phía Đông Bắc Bộ và Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế 50-100mm. Hà Nội từ ngày và đêm mai (08/11) có mưa, trời chuyển rét với nhiệt độ thấp nhất phổ biến 17-20oC. Từ ngày và đêm mai (08/11), ở Vịnh Bắc Bộ và khu vực Bắc Biển Đông (bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa) có gió đông bắc mạnh cấp 6-7, giật cấp 8-9. Biển động mạnh. Sóng biển cao từ 2-4m. Cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 1. Bản tin tiếp theo phát lúc 15h30 ngày 07/11. Tin phát lúc: …
| Tin mới | admin | 07/11/2016 | | Những thay đổi về phí kiểm dịch đối với thịt sống nhập khẩu và sản xuất trong nước của Thái Lan | Tống Xuân Chinh, PCT. Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT Tóm tắt: Các quy định mới của Thái Lan về thay đổi phí kiểm dịch đối với các loại thịt chưa sống và phí trần phí giết mổ (tương ứng với phí kiểm dịch) đối với các sản phẩm chăn nuôi trong nước. Mặc dù có những thay đổi về quy định nhưng thịt nhập khẩu vẫn còn bị áp phí cao hơn đáng kể so với phí áp dụng cho các sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước. Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã của Thái Lan (MOAC) công bố phí kiểm dịch mới cho vật nuôi và các sản phẩm nhập nhập khẩu sẽ thay đổi và có hiệu lực từ 17/10/2016. Phí kiểm dịch (còn được gọi phí cấp phép nhập khẩu) cho các sản phẩm thịt sống( chưa nấu chín) nhập khẩu để làm thực phẩm hoặc làm thức ăn chăn nuôi sẽ áp mức phí là 7 bạt/kg (tương đương 200 USD/tấn). Các sản phẩm thịt sống nhập khẩu ngoài mục đích làm thực phẩm hoặc thức ăn chăn nuôi sẽ bị áp mức phí là 3 bạt/kg (tương đương 86 USD/tấn). Khi so sánh với phí kiểm dịch trước kia, phí kiểm dịch mới cao hơn áp dụng cho thịt đỏ (như thịt trâu, bò, cừu, dê và lợn) là 5 bạt/kg (tương đương 143 USD/tấn). Đối với thịt gia cầm nhập khẩu (bao gồm cả thịt gà tây) thì mức phí mới được áp dụng thấp hớn so với trước đây là 10 bạt/kg (tương đương 286 USD/tấn). Phí kiểm dịch cho một số mặt hàng gồm: giống vật nuôi và sản phẩm giống vật nuôi (tinh và phôi), da nhập khẩu ngoài mục đích làm sử dụng làm thực phẩm, nội tạng vật nuôi nhập khẩu để chế biến thành sản phẩm và sau đó tái xuất, xương và sụn đều được miễn phí so với các quy định cũ. Theo Luật Kiểm soát giết mổ động vật hàng hóa B.E 2559 được thông qua ngày 26/9/2016 và có hiệu lực ngày 27/9/2017. Luật mới này sẽ thay thế cho Luật cũ Luật Kiểm soát giết mổ động vật hàng hóa B.E 2535. Mặc dù nội dung của Luật mới này chủ yếu tập trung vào cải tiến công tác quản lý và đăng ký đối với các cơ sở giết mổ trong nước, nhưng Luật mới cũng quy định đến phí giết mổ (các phí áp dụng cho sản phẩm trong nước tương đương Luật cũ). Quy định mới cũng thay đổi về trần phí giết mổ cho các loại động vật khác nhau. Trần phí kiểm dịch mới là 20 bạt/con trâu (tương đương 0,57 USD/con), 25 bạt/con bò (tương đương 0,71 USD/con), 10-15 bạt/con lợn hoặc con đà điểu (tương đương 0,29-0,43 USD/con), 10 bạt/con dê hoặc cừu (tương đương 0,29 USD/con), 0,2 bạt còn gia cầm (0,06 USD/con) và 0,2 bạt/con khác (tương đương 0,06 USD/con). Xem chi tiết về giá trần phí giết mổ mới áp dụng cho các vật nuôi khác nhau so với Luật cũ. Bảng 1: So sánh trần phí giết mổ cũ và mới đối với từng loại vật nuôi Vật nuôi Phí giết mổ Đơn vị Tăng/giảm (%) Luật mới B.E 2559 Luật cũ B.E. 2535 Bò 57 34 Xu Mỹ/đầu 67,6 Trâu 71 43 Xu Mỹ/đầu 65,1 Lợn và đà điểu 43 29 Xu Mỹ/đầu 48,3 Lợn dưới 22,5 kg 29 14 Xu Mỹ/đầu 107,1 Dê và cừu 29 11 Xu Mỹ/đầu 163,6 Gia cầm 0.6 11 Xu Mỹ/đầu -94,5 Động vật 0.6 11 Xu Mỹ/đầu -94,5 Hai luật này không thể hiện sự phân biệt đối sử về mức phí kiểm dịch giữa thịt sống nhật khẩu và thịt sống sản xuất trong nước. Nhưng phí kiểm dịch áp dụng cho thịt sống nhập khẩu vẫn cao hơn đáng kể so với thịt sống cùng loại sản xuất trong nước. Xem so sánh chi tiết về phí kiểm dịch quy về khối lượng giữa thịt nhập khẩu và thịt sản xuất trong nước cùng loại. Bảng 2: Phí kiểm dịch quy về khối lượng giữa thịt nhập khẩu và thịt sản xuất trong nước cùng loại Loại thịt Phí kiểm dịch quy về khối lượng Đơn vị Unit Sản xuất trong nước Nhập khẩu Thịt bò 0,23 9,09 Xu Mỹ/pound Thịt lợn 0,34 9,09 Xu Mỹ/pound Thịt gà 0,23 9,09 Xu Mỹ/pound Nguồn: Cơ quan Nông nghiệp nước ngoài, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, Mã tin 6123 ngày …
| Tin mới | admin | 07/11/2016 | | Thông báo số 37/TB-CN-VP ngày 02/11/2016 nội dung phỏng vấn xét tuyển viên chức năm 2016 của Cục Chăn nuôi | …
| Thông tin tuyển dụng 2016 | admin | 03/11/2016 | | Vốn trung và dài hạn cho phát triển chăn nuôi đang thiếu và yếu | “Chúng tôi mong ngân hàng tạo điều kiện để giúp đỡ cho doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn vốn phù hợp. Thế chấp phải có bìa đỏ mà giá trị đất rất rẻ. Còn nhà xưởng, máy móc vài tỷ nhưng chính sách không có cho thế chấp nhà xưởng, máy móc nên rất mong có các giải pháp tiếp cận nguồn vốn dễ hơn.” Ảnh minh họa. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN) Đó là ý kiến của ông Phạm Đình Thắng, nông dân xuất sắc huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang tại hội thảo “Tín dụng ngân hàng thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp” do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức ngày 30/10, tại Hà Nội. Khơi thông vốn cho tam nông Phát biểu tại hội thảo, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú cho biết, tính đến 30/9, đầu tư tín dụng vào nông nghiệp, nông thôn đã đạt trên 925.000 tỷ đồng (chưa bao gồm dư nợ cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam), tăng 9,6% so với cuối năm 2015 và 13,43% so với cùng kỳ. Tăng trưởng tín dụng bình quân trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2010-2015 đạt 17,4%, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng bình quân chung. Tỷ trọng cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 18% tương đương với mức đóng góp của ngành vào GDP của nền kinh tế. Cũng theo Phó Thống đốc, lãi suất cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cũng đã giảm mạnh, phổ biến từ 6-8%/năm, riêng lãi suất cho vay ngắn hạn được khống chế ở mức dưới 7%/năm. Những đối tượng chính sách, ưu đãi và nhiều chương trình tín dụng đặc thù thì lãi suất chỉ khoảng 05-6%/năm. Còn ông Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam nhấn mạnh, thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều biện pháp chỉ đạo ngành ngân hàng ưu tiên tập trung vốn cho nông nghiệp và thực tế các chính sách tín dụng đã có tác động mạnh mẽ trong việc khơi thông nguồn vốn cho khu vực nông nghiệp, nông thôn phát triển. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính sách tín dụng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn. Quy mô nguồn vốn cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn nhỏ và thấp so với nhu cầu. Theo ông Môn, để tái cơ cấu ngành nông nghiệp, cần có một lượng vốn lớn, trong đó nguồn vốn tín dụng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. “1 đồng vốn cần có 200 đồng đảm bảo” Ông Phạm Đình Thắng, nông dân xuất sắc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đã đại diện cho khoảng 400 hộ trồng, chế biến chăm sóc cây dong riềng tại tỉnh đến chia sẻ, doanh nghiệp của ông hoạt động theo cơ chế kinh tế hợp tác xã chuyên chế biến, sản xuất và tìm đầu ra bao tiêu sản phẩm. Trong thời gian qua, doanh nghiệp của ông Thắng đã được ngân hàng trên địa bàn huyện tạo điều kiện vay vốn nhưng doanh nghiệp của ông đang rất cần nguồn vốn dài hạn. “Đầu tư cho nông dân không rủi ro vì vụ này không trả được, vụ sau chúng tôi sẽ có kế hoạch giúp nông dân trả lại đồng vốn cho ngân hàng. Hiện, chúng tôi có 2.000 lao động, cần có vốn để thu mua khoảng vài tỷ bộ dong riềng cho đầu vào sản xuất miến nhưng hết mùa vụ lại không cần vốn nữa. Chúng tôi mong các ngân hàng tạo điều kiện để giúp đỡ cho doanh nghiệp như chúng tôi có thể tiếp cận được nguồn vốn phù hợp. Thế chấp phải có bìa đỏ mà giá trị đất rất rẻ. Còn nhà xưởng, máy móc vài tỷ nhưng chính sách không có cho thế chấp nhà xưởng, máy móc nên rất mong có các giải pháp tiếp cận nguồn vốn dễ hơn,” ông Thắng kiến nghị. Ông Phạm Đình Thắng, nông dân xuất sắc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Còn bà Trịnh Thị Mý, tại xã Phù Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho biết gia đình bà làm nghề chăn nuôi là chính và đã tiếp cận được nguồn vốn của Agribank cách đây gần 10 năm. Tuy nhiên, hiện gia đình bà Mý muốn mở rộng quy mô chăn nuôi khép kín và sẽ tăng đàn lên 600 con lợn nái và 10.000 con lợn thương phẩm và mong muốn được ngân hàng nhận thế chấp bằng trang trại để vay vốn. Bà Mỹ cho biết: “Hiện Nghị định 55 đã có cơ chế cho vay tín chấp nhưng chúng tôi chưa tiếp cận được nguồn vốn tín chấp. Còn về thế chấp, chúng tôi đã phải sử dụng 6 bìa đỏ với diện tích 4.200m2 và có cả nhà kiên cố mới vay được vốn.” Bà Mỹ cũng đề nghị Hội Nông dân làm tốt công tác tham mưu quan tâm đầu ra thực phẩm trong nước, cần có chế tài xử lý thật nặng chất cấm trong chăn nuôi. Nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn tới giá cả trong chăn nuôi. Cần có chính sách cấp bìa đỏ cho trang trại chăn nuôi cách xa trong khu dân cư với thời hạn 50 năm để có thể dùng làm tài sản thế chấp vay vốn. Cũng tại hội nghị, ông Lê Quang Thành, Tổng giám đốc Công ty Thái Dương cho biết, Công ty ông có 2 nhà máy thức ăn gia súc với có 8.000 con heo nái, 7 trại giống, liên kết 20 trạm ở các tỉnh để sản xuất và cung cấp giống. Ông Thành chia sẻ, ở các nước cho vay chăn nuôi 30 năm, còn Việt Nam chỉ vay 3 năm và nhiều là 7 năm thì không thể nào có đủ tiền quay vòng trả cho ngân hàng. Thủ tục pháp lý vay vốn quá nhiều, ví dụ tài sản đó phải có giao dịch đảm bảo. Muốn chứng minh tài sản đảm bảo thì quá nhiều giấy tờ. Để có 1 đồng vốn cần có 200 đồng vốn đảm bảo. Để vay 100 đồng vốn lưu động cần có 500 đồng vốn tài sản bảo đảm. Cơ chế chính sách để làm tài sản đảm bảo cho người chăn nuôi vay vốn cần thông thoáng hơn để doanh nghiệp có đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. “Tham vọng của chúng tôi xây dựng 15 dự án sản xuất con giống nhưng muốn vay vốn rất khó khăn. Tôi xin kiến nghị Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ cần bố trí nguồn lực cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ; xem xét giảm lãi suất, hiện lãi suất vay được của doanh nghiệp vẫn khoảng 9% là rất cao. Có như vậy nông nghiệp mới phát triển được,” ông Thành kiến nghị. Phát biểu bế mạc hội thảo, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú nhấn mạnh, trong thời gian tới sẽ chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu tín dụng để phù hợp cơ cấu nông nghiệp, phù hợp cơ cấu nguồn vốn, với quy hoạch của từng vùng, từng miền, các địa phương. Cụ thể trước đây cho vay trồng trọt, lương thực có 3 gói ưu đãi, bây giờ sẽ xem xét đặt ra nữa không. Ngoài ra, sẽ tập trung vốn tín dụng với cơ chế chính sách có ưu đãi một cách phù hợp, chứ không tràn lan ở các lĩnh vực mà sẽ trọng tâm vào các lĩnh vực như xuất khẩu, ứng dụng công nghệ cao, khoa học kỹ thuật để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. “Đặc biệt là cho vay các dự án, doanh nghiệp, hộ gia đình tham gia vào chuỗi liên kết giá trị sản phẩm từ khâu sản xuất, chế biến, xuất khẩu. Một chuỗi liên kết có thể có nhiều thành phần tham gia nhưng quan trọng là lợi ích các bên tham gia, khi có lợi ích thì người ta sẽ tham gia. Ngân hàng như sợi dây tạo ra lợi ích cho các bên tham gia chuỗi liên kết này,” Phó Thống đốc nhấn …
| Tin mới | admin | 03/11/2016 | | Mô hình Hợp tác xã chăn nuôi liên kết theo chuỗi giá trị đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm | Bảo Thắng là một huyện vùng thấp của tỉnh Lào Cai với diện tích 691,55 km², trong đó diện tích đất nông nghiệp là 44.899,3 ha và dân số đông nhất tỉnh Lào Cai đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi hàng hoá. Tính đến năm 2016, toàn huyện đã có 244 trang trại chăn nuôi và 03 hợp tác xã chăn nuôi, điển hình là HTX chăn nuôi gia súc, gia cầm Quý Hiền. HTX Quý Hiền được thành lập ngày 04 tháng 8 năm 2010 với 24 hộ xã viên tham gia. HTX được thành lập trong bối cảnh nghề chăn nuôi của huyện đang rất phát triển, có nhiều hộ giầu lên nhanh chóng từ chăn nuôi. Nhưng cũng không ít hộ gặp rủi ro, dịch bệnh, bán hàng gặp lúc rớt giá, có hộ bị lỗ mất cả vốn, không có khả năng tái đàn do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Các hộ không tiếp cận được với các cơ sở sản xuất con giống tốt, các cơ sở sản xuất thức ăn có uy tín, chất lượng tốt, không kiểm soát được dịch bệnh, vốn tích luỹ ít, cơ sở hạ tầng thấp kém. Nhận ra những hạn chế trong chăn nuôi quy mô hộ gia đình, một số hộ chăn nuôi đã bàn nhau cần phải liên kết lại, hợp tác với nhau thì mới có cơ hội khắc phục những nhược điểm trên. Họ vận động bà con chăn nuôi trong toàn huyện, chọn những người có quyết tâm làm ăn liên kết lại với nhau thành lập ra HTX chăn nuôi gia súc, gia cầm Quý Hiền. Sau 6 năm hoạt động, HTX chăn nuôi Quý Hiền đã thực sự là điểm tựa tin cậy của xã viên, HTX đã thực hiện đúng lời cam kết với xã viên cụ thể như sau: – HTX đã quy hoạch sản xuất, cân đối với thị trường, không để gà quá lứa không bán được nhưng cũng không để khách hàng cần mà không có gà. – HTX tổ chức dạy nghề chăn nuôi, thú y cho xã viên; Kết quả đến nay các hộ xã viên của HTX chăn nuôi Quý Hiền đã có trình độ chăn nuôi khá, giỏi có thể tự bắt bệnh và tự đề ra phác đồ điều trị cho gà, lợn. Do đó, 6 năm qua các trại của HTX không xảy ra dịch bệnh. HTX còn lập một đường dây nóng giữa xã viên và giảng viên, khi có sự cố trên đàn gà, xã viên điện hỏi, mổ khám chụp ảnh gửi Zalo về và được tư vấn ngay phác đồ điều trị. Cách làm này rất hiệu quả, được xã viên ủng hộ. – Xây dựng, quản lý và sử dụng các loại quỹ, đặc biệt là quỹ dự phòng rủi ro hay còn gọi là quỹ bảo hiểm, nhờ có quỹ này mà không có hộ nào bị rủi ro phải bỏ đàn và dễ tìm các kênh vốn có lãi xuất ưu đãi để huy động vốn. – HTX liên hệ mua con giống, thức ăn của các cơ sở có uy tín, chất lượng tốt, có bảo hành, giá xuất xưởng + chi phí vận chuyển + lãi chậm trả theo lãi xuất Ngân hàng, nên giá thấp hơn nhiều (ít nhất là 8 – 10%) so với mua thức ăn của các đại lí cấp 2. Đồng thời, HTX tổ chức vận chuyển các vật tư con giống, thức ăn từ nơi sản xuất đến thẳng các trại xã viên, không phải đến kho để lấy mất thêm chi phí. – Về tiêu thụ sản phẩm, HTX luôn cung cấp nguồn hàng đầy đủ, đa dạng mặt hàng, có xe chở đến tận nơi nên có tính cạnh tranh cao. Ảnh: Trại gà đẻ trứng của HTX – Doanh số hàng năm dao động khoảng 60 tỷ đồng. Thu nhập của xã viên hàng năm của hộ cao nhất là 800 triệu đồng, hộ thấp nhất là 130 triệu đồng (cả công lao động). Kinh tế các hộ đã khá lên nhiều khi vào HTX, các hộ phần lớn là nghèo ,nhưng đến nay hộ nào cũng có trang trại khang trang, chuồng trại được xây dựng theo công nghệ tiên tiến trị giá hàng trăm triệu đồng, có hộ trang trại có giá trị lên đến hàng tỷ đồng. HTX cho họ vay vốn xây dựng, trả dần nay đã trả xong, có hộ xây được nhà, mua ô tô phục vụ sản xuất. Các dịch vụ của HTX được xã viên đón nhận, không hộ nào muốn ra HTX, có hộ đã ra rồi nhưng lại xin vào. – Hàng hóa của HTX có tính cạnh tranh cao, khách hàng đã mua gà của HTX thì không muốn mua gà khác nữa. Vì HTX cung cấp đủ hàng, đa dạng sản phẩm, vài năm gần đây tại Lào Cai không có trứng gà Trung quốc vì trứng gà của HTX Quý Hiền mẫu mã đẹp hơn, tươi hơn, có địa chỉ sản xuất rõ ràng và giá thấp hơn. Ảnh: Sản phẩm trứng gà của HTX – HTX sử dụng vốn rất hiệu quả, hệ số vòng quay vốn rất cao. HTX không có tiền nhàn rỗi, tài khoản HTX không có số dư, tiền luôn được lưu thông. Cách làm của HTX rất phù hợp với Luật hợp tác xã năm 2012. HTX Quý Hiền đã được nhiều đoàn từ Trung ương đến các tỉnh đến thăm, tham quan, học tập, trao đổi kinh nghiệm. HTX cũng rất vinh dự được các cấp khen thưởng: Năm 2012, Chủ nhiệm HTX được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; HTX được Bộ trưởng Bộ Công thương tặng Bằng khen. Năm 2013, HTX được Hội Chăn nuôi Việt Nam và Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai tặng Bằng khen; 04 xã viên HTX được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen. 19/29 hộ đạt tiêu chí hộ kinh tế trang trại. Có được những kết quả như trên là do HTX đã xây dựng thành công chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.Cụ thể: – Liên kết dọc: Đầu vào: liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp sản xuất giống, sản xuất thức ăn có uy tín, nên xã viên có được giống và nguồn thức ăn tốt. HTX liên kết chặt chẽ với các nhà khoa học nên có quy trình sản xuất tốt. Xã viên được đào tạo nghề thành thạo. Đầu ra: HTX liên kết với các tổ giết mổ ở các chợ đầu mối ,hoặc các nhà hàng. Cam kết cung cấp đa dạng mặt hàng và cung cấp đều đặn theo yêu cầu, nên đã xây dựng được thị trường ổn định. – Liên kết ngang: HTX đã liên kết chặt chẽ giữa ban quản trị và xã viên. Ngoài bản Điều lệ HTX Đại hội xã viên đã thảo luận và xây dựng một bản quy ước rất cụ thể, rất chặt chẽ. Ví dụ: Để có hàng đều đặn bản quy ước quy định, tất cả các hộ xã viên phải tuân thủ lịch vào gà giống, kể cả khi rét đậm, khi nóng bức, đến lượt các hộ đều phải khắc phục để vào giống. Có như vậy thì HTX mới có hàng đều đặn cung cấp cho thị trường. Để đảm bảo chất lượng của đàn gà. Quy ước đề ra rất nghiêm ngặt là các hộ phải có nhật ký ghi chép hàng ngày, theo dõi sức khỏe đàn gà, xử lý thuốc kháng sinh. Từ đó HTX tính được thời gian cách ly thuốc kháng sinh và tuổi gà trước khi xuất bán. Thành công của HTX chăn nuôi Quý Hiền là hết sức rõ ràng, rất thực tế. Đất nước ta đã, đang và sẽ hội nhập rất sâu với Quốc tế, các Hiệp định thương mại tự do đã và sẽ có hiệu lực. Đây là cơ hội để cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh vươn xa hơn. Tuy nhiên, khi đó thuế nhập khẩu thịt sẽ về 0%. Hàng rào thuế quan không thể bảo hộ cho người chăn nuôi trong nước được. Người chăn nuôi phải cạnh tranh với một đối thủ có nhiều lợi thế hơn. Để có thể cạnh tranh, đứng vững trong hội nhập, HTX Quý Hiền cũng đã có những định hướng phát triển: – Cải tạo, đưa con giống có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng vào sản xuất. HTX đang tiến hành dự án xây dựng trại lợn nái ngoại với quy mô 600 nái, 12.000 lợn thịt thương phẩm nhằm nạc hoá đàn lợn HTX. Giống gà Ri lai đã được đưa vào nuôi thử nghiệm thành công và đang nhân rộng ra các trại của HTX. – Sản phẩm bán ra thị trường là sản phẩm an toàn đã đăng ký nhãn hiệu, mã vạch hàng hoá. HTX đang đăng ký nhãn hiệu, Lô gô và xây dựng đề án mở các cửa hàng chất lượng cao tại các chợ truyền thông trong tỉnh. Đồng thời, để ổn định hàng xuất ra, HTX đã tiếp cận với tập đoàn KFC của Mỹ, mời họ lên thăm và đàm phán hợp tác sản xuất gắn với giết mổ theo quy cách, tiêu chuẩn Châu Âu. Để đạt được những thành công trên là sự lỗ lực, cố gắng và quyết tâm cao của tập thể của Ban chủ nhiệm HTX và toàn thể hội viên HTX chăn nuôi Quý Hiền đã tìm ra hướng đi đúng đắn đó là liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị đảm bảo vệ sinh ATTP./. Trần Thị Thuyết Chi Cục Chăn nuôi và Thú y Lào …
| Tin mới | admin | 01/11/2016 | | Ngành hàng thịt lợn của Hồng Kông: Xuất nhập khẩu của Việt Nam | TS. Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng, Cục Chăn nuôi, Bộ NN-PTNT Tóm tắt: Chăn nuôi và thương mại các sản phẩm thịt lợn của Hồng Kông có quan hệ chặt chẽ thương mại với Việt Nam về cùng loại. Hồng Kông nhập khẩu thịt lợn đông lạnh của Việt Nam qua năm 2013, 2014, 2015 giảm tương ứng là 8.568 tấn, 7.654 tấn, 9.212 tấn và giai đoạn từ tháng 7/2015 đến 7/2016 tăng từ 4.893 tấn lên 6.560 tấn, tăng 34,07%. Tuy nhiên, các mặt hàng thịt lợn đông lạnh, đặc biệt là nội tăng lợn nhập khẩu từ các nước khác vào Hồng Kông và tái xuất sang Việt Nam giản dần tương ứng qua các năm 2013, 2014, 2015 là 81.887 tấn 94.838 tấn, 62.864 và từ tháng 7/2015 đến 7/2016 giảm 61,09% từ 32.652 tấn xuống còn 12.706 tấn. Bài báo này cung cấp chi tiết các thông tin thương mại về sản phẩm thịt lợn ở thị trường Hồng Kông để các đối tác ngành chăn nuôi quan tâm cấp nhật thông tin để có kế hoạch sản xuất kinh doanh chủ động và hiệu quả hơn. 1. Chăn nuôi lợn ở Hồng Kông Hồng Kông chỉ có 43 trang trại lợn, có quy mô hàng năm khoảng 86.000 con, chiếm khoảng 6% tổng sản nguồn cung. Trung Quốc lục địa cung cấp khoảng 94% lợn nguyên con cho Hồng Kông để giết mổ, chế biến. Nguồn cung cấp lợn nguyên con cho Hồng Kông từ trên 200 trang trại lợn đã đang ký ở Trung Quốc lục địa thông qua 03 cơ quan. Đối với năm 2016, sản lượng thịt lợn của nước này được dự báo sẽ giảm trên 7%, đạt 125.000 tấn do giảm nguồn cung cấp lợn nguyên con từ Trung Quốc lục địa. Trong nữa năm 2016, tổng đàn lợn ở Trung Quốc lục địa đã tăng sẽ giúp ổn định giá thịt lợn và dẫn đến nguồn cung lợn nguyên con cho Hồng Kông cũng tăng. Nếu vậy, sản lượng thịt lợn của nước này trong năm 2017 có thể sẽ đạt 130.000 tấn. Tổng đầu lợn của Trung Quốc lục địa giảm khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2015. Thị trường phản ứng lại nguồn cung thu hẹp, giá lợn tăng trong 7 tháng đầu năm 2016. Giá bán buôn lợn nguyên con từ tháng giêng đến tháng 6 năm 2016 tăng 8%, đạt 3.499 triệu USD (xem Bảng 2) so với cùng kỳ năm 2015. Giá bán lẻ đối với thịt tươi sống thậm chí tăng cao hơn từ 16 lên 18% (xem Bảng 3). 2. Phát hiện thấy tồn dư kháng sinh thú ý bị cấm Tháng 11 năm 2015, Nhà chức trách Hồng Kông đã khảng định rằng chloramphenicol, một chất cẩm trong thực phẩm theo quy định của ngành y tế (trong gia súc và gia cầm) khi lấy mẫu từ 20 con lợn nuôi ở địa phương và đã lập tức tiêu hủy sau đó. Đầu tháng 6 năm 2016, các chất tồn dư thuộc nhóm beta-agonist đã xét nghiệm thấy trong mẫu nước tiểu của 319 con lợn nhập khẩu từ tỉnh Giang Tây của Trung Quốc. AQSIQ, Cơ quan thanh tra của Trung Quốc đã tự động đình chỉ xuất khẩu tất cả lợn nguyên con từ tỉnh Giang Tây vào Hồng Kông. Theo thống kê, tỉnh này xuất khẩu khoảng 20% lợn nguyên con vào Hồng Kông. Lần phát hiện chất tồn dư beta-agonist trong lợn xuất khẩu nguyên con từ Trung Quốc vào Hồng Kông là năm 2012. Bảng 1. Cung cấp và tiêu dùng đối với lợn nguyên con (đơn vị: con) Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 Ước tính 2016 Sản xuất trong nước 97.477 96.488 87.432 85.733 85.000 Nhập khẩu 1.540.756 1.575.810 1.624.926 1.583.398 1.450.000 Tổng 1.638.233 1.672.298 1.712.358 1.669.131 1.535.000 Nguồn: Phòng Nông nghiệp, Thủy sản và Bảo tồn của Hồng Kông. Bảng 2. Giá trung bình bán buôn thịt lợn hơi ở Hồng Kông (USĐ/tấn) 2013 2014 2015 2015 2016 Thay đổi (%) Jan – Jun Lợn hơi 2.871 2.678 2.899 2.644 3.499 8% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. 3. Chính sách Hồng Kông đã thiết lập mức tồn dư lớn nhất cho ractopamine trong thực phẩm. Thay cho tiêu chuẩn của chính nước này, Hồng Kông đã sử dụng luôn tiêu chuẩn của Codex cho mức tồn dư thuốc thú y trong thịt bò là 10 ppb thấp hơn tiêu chuẩn của Hoa Kỳ 30 ppb. Hiện nay, các mẫu xét nghiệm ngẫu nhiên đối với mẫu thịt bò do các nhà chức trách Hồng Kông lấy từ các cửa hàng bán lẻ chứng minh rằng mẫu thịt bò của Hoa Kỳ có tồn dư Ractopamine lớn hơn 10 ppb vì vậy nhà chức trách đã phải công bố báo chí về kết quả với cách nói là mức tồn dư đó chưa gây ra rủi ro về sức khỏe của cộng đồng. 4. Tiêu thụ Mặc dù gặp phải duy thoái kinh tế và giá bán lẻ giảm, giá bán thực phẩm ở Hồng Kông vẫn tăng. Trong 8 tháng đầu năm 2016, giá bản lẻ thực phẩm tăng trung bình 2,2% và tính từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 8/2016 giá thực phẩm tăng trên 8,8%. Thịt lợn vẫn là mặt hàng thực phẩm ổn định hơn các thực phẩm khác như thịt bò, thịt gia cầm. Tiêu thụ thịt lợn năm 2016 dự báo tăng 2% so với năm 2015, tăng thêm 545.000 tấn. Nếu kinh tế được phục hồi, tiêu dùng thịt lợn năm 2017 có thể tăng lên 570.000 tấn. Tiêu thụ thịt lợn ở Hồng Kông cực kỳ nhạy cảm với giá, sự thay đổi giá ảnh hưởng ngày tới sự lựa chọn của người tiêu dùng. Ví dụ năm 2015, khi gia thịt lợn hơi bán buôn tăng thêm 8% từ 2.678 USD/tấn lên 2.899 USD/tấn, lập tức người tiêu dùng quay sang tiêu dùng thịt ướp lạnh và đông lạnh, tăng từ 66% lên 69/5 trong khi giá thịt tươi sống giảm từ 34% xuống 31%. Bảng 3. Giá bán lẻ trung bình của thịt lợn so với thịt bò và thịt gà (USD/kg) Loại thịt 2013 2015 2015 2016 % change 2014 Jan – June Gà nguyên con đã giết mổ 12.13 12.93 15.24 14.90 15.93 7% Thịt bò chất lượng cao 20 20.01 20.01 19.99 20.34 2% Thăn bò 16.76 16.92 17.15 17.08 17.33 1% Thịt lợn nạc 8.50 8.24 8.51 8.14 9.43 16% Sườn lợn 8.73 8.65 8.93 8.50 10.04 18% Nguồn: Phòng Nông nghiệp, Thủy sản và Bảo tồn của Hồng Kông. 5. Thương mại thịt lợn Tính theo thịt xẻ, tổng lượng nhập khẩu thịt lợn năm 2016 và 2017 (kể cả tái xuất) tương ứng tăng 6% đặt 420 ngàn tấn và tăng 5% đạt 440 ngàn tấn, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thịt lợn tăng và tổng đàn lợn nuôi tại nước này để sản xuất thịt tươi ngày càng giảm. lại n a) Xuất khẩu và Tái xuất khẩu Hồng Kông nhập khẩu năm 2015 1,12 tỷ USD các sản phẩm thịt lợn (xem Bảng 4&5). Trong 7 tháng đầu năm 2016, nước này đã nhập khẩu thịt lợn tăng 28% về khối lượng và 12% về giá trị vì tái xuất sang Trung Quốc lục địa. Do điều kiện thương mại được cải thiện qua năm 2015 nên tái xuất sản phẩm thịt lợn sang Trung Quốc lục địa tăng 242% trong khí tái xuất các sản phẩm thịt lợn sang Việt Nam giảm 61%, gây ra tỷ lệ tái xuất tổng thể các thị trường tăng trên 56% giữa tháng 1 và tháng 7 năm 2015 và tháng 1-tháng 7 năm 2016. Trung Quốc trở lại vị trí đứng đầu quốc gia tái xuất khẩu sản phẩm thịt lợn từ Hồng Kông với thị phần chiếm 46%. b) Thay đổi thị phần do chênh lệch giá thịt lợn Chên lệch giá thịt lợn giữa các nước xuất khẩu vào Hồng Kông đã ảnh hưởng đến thị phần năm 2016. Do giá thịt lợn xuất khẩu của Trung Quốc tăng 13%, Brazil và Hoa Kỳ giảm tương ứng là 22% và 37% trong 7 tháng đầu năm 2016 (xem Bảng 6). Hiện nay, Brazil là nước cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Hồng Kông theo khối lượng, với thị phần là 31% so 19% trong năm 2015. Về giá trị, Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Hồng Kông, đạt 212 triệu USD trong 7 tháng đầu năm 2016, chiếm thị phần 30%. Bảng 4. Khối lượng nhập khẩu thịt lợn của Hồng Kông (đơn vị: tấn) 2013 2014 2015 15-Jul 16-Jul %16/15 Thị phần 2016 _Tổng 443.712 442.016 399.675 211.670 271.796 28,41 100% Trung Quốc 102.942 115.168 104.850 65.476 46.942 -28,31 17% Brazil 91.997 77.661 79.938 41.190 83.117 101,79 31% Đức 28.467 38.263 33.635 15.063 17.309 14,91 6% Hoa Kỳ 29.538 28.059 28.133 12.887 35.737 177,32 13% Ba Lan 19.528 29.504 25.953 15.023 12.810 -14,73 5% Hà Lan 32.491 23.743 24.463 10.671 14.067 31,82 5% TâyBan Nha 43.020 31.808 20.332 9.650 15.963 65,42 6% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 5. Kim ngach nhập khẩu thịt lợn Hồng Kông (đơn vị: triệu USD) 2013 2014 2015 15/6 16/7 % 16/15 Thị phần năm 2016 _Tổng số 1.258 1.303 1.123 634 709 11,83 100% Trung Quốc 387 429 427 261 212 -18,93 30% Brazil 259 228 200 113 178 57,87 25% Đức 87 100 78 42 74 75,05 10% Hoa Kỳ 82 63 59 28 33 18,1 5% Ba Lan 53 70 52 24 26 10,13 4% Hà Lan 33 36 49 25 41 65,55 6% TâyBan Nha 98 83 49 26 36 39,36 5% Ba Lan 42 59 43 26 22 -13,16 3% Ý 42 41 25 12 11 -8,18 2% Nga 10 20 18 9 11 23,6 2% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 6. Giá thịt lợn nhập khẩu từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2016 Nước Giá trị USD/tấn % (2016/2015) 2014 2015 2016 _Tổng 2.880 2.997 2.610 -12,91 Thái Lan 6.324 5.557 5.110 -8,04 Trung Quốc 3.642 3.986 4.507 13,08 Ý 2.616 2.474 2.578 4,21 Hà Lan 2.483 2.658 2.381 -10,41 Tây Ban Nha 2.455 2.702 2.276 -15,75 Brazil 2.854 2.742 2.145 -21,77 Hoa Kỳ 3.571 3.277 2.069 -36,88 Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 7. Giá thịt lợn tái xuất từ Hồng Kong đi các nước (tấn) Nước 2013 2014 2015 15/7 16/7 %(2016/2015) Thị phần 2016 _Tổng 136.715 174.886 93.680 53.105 82.847 56,01 100% Việt Nam 81.887 94.838 62.864 32.652 12.706 -61,09 15% Ma Cao 11.453 14.704 15.428 8.677 9.944 14,59 12% Tầu 7.891 20.637 13.382 11.127 38.061 242,06 46% Đài Loan 35.245 43.527 929 0 21.616 n/a 26% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 8. Khối lượng thịt ướp lạnh nhập khẩu vào Hồng Kong (đơn vị: tấn) Nước Thời gian 2013 2014 2015 15/7 16/7 % Thị phần 2016 Thế giới 9.670 8.995 8.920 5.090 5.601 10,05 100% Trung Quốc 9.114 8.367 8.246 4.706 4.607 -2,1 82% Úc 154 180 220 112 192 72,1 3% Canada 111 115 169 81 156 92,49 3% Brazil 27 47 129 90 512 468,83 9% Hoa Kỳ 80 62 54 39 31 -20,01 1% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 9. Kim ngạch thịt ướp lạnh nhập khẩu vào Hồng Kong (đơn vị: triệu USD) 2013 2014 2015 07/2015 16/7 % % 2016 Thế giới 35 30 34 19 23 19.59 100% Tầu 30 25 29 16 18 9.73 78% Úc 2 2 2 1 2 77.27 9% Canada 1 1 1 1 1 64.28 4% Hoa Kỳ 1 1 0 0 0 -1.63 0% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 10. Nhập khẩu thịt lợn đông lạnh (đơn vị: tấn) Nước 2013 2014 2015 07/2015 07/2016 Tăng/giảm (%) Thị phần 2016 Toàn cầu 227.685 229.344 245.189 128.818 198.342 53.97 100% Brazil 82.660 68.726 73.351 37.303 78.290 109.88 39% Trung Quốc 44.309 52.584 52.269 34.935 20.259 -42.01 10% Đức 23.648 32.846 27.957 12.671 15.052 18.79 8% Hoa Kỳ 13.731 15.741 22.829 10.108 33.100 227.46 17% Hà Lan 26.370 18.358 17.719 8.304 10.605 27.7 5% Ba Lan 2.014 7.546 9.727 5.722 8.278 44.68 4% Việt Nam 8.568 7.654 9.212 4.893 6.560 34.07 3% Canada 4.058 5.628 8.985 4.393 3.034 -30.93 2% Tây Ban Nha 7.433 6.780 7.958 3.802 9.648 153.77 5% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 11. Nhập khẩu thịt lợn đông lạnh theo giá trị (triệu USD) vào Hồng Kông Nước Thời gian 2013 2014 2015 07/2015 07/2016 T/G (%) Thị phần 2016 Toàn cầu 643 665 672 377 477 26,52 100% Trung Quốc 163 193 218 140 94 -32,64 20% Brazil 228 196 180 99 166 67,99 35% Hoa Kỳ 43 50 54 28 61 115,52 13% Việt Nam 32 35 49 24 40 66,57 8% Hà Lan 67 50 44 22 24 8,32 5% Đức 42 57 40 19 22 13,11 5% Tây Ban Nha 20 22 20 11 22 103,52 5% Ba Lan 2 14 16 9 15 71,1 3% Canada 9 12 13 7 5 -36,87 1% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 12. Nhập khẩu thịt lợn đã chế biến theo khối lượng (tấn) vào Hồng Kông Nước 2013 2014 2015 07/2015 07/2016 TĐ (%) Thị phần 2016 Toàn cầu 206.357 203.676 145.566 77.762 67.852 -12,74 100% Trung Quốc 49.519 54.216 44.335 25.835 22.076 -14,55 33% Ba Lan 17.515 21.957 16.225 9.301 4.532 -51,27 7% Nga 5.258 10.144 13.149 6.340 7.983 25,91 12% Tây Ban Nha 35.587 25.024 12.349 5.830 6.284 7,78 9% Ý 16.727 14.898 8.275 4.475 2.183 -51,22 3% Hà Lan 6.121 5.385 6.744 2.367 3.462 46,27 5% Brazil 9.311 8.887 6.458 3.797 4.315 13,64 6% Đức 4.818 5.417 5.677 2.391 2.230 -6,75 3% Hoa Kỳ 15.728 12.256 5.250 2.740 2.606 -4,88 4% Nguồn: Phòng Điều tra và Thống kê Hồng Kông. Bảng 13. Nhập khẩu thịt lợn đã chế biến theo giá trị (triệu USD) vào Hồng Kông Nước Thời gian 2013 2014 2015 07/2015 07/2016 TĐ (%) Thị phần 2016 Thế giới 580 607 416 238 209 -12,12 100% Trung Quốc 194 211 180 105 100 -5,11 48% Tây Ban Nha 78 60 28 15 14 -6,29 7% Ba Lan 40 46 27 17 7 -58,91 3% Hoa Kỳ 43 49 24 14 13 -7,45 6% Ý 39 40 21 11 7 -38,76 3% Brazil 30 32 20 14 11 -21,16 5% Liênbang Nga 10 20 18 9 11 23,3 5% Hà Lan 15 13 15 6 9 55,51 4% Đức 11 13 11 5 5 -3,04 2% Source: Hong Kong Census & Statistics Department Bảng 14. Nhập khẩu nội tạng lợn theo khối lượng (tấn) vào Hồng Kông Nước Năm 2013 2014 2015 07/2015 07/2016 TĐ (%) Thị phần 2016 Toàn cầu 359.811 479.101 419.504 225.651 283.060 25,44 100% Hoa Kỳ 54.852 88.785 105.458 65.505 72.299 10,37 26% Đức 88.065 116.964 68.986 37.643 37.794 0,4 13% Hà Lan 58.703 54.541 40.118 18.928 24.834 31,2 9% Brazil 38.403 43.710 38.273 21.984 30.336 37,99 11% Ba Lan 7.857 39.752 37.989 20.411 29.739 45,7 11% Tây Ban Nha 21.258 28.315 31.873 13.166 26.841 103,88 9% Canada 8.311 12.295 18.385 12.766 7.720 -39,53 3% Hoa Kỳ 20.201 21.617 17.361 9.514 11.237 18,1 4% Bỉ 18.228 17.703 14.233 6.609 8.834 33,66 3% Ý 9.979 14.274 13.490 5.604 13.657 143,73 5% Source: Hong Kong Census & Statistics Department Bảng 15. Nhập khẩu nội tạng lợn theo giá trị (triệu USD) vào Hồng Kông Nước Thời gian 2013 2014 2015 07/2015 07/2016 TĐ (%) Thị phần 2016 Thế giới 738 1,032 749 441 470 6,41 100% Hoa Kỳ 146 243 223 146 134 -8,25 29% Đức 162 219 108 63 61 -2,93 13% Brazil 86 109 78 50 53 5,37 11% Hà Lan 117 113 69 36 41 14,3 9% Ba Lan 14 66 54 33 40 23,07 9% Tây Ban Nha 37 57 51 23 43 87,5 9% Canada 22 30 34 25 10 -60,31 2% Anh 32 38 25 15 17 17,36 4% Bỉ 38 38 25 13 15 16,47 3% Ý 17 29 23 10 22 121,56 5% Source: Hong Kong Census & Statistics Department Bảng 16, Giá nội tạng lợn nhập khẩu vào Hồng Kông (USD/tấn) Nước Thời gian 2013 2014 2015 07/2015 07/2016 (%) Toàn cầu 2,051 2,154 1,785 1,956 1,659 -15,18 Đan Mạch 2,776 3,227 3,758 3,628 4,092 12,79 Hoa Kỳ 2,655 2,742 2,112 2,236 1,859 -16,88 Brazil 2,239 2,484 2,046 2,269 1,733 -23,64 Source: Hong Kong Census & Statistics Department Nguồn báo cáo: Cơ quan Nông nghiệp nước ngoài (FAS), Bộ Nông nghiệp Hòa Kỳ (USDA), Netherlands 1,995 2,067 1,729 1,892 1,649 -12,88 Germany 1,844 1,872 1,568 1,677 1,621 -3,32 Source: Hong Kong Census & Statistics …
| Tin mới | admin | 01/11/2016 | | Thông báo số 35/TB-CN-VP Lịch xét tuyển viên chức năm 2016 của Cục Chăn nuôi | …
| Thông tin tuyển dụng 2016 | admin | 31/10/2016 | | Thông báo số 34/TB-CN-VP ngày 31/10/2016 Danh sách thí sinh đủ điều kiện tham dự xét tuyển viên chức năm 2016 của Cục Chăn nuôi | …
| Thông tin tuyển dụng 2016 | admin | 31/10/2016 | | “Một cửa” nông nghiệp: Cần thực chất hơn trong đơn giản hóa thủ tục | (Chinhphu.vn) – Lũy kế mới nhất đến ngày 20/10, thông qua Cổng Thông tin một cửa quốc gia, các đơn vị trực thuộc Bộ NN&PTNT đã tiếp nhận 32.833 hồ sơ; xử lý, giải quyết và cấp phép Giấy chứng nhận điện tử cho 26.279 hồ sơ; đang tiếp tục xử lý 6.554 hồ sơ. Tuy nhiên, kết quả này chủ yếu do việc “tin học hóa” các văn bản giấy chứ chưa thực sự rút gọn các thủ tục. Câu chuyện từ Cục Chăn nuôi Trong rà soát tổng thể việc thực hiện cơ chế một cửa quốc gia (NSW) lĩnh vực nông nghiệp tại Bộ NN&PTNT, Cục Chăn nuôi được đánh giá là đơn vị có cách thức triển khai khá chủ động, sáng tạo. Với thủ tục “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu” bắt đầu thí điểm từ tháng 9/2015, đến nay Cục đã tiếp nhận trên 27.000 hồ sơ, trong số đó giải quyết tới 99% số hồ sơ qua Cổng Thông tin một cửa quốc gia. Ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết thực hiện NSW đã giúp giảm 50% lượng công việc đăng ký hồ sơ so với trước do DN không mất thời gian gửi, nhận kết quả qua đường bưu điện hoặc phải cử cán bộ trực tiếp đến các cơ quan kiểm tra. “Khi chưa thực hiện điện tử, mỗi lần DN đăng ký một bộ hồ sơ kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu tối thiểu mất khoảng 20.000 đồng chi phí chuyển phát nhanh (1 lượt đi và 1 lượt về). Ngoài ra, DN còn mất thêm chi phí về giấy tờ, mực in, nhân công… cho hoạt động này. Nhờ NSW, thời gian qua riêng tổng số chi phí chuyển phát nhanh, các DN đã tiết kiệm ước tính lên tới 400 triệu đồng”, ông Vân nói. Chia sẻ kinh nghiệm vì sao Cục Chăn nuôi có thể triển khai NSW khá suôn sẻ trong khi không ít đơn vị khác vẫn gặp nhiều trục trặc, khó khăn, nhất là trong giai đoạn đầu triển khai, ông Vân cho hay mấu chốt là nhất là phải làm tốt khâu tập huấn bởi việc triển khai liên quan tới hàng trăm cán bộ, DN. Ông Vân cho biết thêm, Bộ NN&PTNT chỉ giao Cục Chăn nuôi tổ chức hai lớp tập huấn nhưng Cục chủ động tổ chức đến 6, 7 lớp và yêu cầu đối tượng tập huấn phải là những người trực tiếp ngồi máy làm. Đặc biệt, ở giai đoạn đầu khi đường truyền còn hạn chế, hay tắc nghẽn, Cục đã chủ động đề xuất để xây dựng một đường truyền riêng phục vụ cho việc áp dụng NSW. Không riêng Cục Chăn nuôi, kể từ tháng 6/2015 đến nay, Bộ NN&PTNT đã cơ bản hoàn thành kết nối và chính thức đưa vào sử dụng, hoạt động hiệu quả 9/9 thủ tục hành chính thí điểm thực hiện tại 7 đơn vị thuộc Bộ gồm 5 cục (Chăn nuôi, Thú y, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt, Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản) và 2 Tổng cục (Thủy sản và Lâm nghiệp) trên hệ thống Cổng Thông tin một cửa quốc gia. Tuy nhiên, theo nhìn nhận của ông Phạm Duyên Phương, Phó Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan (Tổng cục Hải quan), trong giai đoạn vừa qua, Bộ NN&PTNT thực chất mới chỉ tập trung “tin học hóa” các thủ tục hành chính chứ chưa đi vào bản chất vấn đề, hướng tới cải cách đơn giản thủ tục, hài hòa thủ tục theo các thông lệ quốc tế. Điều đó được thể hiện qua việc, quy trình thủ tục không thay đổi, yêu cầu hồ sơ, các bước triển khai thủ tục hành chính dường như vẫn như trước. Thay đổi chủ yếu ở khâu khai báo ban đầu và trả kết quả đầu ra cho người dân, DN. Thứ trưởng Hà Công Tuấn đã trao tặng bằng khen của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho các tập thể và cá nhân có thành tích trong công tác triển khai thí điểm cơ chế một cửa quốc gia tại Bộ NN&PTNT giai đoạn 2011-2015. Ảnh VGP/Đỗ Hương Quyết liệt nhưng không cứng nhắc Ông Ngô Hồng Giang, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (đơn vị đầu mối thực hiện NSW tại Bộ NN&PTNT) cũng cho biết vẫn tồn tại không ít khó khăn cần tháo gỡ. “Bộ NN&PTNT còn chưa có quy chế quản lý, vận hành hệ thống NSW tại Bộ và các đơn vị (hiện nay đang xây dựng) cũng là một số khó khăn không thể không kể tới. Mặc dù đặt mục tiêu từ ngày 1/10, toàn bộ thủ tục triển khai NSW sẽ chỉ tiếp nhận hồ sơ điện tử, song đến 1/10 chỉ các thủ tục thuộc một số đơn vị như Cục Chăn nuôi, Trạm kiểm dịch thực vật Nội Bài, Cơ quan Thú y vùng II Hải phòng, Trung tâm 3K cơ bản không tiếp nhận việc xử lý, giải quyết hồ sơ giấy”, ông Giang cho biết. Tại hội nghị sơ kết thí điểm triển khai NSW tại Bộ NN&PTNT (giai đoạn 1), diễn ra ngày 26/10, các đơn vị cũng nêu ý kiến về những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện cơ chế hải quan một cửa quốc gia như: Một số việc tồn tại, phát sinh cần có sự phối hợp nỗ lực khắc phục tiếp liên quan đến kỹ thuật, hạ tầng. Một số quy định về mặt thể chế liên quan quy định điều kiện kinh doanh, công bố thủ tục hành chính cần tiếp tục rà soát điều chỉnh cho phù hợp. Một số DN vẫn còn ngại chưa quen, nên chưa thật sự tích cực áp dụng thực hiện trên hệ thống một cửa quốc gia. Một số DN nhập khẩu ít nên muốn làm trực tiếp hơn… Theo ông Phạm Duyên Phương, trong giai đoạn tới, Bộ NN&PTNT nên phối hợp rà soát, đánh giá lại các thủ tục hành chính ở nhiều góc độ nhằm tiến hành giảm tải hồ sơ, xem xét xem những giấy phép trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến mặt hàng, ngành nghề liên quan có còn cần không để cắt giảm. Cũng theo ông Phương, trong quá trình triển khai NSW vừa qua cho thấy, thực tế là có những thủ tục hành chính mang tính liên ngành thì nên gom lại tập trung một đầu mối, tạo thêm thuận lợi cho DN. Ví dụ, khi nhập khẩu mặt hàng thức ăn chăn nuôi, Cục Chăn nuôi kiểm tra đạt chất lượng có thể nhập khẩu nhưng Cục Bảo vệ thực vật lại phát hiện trong sản phẩm có mọt nên không được phép nhập khẩu. Trong trường hơp này, nếu được gom lại một đầu mối thì DN sẽ không phải làm việc với cả đôi bên, gây mất thời gian. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn đã chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ rà soát lại các thủ tục và định lại kế hoạch triển khai NSW trong năm 2017 trở lại, chứ không chờ đến năm 2020 như mục tiêu đề ra. Theo ông Hà Công Tuấn, chúng ta cơ bản tạo điều kiện cho người dân và DN được đăng ký hải quan một cửa thông qua sự hỗ trợ công nghệ thông tin, nhưng không phải là biện pháp cứng nhắc. Dù khuyến khích áp dụng hải quan một cửa nhưng vẫn phải có giai đoạn quá độ trong một thời gian nhất định cần thực hiện cả hai phương thức là một cửa quốc gia (điện tử) và hồ sơ giấy. Đỗ …
| Tin mới | admin | 31/10/2016 | | Ngành nông nghiệp cơ bản hoàn thành cơ chế một cửa quốc gia | Tại hội nghị Sơ kết thí điểm triển khai cơ chế một cửa quốc gia của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày 26/10, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Công Tuấn đánh giá, hiện Bộ đã cơ bản hoàn thành kết nối, vận hành chính thức 9/9 thủ tục hành chính thí điểm tại 7 đơn vị thuộc Bộ trên hệ thống một cửa quốc gia đảm bảo yêu cầu quy định. Tính đến ngày 20/10, có 7 đơn vị gồm 5 Cục (Chăn nuôi, Thú y, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt, Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản) và 2 Tổng cục (Thủy sản và Lâm nghiệp) đã tiếp nhận, xử lý giải quyết 32.833 hồ sơ cấp phép điện tử qua cổng một cửa quốc gia; xử lý, giải quyết và cấp phép/Giấy chứng nhận điện tử 26.279 hồ sơ và đang tiếp tục xử lý 6.554 hồ sơ. Nhiều đơn vị đã tiếp nhận và xử lý gần 100% hồ sơ như Cục Chăn nuôi Trạm kiểm dịch thực vật Nội Bài (Cục Bảo vệ thực vật)… Một số đơn vị như Cục Chăn nuôi, Trung tâm 3K (Tổng cục Thủy sản), Trạm kiểm dịch thực vật Nội Bài (Cục Bảo vệ thực vật), Cơ quan Thú y vùng II Hải Phòng (Cục Thú y) đến nay đã cơ bản không tiếp nhận việc xử lý, giải quyết hồ sơ giấy. Theo ông Ngô Hồng Giang, Phó vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Thường trực Ban chỉ đạo cơ chế một cửa quốc gia của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cơ chế một cửa quốc gia tại Bộ và các đơn vị trong thời gian qua đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp (đơn giản hóa hồ sơ thủ tục hành chính, tiết kiệm chi phí, giảm thời gian thông quan hàng hóa…) góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 19/NQ-CP. Tuy nhiên, đây là việc làm mới, còn gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu triển khai áp dụng. Do vậy, cần có sự phối hợp tích cực từ phía doanh nghiệp và các đơn vị liên quan, cùng với cơ quan quản lý chuyên ngành của Bộ để từng bước sớm hoàn thiện và thực hiện hiệu quả. Qua quá trình triển khai, ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi nhận thấy, vấn đề quan trọng nhất là tập huấn cho các cán bộ trực tiếp thực hiện vì liên quan đến nhiều đơn vị, nhiều doanh nghiệp. Ngoài những khó khăn như Cục Chăn nuôi gặp phải, đại diện Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản cho biết, dù đã được Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel tích cực hỗ trợ trong quá trình thực hiện nhưng vẫn còn nhiều trục trặc phát sinh. Bởi vậy, vẫn còn 190/582 hồ sơ đăng ký không cấp được chứng thư trên hệ thống và các Trung tâm Chất lượng nông lâm sản và Thủy sản vùng đã phải thực hiện qua hồ sơ giấy. Ông Hoàng Thanh Vân cũng cho rằng hạ tầng còn yếu nên khi thực hiện vẫn gặp lỗi. Điều này dễ gây chán nản cho doanh nghiệp, do vậy cần có sự đầu tư hạ tầng riêng cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó, doanh nghiệp và người dân đòi hỏi những cấp độ cao hơn như có sự liên thông với các đơn vị khác của Bộ để có thể hoàn thiện hồ sơ mang tính liên ngành. Đại diện Trạm kiểm dịch thực vật Nội Bài cho rằng phần mềm vẫn chưa có chức năng thống kê, báo cáo; việc trao đổi thông tin còn hạn chế. Do vậy, Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel cần tiếp tục cải thiện phần mềm. Để tháo gỡ khó khăn này cho doanh nghiệp, đại diện Tổng cục Hải quan cho rằng, đối với những thủ tục mang tính liên ngành, Bộ nên tập trung một đầu mối; cần tạo cơ chế liên ngành trong Bộ thông thoáng, thuận lợi để rút ngắn thủ tục. Đối với những tổ chức thực hiện thành nhiều cấp cũng cần có cách thức để rút ngắn thủ tục. Đến năm 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đặt mục tiêu các thủ tục hành chính của Bộ thực hiện thông qua cơ chế một cửa quốc gia được thu phí, lệ phí bằng hình thức điện tử 100% và được thực hiện dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Theo đó, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thành triển khai mở rộng trên toàn quốc đối với 9 thủ tục hành chính thí điểm trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ triển khai mới 26 thủ tục hành chính thực hiện tại 4 cục là Thú y, Chăn nuôi, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt và Tổng cục Thủy sản. Bên cạnh đó là các thủ tục làm mới kết nối cảng biển, hàng …
| Tin mới | admin | 27/10/2016 | | Trang trại bò sữa OGANIC theo tiêu chuẩn Châu Âu tại Việt Nam | Theo Vinamilk, họ chuẩn bị khánh thành trang trại bò sữa Organic chuẩn Châu Âu đầu tiên tại Việt Nam. Trang trại được xây dựng tại tỉnh Lâm Đồng, theo hệ tiêu chuẩn EU Organic (EC 834/2007 và 889/2008). Đàn bò tại trang trại Organic được chăn thả tự nhiên trong điều kiện thời tiết và môi trường tương đồng với châu Âu. Quy mô ban đầu là 500 con bò sữa hữu cơ. Bên cạnh điều kiện sống lý tưởng, công nghệ chăm sóc bò tại trang trại là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay, thân thiện và bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển bền vững. Theo tổ chức nông nghiệp hữu cơ Châu Âu, trang trại hữu cơ là một hệ thống bao gồm các hoạt động về nông nghiệp, chăn nuôi nhằm cung cấp cho khách hàng những sản phẩm an toàn cao nhất, tươi, ngon và nguồn gốc rõ ràng. Điểm đặc trưng của trang trại Organic chính là các hoạt động phải được tổ chức để đảm bảo vòng tuần hoàn tự nhiên. Để đạt được điều đó, trang trại hữu cơ có một số nguyên tắc và yêu cầu tiên quyết, trong đó điểm chung nhất là hạn chế những tác động con người đến môi trường, hoạt động nông nghiệp phải tự nhiên nhất có thể. Dựa trên các nguyên tắc cơ bản và tuân thủ chặt chẽ hệ tiêu chuẩn EU Organic (EC 834/2007 và 889/2008), trang trại bò sữa Organic chuẩn châu Âu đầu tiên tại Việt Nam của Vinamilk được xây dựng và vận hành với một số điểm khác biệt từ lựa chọn con giống và chăm sóc bò sữa đến tổ chức hoạt động của trang trại. Việc lựa chọn con giống và chăm sóc bò sữa được tuân thủ theo những nguyên tắc ngặt nghèo hoàn toàn không sử dụng hóa chất, các chất biến đổi gen, thuốc trừ sâu tổng hợp, phân tổng hợp, phụ gia thực phẩm cũng như những chất hỗ trợ, kích thích… Bò cũng được cho ăn bằng thực phẩm 100% hữu cơ, vì vậy đem lại nguồn sữa hữu cơ nguyên liệu hoàn toàn không có dư lượng kháng sinh và không có hormone tăng trưởng. Ở các trang trại hữu cơ gia súc được chăn nuôi tự do, hệ thống chuồng trại mở và được cho ăn thức ăn hữu cơ. Với thiết kế của Trang trại Organic Vinamilk, bò hoàn toàn được tự do ra đồng cỏ, sân chơi khi điều kiện thời tiết thuận lợi hoặc về chuồng nghỉ ngơi khi điều kiện thời tiết bất lợi. Cùng với đó, trang trại bò sữa Organic của Vinamilk đã nghiên cứu lựa chọn các cây trồng và con giống tự nhiên có khả năng kháng bệnh tốt với điều kiện đặc thù của địa phương. Điều này khiến các giống cây trồng và nguồn gen giống bò cho trang trại Organic Vinamilk thích nghi một cách hoàn toàn tự nhiên với điều kiện địa phương không bị tấn công bởi bị sâu bệnh và có sức phát triển tốt. Tại trang trại Organic Vinamilk, phương pháp canh tác luân canh, điều kiện tiên quyết để sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất được áp dụng triệt để song song tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên sẵn có như sử dụng phân hữu cơ từ bò nuôi tại trang trại và tự sản xuất toàn bộ thức ăn xanh hữu cơ phục vụ nhu cầu của đàn bò. Trang trại sử dụng năng lượng tái tạo biogas, năng lượng mặt trời, giảm hiệu ứng nhà kính, thân thiện và bảo vệ môi trường; hệ thống chất thải được xử lý nghiêm ngặt, giữ môi trường luôn trong lành. Hiện trang trại bò sữa Organic đầu tiên tại Việt Nam của Vinamilk đã hoàn thành việc đánh giá chuẩn Organic Châu Âu cho đồng cỏ, trang trại bò sữa và nhà máy chế biến. Đơn vị thực hiện đánh giá trang trại là Control Union của Hà Lan, đây là một mạng lưới toàn cầu về các hoạt động kiểm định hàng hóa và phòng thí nghiệm chuyên dụng chuyên giám định và giám sát độc lập hàng hóa trên phạm vi toàn thế giới. Có thể nói với trang trại bò sữa organic chuẩn châu Âu đầu tiên tại Việt Nam sắp hoàn thành Vinamilk đã đánh dấu bước tiến dài trên con đường hội nhập với ngành sữa Thế giới, khẳng định sự tiên phong mở lối cho thị trường thực phẩm sữa organic cao cấp tại Việt Nam. Bước đi chiến lược này của Vinamilk cũng góp phần khẳng định vị thế công ty dinh dưỡng hàng đầu Việt Nam và đang vươn ra tầm thế …
| Tin mới | admin | 21/10/2016 | | Công văn số 8482/BNN-QLCL ngày 06/10/2016 V/v triển khai tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng đợt 2 năm 2016. | …
| Công văn | admin | 13/10/2016 | | Trung Quốc bãi bỏ lệnh cấm nhập khẩu thịt bò Mỹ | Ngày 22/9/2016, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc (MOA) và Tổng cục Giám sát chất lượng, Thanh tra và Kiểm dịch (AQSIQ) đã bãi bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với thịt bò Mỹ đã bị cấm trong một thời gian dài. Việc bãi bỏ lệnh cấm này bao gồm cả đối với thịt bò không xương và thịt bò có xương từ bò thịt dưới 30 tháng tuổi. Trung Quốc đã bãi bỏ lệnh cấm đối với thịt bò Mỹ là thủ tục đầu tiên trong 3 thủ tục khôi phục lại hoạt động nhập khẩu thịt bò của Mỹ. Khi cả 3 thủ tục này được hoàn thiện, thịt bò Mỹ sẽ độc quyền được phép nhập khẩu vào Trung Quốc. Sau khi hồ sơ pháp lý về vấn đề nhập khẩu thịt bò giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc được hoàn thành, Trung Quốc sẽ cử một đoàn khảo sát gồm các chuyên gia từ Tổng cục Giám sát chất lượng, Thanh tra và Kiểm dịch (AQSIQ) và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc sẽ đến Hoa Kỳ và tiến hành thẩm tra hồ sơ này trên đất Mỹ. Nếu quá trình thẩm tra thành công, thịt bò Mỹ sẽ được xuất khẩu sang Trung Quốc theo đúng quy định ký kết giữa 2 bên. Sau đây là Thông báo số 2447 của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc và Tổng cục Giám sát chất lượng, Thanh tra và Kiểm dịch: Theo kết quả đánh giá rủi ro và căn cứ vào ngày được ấn hành cùng Thông báo này, Lệnh cấm được ban hành năm 2001 theo Thông báo số 143 của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc và Tổng cục Giám sát chất lượng, Thanh tra và Kiểm dịch đối với thịt bò có xương và không xương từ bò thịt dưới 30 tháng tuổi của Hoa Kỳ đã được bãi bỏ với điều kiện thịt bò Hoa Kỳ sẽ phải đáp ứng được các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, thanh tra, kiểm dịch đối với hoạt động nhập khẩu thịt bò Mỹ vào Trung Quốc. Các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, thanh tra và kiểm dịch đối với thịt bò Mỹ không xương và có xương từ bò thịt dưới 30 tháng tuổi sẽ được lập tách biệt. Bộ Nông nghiệp Trung Quốc và Tổng cục Giám sát chất lượng, Thanh tra và Kiểm dịch Ngày 22 tháng 9 năm 2016. Nguồn: Báo cáo của Cơ quan Nông nghiệp nước ngoài của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Đây là thông báo quan trọng từ phía Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà chăn nuôi bò thịt, giết mổ bò thịt và xuất nhập khẩu thịt bò của Việt Nam để có kế hoạch sản xuất và kinh doanh thích ứng hiệu quả với lệnh này nhằm giảm thiểu những rủi ro không đáng có trong sản xuất và kinh doanh. Tống Xuân Chinh, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ …
| Tin mới | admin | 13/10/2016 | | Phòng ngừa nguy cơ lây lan dịch bệnh trên gia súc, gia cầm | (Chinhphu.vn) – Theo số liệu thống kê của Cục Thú y (Bộ NN&PTNT), trong 9 tháng đầu năm 2016, các ổ dịch bệnh trên động vật vẫn xuất hiện nhỏ lẻ, rải rác tại một số địa phương. Cụ thể, từ đầu năm đến nay, cả nước đã xảy ra 13 ổ dịch cúm gia cầm (6 ổ dịch cúm do virus cúm A/H5N1 và 7 ổ dịch cúm do virus cúm A/H5N6) xuất hiện tại 9 xã, phường của 11 huyện, thị xã thuộc 6 tỉnh, thành phố làm 18.932 con gia cầm mắc bệnh và tiêu hủy. Bệnh lở mồm long móng đã xuất hiện tại 55 xã thuộc 26 huyện, thị xã của 12 tỉnh làm 2.094 con gia súc mắc bệnh, số gia súc tiêu hủy là 40 con (7 con bò và 23 con lợn). Bệnh tai xanh ở lợn cũng xuất hiện từ cuối tháng 4/2016 với tổng số 9 ổ dịch tại 6 huyện, thị xã của 3 tỉnh, làm 724 con lợn mắc bệnh, số lợn buộc phải tiêu hủy là 297 con. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám cũng cho rằng, mặc dù, hiện nay các ổ dịch bệnh nguy hiểm trên động vật đã được cơ quan thú y và chính quyền địa phương kiểm soát tốt, tuy nhiên, nguy cơ xuất hiện và lây lan dịch bệnh trên gia súc, gia cầm trong thời gian tới là rất cao. “Diễn biến ngày càng phức tạp của thời tiết như xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, hạn hán ở khu vực Tây Nguyên và duyên hải miền Trung, thời tiết chuyển mùa lạnh ở miền Bắc tác động xấu đến sức khỏe đàn vật nuôi. Mặt khác, các hoạt động vận chuyển động vật, sản phẩm động vật trái phép qua biên giới ngày càng tinh vi, khó kiểm soát; hoạt động chăn nuôi tái đàn dịp cuối năm gia tăng; đàn gia súc, gia cầm đã đến thời kỳ tiêm phòng nhắc lại,… do vậy nguy cơ dịch bệnh tiếp tục xuất hiện và lây lan là rất cao,” Thứ trưởng Vũ Văn Tám nêu rõ. Do đó, để chủ động ngăn chặn dịch bệnh gia súc, gia cầm phát sinh và lây lan, ngăn ngừa bệnh lây cho người, bảo đảm an toàn thực phẩm cũng như an toàn dịch bệnh cho phát triến chăn nuôi để đẩy mạnh xuất khẩu, Bộ NN&PTNT phát động “Tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng môi trường đợt 2 năm 2016” trên toàn quốc, nhằm chủ động tiêu diệt mầm bệnh. Thời gian thực hiện “Tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng môi trường” đợt 2 năm 2016 bắt đầu từ ngày 1/11 đến hết 30/11. Bộ NN&PTNT đề nghị chính quyền các cấp phát động và tổ chức tháng tiêu độc khử trùng. Theo đó, các địa phương tổ chức các đội phun thuốc sát trùng cho khu vực chăn nuôi hộ gia đình, chợ buôn bán động vật sống ở nông thôn, nơi công cộng, đường làng, ngõ xóm, khu nhốt giữ động vật, sản phẩm động vật nhập lậu,..; việc phun khử trùng chỉ được thực hiện sau khi đã được vệ sinh cơ giới như quét dọn, cọ, rửa sạch… Tại cửa khẩu biên giới, cơ quan kiểm dịch động vật cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ tại cửa khẩu tham mưu cho Ban quản lý cửa khẩu bố trí hố sát trùng và thực hiện vệ sinh tiêu độc, khử trùng các phương tiện vận chuyển động vật, sản phẩm động vật đi qua cửa khẩu. Đỗ …
| Tin mới | admin | 12/10/2016 | | Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Các cơ quan chức năng luôn đồng hành cùng chương trình “Nông nghiệp sạch” | Tối ngày 10/10, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Đài Truyền hình Việt Nam đã tổ chức họp báo và ký kết thỏa thuận hợp tác về chương trình “Nông nghiệp sạch – Con đường nông sản Việt”. Chủ tịch TW MTTQVN Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường; Tổng GĐ Đài Truyền hình Việt Nam Trần Bình Minh cùng đại diện các bộ, ban, ngành tham dự buổi họp báo. “Nông Nghiệp Sạch” là chương trình truyền hình thực tế giới thiệu và quảng bá các loại nông đặc sản của Việt Nam, các vùng nông nghiệp nổi tiếng của đất nước và các chuỗi sản xuất sạch hiện đang phát triển trên tất cả các tỉnh thành của đất nước. Tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng: 30 năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, Nhà nước, nông nghiệp Việt Nam đã liên tục phát triển, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, hiện chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức lớn cho khu vực nông nghiệp. Đó là, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún dẫn đến năng xuất và hiệu quả thấp, khó kiểm soát an toàn thực phẩm; biến đổi khí hậu làm đảo lộn cơ cấu sản xuất, thách thức phương thức truyền thống. Bên cạnh đó, hội nhập sâu rộng, đối mặt với cạnh tranh nông sản không chỉ xuất khẩu mà ngay cả thị trường trong nước. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng cho rằng: sau 3 năm thực hiện Chương trình Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ở các quy mô, cấp độ khác nhau, các ngành hàng khác nhau đã có chuyển biến khá tích cực, tiếp cận với mục tiêu cuối cùng là xây dựng gắn với thị trường tiêu thụ trong và người nước cũng như tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nói: “Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các nông sản chủ lực, sản phẩm đặc sản, sản phẩm hữu cơ, sản phẩm có chỉ dẫn địa lý… từ các vùng miền trong cả nước với chất lượng cao, đảm bảo an toàn thực phẩm có chỗ đứng ổn định và sức cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngoài nước. Đây là điều mà người nông dân và các cấp, các ngành, toàn xã hội rất mong đợi và rất cần sự đồng hành, chung tay của tất cả chúng ta, đặc biệt là sự truyền thông, quảng bá của các cơ quan truyền thông đại chúng”. Phát biểu tại buổi lễ, ông Nguyễn Thiện Nhân cho rằng: Phương châm của chương trình cần vận động người nông dân muốn sản xuất an toàn và chỉ rõ chế tài để họ người sản xuất thấy được không thể không sản xuất an toàn. Bên cạnh đó, có chính sách hỗ trợ để người sản xuất thấy được sản xuất thực phẩm an toàn có lợi hơn làm thực phẩm không an toàn. Đồng thời, để thấy được muốn sản xuất an toàn thì được hỗ trợ về thông tin, phương pháp sản xuất an toàn, mua đầu vào an toàn, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy phải vận động mỗi hộ nông dân phải là một hộ sản xuất an toàn, không thể có xã nông thôn mới là xã sản xuất không an toàn vì đây chính là văn hóa của người Việt Nam. Ông Nguyễn Thiện Nhân nói: “Không thể có xã nông thôn mới mà sản xuất không an toàn, đó là văn hóa của người Việt Nam. Vì vậy, chương trình “Nông nghiệp sạch” chính là công cụ 3 chức năng. Vừa truyền thông, vừa hỗ trợ và vừa góp phần tiêu thụ sản phẩm rất quan trọng. Chúng ta hãy cùng nhau để nông nghiệp Việt Nam phải là nông nghiệp sạch và Việt Nam xuất khẩu phải là xuất khẩu sạch”. Tại buổi lễ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) công bố chương trình tín dụng Nông nghiệp sạch – con đường nông sản Việt trị giá 50 nghìn tỷ đồng cho một nền nông nghiệp …
| Tin mới | admin | 11/10/2016 | | Chống thực phẩm ‘bẩn’, Thủ tướng yêu cầu hiểu chính sách và thực tiễn | (Chinhphu.vn) – “Anh hiểu đường lối, chính sách giỏi nhưng thực tiễn liên quan đến người dân mà không hiểu thì cũng không có tác dụng. Hành động của chúng ta phục vụ người dân là chính”, Thủ tướng phát biểu tại cuộc làm việc với lãnh đạo TPHCM về bảo đảm ATTP. Ngày 8/10, sau khi đi kiểm tra cơ sở chế biến suất ăn công nghiệp, quán ăn đường phố, siêu thị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã làm việc với lãnh đạo UBND TPHCM về việc bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP). Thủ tướng ăn phở “bình dân”, ngành y tế không lo Cùng dự có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo một số bộ, ngành. Nhắc lại việc sáng nay, Thủ tướng đã đi kiểm tra cơ sở chế biến suất ăn tập thể, quán ăn đường phố, những loại hình cung cấp dịch vụ ăn uống mà người dân TPHCM sử dụng nhiều nhất trong ngày, và trực tiếp dùng điểm tâm tại một quán ăn bình dân, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, “Có người hỏi tôi là Thủ tướng ăn phở ở quán bình dân xong thì ngành y tế có lo không. Tôi trả lời là không vì tin rằng thực phẩm ở quá đó bảo đảm an toàn”. Theo báo cáo của UBND TPHCM, thời gian qua, Thành phố đã triển khai một số chương trình, đề án mang tính đột phá trong công tác bảo đảm ATTP như xây dựng mô hình thí điểm quản lý thực phẩm theo chuỗi thực phẩm an toàn, dự án nâng cao năng lực cạnh tranh ngành chăn nuôi, triển khai thí điểm hoạt động thanh tra chuyên ngành ATTP của quận-huyện, phường-xã-thị trấn, thành lập Trung tâm Kinh doanh hương liệu, hóa chất… Thành phố đã cấp chứng nhận cho 45 cơ sở với 97 giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia chuỗi thực phẩm an toàn. Thành phố đã ký kết với các tỉnh có nguồn nông sản thực phẩm đưa về Thành phố tiêu thụ (ký với 5 tỉnh trong lĩnh vực trồng trọt-bảo vệ thực vật; ký với 21 tỉnh về chăn nuôi thú y; 15 tỉnh trong lĩnh vực thủy sản). Cho biết nông sản tự sản xuất tại Thành phố chỉ đáp ứng được khoảng 20-30% nhu cầu, Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường hoan nghênh việc TPHCM ký hợp tác với các địa phương để chủ động nguồn cung thực phẩm. TPHCM cũng là nơi đi tiên phong về xây dựng chuỗi thực phẩm an toàn, từ khâu sản xuất đến giám sát, chế biến, lưu thông. Với 10 triệu dân, một năm cần 3 triệu tấn thịt lợn, nửa triệu tấn thủy sản và các nhóm thực phẩm khác, một triệu tấn rau, thì phần mà Thành phố kiểm soát được chưa phải là nhiều nên thời gian tới cần tập trung hơn nữa. Cho rằng các văn bản chính sách hiện đã quy định khá chi tiết về công tác ATTP, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhận định vấn đề mấu chốt hiện nay là tổ chức thực hiện và điều quan trọng nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. “Với lực lượng hiện nay thì không thể dàn hàng ngang để làm hết được nên cần chọn từng lĩnh vực, làm từng đợt, có kết quả rồi làm đợt khác”, Phó Thủ tướng gợi ý và nhấn mạnh, cần đẩy mạnh vận động, tuyên truyền cũng như thanh tra, kiểm tra. Hiểu chủ trương, chính sách mà không hiểu thực tiễn cuộc sống thì không có tác dụng Sau khi nghe các ý kiến tại cuộc làm việc cũng như trực tiếp kiểm tra thực tế trước đó, Thủ tướng bày tỏ hài lòng về một số kết quả của TPHCM trong việc bảo đảm ATTP, một vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, đời sống người dân. “Chúng ta lo cho dân nhưng người dân cũng rất cần tự nhận thức, hành động thì mới thành công, nhất là với thành phố 10 triệu dân này. Vì vậy, đầu tiên phải là công tác tuyên truyền vận động. Thứ hai là có hành lang pháp lý. Thứ ba là kiểm tra, đôn đốc và xử lý”, Thủ tướng nói và đánh giá trên các góc độ đó, TPHCM đã đạt kết quả bước đầu nhưng rất quan trọng. Thủ tướng hoan nghênh các cách làm hay, sáng tạo, quyết liệt của Thành phố như có gần 30 văn bản chỉ đạo của Thành ủy, UBND, đã tổ chức khá hiệu quả đề án ATTP theo chuỗi, đã ký kết với nhiều địa phương về cung cấp thực phẩm sạch, tổ chức phiên nông sản sạch vào thứ Bảy hằng tuần, hằng tháng công bố cơ sở đủ điều kiện ATTP và cơ sở vi phạm… TPHCM cũng là địa phương đầu tiên đề xuất cơ chế thanh tra chuyên ngành ATTP, trên cơ sở đó Thủ tướng đã có quyết định cho thí điểm thực hiện hình thức này. Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng những kết quả trên mới là bước đầu, vẫn còn tồn tại, hạn chế. Công tác quản lý ATTP còn bất cập, từ sản xuất đến tiêu thụ. Số cơ sở vi phạm còn lớn. Từ đầu năm đến hết tháng 7/2016, kiểm tra 641 cơ sở thì phát hiện 211 cơ sở vi phạm, tức là chiếm 30%. “Chưa gắn trách nhiệm người đứng đầu địa phương với việc mất ATTP. Chúng ta có bộ máy như vậy mà vấn đề quan trọng với cuộc sống không lo thì sao được”, Thủ tướng nói. “Tôi rất mừng khi đi kiểm tra, có một cô chủ tịch phường trẻ tuổi đã nói vanh vách về ATTP trên địa bàn, có bao nhiêu cửa hàng phở, bao nhiêu điểm sản xuất giò chả, làm bún… Anh hiểu đường lối, chính sách giỏi nhưng thực tiễn liên quan đến người dân mà không hiểu thì cũng không có tác dụng. Hành động của chúng ta phục vụ người dân là chính”. Trên tinh thần đó, Thủ tướng yêu cầu tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP. Tập trung quy hoạch phát triển các chuỗi cung cấp thực phẩm sạch. Tiếp tục tuyên truyền vận động các cơ sở sản xuất, chế biến. Đồng thời, có chế tài xử lý nghiêm, thậm chí xử lý hình sự trong một số trường hợp ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống người dân. Tiếp tục đầu tư các phòng xét nghiệm lưu động tại các chợ đầu mối, các phòng kiểm nghiệm chung các lĩnh vực y tế, công thương, nông nghiệp… Quản lý chặt chẽ việc sản xuất, kinh doanh các loại hóa chất, phụ gia thực phẩm, làm rõ “nhập vào bằng đường nào, chống buôn lậu bằng cách nào”. Tại cuộc làm việc, về các đề xuất cụ thể của TPHCM, Thủ tướng cơ bản đồng ý như đề xuất kéo dài thời gian và mở rộng đối tượng được thí điểm thanh tra chuyên ngành về ATTP trên địa bàn Thành phố. Đức …
| Tin mới | admin | 10/10/2016 | | Thủ tướng Chính phủ phát động thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” | Ngày 30-9, tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã dự và chỉ đạo Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và phát động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016-2020. Tham dự còn có Phó thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương Các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 (Ban chỉ đạo); Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường và lãnh đạo 63 tỉnh, thành phố trên cả nước tại các đầu cầu truyền hình trực tuyến. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường trình bày, tính đến 15-9, cả nước đã có 2.045 xã (23% số xã của cả nước) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 515 xã so với cuối năm 2015. Còn 300 xã đạt dưới 5 tiêu chí (3,36%). Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân của cả nước là 13,1 tiêu chí/xã. Dự kiến, hết năm 2016, sẽ có khoảng 25% số xã đạt chuẩn. Có 24 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng ban hành quyết định công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 9 đơn vị so với năm 2015 và dự kiến, hết năm 2016, con số này là 30 đơn vị. Trong giai đoạn 2011-2015, tổng nguồn vốn huy động để thực hiện chương trình là hơn 850.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ chiếm 11,6%, còn 88,4% là từ nhiều nguồn lực khác nhau như từ người dân, doanh nghiệp, tín dụng… Trong giai đoạn 2016-2020, Ban Chỉ đạo cho rằng, trọng tâm cần tập trung vào 4 nhóm nội dung thành phần chủ yếu là: Hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã; thực hiện phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp; bảo vệ và cải thiện môi trường; giữ vững và tăng cường an toàn, an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn. Đối với các xã đã đạt chuẩn, lựa chọn nội dung phù hợp với kế hoạch nâng cao chất lượng các tiêu chí để tiếp tục phấn đấu xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu. Dự kiến, tổng vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho thực hiện chương trình giai đoạn 2016-2020 là hơn 193.000 tỷ đồng. Đến năm 2020, phấn đấu 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, bình quân cả nước đạt 15 tiêu chí/xã. Thu nhập của cư dân nông thôn tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015. Về các giải pháp thực hiện chương trình, Ban chỉ đạo cho biết, tiếp tục thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng về xây dựng nông thôn mới, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đa dạng hóa các nguồn vốn huy động để thực hiện chương trình. Thực hiện nghiêm túc việc đóng góp của nhân dân trong xã để triển khai các dự án theo nguyên tắc tự nguyện. Phát biểu tại hội nghị, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc biểu dương và đánh giá cao những nỗ lực của bộ, ngành, chính quyền các cấp, tổ chức đoàn thể và người dân trong việc xây dựng nông thôn mới, đạt được những kết quả có ý nghĩa to lớn trong thời gian qua. Nhiều mô hình mới trong sản xuất đã được triển khai. Bộ mặt nông thôn mới được thay đổi nhanh. Số hộ nghèo giảm mạnh. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân tốt hơn… Tuy nhiên, Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ ra những mặt còn hạn chế trong việc xây dựng nông thôn mới thời gian qua. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, bản chất của việc xây dựng nông thôn mới là để nâng cao đời sống của người nông dân, cả về vật chất và tinh thần, chứ không chỉ là xây dựng các công trình cơ bản. Nông thôn mới phải là nơi đáng sống, có kết cấu hạ tầng tốt hơn, đời sống người dân tốt hơn, bình đẳng xã hội tốt hơn, dân chủ tốt hơn, giữ gìn văn hóa truyền thống, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, môi trường sống trong lành. Thủ tướng nhìn nhận, để đạt mục tiêu có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới trong 5 năm tới là không hề hơn giản trong khi nguồn lực tài chính đặt ra có hơn 193.000 tỷ đồng, trong đó nguồn từ ngân sách Trung ương chỉ hơn 60.000 tỷ đồng. Trong khi đó, một số không nhỏ các xã chưa được công nhận nông thôn mới là những xã đặc biệt khó khăn, các xã ở vùng sâu, vùng xa, mức sống của người dân còn thấp. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc Về những giải pháp xây dựng nông thôn mới trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải coi trọng vấn đề nâng cao thu nhập cho người nông dân. “Phải tìm hiểu xem người dân có thể hưởng lợi từ đâu, việc tổ chức sản xuất thế nào, ứng dụng khoa học công nghệ ra sao, thương mại điện tử thế nào”, Thủ tướng nhấn mạnh. Thẳng thắn phê bình bệnh thành tích trong đánh giá công nhận nông thôn mới, Thủ tướng chỉ ra rằng, một số nơi sau khi được công nhận thì phong trào chững lại. Vì thế, Thủ tướng khẳng định, cần phải nâng cao hơn nữa vai trò người đứng đầu trong việc xây dựng nông thôn mới. Lãnh đạo các cấp ở địa phương cần phải có khát vọng trong việc xây dựng quê hương giàu mạnh hơn, đời sống người dân được nâng cao hơn. Thủ tướng cho rằng, mô hình xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu phải được quy hoạch chặt chẽ theo hướng xanh sạch đẹp; nông dân phải được trí thức hóa, có tinh thần khởi nghiệp, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; cuộc sống ở nông thôn mới phải tiến cận được công nghệ thông tin, nâng cao tỷ lệ sử dụng internet, thương mại điện tử để sản xuất gắn liền với tiêu thụ sản phẩm. Phải tăng cường khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; củng cố hợp tác xã nông nghiệp để sản xuất lớn. Cần phải đưa vấn đề bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu trong các tiêu chí nông thôn mới. Thủ tướng chỉ đạo cần tiếp tục đa dạng hóa các nguồn lực để xây dựng nông thôn mới. Thời gian qua, nhiều nơi đã kêu gọi xã hội hóa nguồn lực trong việc xây dựng nông thôn mới rất tốt, nhưng nhiều nơi còn mang trông chờ vào bao cấp. Tuy nhiên, Thủ tướng lưu ý không được lạm dụng việc huy động nguồn lực tài chính của dân, nhất là dân nghèo trong việc xây dựng nông thôn mới. Tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016-2020, kêu gọi phát huy sức mạnh đoàn kết của cả hệ thống chính trị để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ này. …
| Tin mới | admin | 04/10/2016 | | Thành công trong mô hình hợp tác giáo dục khoa học nông nghiệp Việt-Bỉ | Ngày 1/10, tại thành phố Gembloux, Vương quốc Bỉ, Ủy ban Phân ban Vùng Namur và Ủy ban Người nước ngoài thuộc Hiệp hội cựu sinh trường Đại học Kỹ thuật Nông nghiệp Gembloux đã tổ chức Ngày Hải ngoại lần thứ 17 với chủ đề “Hợp tác Gembloux – Việt Nam trong các vấn đề phát triển nông thôn.” Phát biểu tại sự kiện, Chủ tịch Hiệp hội cựu sinh Gembloux, ông André Théwis đánh giá cao nỗ lực phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, đặc biệt những thành tựu nổi bật sau “Đổi mới,” trong đó lĩnh vực nông nghiệp luôn được xem là một trong các trụ cột chính của nền kinh tế. Theo ông André Théwis, việc hợp tác giữa Đại học Nông nghiệp Gembloux và Học viện Nông nghiệp Quốc gia Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cao chất lượng giáo viên giảng dạy về nông nghiệp tại Việt Nam. Trong những năm qua, nhiều giáo sư Bỉ đã sang giảng dạy và giúp đỡ triển khai các chương trình phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Về công tác đào tạo nguồn giáo viên chất lượng cao cho Việt Nam, trường Gembloux đã giúp đào tạo rất nhiều tiến sĩ nông nghiệp cho Việt Nam. Những người này hiện giữ nhiều trọng trách ở Việt Nam và trên cương vị công tác đã có những ng góp to lớn cho lĩnh vực phát triển nông nghiệp của đất nước. Các diễn giả đến từ Việt Nam gồm giáo sư Vũ Đình Tôn – Trưởng khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản Học viện Nông nghiệp Quốc gia Việt Nam cùng 5 nghiên cứu sinh đang nghiên cứu học tập và làm luận án tại trường Genmbloux đã trình bày các bài thuyết trình tập trung về những chủ đề, như Kết quả và triển vọng hợp tác Gembloux-Việt Nam; Ảnh hưởng của việc di cư trong phát triển nông nghiệp; Vai trò của các xưởng sản xuất thủ công địa phương và nghiên cứu vùng Hà Nội; Lợi ích và vai trò trong chuyển đổi hệ thống nuôi trồng thủy sản tại miền Bắc; Nghiên cứu so sánh khả năng chấp nhận côn trùng ăn được ở Việt Nam và Bỉ… Giáo sư Vũ Đình Tôn đánh giá chương trình hợp tác giáo dục khoa học nông nghiệp Việt Nam-Bỉ rất quan trọng vì đă giúp đào tạo nguồn nhân lực khoa học về lĩnh vực nông nghiệp có chất lượng cao cho nước ta, với thời gian hợp tác dài hạn (23-24 năm) và cũng là chương trình hợp tác đã và đang để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp cho cả hai phía. Các giáo sư Bỉ đã giúp đỡ hiệu quả để học viên Việt Nam có thể hoàn thành học tập và nghiên cứu khoa học tại Bỉ. Về phần mình các học viên Việt Nam hết sức hài lòng với môi trường học tập tại Bỉ và khi hoàn thành khóa học đã trở lại Việt Nam giảng dạy và làm việc. Những người này trở thành nguồn giáo viên chất lượng cao đóng góp rất nhiều cho công tác đào tạo về lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam. Ngày Hải ngoại của trường Đại học Nông nghiệp Gembloux là dịp để sinh viên nước ngoài có dịp gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm với Hiệp hội cựu sinh của trường. Nhân dịp này, Hội cựu sinh Gembloux tại Việt Nam được công bố chính thức thành lập. Đến nay, đã có 40 nghiên cứu sinh Việt Nam tốt nghiệp tiến sỹ tại …
| Tin mới | admin | 03/10/2016 | | Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đến thăm nhà máy sữa Angkor | Trong buổi làm việc, lãnh đạo nhà máy sữa Angkor đã báo cáo với chủ tịch Quốc hội về quá trình hình thành và xây dựng nhà máy dưới sự hỗ trợ của chính phủ và các bộ ngành hai nước Việt Nam và Campuchia. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nhận xét về tình hình hoạt động sản xuất của nhà máy sữa Angkor Về tình hình sản xuất kinh doanh năm 2016 tính đến hết tháng 9, nhà máy sữa Angkor đã đạt được doanh thu 10.2 triệu USD, đạt 68% kế hoạch doanh thu 15 triệu USD của năm 2016. Đến năm 2024, dự kiến tăng trưởng của công ty mỗi năm bình quân là 15%. Bên cạnh những điểm thuận lợi và tích cực trong quá trình hoạt động, nhà máy sữa Angkor còn gặp một số khó khăn mà chủ yếu liên quan đến thuế nhập khẩu nguyên liệu. Do ngành sản xuất sữa là ngành mới tại Campuchia, các vùng nguyên liệu, chăn nuôi bò sữa còn chưa phát triển nên hầu hết các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất đều phải nhập khẩu từ các nước Châu Âu và Việt Nam với mức thuế nhập khẩu khá cao. Hiện nay, thuế nhập khẩu cho các nguyên vật liệu chính dao động từ 15 đến 35%. Nhân dịp này, công ty sữa Angkor đã xin được kiến nghị với Chủ tịch Quốc hội và Chính Phủ Việt Nam về việc chỉ đạo thúc đẩy ký kết thỏa thuận thương mại song phương giữa các cơ quan hữu quan hai nước Việt Nam – Campuchia, trong đó chú trọng đến miễn, giảm thuế nhập khẩu các nguyên vật liệu chính để sản xuất sữa nhằm góp phần hỗ trợ cho sự phát triển của ngành sữa tại Campuchia. Sau khi lắng nghe phần trình bày của lãnh đạo công ty sữa Angkor, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã biểu dương sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo và cán bộ, công nhân viên nhà máy: “Ngoài kết quả kinh doanh tốt, đóng góp ngân sách nhà nước và tạo công ăn việc làm cho người dân Campuchia. Điều ấn tượng nhất là Vinamilk đã đem đến cho Campuchia một ngành sữa, một nhà máy sữa đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển của ngành sữa tương lai. Đây cũng là một nhu cầu rất cần thiết cho trẻ em và nhân dân Campuchia. Chúng ta cũng thấy đây là 1 dự án rất thành công của sự hợp tác kinh tế đầu tư giữa Việt Nam và Campuchia. Xin chúc mừng công ty Vinamilk và đối tác BPC tại Campuchia, tôi tin tưởng nhà máy sữa Angkor sẽ tiếp tục thành công trong tương lai.”./. Theo …
| Tin mới | admin | 30/09/2016 | | Liên kết sản xuất nông sản chủ lực theo chuỗi giá trị vùng ĐBSCL | Sáng 27/9, tại Đồng Tháp, diễn ra hội nghị do Bộ NN-PTNT, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ phối hợp tổ chức về tái cơ cấu nông nghiệp gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thủy lợi, xây dựng nông thôn mới, liên kết hợp tác phát triển sản xuất nông sản chủ lực theo chuỗi giá trị vùng ĐBSCL và kế hoạch liên kết phát triển bền vững vùng Đồng Tháp Mười. Hội nghị lần này với sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ; Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường và lãnh đạo của 13 tỉnh, thành ĐBSCL. Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, ĐBSCL là trung tâm chế biến thực phẩm lớn của Việt Nam, đóng góp hơn 40% trong giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Đây cũng là nơi khởi xướng nhiều mô hình hiệu quả được nhân rộng trong cả nước. Thế nhưng, trong quá trình phát triển, ĐBSCL đang chịu những tác động từ tự nhiên, đặc biệt là biến đổi khí hậu, nước biển dâng nên nguy cơ “nhấn chìm” nhanh hơn dự báo. Những khó khăn trên buộc chúng ta phải tìm cách thích ứng, tuy nhiên cũng nên thấy rằng chính sự khó khăn này cũng tạo ra dư địa để cơ cấu lại phương thức sản xuất và quá trình tái cơ cấu nông nghiệp cần phải nhanh hơn, quyết liệt hơn. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, sau 3 năm thực hiện đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và 6 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. ĐBSCL là nơi khởi xướng hình thành nhiều mô hình sản xuất mới, đặc biệt là mô hình liên kết sản xuất được nhân rộng trong cả nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu đòi hỏi phải sớm tìm ra cách thích ứng. Ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp nhìn nhận, với nguồn tài nguyên ngày càng ít, sản xuất nhỏ lẻ, ứng dụng khoa học kỹ thuật thấp… đang đặt ra thách thức cho vùng. Đứng trước yêu cầu cấp bách, Đồng Tháp đã đề xuất xây dựng Đề án liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Đồng Tháp Mười gồm 3 tỉnh Đồng Tháp, Long An và Tiền Giang, được Chính phủ thống nhất và đánh giá cao. Sau thời gian thương thảo, các bên đã đi đến thống nhất khung đề án liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Đồng Tháp Mười. Tại hội nghị, lãnh đạo 3 tỉnh đã ký kết biên bản thỏa thuận thực hiện đề án với mục tiêu xây dựng và phát triển tiểu vùng Đồng Tháp Mười trở thành vùng trọng điểm quốc gia về nông nghiệp. Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ cho rằng, tái cơ cấu nông nghiệp tạo ra “tác dụng kép” vì vừa có thể khắc phục được những hạn chế trong sản xuất, vừa ứng phó với những thách thức mới. Đối với ĐBSCL, tái cơ cấu trở nên bức thiết hơn bao giờ hết do phải thích ứng với biến đổi khí hậu, thiếu hụt nguồn nước. Phó Thủ tướng yêu cầu các địa phương tổ chức lại sản xuất, gắn sản xuất với nhu cầu của thị trường, ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng, đồng thời phối hợp với Bộ NN-PTNT lựa chọn các sản phẩm chủ lực phát triển chuỗi và xây dựng thương hiệu. Phó Thủ tướng giao các bộ, ngành cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu của Bộ TN-MT, trên cơ sở đó Bộ KH-ĐT rà soát, hoàn thiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội vùng ĐBSCL; Bộ NN-PTNT sớm có quy hoạch sản xuất cho vùng gắn chặt với đặc điểm từng tiểu vùng, hay đặc điểm tài nguyên nước của vùng để triển khai. Cũng tại hội nghị Phó Thủ tướng chứng kiến lễ ký kết thực hiện kế hoạch liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Đồng Tháp Mười của 3 tỉnh Đồng Tháp, Long An và Tiền Giang, nhằm phát huy lợi thế về tự nhiên, tập quán canh tác gắn với ứng dụng tiến bộ KHKT mới trong tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp của mỗi địa phương, cũng như của toàn vùng. omard.gov.vn (tổng …
| Tin mới | admin | 29/09/2016 | | Nông nghiệp tăng trưởng dương trở lại, xuất siêu 5,6 tỷ USD | Tính chung 9 tháng qua, ngành nông nghiệp tăng trưởng 0,68% so cùng kỳ năm trước; xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 23,3 tỷ USD, nhập khẩu 17,74 tỷ USD. 9 tháng, tăng trưởng 0,68% Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 9 tháng đầu năm, thời tiết diễn biến phức tạp do ảnh hưởng của hiện tượng Elnino đã tác động đến ngành nông nghiệp. Cụ thể, đầu năm xảy ra rét buốt bất thường, nắng hạn xuất hiện sớm và gay gắt; xâm nhập mặn, mưa bão… gây nhiều bất lợi cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, giá vật tư phục vụ cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản không ổn định, có xu hướng tăng nên nhìn chung kết quả sản xuất nông nghiệp đạt thấp. Trong bối cảnh đó, theo ước tính của Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng năm 2016 theo giá so sánh 2010 đạt 594.000 tỷ đồng, tăng 0,68% so với cùng kỳ năm trước. Trước đó, tính chung 6 tháng đầu năm nay, ngành nông lâm thuỷ sản tăng trưởng âm khi giảm tới 0,18%, tương ứng 397.400 tỷ đồng. Nguyên nhân được cho là do sản lượng lúa đông xuân năm nay chỉ đạt 19,4 triệu tấn, giảm mạnh so với cùng kỳ khiến nông nghiệp giảm 0,78%. Do đó, dù lâm nghiệp tăng 5,75%, thuỷ sản tăng 1,25% nhưng do nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nên không thể bù đắp được sự suy giảm của nông nghiệp kéo suy giảm toàn ngành. Vì thế, sau 10 năm kể từ năm 2005, lần đầu tiên ngành nông nghiệp tăng trưởng âm. Kết quả tăng trưởng dương của toàn ngành nông nghiệp 9 tháng có được nhờ sự khởi sắc của nhiều nhóm ngành hàng. Trong đó, đáng chú ý là chăn nuôi phát triển tương đối ổn định do dịch bệnh không xảy ra và giá bán duy trì ở mức có lợi cho người chăn nuôi. Số lượng hộ nuôi nhỏ lẻ đang giảm và quy mô nuôi tập trung số lượng lớn như trang trại, gia trại đang phát triển. Sản xuất thủy sản 9 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn và thách thức do rét đậm, rét hại những tháng đầu năm, ô nhiễm nguồn nước, hạn hán, xâm nhập mặn ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, dịch bệnh diễn biến phức tạp, ảnh hưởng của bão và sự cố môi trường xảy ra ở một số tỉnh ven biển miền Trung. Mặc dù khó khăn nhưng kết quả sản xuất thủy sản vẫn duy trì được tăng nhẹ. Sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm ước tính đạt 4.949,6 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp tục xuất siêu Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu nông lâm và thủy sản 9 tháng qua đạt 23,3 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 11,1 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2015; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 4,9 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2015; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 5,1 tỷ USD tương đương với cùng kỳ năm 2015. Ở chiều nhập khẩu, 9 tháng đạt giá trị kim ngạch 17,74 tỷ USD, tăng 1,3% so với năm cùng kỳ năm 2015. Trong đó, nhập khẩu một số mặt hàng chính ước đạt khoảng 12,82 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tính chung 9 tháng, xuất khẩu nông lâm và thủy sản cả nước xuất siêu 5,6 tỷ USD. Trong số các nhóm hàng nông sản đạt tăng trưởng xuất khẩu khá cao, xuất khẩu cà phê đạt 1,39 triệu tấn và 2,48 tỷ USD, tăng 38,9% về khối lượng và tăng 22,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2016 đạt 1.774 USD/tấn, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm 2015. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm. Giá trị xuất khẩu cà phê trong 8 tháng đầu năm 2016 ở hầu hết các thị trường chính của Việt Nam đều tăng so với cùng kỳ năm 2015. Thị trường cà phê trong nước biến động tăng trong 9 tháng qua. So với thời điểm cuối năm ngoái, giá cà phê vối nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tăng 8.300 – 8.400 đ/kg. Giá cà phê thế giới và Việt Nam tăng cao do thời tiết khô hạn tại nhiều vùng trồng cà phê chủ chốt trên thế giới khiến sản lượng giảm. Xuất khẩu cao su cũng đạt 854.000 tấn và mang về giá trị 1,1 tỷ USD, tăng 14,6% về khối lượng và tăng 1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Trung Quốc và Ấn Độ là 2 thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2016, chiếm 64,6% thị phần. Bên cạnh đó, xuất khẩu chè, hạt điều, tiêu, thủy sản đều đạt tăng trưởng dương cả về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, ngay tại thị trường trong nước, giá thu mua hạt điều khô đã tăng rất mạnh và hiện đang đạt mức đỉnh cao. Nếu như thời điểm đầu năm, hạt điều khô được các thương lái thu mua với mức giá là 39.000 – 40.000 đ/kg thì nay giá đã tăng 9.500 – 10.000 đ/kg lên mức đỉnh là 49.500 đ/kg. Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá “đây là mức cao nhất từ nhiều năm trở lại đây do nguồn cung nội địa khan hiếm, giá điều thô nhập khẩu cao trong khi nhu cầu xuất khẩu tăng cao”./. Xuân …
| Tin mới | admin | 28/09/2016 | | Trung Quốc gia hạn thuế chống bán phá giá gà thịt của Mỹ | Bộ Thương mại Trung Quốc (MOC) mới đây thông báo sẽ gia hạn thời gian áp thuế chống bán phá giá đối với giống gà lấy thịt lông trắng của Mỹ thêm 5 năm. Quyết định mới này có hiệu lực từ ngày 27/9. MOC cho biết thêm mức thuế áp đặt sẽ vẫn giữ nguyên ở mức 46,6% đến 73,8%. Trung Quốc đã áp thuế chống bán phá giá lên các sản phẩm gà nhập khẩu từ Mỹ hồi tháng 9/2010, và cáo buộc rằng các sản phẩm từ gà được trợ giá tại Mỹ đang gây ra tình trạng bán phá giá ở thị trường Trung Quốc. Thông báo trên được đưa ra sau một báo cáo được công bố từ một năm trước chỉ ra rằng ngành chăn nuôi gà trong nước có thể bị ảnh hưởng nếu thuế chống bán phá giá hết hiệu lực. Trung Quốc cũng đã áp thuế chống trợ giá khoảng 4% lên các sản phẩm gà thịt của …
| Tin mới | admin | 27/09/2016 | | Quyết định số 2605/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Phê duyệt Quy định tiêu chuẩn và mức hỗ trợ thực hiện Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2015-2020 trên đại bàn tỉnh An Giang | …
| Quyết định | admin | 27/09/2016 | | Công văn số 7873/BNN-KH ngày 16/09/2016 về việc Xuất dự trữ quốc gia vắc xin, hóa chất sát trùng hỗ trợ tỉnh Quảng Bình | …
| Công văn | admin | 23/09/2016 | | An toàn thực phẩm cần sự chung tay của toàn xã hội | (Chinhphu.vn) – Tình trạng sử dụng hóa chất, chất kích thích, kháng sinh bừa bãi trong sản xuất nông nghiệp, tình trạng gian dối trong sản xuất thực phẩm đang trở thành mối nguy hại đối với người tiêu dùng Việt Nam và là thách thức rất lớn khi Việt Nam hội nhập sâu với kinh tế thế giới. Đây là nhận định của các đại biểu khi tham dự “Diễn đàn chính sách an toàn thực phẩm (ATTP) ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp” diễn ra từ ngày 21-22/9 tại TPHCM do Văn phòng Quốc hội và Dự án quản trị Nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện (USAID GIG) tổ chức. Theo đánh giá của các đại biểu, hiện nay việc vi phạm quy định bảo đảm ATTP đã diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực: Sản xuất, kinh doanh rau củ; nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản; chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm; sản xuất, kinh doanh chất phụ gia, chất hỗ trợ chế biến, chất bảo quản thực phẩm; sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng và sữa, bánh kẹo… Các vi phạm về bảo đảm an toàn thực phẩm đã gây ra nhiều hệ lụy về sức khỏe của người dân, cụ thể là: Gây ra nguy cơ ngộ độc thực phẩm hoặc gây ra các bệnh mãn tính (rối loạn chuyển hóa chất của cơ thể, bệnh tim mạch, bệnh ung thư…). Theo thống kê của Bộ Y tế, trung bình mỗi năm Việt Nam có khoảng 150-200 vụ ngộ độc thực phẩm với 5.000-7.000 người là nạn nhân. Năm 2015, toàn quốc ghi nhận 179 vụ ngộ độc thực phẩm với 5.552 người mắc, 23 trường hợp tử vong; Trong 6 tháng đầu năm, toàn quốc có 68 vụ ngộ độc thực phẩm với 2.080 người mắc. Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang đặt nước ta vào bối cảnh chịu những thách thức lớn về rào cản kỹ thuật (TBT) và các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) trong an toàn thực phẩm. Các biện pháp về rào cản kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ của Việt Nam chưa tốt có thể dẫn tới tình trạng Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, không bảo đảm an toàn thực phẩm… Mặt khác, các sản phẩm thực phẩm của nước ta cũng gặp nhiều khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường các nước vì các rào cản phi thuế quan này. Theo PGS. TS Trần Quang Trung, nguyên Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), vấn đề ATTP không bảo đảm có nhiều nguyên nhân, nhưng có một số nguyên nhân chính là sản xuất, chế biến thực phẩm ở nước ta chủ yếu là nhỏ lẻ (gần 10 triệu hộ nông dân sản xuất thực phẩm; 500.000 cơ sở chế biến trong đó 85% có quy mô vừa và nhỏ, hộ gia đình, sản xuất theo mùa vụ nên nhiều cơ sở không bảo đảm điều kiện ATTP). Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về bảo đảm ATTP của một số cơ sở, cá nhân còn hạn chế. Nhất là việc sử dụng phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật không đúng quy định trong trồng rau quả, dùng chất cấm trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản, sử dụng hóa chất phụ gia ngoài danh mục, hay kinh doanh thực phẩm không nguồn gốc xuất xứ…. Bên cạnh đó, chính quyền cơ sở nhiều nơi chưa thật sự vào cuộc với công tác ATTP. Lực lượng cán bộ quản lý ATTP còn thiếu cả ở Trung ương và địa phương; lực lượng thanh tra còn quá mỏng. Việc xử lý các vi phạm còn chưa kiên quyết, đặc biệt tại tuyến xã, phường chủ yếu là hình thức nhắc nhở. Đồng bộ các chính sách trong quản lý ATTP Theo ông Nguyễn Tử Cương, nguyên Cục trưởng Cục quản lý chất lượng Nông, lâm sản và thủy sản (Bộ NN&PTNT), năm 2011, khi Luật ATTP có hiệu lực, gần như tất cả các hoạt động sản xuất và kinh doanh thực phẩm đều kiểm soát an toàn theo nguyên lý nhận diện mối nguy và kiểm soát tại nơi phát sinh. Tuy nhiên, việc phân công kiểm soát an toàn thực phẩm đang được thực hiện theo kiểu chặt khúc, chồng chéo nên hiệu quả không cao. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các bộ, ngành liên quan cần có những đánh giá chi tiết và cụ thể. Rà soát lại toàn bộ các văn bản về ATTP đã ban hành để loại bỏ các văn bản trái luật, chồng chéo, không thực thi, không thống nhất. Cùng với đó cần thành lập một cơ quan đầu mối trực thuộc Chính phủ để chỉ đạo điều hành công tác ATTP, không để tình trạng 3 bộ cùng quản lý như hiện nay. Tại tuyến tỉnh, thành phố thành lập cơ quan đầu mối (có thể là Ban ATTP) trực thuộc UBND tỉnh, thành phố. Đẩy mạnh vai trò và trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP của cấp chính quyền tuyến quận, huyện và nhất là tuyến xã, phường. Tăng cường tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ sức khỏe của người dân về sử dụng thực phẩm an toàn. Xây dựng hệ thống thanh tra ATTP phù hợp về mạng lưới, hệ thống kỹ thuật từ Trung ương đến địa phương, trên cơ sở rút kinh nghiệm từ mô hình thí điểm của TPHCM và Hà Nội. Chia sẻ tại diễn đàn, nhiều đại biểu cũng cho rằng, để các cơ sở sản xuất kinh doanh bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, các cơ quan chức năng cần sớm ban hành những bộ tiêu chí, tiêu chuẩn quy định cho từng loại sản phẩm, ngành hàng. Chẳng hạn như cà phê, sản phẩm hữu cơ… Đồng thời có chế tài, xử phạt nghiêm minh đối với các cơ sở, cá nhân vi phạm. Ông Đỗ Mạnh Hùng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết, mặc dù các cơ quan, ban, ngành đã có nhiều nỗ lực, nhưng việc bảo đảm vệ sinh ATTP tại Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập, gây ra nhiều hệ lụy cho người tiêu dùng, xã hội. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa 14 đã ban hành Nghị quyết về việc Quốc hội sẽ giám sát chuyên đề việc thực hiện chính sách, pháp luật về ATTP giai đoạn 2011-2016. Lê …
| Tin mới | admin | 23/09/2016 | | Thông tư số 30/2016/TT-BNNPTNT ngày 25/8/2016 Sửa đổi, bổ sung Điều 9 Thông tư số 15/2015/TT-BNNPTNT ngày 26/3/2015 Hướng dẫn nhiệm vụ các Chi cục và các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Thông tư | admin | 22/09/2016 | | ASEAN-Trung Quốc hợp tác thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ | Theo phóng viên TTXVN tại Indonesia, ngày 19/9, tại Jakarta đã diễn ra Hội nghị chuyên đề về Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030 do Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) phối hợp với Ban Thư ký ASEAN và Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức. Tham gia sự kiện có các đại diện phái đoàn các nước tại ASEAN, đại diện cấp cao chịu trách nhiệm việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của các nước; đại diện các tổ chức xã hội dân sự của các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc; Ban Thư ký ASEAN; các cơ quan chuyên ngành của ASEAN; UNDP, khu vực tư nhân… Hội nghị nhằm chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận về chính sách ứng phó với vấn đề đói nghèo, bất bình đẳng và các thách thức trong bối cảnh của Chương trình nghị sự phát triển bền vững Tầm nhìn ASEAN 2025 và 2030. Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Haoliang Xu, Giám đốc Văn phòng Khu vực châu Á và Thái Bình Dương của UNDP nhấn mạnh ý nghĩa của Chương trình nghị sự 2030 được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc vào tháng 9/2015. Chương trình đã đưa ra tầm nhìn, định hướng phương pháp thực hiện, các quan hệ đối tác và hành động toàn cầu đưa phát triển bền vững thành hiện thực trên toàn thế giới trong 15 năm tới. Ông Haoliang Xu nêu rõ: “Hiện nay, UNDP có nhiều dự án đầu tư vào ASEAN cũng như Trung Quốc trên rất nhiều lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa-xã hội, bảo vệ môi trường… Các dự án này của UNDP rất thiết thực, hữu ích đối với các bạn. Chúng tôi hy vọng, trong tương lai mối quan hệ giữa chúng ta sẽ ngày càng tốt đẹp với mong muốn chúng tôi có thể đóng góp sức mình để thực hiện các mục tiêu của ASEAN.” Việc triển khai thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ (SDGs) được các nước ASEAN tiến hành chủ động, tích cực và hợp tác với nhau. Thực hiện Chương trình nghị sự phát triển bền vững 2030 và tầm nhìn Cộng đồng ASEAN năm 2025 đều nhằm đến việc cải thiện đời sống người dân, nâng cao mức sống và bảo đảm cân bằng giữa các quốc gia để đảm bảo không quốc gia nào bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển. Trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN, Phó Tổng thư ký ASEAN Vongthep Arthakaivalvatee cho biết: “Cuộc hội thảo này rất quan trọng, giúp các quốc gia ASEAN, Trung Quốc và UNDP tăng cường hợp tác, thúc đẩy phát triển bền vững, đồng thời cũng hướng đến việc thực hiện tầm nhìn ASEAN vào năm 2025. Chúng ta có thể học tập những kinh nghiệm quý báu của Trung Quốc trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, từ đó đem áp dụng vào ASEAN để biến tổ chức này thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới trong tương lai.” Hội nghị có 2 phiên thảo luận bàn tròn về các hành động ưu tiên việc thực hiện các SDGs gồm xóa đói giảm nghèo; Môi trường bền vững; Quan hệ đối tác, Đầu tư và phiên 2 bàn về Sức khỏe; Giới tính và Giáo dục. Các đại biểu cũng đã nghe báo cáo của UNDP và thảo luận về các vấn đề liên quan đến về Tổng quan của tình trạng đói nghèo, bất bình đẳng, xu hướng và thách thức trong khu vực; những thách thức đối với ASEAN trong thực hiện SDGs; hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc trong thực hiện SDGs; SDGs và xây dựng Cộng đồng …
| Tin mới | admin | 22/09/2016 | | Doanh nghiệp NK thức ăn chăn nuôi: Mong chờ thủ tục mới theo Cơ chế một cửa Quốc gia | (HQ Online)- Không chỉ đánh giá cao lợi ích đem lại từ thủ tục “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi NK” khi triển khai theo Cơ chế một cửa Quốc gia (NSW), hiện tại, các DN NK thức ăn chăn nuôi còn đang rất kỳ vọng vào việc sẽ có thêm hai thủ tục mới được triển khai theo NSW trong năm 2017 tới. Lợi đủ đường Công ty CP Thức ăn chăn nuôi Việt Thắng là DN chuyên NK nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi từ các thị trường như Mỹ, Ấn Độ, Đức… qua các cảng Cát Lái, Cái Mép… Bắt đầu áp dụng NSW đối với thủ tục “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi NK” từ tháng 12-2015, tuy nhiên ban đầu DN vẫn tiến hành song song cả hồ sơ giấy và hồ sơ điện tử. Từ ngày 1-4, theo yêu cầu của Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), DN chính thức chuyển hoàn toàn sang hồ sơ điện tử. Trao đổi với phóng viên Báo Hải quan, ông Huỳnh Hải Phong, nhân viên XNK Công ty cho biết: Thời gian đầu áp dụng NSW, do chưa quen cũng như hệ thống còn một số trục trặc nên DN gặp một số khó khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại mọi việc diễn ra khá suôn sẻ, thuận lợi. “Trước đây, khi làm hồ sơ giấy, chỉ riêng việc gửi hồ sơ đăng ký và nhận phản hồi từ phía Cục Chăn nuôi, DN cũng mất khoảng 5-7 ngày. Nếu hồ sơ có sai sót gì cần chỉnh sửa, việc hoàn thiện còn lâu hơn do phải gửi đi gửi lại nhiều lần. Hiện nay, đối với NSW, DN sau khi gửi hồ sơ lên hệ thống Cổng thông tin một cửa Quốc gia, thông thường ngay trong ngày đã nhận được phản hồi từ Cục Chăn nuôi, rất tiện lợi, kịp thời. Đây là ưu điểm nổi bật mà DN nhận thấy”, ông Hải Phong nhấn mạnh. Liên quan tới vấn đề này, ông Võ Hồng Phong, nhân viên XNK Công ty TNHH Thức ăn chăn nuôi Ngọc Long (DN chuyên NK nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi như cám, ngô, đậu nành… từ các thị trường Arghentina, Australia, Mỹ,…) cho hay: Trung bình mỗi tháng DN NK khoảng 3.000 tấn hàng, tương đương 6-7 lô. Như vậy, DN sẽ phải làm thủ tục “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi NK” 6-7 lần/tháng. Mặc dù thủ tục này đã được chính thức triển khai theo NSW từ tháng 9-2015, tuy nhiên từ tháng 3-2016, DN mới bắt đầu áp dụng. Qua một vài tháng, DN nhận thấy NSW thực sự đem lại những lợi ích thiết thực cho DN, hơn hẳn so với làm hồ sơ giấy. “Thời gian làm thủ tục rút ngắn, các thao tác ít hơn. DN cũng tiết kiệm nhiều công sức chạy đi chạy lại để gửi và nhận hồ sơ. Trước đây làm hồ sơ giấy, tổng thời gian từ khi DN nộp hồ sơ cho tới khi nhận kết quả cuối cùng trung bình khoảng 20 ngày thì với NSW, thời gian rút ngắn chỉ còn lại 10 ngày”, ông Hồng Phong nói. Kỳ vọng thủ tục mới Theo đại diện Cục Chăn nuôi, trong năm 2017 tới sẽ có thêm hai thủ tục hành chính được triển khai theo NSW, đó là “Miễn kiểm tra chất thức ăn chăn nuôi NK có thời hạn” và “Kiểm tra giảm chất lượng thức ăn chăn nuôi NK có thời hạn”. Hầu hết các DN NK thức ăn chăn nuôi đều khá hồ hởi, mong đợi trước thông tin này. Theo ông Hải Phong, nhiều năm nay, DN thường xuyên NK các mặt hàng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi quen thuộc từ các đối tác truyền thống. Tuy nhiên, hầu như mỗi lần NK, DN lại vẫn phải tiến hành kiểm tra thông thường, lấy mẫu xét nghiệm các chỉ tiêu liên quan. Điều này tốn nhiều thời gian cũng như chi phí cho DN. DN mong muốn sau một quá trình NK nhất định, khi các mặt hàng mà NK đều đáp ứng yêu cầu đặt ra, được phép NK thì sẽ được cơ quan quản lý Nhà nước xem xét cho phép miễn kiểm tra thực tế, chỉ kiểm tra cảm quan hàng hóa. “DN cũng có kế hoạch nghiên cứu để đề xuất vấn đề này. Tuy nhiên, do ngần ngại thủ tục có thể còn nhiêu khê, khó khăn, không đạt mục tiêu nên DN vẫn chưa làm. Nếu thủ tục Miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi NK được triển khai theo NSW thì DN sẽ tự tin hơn, sẵn sàng áp dụng bởi yên tâm về sự rõ ràng, minh bạch”, ông Hải Phong nhấn mạnh. Về điều này, đại diện một số DN NK thức ăn chăn nuôi chia sẻ thêm, hiện tại không ít DN cũng đang có kế hoạch đề nghị được phép miễn hoặc kiểm tra giảm chất lượng thức ăn chăn nuôi NK do thường NK các mặt hàng quen thuộc. Vì vậy, các DN mong muốn các thủ tục liên quan nêu trên sẽ sớm được áp dụng theo NSW để có thể chủ động tiến hành. Theo Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT): Thủ tục “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi NK” theo Cơ chế một cửa Quốc gia (NSW) được chính thức thí điểm từ ngày 1-9-2015 và từ 1-4-2016 hoàn toàn triển khai theo hồ sơ điện tử, không sử dụng hồ sơ giấy. Tính đến hết tháng 8, Cục Chăn nuôi đã tiếp nhận 20.792 hồ sơ “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi NK” qua Cổng thông tin một cửa Quốc gia, trong đó đã giải quyết 20.523 hồ sơ, còn 269 hồ sơ đang trong quá trình thẩm định. Nhìn chung tỷ lệ giải quyết hồ sơ đăng ký đạt khá cao là 98,7%. Hiện nay, toàn quốc đã có tới 627 DN tham gia triển khai thủ tục sơ “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi NK” theo NSW. Thanh Nguyễn …
| Tin mới | admin | 19/09/2016 | | Bộ Nông nghiệp chủ trương lấy chăn nuôi bù đắp cho thâm hụt toàn ngành | “Để bù đắp lại con số tăng trưởng âm của ngành trong 6 tháng đầu năm, những tháng cuối năm, ngành nông nghiệp có hai nhiệm vụ song song, một là tiếp tục tái cơ cấu, hai là trước mắt phải tập trung vào mặt hàng có dư địa để lấy lại đà phát triển sản xuất của toàn ngành.” Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường đã nêu rõ định hướng này tại cuộc tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Thu hút đầu tư nông nghiệp bằng Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn” do Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ tổ chức chiều nay (16/9), tại Hà Nội. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, nửa đầu năm 2016, lần đầu tiên trong nhiều năm ngành nông nghiệp có GDP tăng trưởng âm 0,18%, điều này ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhiều hộ nông dân, nhất là vùng khó khăn. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, nông nghiệp vốn chiếm vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, cho đến nay 70% số dân vẫn sống ở khu vực nông nghiệp và hiện có 46% lao động trong khu vực này. Do đó, trong những tháng cuối năm, ngành nông nghiệp tập trung thực hiện song song hai nhiệm vụ. Một là tiếp tục thực hiện tái cơ cấu đấy là nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo giải pháp phát triển dài hạn. Hai là, trước mắt toàn ngành phải tập trung vào mặt hàng có dư địa, có thị trường tốt. Người đứng đầu ngành nông nghiệp khẳng định nhóm hàng đang có nhiều lợi thế là ngành chăn nuôi, bao gồm chăn nuôi cả ba nhóm gia cầm, đại gia súc và lợn đều đang rất thuận lợi. Cụ thể, tổng dư lượng thức ăn sản xuất dự kiến đến nay khoảng 16 triệu tấn, giá nguyên liệu đầu vào hạ hơn so với năm trước. Lượng giống cho cả ba đối tượng này được chuẩn bị tốt. Đặc biệt, năm nay, về tình hình dịch bệnh không có dịch bệnh lớn trên cả ba đối tượng trên. Bên cạnh đó, hiện nay tín hiệu thị trường nội địa đối với lĩnh vực chăn nuôi có nhiều tích cực. Hiện, giá lợn, bò, gà đang tốt, đặc biệt là có thể xuất khẩu dù chủ yếu là xuất khẩu tiểu ngạch. Mặt khác từ nay đến cuối năm, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm dự kiến sẽ tăng mạnh cả nội địa và xuất khẩu. Theo số liệu tổng hợp dự báo, tốc độ tăng trưởng ngành chăn nuôi cuối năm sẽ đạt được 4-5%. “Đó là những điều kiện hết sức thuận lợi để tập trung đẩy mạnh phát triển lĩnh vực này để bù đắp những thâm hụt chung của ngành,” Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh. Trong lĩnh vực thủy sản, ngành sẽ chú trọng con tôm. Với tốc độ tăng đàn và tốc độ thị trường như hiện hay, từ nay tới cuối năm, sản xuất tôm có thể cán đích 660.000ha để có sản lượng tôm 680.000 tấn. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng cho biết, tốc độ xuất khẩu rau quả từ tháng Sáu đến nay có tín hiệu rất tốt. Bình quân chung, tăng trưởng xuất khẩu rau quả từ đầu năm đến nay khoảng 37%/tháng. Trong năm nay, giá trị xuất khẩu rau quả có khả năng lần đầu tiên sẽ vượt gạo và đạt khoảng 2,5-2,6 tỷ USD/năm. Ngoài ra, các sản phẩm cây công nghiệp (trừ cao su, sắn sụt giảm) sản phẩm hạt điều, cà phê, tiêu đều tăng. Đây cũng là những mặt hàng có lợi thế về giá trị xuất khẩu. “Như vậy, với những nhóm mặt hàng còn dư địa lớn này, toàn ngành và các địa phương đang tập trung quyết liệt, thì tôi tin rằng tăng trưởng từ nay đến cuối năm không chỉ bù đắp cho phần thâm hụt những tháng đầu năm mà còn tạo ra sự tăng trưởng phù hợp trong những tháng cuối năm, làm tiền đề cho sản xuất,” Bộ Trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng …
| Tin mới | admin | 19/09/2016 | | Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tọa đàm về thu hút đầu tư vào nông nghiệp | Mặc dù nông nghiệp là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng số lượng doanh nghiệp tham gia đầu tư vào nông nghiệp chiếm chưa tới 1% tổng số doanh nghiệp trên cả nước. Làm thế nào để thu hút thêm doanh nghiệp, huy động nhiều hơn nguồn vốn từ xã hội để tái cơ cấu nông nghiệp đang là bài toán khó đối với ngành nông nghiệp. Theo Bộ NN&PTNT, trên 96% doanh nghiệp tham gia vao ngành nông nghiệp đều là những doanh nghiệp (DN) nhỏ và siêu nhỏ. Nguyên nhân khách quan khiến nhiều DN ngại đầu tư vào nông nghiệp là rủi ro lớn từ thiên tai, dịch bệnh, lợi nhuận thấp, bấp bênh… Hơn nữa, nhiều DN ngại đầu tư vào nông nghiệp do khó tiếp cận đất đai và nguồn vốn. Thực tế cho thấy, đến thời điểm này, các xung lực để “kéo” DN đầu tư vào nông nghiệp đã tụ hội khá đầy đủ. Nếu trước đây, chỉ có một số ít DN vừa và nhỏ đầu tư vào nông nghiệp, mà cũng chỉ ở khâu thương mại, thì hiện các DN đã đầu tư theo chuỗi, từ khâu sản xuất, chế biến cho đến tiêu thụ sản phẩm. Trong sơ kết 3 năm thực hiện, Bộ NN&PTNT cũng thừa nhận, ngành nông nghiệp vẫn tồn tại nhiều yếu kém cần khắc phục như sức cạnh tranh chưa cao, chuỗi giá trị ngắn. Ví dụ, trong lĩnh vực trồng trọt có 13 triệu hộ nông dân, bình quân mỗi hộ chỉ có 0,3 ha đất. Ngoài ra, với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, thị trường rất bấp bênh, không bền vững, thậm chí có thị trường đang đe dọa giảm kim ngạch nhập khẩu, như mặt hàng lúa gạo, thủy sản… Vào lúc 13h00 ngày 16/9 tại Cổng TTĐT Chính phủ, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường tham dự buổi tọa đàm, trao đổi xung quanh vấn đề thu hút đầu tư vào lĩnh vực NN&PTNT thông qua quá trình tái cơ cấu của ngành nông nghiệp. Dưới đây là toàn văn nội dung buổi Tọa đàm: Ngành nông nghiệp đã thực hiện đề án tái cơ cấu được 3 năm, tuy nhiên việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này còn rất hạn chế. Điều này dẫn đến khó khăn trong định hướng chuyển ngành nông nghiệp Việt Nam sang nền sản xuất hàng hóa có tính cạnh tranh. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, Cổng TTĐT Chính phủ thực hiện buổi tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Thu hút đầu tư vào ngành nông nghiệp thông qua đề án tái cơ cấu ngành NN&PTNT”. Xin trân trọng giới thiệu vị khách mời đặc biệt ngày hôm nay: Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường. Trước hết xin cảm ơn Bộ trưởng đã tham dự cuộc tọa đàm hôm nay. Thưa ông, sáu tháng đầu năm nay, lần đầu tiên nông nghiệp tăng trưởng âm, ông đánh giá nguyên nhân là gì? Chúng ta biết rằng nửa đầu năm, lần đầu tiên trong nhiều năm nông nghiệp có GDP tăng trưởng âm 0,18%, gây ra tác hại lớn. Cho đến nay, nông nghiệp chiếm vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, 70% số dân vẫn sống ở khu vực nông nghiệp và hiện có 46% lao động trong khu vực này. Những năm qua, nông nghiệp trở thành điểm đệm trong nền kinh tế, nhất là thời điểm kinh tế khó khăn. Do vậy, việc tăng trưởng âm là điều trăn trở chung của toàn ngành, tác động không nhỏ tới đời sống bà con nông dân, nhất là vùng khó khăn. Biến đổi khí hậu làm tất cả vùng sản xuất bị đảo lộn, ĐBSCL nguy cơ ngập tới 1 m sau 100 năm nữa, ảnh hưởng tới tất cả vùng sản xuất trọng điểm. Theo kịch bản 2012 công bố, tốc độ diễn ra khốc liệt hơn, nhanh hơn. Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, hàng nông sản có cơ hội đi quốc tế nhiều hơn nhưng phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt với nông sản phẩm hàng hóa thế giới ở quốc gia có lợi thế hơn nhiều về tài nguyên, khoa học, sức sản xuất, quản trị…, cùng lúc chịu 3 áp lực nên phải tập trung tái cơ cấu lại theo hướng sản xuất hàng hóa, chuỗi giá trị tập trung bền vững. Sau 3 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu, ông đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại và định hướng cho giai đoạn tới? Chúng ta đang biết nông nghệp sau 30 năm đổi mới đạt được nhiều thành tựu quan trọng, chuyển từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hóa không chỉ bảo đảm an ninh lương thực, mà còn xuất khẩu 30 tỷ USD năm 2015. Nông nghiệp vẫn dựa trên nền sản xuất nhỏ lẽ, quy mô phân tán là chính… Điều này đã làm cho năng suất lao động thấp so với khu vực và thế giới, không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập và còn rất khó cạnh tranh về kinh tế khi hội nhập. Đây là nút thắt lớn nhất của ngành nông nghiệp. Nông nghiệp còn phải đối mặt với biến đổi khí hậu, đây là thách thức toàn cầu. Việt Nam là một trong 5 nước trên thế giới bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu. Trong 6 tháng đầu năm đã rất rõ điều đó, biến đổi khí hậu đã làm cho sản xuất truyền thống của chúng ta bị đảo lộn, nước biển dâng, thậm chí Đồng bằng sông Cửu Long nguy cơ theo kịch bản đã công bố sẽ ngập tới 1m sau 100 năm nữa. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến sản xuất tại tất cả các vùng trọng điểm của Việt Nam. Chúng ta đang phải đối mặt với nguy cơ này, xảy ra theo kịnh bản chúng ta công bố năm 2012 với tốc độ xảy ra khốc liệt hơn, nhanh hơn. Chúng ta đang hội nhập sâu rộng với thế giới, điều này đồng nghĩa là hàng nông sản Việt Nam có cơ hội đi thị trường quốc tế nhiều hơn nhưng chúng ta sẽ phải chịu chấp nhận cạnh tranh khốc liệt với các hàng hóa thế giới vốn có sức cạnh tranh nhiều hơn của chúng ta về tài nguyên, khoa học, công nghệ, sức sản xuất, quản trị. Như vậy cùng một lúc chúng ta phải chịu 3 áp lực trên. Do đó chúng ta không còn con đường nào khác phải tái cơ cấu ngành, theo hướng sản xuất hàng hóa chuỗi giá trị bền vững có giá trị gia tăng cao, cải thiện đời sống cho nhân dân. Sau 3 năm thực hiện đề án, chúng đã đạt được một số kết quản ban đầu có tính chất tiền đề: Một là sự chuyển biến về nhận thức ở các cấp độ: Doanh nghiệp, xã hội, người dân. Nền sản xuất nhỏ lẻ, giờ trước yêu cầu thực tế, yêu cầu hội nhập, cần phải chuyển sang tái cơ cấu bền vững. Đầu tiên là sự chuyển biến về nhận thức. Điều này thể hiện ở việc 63 tỉnh, thành phố đều có đề án, chương trình hành động cụ thể, tùy từng điều kiện, cấp độ từng nơi và đã có những kết quả ban đầu. Ví dụ Lâm Đồng đã ứng dụng nền nông nghiệp công nghệ cao, 25% diện tích, thu nhập bình quân 243 triệu đồng/ ha, Đồng Tháp đã chọn 5 sản phẩm chủ lực của tỉnh: hoa, gạo, vịt, trái cây, thủy sản để tập chung chính sách, quy hoạch vùng… Hay Hà Giang là tỉnh miền núi khó khăn trong quá tình canh tác sản xuất, nhưng đã đi sâu vào khai thác lợi thế như rau, dược liệu, tổc chức lại sản xuất chăn nuôi. Tất cả 63 tỉnh, thành phố đều có chương trình hành động để chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Thứ hai là một số ngành hàng đã thực hiện tái cơ cấu với kết quả rõ nét. Chẳng hạn, chúng ta đã tổ chức ngành hàng sữa với trụ cột là các doanh nghiệp đầu tư khoa học, công nghệ, vốn và đặc biệt là tạo chuỗi khép kín từ chăn nuôi cho đến tiếp cận thị trường, do đó ngành sữa Việt Nam trong 5 qua đã tăng trưởng lớn nhất thế giới. Hay trong chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn, sau tái cơ cấu chúng ta đã có kết quả nền tảng. Trong 30 triệu con lợn, đàn lái ngoại khoảng 4 triệu con, 15% là lái ngoại có chất lượng tương đương thế giới. Đặc biệt trong quản trị chăn nuôi, mỗi năm sản xuất 4-4,5 triệu tấn thịt lợn, hiện nay chăn nuôi theo quy mô trung bình và lớn chiếm tới 40%, riêng sản lượng chiếm 55% được quản trị quy mô khá tiên tiến. Tái cơ cấu nông nghiệp thực ra là quá trình tái cấu trúc lại tổ chức sản xuất, do đó một số năm thì chưa thể có kết quả lớn như chúng ta mong muốn. Trên bình diện chung, chúng ta có một giới hạn quy mô nhất định. Sau 3 năm, mới dừng lại ở một số mô hình, một số tỉnh sản xuất hàng hóa, còn phổ biến phải cần quá trình quyết liệt hơn, dài hơn nữa. Theo cập nhật của Bộ trưởng, tình hình doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiện nay như thế nào? Để tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, DN là hạt nhân cốt yếu, làm nền tảng cho mọi liên kết thực hiện được nền sản xuất hàng hóa tập trung. Đến nay, có khoảng 3.643 DN đầu tư vào nông nghiệp/gần nửa triệu DN đầu tư vào ba khu vực nền kinh tế. Số lượng thì còn ít chưa đến 1%, trong đó 90% số DN đầu tư là DN nhỏ, thậm chí siêu nhỏ. Số DN lớn mang tính đầu tàu còn ít. Việc thực hiện Nghị định 210 của Chính phủ về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thời gian vừa qua không được như kỳ vọng. Theo phản ánh của các doanh nghiệp, địa phương còn nhiều vấn đề bất cập, chưa huy động được nhiều nguồn lực tư nhân đầu tư vào ngành nông nghiệp. Ông thấy vấn đề trên thế nào? Thời gian qua, chủ trương, chính sách, cơ chế liên tục được hoàn thiện, trong đó có nội dung tập trung làm sao đổi mới khuyến khích DN đầu tư phát triển kinh tế nói chung, trong đó có nông nghiệp. Trước đó có Nghị định 61, sau đó sửa đổi, gần đây nhất là Nghị định 210 nhằm thu hút ưu đãi khuyến khích DN tập trung đầu tư vào nông nghiệp. Đến nay, một số nơi làm tốt, còn bình diện chung một số nội dung của chính sách 210 chưa đi vào cuộc sống được. Ví dụ, Nghị định 210 áp dụng trên mọi vùng miền nhưng điều kiện phát triển mọi vùng miền khác nhau, chính sách chưa phân định được. Thứ hai, áp dụng chính sách hỗ trợ sau đầu tư theo Nghị định 210, mức tối đa chỉ 2,5 tỷ đồng. Đầu tư nông nghiệp rủi ro lớn, một số ngành hàng yêu cầu vốn lớn. Với các địa phương hiện nay Trung ương còn phải điều tiết về ngân sách thì bản thân địa phương gặp khó trong kinh phí, bởi Trung ương chỉ tập trung dự án đầu tư lớn, phân khúc lớn. Bên cạnh đó, một số hình thức tín dụng hay trong vấn đề tiếp cận đất đai còn đang bất cập. Thủ tướng đã giao Bộ NN&PTNT và các bộ liên quan khảo sát, đánh giá, đề xuất tiếp tục có kiến nghị để Nghị định 210 sát thực tiễn hơn, khuyến khích DN đầu tư. Một trong những nút thắt hạn chế các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp là vấn đề tích tụ đất đai để có vùng sản xuất lớn, hàng hóa. Vậy làm sao có thể tháo gỡ được nút thắt này để thúc đẩy DN vào nông nghiệp? Hiện nay những khó khăn đang kìm hãm DN đầu tư có nhiều, trong đó điển hình là nút thắt đất đai. Tất cả DN đầu tư muốn sản xuất phải có đất. Đất nông nghiệp, năm 1993 đã thực hiện giao đất cho nông dân ổn định lâu dài, khi nhu cầu cần tập trung thì quá trình đối mặt trước mắt khó khăn. Để giải quyết cho DN, nhiều tỉnh đã sáng tạo cách làm. Ví dụ tại tỉnh Hà Nam, trên cơ sở giao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân, những nơi nông dân cảm thấy làm hiệu quả không bằng dồn vào một tổ chức làm tốt hơn thì trên cơ sở dân tự nguyện, tỉnh đại diện giao lại đất cho DN. Quyền sử dụng đất vẫn của nông dân, chuyển quyền sử dụng trong giới hạn thời gian nhất định. Ví dụ tiếp theo là tại tỉnh Nam Định, một số DN mạnh dạn tiếp nhận quyền sử dụng đất qua việc chuyển nhượng của người dân. Tuy nhiên vấn đề này bị giới hạn bởi hạn điền. Hiện nay, quy định hạn điền cho phép DN tiếp nhận chuyển nhượng chỉ giới hạn 20-50 ha. Tuy nhiên, DN tổ chức làm tốt vẫn tích tụ được diện tích nhất định. Tiếp theo là hình thành các hợp tác xã. Nhiều nông dân xúm vào cùng nguyện vọng, thống nhất mục tiêu sản xuất, liên kết chặt với DN để DN làm mũi nào tốt nhất, còn HTX làm phân khúc hợp lý và giá thành thấp. Con đường này đúng luật. Sau khi giao đất ổn định lâu dài cho nông dân, Nhà nước đã có những thể chế, cơ chế để nông dân thực hiện quyền. Tuy nhiên, chế tài làm cái này phải rõ hơn nhằm tạo điều kiện cho DN có đất tổ chức sản xuất. Vừa qua, Ban Kinh tế Trung ương đã tổ chức diễn đàn tìm hiểu, xúc tiến DN đầu tư vào nông nghiệp. Hai vấn đề nổi cộm được tập trung tháo gỡ thời gian tới là tích tụ đất để DN có điều kiện sản xuất; tập trung nhóm giải pháp để phát triển kinh tế tập thể, chủ thể là HTX. Ban Kinh tế Trung ương sẽ chỉ đạo tiếp Bộ NN&PTNT và Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng bộ, ngành liên quan tiếp tục bàn thảo sâu về hai vấn đề này. Có một tín hiệu tốt hiện nay là có những doanh nghiệp lớn, quan tâm đầu tư vào nông nghiệp. Đây sẽ là cú hích quan trọng để hình thành các liên kết trong tổ chức sản xuất nông nghiệp. Theo ông, những đơn vị này có bảo đảm được vai trò này không? Điều đáng mừng gần đây nhiều DN lớn đã nghiên cứu và quyết định đầu tư vào nông nghiệp, ví dụ Vingroup đã lập Vineco với số vốn 2.000 tỷ đồng với chiến lược 2 năm phấn đấu hoàn thành khoảng 300 nhà kính phát triển tập trung sản xuất rau sạch; tập trung phát triển chuỗi mặt bằng phân phối nông sản ở các vùng miền. Sau 1 năm, qua quá trình tham quan, một số trở thành đã hiện thực sản xuất, ví dụ 46 nhà kính ở Tam Đảo, đang triển khai ở Hải Phòng và một số nơi. Trong chuỗi sản phẩm về thịt lợn, gà, Dabaco ở Bắc Ninh, một năm sản xuất tới 45 triệu con giống, mỗi ngày 1 triệu trứng thương phẩm, 8 siêu thị phân phối sản phẩm sạch.. DN đã nhìn thấy tiềm năng, khả năng có thể sinh lời trong nông nghiệp. Đây là tín hiệu rất đáng mừng. Việc các doanh nghiệp vào đầu tư trong nông nghiệp cũng đồng nghĩa với việc tích tụ ruộng đất vào các đơn vị sản xuất này. Có không ít ý kiến lo lắng, nếu vậy thì nông dân sẽ mất tư liệu sản xuất. Ý kiến ông thế nào? Ở đây làm rõ, khi thực hiện chinh sách giao quyền sử dụng đất cho nông dân cũng tính tới tích tụ, nên đã có quyền chuyển nhượng quyền đó cho người sản xuất lớn hơn. Luật quy định rõ điều này. Không phải cứ có đất là có đời sống. Đời sống nhân dân, việc làm nhân dân mới đáng chú ý. Sử dụng đất đã có chế tài quy định. Ai làm việc tốt hơn thì làm, sản xuất trên quy mô lớn có điều kiện cơ giới hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản trị để ra nhiều việc làm hơn. Thu nhập của người dân, DN và tổ chức sản xuất cũng cao hơn. Vấn đề vốn, các thủ tục hành chính là những khó khăn, rào cản để doanh nghiệp đầu tư vào nền kinh tế nói chung và nhất là các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói riêng. Hơn nữa, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp có sự rủi ro cao và tỉ suất lợi nhuận thấp. Bộ NN&PTNT có giải pháp gì? Hiện nay sản xuất của DN trong tình trạng chung, mọi điều kiện vốn tham gia sản xuất kinh doanh vẫn cần lượng lớn về tín dụng, thậm chí tới 80-90%. Trong nông nghiệp thời gian qua, tín dụng hệ thống ngân hàng thương mại có sự chuyển đổi nhanh. Ví dụ, chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới, trong 6 năm qua, tổng số đầu tư vào thì 51% là tín dụng. Trong mục nông thông nông nghiệp tỉ lệ nợ xấu rất thấp. Dư địa đầu tư vào nông nghiệp nông thôn còn rất lớn. Thời gian qua, DN ngân hàng thương mại đã tập trung có chuyển biến đầu tư bằng cải cách hành chính thủ tục. Trước yêu cầu thực tế, ngành ngân hàng phải tiếp tục đổi mới. Tới đây, Bộ NN&PTNT sẽ làm việc với ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại để tập trung vào các gói tái cơ cấu ngành hàng, cấp tỉnh, địa phương…, phối hợp tập trung sâu hơn vào tái cơ cấu theo hướng này. Con tôm gần đây được Bộ tập trung chỉ đạo định hướng phát triển nhanh. Tuy nhiên, Mỹ vừa áp dụng thuế chống bán phá giá với mặt hàng này. Các doanh nghiệp đang lo ngại. Bộ trưởng có tập trung giải pháp gì? Gần đây đang tập trung nhiều vào thủy sản, trong đó có tôm. Đây là đối tượng có nhiều dư địa. Thị trường dự báo trước mắt và lâu dài là có cơ hội. Đây là một trong những tiềm năng phải khai thác. Hiện nay, Mỹ dự kiến kiện bán phá giá tôm Việt Nam. Đây là lần kiện thứ 11 rồi Một khi chấp nhận “sân chơi” quốc tế đương nhiên phải đối đầu. Ta phải có chế tài đầy đủ tiếp tục đấu tranh, bảo đảm minh bạch, bình đẳng. Bộ NN&PTNT đang phối hợp với Bộ Công Thương để bàn bước đi. Chấp nhận cuộc chơi ,xảy ra tình huống là phải ứng phó, đề nghị DN cũng nhìn nhận như vậy. Song song với đó còn phải mở rộng khai thác thị trường khác. Mới đây, một Thứ trưởng đã sang Australia thúc dẩy XK tôm nguyên con. Tháng 11 tới, phía Australia sẽ sang tổng kiểm tra điều kiện Việt Nam, mở ra triển vọng cho tôm nói riêng, thủy sản nói chung. Giống tôm là yếu tố quan trọng trong việc mở rộng sản xuất tôm. Bộ đã có nhóm giải pháp gì để đáp ứng yêu cầu phát triển? Tôm còn dư địa lớn. Hiện có hai nhóm sản phẩm lớn, một là tôm sú, hai là thẻ chân trắng. Năm nay phấn đấu cả năm đạt 660.000 ha nuôi trồng, sắp tới nâng lên 700.000 ha. Đối với tôm thẻ chân trắng, 131 DN đã làm bước đầu cơ bản tốt khâu tiếp nhận mua giống nước ngoài về sản xuất. Sản xuất tôm giống bố mẹ bảo đảm được khoảng 20%. Dự tính 3-5 năm nữa, với sự phát triển của các DN có thể cơ bản giải quyết được tôm giống bố mẹ của thẻ chân trắng, làm chủ con giống. Với tôm sú, hiện Bộ chỉ đạo Viện Thủy sản nghiên cứu ra sản phẩm ban đầu. Hiện nay, đang dùng tôm giống tận dụng ở điều kiện tự nhiên, trước mắt đáp ứng nhu cầu. Tuy nhiên, Bộ đang tập trung chỉ đạo một số đề tài để phải giải quyết được tôm sú bố mẹ. Đây là dư địa đặc biệt, có thể mở rộng diện tích, giá trị cao. Từ nay đến cuối năm, những dư địa nào còn có thể tập trung phát triển để bảo đảm cho tăng trưởng của ngành trong bối cảnh 6 tháng đầu năm đã âm 0,18%? Những tháng cuối năm có hai nhiệm vụ song song, một là tiếp tục tái cơ cấu, trước mắt phải tập trung vào mặt hàng có dư địa để bù đắp. Hai là chăn nuôi, trong chăn nuôi cả ba nhóm gia cầm, đại gia súc và lợn đều rất thuận lợi. Tổng lượng thức ăn sản xuất dự kiến cả năm nay khoảng 16 triệu tấn, giá nguyên liệu đầu vào hạ hơn so với năm trước. Lượng giống chuẩn bị tích cực cho cả ba đối tượng. Năm nay, không có dịch bệnh lớn trên cả ba đối tượng trên. Thuận lợi còn là tín hiệu thị trường nội địa tốt, giá lợn bò, gà đang tốt, đặc biệt là có thể XK dù là XK tiểu ngạch. Miền Bắc và cả nước từ sau rằm tháng 8 mùa cuối năm, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm tốt cả nội địa và XK. Số liệu tổng hợp dự báo từ nay đến cuối năm tốc độ tăng trưởng được 4-5%. Thủy sản từ nay tới cuối năm với tốc độ tăng đàn, thị trường khả năng cán được 660.000 ha để có sản lượng tôm 680.000 tấn, XK tốt, cuối năm vượt trên 3 tỷ USD, tính tổng thủy sản cán đích trên 7 tỷ USD. Rau quả tốc độ từ tháng 6 trở đi tốc độ tốt, bình quân chung tăng trưởng 37%/tháng. Năm nay khả năng giá trị XK rau quả lần đầu tiên vượt gạo, đạt khoảng 2,5-2,6 tỷ USD. Ngoài ra, cây công nghiệp trừ cao su, sắn, gạo sụt giảm, còn lại điều, cà phê, tiêu đều tăng. Nhóm mặt hàng đó còn dư địa, địa phương đang tập trung quyết liệt, tin rằng tăng trưởng đủ bù đắp. Thực tế cho thấy, đến thời điểm này, các “xung lực” để kéo DN đầu tư vào nông nghiệp đã tụ hội khá đầy đủ. Nếu trước đây, chỉ có một số ít DN vừa và nhỏ đầu tư vào nông nghiệp, mà cũng chỉ ở khâu thương mại, thì hiện các DN đã đầu tư theo chuỗi, từ khâu sản xuất, chế biến cho đến tiêu thụ sản phẩm. Cùng với những chủ trương thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp rất cụ thể mà Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường vừa chia sẻ, hy vọng rằng trong thời gian tới ngành nông nghiệp sẽ lấy lại đà tăng trưởng cùng với sự tích cực tham gia thị trường nông nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp. Xin cảm ơn Bộ trưởng đã tham dự tọa đàm, cảm ơn quý vị và các bạn đã quan tâm theo dõi. Cổng TTĐT Chính …
| Tin mới | admin | 16/09/2016 | | Quyết định số 3727/QĐ-BNN-QLCL Về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai chương trình phối hợp “Quản lý, kiểm soát và ngăn chặn việc lạm dụng hóa chất công nghiệp trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản” | …
| Quyết định | admin | 14/09/2016 | | Thông báo số 7728/TB-BNN-VP ngày 13/9/2016 Ý kiến kết luận của thứ trưởng Trần Thanh Nam tại buổi làm việc với Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam | …
| Thông báo | admin | 14/09/2016 | | Kế hoạch số 7607/KH-BNN-QLCL Chuẩn bị và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 19/2016/QH14 ngày 28/7/2016 của Quốc hội về thành lập đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016” của Quốc hội | …
| Văn bản khác | admin | 14/09/2016 | | Thông báo số 7638/TB-BNN-VP ngày 08/9/2016 Y kiến kết luận của Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tại cuộc họp về công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm | …
| Quyết định, Thông báo | admin | 14/09/2016 | | Cần luật hóa danh mục các hàng hóa cấm xuất-nhập khẩu | Trưởng ban Dân nguyện của Quốc hội Nguyễn Thanh Hải đề nghị cần quy định rõ danh mục hàng hóa cấm xuất-nhập khẩu trong luật. Phát biểu tại phiên thảo luận về dự án Luật quản lý ngoại thương, sáng 14/9 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bà Nguyễn Thanh Hải cho rằng danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu chưa được quy định rõ trong luật. Dẫn ví dụ từ việc Bộ Y tế cho phép nhập khẩu salbutamol để sử dụng điều trị bệnh, nhưng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn lại quy định đây là chất cấm trong chăn nuôi, bà Hải cho biết do không có sự thống nhất, hạn mức nhập khẩu không cụ thể, dẫn đến lượng lớn chất này lọt ra ngoài, chưa rõ xử lý như thế nào. Đồng ý kiến với bà Hải, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Kinh tế – Cơ quan thẩm tra dự thảo Luật đề nghị quy định cụ thể danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu trong luật, nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý cao, minh bạch, ổn định, dễ áp dụng. Nhiều ý kiến cũng đề nghị quy định Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa vì việc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu có liên quan đến nhiều bộ, ngành khác nhau; đề nghị quy định rõ các trường hợp áp dụng biện pháp tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu và có sự phân biệt với các trường hợp áp dụng biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu. Bên cạnh nội dung trên, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng băn khoăn về phạm vi điều chỉnh, tính hợp Hiến của một số quy định trong dự thảo Luật. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị cần rà soát lại tính hợp hiến của dự luật vì luật này có liên quan đến các điều cấm; việc quy định về hạn chế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không quy định ngay trong luật này mà giao cho Chính phủ quy định thì có phù hợp với Hiến pháp không? đồng thời, cần cân nhắc đề xuất thành lập cơ quan xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cũng bày tỏ băn khoăn về phạm vi điều chỉnh, mối quan hệ với các luật của dự thảo. Về phạm vi, theo Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, nên đưa một số loại dịch vụ gắn liền hoạt động ngoại thương vào luật này. Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Phan Thanh Bình nhìn nhận, dự luật đang đưa ra các quy định quản lý ngoại thương nhiều hơn là phát triển ngoại thương, trong đó quy định về cấp phép cho thấy quyền lực của Bộ Công Thương rất lớn. Ngoài ra, Trưởng ban Dân nguyện của Quốc hội Nguyễn Thanh Hải góp ý, sau 10 năm thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại, Việt Nam mới tiến hành điều tra phòng vệ thương mại được 6 vụ – con số này quá ít, cần cân nhắc kỹ việc thành lập cơ quan điều tra phòng vệ thương mại. Đại diện cơ quan soạn thảo dự thảo luật, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú cho biết Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan chưa thể hiện rõ yêu cầu hội nhập, công tác quản lý nhà nước về ngoại thương chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra; hệ thống pháp luật ngoại thương hiện hành và những yêu cầu hoàn thiện pháp luật về ngoại thương còn có sự trùng lắp, chồng chéo, sự minh bạch chưa cao, tính ổn định, dự báo còn thấp. Cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương hiện hành đang tạo ra những rào cản về thủ tục hành chính, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, dự thảo Luật quản lý ngoại thương cần được xây dựng trên nguyên tắc và theo quan điểm chỉ đạo là cải cách thủ tục hành chính, duy trì môi trường kinh doanh thuận lợi theo hướng hệ thống hóa, hài hòa hóa các thủ tục hành chính có liên quan. Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú cho biết, dự thảo Luật điều chỉnh bao quát các công cụ quản lý ngoại thương đồng thời đảm bảo tính linh hoạt trong việc xây dựng chiến lược ngoại thương và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này; bảo đảm hoạt động quản lý nhà nước về ngoại thương hiệu lực, hiệu quả, đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động ngoại thương của thương nhân và tính cạnh tranh của nền kinh tế; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực pháp lý về các biện pháp phòng vệ thương mại, hỗ trợ ngoại thương để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập… Trả lời câu hỏi của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị ban soạn thảo rà soát, làm rõ mối quan hệ của dự thảo luật này với Luật thương mại, Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú cho biết hiện nay Luật thương mại chỉ chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ thương nhân với thương nhân, mối quan quan hệ với nhà nước, quản lý nhà nước, đề cập rất mờ nhạt; các quy định chủ yếu là khung, nêu khái niệm, các quy định cụ thể nằm ở các văn bản dưới luật; quản lý nhà nước chưa được quy định bao quát… Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú nói nếu dự thảo Luật quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua, sẽ bãi bỏ 7 điều và 3 khoản trong số 324 điều của Luật thương mại. Dự thảo Luật quản lý ngoại thương bao gồm 8 Chương, 114 …
| Tin mới | admin | 14/09/2016 | | Quyết định số 7608/KH-BNNQLCL ngày 08/9/2016 Thực hiện chương trình phối hợp 90 của Chính phủ và Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam về vận động và giám sát an toàn thực phẩm 02 năm 2016-2017 | …
| Quyết định | admin | 14/09/2016 | | Hơn 20,5 nghìn hồ sơ nhập khẩu thức ăn chăn nuôi được giải quyết qua NSW | (HQ Online)- Trao đổi với phóng viên Báo Hải quan, đại diện Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cho biết: Cập nhật đến ngày 31-8, Cục Chăn nuôi đã tiếp nhận 20.792 hồ sơ “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu” qua Cổng Thông tin một cửa Quốc gia, trong đó đã giải quyết 20.523 hồ sơ. Hiện còn 269 hồ sơ đang trong quá trình thẩm định. Nhìn chung tỷ lệ giải quyết hồ sơ đăng ký đạt khá cao là 98,7%. Hiện nay, toàn quốc đã có tới 627 doanh nghiệp tham gia triển khai thủ tục sơ “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu” theo Cơ chế một cửa Quốc gia (NSW). Theo đánh giá của đại diện một số doanh nghiệp: Áp dụng NSW, thời gian triển khai thủ tục thực tế giảm được 60% so với trước. Cụ thể, trước đây do nhiều doanh nghiệp có trụ sở ở xa Hà Nội, phải gửi hồ sơ và nhận kết quả qua đường bưu điện nên tổng thời gian từ khi doanh nghiệp nộp hồ sơ tới khi nhận kết quả khoảng 7 ngày. Tuy nhiên, khi áp dụng NSW, thời gian chuyển thư đi, thư về được cắt giảm, nên tổng thời gian chỉ mất khoảng 3 ngày. “Chi phí chuyển phát nhanh giấy tờ là 20 nghìn đồng/lượt. Từ khi áp dụng NSW đến nay, tính riêng chi phí chuyển phát nhanh của các doanh nghiệp tiết kiệm được khoảng 500 triệu đồng. Ngoài ra các chi phí về thời gian, chi phí lưu kho bãi, chi phí nhân lực… giảm chưa ước tính được”, đại diện Cục Chăn nuôi cho biết. Thủ tục “Đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu” theo NSW được chính thức thí điểm từ ngày 1-9-2015 và từ 1-4-2016 hoàn toàn triển khai theo hồ sơ điện tử, không sử dụng hồ sơ giấy. Dự kiến, trong năm 2017, Cục Chăn nuôi sẽ triển khai thêm 2 thủ tục hành chính theo NSW là “Miễn kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có thời hạn” và “Kiểm tra giảm chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu có thời hạn”. Nguyễn …
| Tin mới | admin | 12/09/2016 | | Thông báo số 28/TB-CN-VP ngày 12/09/2016 về việc tuyển dụng viên chức năm 2016 | …
| Thông báo | admin | 12/09/2016 | | Thông báo số 28/TB-CN-VP ngày 12/09/2016 về việc tuyển dụng viên chức năm 2016 | Cục Chăn nuôi thông báo nhu cầu và kế hoạch tuyển dụng viên chức cho Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi thuộc Cục Chăn nuôi năm 2016: Thông báo số 28/TB-CN-VP ngày …
| Quyết định | admin | 12/09/2016 | | Bộ NN&PTNT và Tổng cục Hải quan rà soát về một cửa quốc gia và kiểm tra chuyên ngành | Tại cuộc họp giữa Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn và Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn về triển khai các thủ tục hành chính thông qua Cơ chế một cửa quốc gia và kiểm tra chuyên ngành diễn ra sáng 7-9, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các đơn vị thuộc bộ phải chuyển phương thức quản lý thanh tra, kiểm tra của CBCC theo lối truyền thống hiện nay sang áp dụng quản lý rủi ro, tức là có phân loại hàng hóa để kiểm tra. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấnvà Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn họp bàn về triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và kiểm tra chuyên ngành Một cửa quốc gia lĩnh vực nông nghiệp đã hiệu quả Tại buổi làm việc, lãnh đạo hai đơn vị đã thống nhất tinh thần cắt giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho DN và người dân đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 19/2016/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định 2026/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn cho biết, Tổng cục Hải quan với vai trò là cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN và Cơ chế một cửa quốc gia sẽ ghi nhận kết quả triển khai của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nắm bắt vướng mắc để báo cáo Ban chỉ đạo Quốc gia có giải pháp tháo gỡ. Đánh giá hiệu quả của Cơ chế một cửa quốc gia, đại diện Cục Chăn nuôi cho biết, từ khi triển khai thủ tục đăng ký kiểm tra xác nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi NK đã có hơn 21.000 hồ sơ đăng ký trên Hệ thống một cửa quốc gia. Hiện DN không cần trực tiếp đến cơ quan kiểm tra để thực hiện thủ tục hành chính, không phải mất thời gian, chi phí gửi và nhận kết qua qua đường bưu điện. Chỉ tính riêng chi phí chuyển phát nhanh gửi và nhận kết quả kiểm tra đã tiết kiệm trên 400 triệu đồng cho các DN. Bên cạnh đó, việc triển khai thủ tục hành chính trên Cơ chế một cửa quốc gia đã thay đổi căn bản phương thức làm việc của CBCC theo hướng chuyên nghiệp hơn, góp phần hiện đại hóa công sở; công khai minh bạch hoạt động của CBCC cũng như tổ chức dịch vụ công liên quan đến lĩnh vực này. Bên cạnh đó, một thủ tục cũng mang lại nhiều lợi ích cho DN là thủ tục cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật nhập khẩu, quá cảnh, vận chuyển nội địa. Theo đại diện Cục Bảo vệ thực vật, đây là thủ tục chiếm nhiều hồ sơ nhất. Vì vậy, khi triển khai trên Cơ chế một cửa quốc gia đã tiết kiệm rất nhiều thời gian và chi phí cho DN, được DN đánh giá cao. Bởi với phương thức thủ công như trước đây, DN phải đi lại ba lần để làm hồ sơ cấp phép, nay chỉ cần một lần; thủ tục kiểm dịch thực vật NK đã giảm từ 8 loại giấy tờ xuống 3 loại giấy tờ. Phát biểu tại buổi làm việc, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn cho rằng, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, trong giai đoạn tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiếp tục triển khai mở rộng các thủ tục hiện hành ra các địa bàn, DN còn lại trong cả nước, đồng thời mở rộng các thủ tục mới như: Cấp giấy chứng nhận kiểm tra an toàn thực phẩm hàng hóa có nguồn gốc thực vật NK; kiểm dịch động vật NK; kiểm dịch sản phẩm động vật NK; thủ tục kiểm dịch thủy sản XK không làm thực phẩm; thủ tục kiểm dịch sản phẩm thủy sản XK không dùng làm thực phẩm. Để triển khai kế hoạch này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp với Tổng cục Hải quan rà soát cơ sở pháp lý liên quan đến các thủ tục hành chính dự kiến sẽ triển khai thông qua Cơ chế một cửa quốc gia; xây dựng, hoàn thiện và triển khai hệ thống công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu. Cần giảm danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành Liên quan đến lĩnh vực kiểm tra chuyên ngành, theo Tổng cục Hải quan, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tích cực phối hợp với Tổng cục Hải quan rà soát văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chuyên ngành, phối hợp triển khai địa điểm kiểm tra chuyên ngành tập trung… Tuy nhiên, lĩnh vực, mặt hàng thuộc phạm vi quản lý của Bộ rất rộng, chính vì vậy hầu hết vướng mắc liên quan về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa XNK đều “có mặt” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn cho rằng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần sớm giải quyết các vướng mắc về công tác kiểm tra an toàn thực phẩm. Cụ thể, danh mục mặt hàng cần chi tiết tên hàng, hoàn thiện danh mục hàng hóa phải kiểm tra an toàn thực phẩm với đầy đủ mã số HS; đồng thời sửa đổi, bổ sung quy trình kiểm tra; áp dụng quản lý rủi ro, tăng cường miễn, giảm kiểm tra; điện tử hóa và kết nối Cơ chế một cửa quốc gia trong việc đăng ký và trả kết quả kiểm tra. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra chất lượng, danh mục hàng hóa cần thu hẹp, chuyển những mặt hàng có độ rủi ro thấp sang kiểm tra sau khi hàng hóa đã thông quan. Ngoài ra, về công tác kiểm dịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Danh mục hàng hóa phải kiểm dịch động vật và kiểm dịch thực vật trước thông quan kèm mã số HS, nhưng một số nhóm hàng có mã số HS chưa phù hợp với Biểu thuế XK, biểu thuế NK ưu đãi… Trước vấn đề tồn tại Tổng cục Hải quan nêu, các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nêu lên định hướng khắc phục trong thời gian tới. Trong đó, đại diện Cục Bảo vệ thực vật thừa nhận nhiều lô hàng vừa phải kiểm dịch thực vật vừa kiểm tra an toàn thực phẩm vô hình trung gây khó khăn cho DN. Hiện nay Cục đang đề nghị Bộ sửa Thông tư 12/2015/TT-BNNPTNT hướng dẫn kiểm tra an toàn thực phẩm hàng hóa có nguồn gốc thực vật NK theo hướng giảm bớt mức độ kiểm tra, đưa vào kiểm tra sau thông quan. Đồng thời, hợp nhất thủ tục kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật đối với lô hàng NK vừa phải kiểm tra an toàn thực phẩm, vừa phải kiểm dịch thực vật để đơn giản hóa thủ tục. Tăng cường đánh gia nguy cơ trước từ nước XK đối với các lô hàng NK để giảm thiểu nhiều thời gian kiểm tra khi lô hàng NK về Việt Nam. Trước những vấn đề được các đơn vị đưa ra bàn thảo tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn yêu cầu các đơn vị thuộc bộ sớm rà soát chuẩn bị đánh giá kết quả triển khai thủ tục hành chính trên Cơ chế một cửa quốc gia, từ đó có đánh giá, kiến nghị cụ thể với Chính phủ, bộ ngành và các đơn vị liên quan. Đây là cơ sở để Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng kế hoạch triển khai chi tiết cho năm 2017. Thứ trưởng yêu cầu các đơn vị chủ động rà soát các nội dung liên quan đến Cơ chế một cửa quốc gia, kiểm tra chuyên ngành để đảm bảo cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian thông quan cho hàng hóa XNK. Đặc biệt, việc phải làm ngay là tiếp tục phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan rà soát hệ thống văn bản pháp luật, thống nhất quan điểm chuyển từ quản lý thanh tra, kiểm tra của CBCC theo lối truyền thống, thủ công sang áp dụng quản lý rủi ro, tức là có phân loại hàng hóa để kiểm tra. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn: Trong triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một trong các bộ tích cực tham gia triển khai. Đến nay đã có 9 thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Bộ liên quan đến hàng hóa XNK triển khai thông qua Cổng thông tin một cửa quốc gia, với 1026 DN tham gia, tổng số bộ hồ sơ là 25.888 bộ. Thứ trưởng Hà Công Tuấn: “Phương pháp quản lý rủi ro, cơ quan Hải quan đã làm rất tốt, vì vậy từng đơn vị cần xem xét để tích hợp với hệ thống Hải quan. Cố gắng đơn giản hóa danh mục hàng hóa phải kiểm tra. Không để một danh mục mặt hàng có hàng chục nghìn mặt hàng thì Hải quan cũng không tra nổi”. Hà …
| Tin mới | admin | 08/09/2016 | | Báo động trộn hóa chất trong thức ăn chăn nuôi | Việc nhập khẩu, buôn bán, sử dụng hóa chất, kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản gần như “sờ đâu sai đó”. Đáng lo ngại, các loại hóa chất công nghiệp dùng trong công nghiệp sơn, nhuộm… nguồn gốc từ Trung Quốc được dùng để trộn với thức ăn chăn nuôi, thủy sản. Trong khi đó, nhiều công ty kinh doanh, buôn bán trái phép kháng sinh, gây nhiều hệ lụy, đặc biệt với ngành thủy sản. Báo động trộn hóa chất vào cám chăn nuôi Thanh tra Bộ NN&PTNT vừa cho biết, qua kiểm tra một số địa phương trọng điểm phía Nam như: TPHCM, Long An, Bình Dương, Đồng Nai đã phát hiện nhiều vi phạm, nhất là việc trộn các hóa chất công nghiệp vào cám tại công ty sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi (TACN), thủy sản. Qua kiểm tra đột xuất 2 công ty nhập khẩu, bán hóa chất cho các nhà máy TACN; 16 công ty chuyên sản xuất TACN, sản phẩm trong nuôi trồng thủy sản, lực lượng thanh tra đã phát hiện 10 công ty có hành vi vi phạm liên quan tới việc sử dụng hóa chất công nghiệp. Loại hóa chất công nghiệp được phát hiện chủ yếu là NaHCO3, MgSO4, MnSO4, CuSo4. FeSO4, CaCO3…là những chất dùng để sản xuất sơn, dệt nhuộm, công nghiệp giấy. Đáng lưu ý, trong các hóa chất trên còn lẫn nhiều tạp chất nguy hiểm khác. Các hành vi này được nhận định là đang khá phổ biến, nổi cộm, gây mất an toàn thực phẩm, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe cộng đồng và gây hoang mang cho xã hội. Thanh tra Bộ đã xử phạt vi phạm hành chính 12 công ty vi phạm với số tiền 456 triệu đồng; đình chỉ việc bán hóa chất công nghiệp cho các nhà máy TACN của hai công ty nhập khẩu hóa chất, buộc thu hồi và tiêu hủy các sản phẩm vi phạm có chứa các hóa chất công nghiệp. Qua thanh tra cho thấy, các công ty được Cục Thú y (Bộ NN&PTNT) cấp phép kinh doanh nguyên liệu kháng sinh, mua kháng sinh của các công ty nhập khẩu đã bán trái phép cho các đối tượng sử dụng trực tiếp, đặc biệt là bán cho người nuôi trồng thủy sản. Hành vi này cũng là đường đi của loại kháng sinh cấm Enrofloxacin trong nuôi trồng thủy sản. Theo Thanh tra Bộ NN&PTNT, các loại hóa chất công nghiệp phát hiện thời gian khá phổ biến, được nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc và bày bán công khai tại các chợ đầu mối hóa chất và từ các công ty nhập khẩu và phân phối. Tuy nhiên, các loại chất công nghiệp trên hoàn toàn không vi phạm, vì được phép lưu hành dùng cho công nghiệp, nhưng khâu sai phạm, là người mua dùng sai mục đích. Ông Nguyễn Văn Việt, Chánh Thanh tra Bộ NN&PTNT cho biết, các thùng sản phẩm đều có khuyến cáo chỉ sử dụng trong công nghiệp, không dùng cho sản xuất TACN và thực phẩm, nhưng vì hám lợi, nhiều công ty dùng sai mục đích, trộn vào TACN, thủy sản. Thực tế, trên thị trường, giá 1 kg hóa chất công nghiệp chỉ bằng một nửa, thậm chí bằng 1/3 so với loại hóa chất chuyên dụng trong TACN. Theo các chuyên gia, sử dụng hóa chất công nghiệp vào sản xuất TACN, nuôi trồng thủy sản sẽ gây tồn dư kim loại nặng trên động vật, sản phẩm thực vật. Người tiêu dùng ăn vào sẽ gây tồn dư kim loại nặng trong cơ thể, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, như gây dị ứng, ngộ độc; có thể gây ung thư trong cơ thể tích tụ kim loại nặng vượt mức cho phép. Ngoài ra, việc dùng các loại hóa chất cũng làm ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu thủy sản. Trong 2015, nhiều lô hàng thủy sản của Việt Nam bị các nước nhập khẩu trả về tồn dư kim loại nặng. Cục Thú y ở đâu? Không chỉ hóa chất công nghiệp, vấn đề kháng sinh trong chăn nuôi, và nuôi trồng thủy sản cũng sai phạm tràn lan. Hậu quả thấy rõ là thời gian qua hàng loạt thị trường cảnh báo, thậm chí trả về với những lô hàng tồn dư hóa chất, kháng sinh vượt mức cho phép. Theo Thanh tra Bộ NN&PTNT, qua thanh tra 15 công ty nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh (chiếm khoảng 70% kháng sinh được nhập) mục đích thương mại và sản xuất thuốc thú y cho thấy, 5 công ty có vi phạm bán sai đối tượng (chủ yếu mục đích thương mại). Khoảng 16% số nguyên liệu kháng sinh do các công ty nhập khẩu bị bán sai đối tượng, sai mục đích. Trong khi đó, tỷ lệ này ở các công ty thương mại, tỷ lệ vi phạm là 22%. Thanh tra Bộ đã tiến hành xử lý nghiêm với các công ty nhập khẩu vi phạm, đình chỉ có thời hạn hoạt động nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh với 5 công ty, rút chứng chỉ hành nghề với 2 công ty. Quá trình truy xuất và xử lý các công ty vi phạm về kháng sinh, Thanh tra Bộ đã thanh tra trực tiếp 30 công ty vi phạm, xử lý 18 công ty, xử phạt vi phạm hành chính 920 triệu đồng. Ngoài ra, Thanh tra Bộ NN&PTNT cũng củng cố hồ sơ, xác lập hành vi vi phạm gần 200 đối tượng là các công ty sản xuất nhỏ, đại lý kinh doanh vật tư nông nghiệp, trang trại chăn nuôi, cơ sở nuôi trồng thủy sản… ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, TPHCM chuyển cho các địa phương xử lý. Qua thanh tra cho thấy, các công ty được Cục Thú y (Bộ NN&PTNT) cấp phép kinh doanh nguyên liệu kháng sinh, mua kháng sinh của các công ty nhập khẩu, bán trái phép cho các đối tượng sử dụng trực tiếp, đặc biệt là bán cho người nuôi trồng thủy sản. Hành vi này cũng là đường đi của loại kháng sinh cấm Enrofloxacin trong nuôi trồng thủy sản. Điều này, khiến nhiều ý kiến cho rằng, liệu Cục Thú y cấp phép, rồi “lỏng tay” với hậu kiểm, khiến vấn đề kháng sinh “tung hoành” như thời gian qua? Chánh Thanh tra Bộ NN&PTNT cho hay, nhiều công ty chưa đủ điều kiện sản xuất thuốc thú y, nhưng vẫn mua nguyên liệu kháng sinh về sản xuất trái phép thuốc thú y. Những sản phẩm thuốc thú y trên đương nhiên nằm ngoài danh mục, không đảm bảo chất lượng và thường được tiếp thị xuống các trang trại, dùng không liều lượng, bị lạm dụng nhiều. Thậm chí, các công ty nhập khẩu kháng sinh dưới dạng TACN và bán cho các nhà máy sản xuất TACN. Sau đó, các nhà máy này, bổ sung kháng sinh vào sản phẩm TACN, nhưng không công bố thành phần, chủng loại kháng sinh. Đây là một yếu tố gây rất nhiều hệ lụy, dẫn tới nhờn kháng sinh. Qua công tác thanh tra cũng cho thấy, nhiều hộ nuôi trồng thủy sản mua và sử dụng trực tiếp nguyên liệu kháng sinh trong chăn nuôi, đặc biệt là loại kháng sinh cấm Enrofloxacin. Các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm mua nguyên liệu kháng sinh vào hòa trong nước, cho vật nuôi uống phòng bệnh. Hành vi sử dụng trực tiếp kháng sinh khá phổ biến trong chăn nuôi thủy sản. Ông Phùng Hữu Hào, Phó Cục trưởng Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản (Nafiqad), tỷ lệ lấy mẫu giám sát an toàn thực phẩm vi phạm trong thủy sản cũng có hiện tượng tăng lên. Năm 2015 là tỷ lệ mẫu vi phạm là 0,89%, nhưng trong 8 tháng đầu năm 2016 là 1,23%. Tuy nhiên, ông Hào cho rằng: “Tuy mẫu có tăng lên chút ít, nhưng chưa phải là con số bất thường… Việc kiểm soát chất lượng thủy sản sang các thị trường khó tính đang được kiểm soát chặt chẽ”. Theo Phạm …
| Tin mới | admin | 08/09/2016 | | Nghiên cứu chế tạo vaccine phòng bệnh PED cho lợn nuôi trang trại | (Chinhphu.vn) – Dự án FIRST sẽ tài trợ cho nhóm hợp tác thực hiện dự án “Nghiên cứu công nghệ chế tạo vaccine phòng bệnh tiêu chảy thành dịch (PED) cho lợn nuôi trang trại” với tổng kinh phí khoảng 3,4 triệu USD, thực hiện trong 34 tháng. Dự án FIRST (Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ) là dự án đầu tiên về khoa học và công nghệ do WB tài trợ. Mục tiêu của dự án là hỗ trợ nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thông qua việc tăng cường hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ. Một trong những hợp phần quan trọng của dự án FIRST là hỗ trợ để hình thành nên các nhóm liên kết, từ nghiên cứu đến sản xuất và thương mại hóa sản phẩm. Theo tin từ Bộ KH&CN, Ban Quản lý Dự án FIRST và nhóm hợp tác do Công ty cổ phần Thuốc thú y Đức Hạnh Marphavet làm thành viên đứng đầu đã chính thức ký kết thỏa thuận hợp tác tài trợ đề xuất “Nghiên cứu công nghệ chế tạo vaccine PED cho lợn nuôi trang trại” với tổng kinh phí thực hiện đề xuất khoảng 3,4 triệu USD. Trong đó Dự án FIRST tài trợ hơn 40% tổng kinh phí thực hiện, phần còn lại là kinh phí đối ứng bằng tiền của nhóm hợp tác. Thời gian thực hiện dự án là 34 tháng. Nhóm hợp tác do Công ty Đức Hạnh Marphavet đứng đầu gồm 11 thành viên, trong đó có một đơn vị nghiên cứu là Học viện Nông nghiệp Việt Nam và 10 doanh nghiệp. Sản phẩm của nhóm hợp tác là nghiên cứu, sản xuất và thương mại hóa chủng vaccine PED cho lợn nuôi trang trại từ chủng virus được phân lập tại Việt Nam nhằm thay thế vaccine nhập khẩu cùng loại, giảm thiểu tổn thất do PED gây ra cho người chăn nuôi nói riêng và cho ngân sách Nhà nước nói chung, đồng thời nâng cao khả năng phòng chống dịch bệnh trên đàn lợn. Đây cũng là một trong những dự án góp phần nâng cao năng lực cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sản xuất vaccine. Virus gây bệnh PED được phát hiện lần đầu tiên tại châu Âu vào thập niên 1970 và lan sang Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc vào năm 1990. Từ năm 2000 về sau, PED được phát hiện ở Philippines, Thái Lan và Việt Nam. Lợn ở mọi độ tuổi đều nhạy cảm với virus này. Vì thế, có thể nói PED là một trong những mối lo ngại lớn của các nhà chăn nuôi trong nước cũng như nước ngoài. Việc thực hiện tiểu dự án nói trên sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu, các doanh nghiệp có cơ hội liên kết hợp tác, đóng góp công sức trí tuệ và áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại để nghiên cứu, sản xuất thành công những loại vaccine đặc hiệu phòng chống các loại dịch bệnh, đóng góp tích cực cho ngành chăn nuôi. Đây sẽ là cú hích quan trọng cho các doanh nghiệp tiếp tục nghiên cứu khoa học sâu rộng hơn, phát triển vì sản phẩm an toàn. Thu …
| Tin mới | admin | 07/09/2016 | | “Từ chối” tăng thuế nhập khẩu phụ gia thức ăn gia súc DCP | (HQ Online)- Bộ Tài chính vừa có văn bản “từ chối” đề nghị áp dụng mức thuế nhập khẩu 5% cho mặt hàng dicalcium phosphate (DCP) loại dùng cho thức ăn gia súc và khẳng định thuế suất hiện hành là phù hợp. Theo Bộ Tài chính, theo quy định hiện hành, mức thuế nhập khẩu với DCP loại dùng cho thức ăn gia súc (mã 2835.25.10) phải nằm trong khung thuế suất do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định là 0-8%; theo cam kết WTO năm 2016 là 5%. Thực tế, thuế suất nhập khẩu ưu đãi MFN năm 2016 của mặt hàng này đang là 0%; thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) năm 2016, Hiệp định thương mại ASEAN – Trung Quốc 2016 – 2017 đều là 0%. Bên cạnh đó, đối với chế phẩm dùng trong chăn nuôi động vật (DCP là nguyên liệu để sản xuất, mã 23.09), theo Nghị quyết số 295/2007/NQ-UBTVQH12, có khung thuế suất thuế nhập khẩu là 0-9%; cam kết WTO năm 2016 là 7%; thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi MFN năm 2016 là 0-3% và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt năm 2016 theo Hiệp định ATIGA là 0%. Căn cứ theo nguyên tắc “thuế suất của nguyên liệu thấp hơn thành phẩm”, việc giữ nguyên mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng phụ gia thức ăn gia súc DCP là 0% để tránh ảnh hưởng đầu vào của ngành chăn nuôi là phù hợp. Từ căn cứ vào quy định của pháp luật, cam kết với quốc tế, cũng như từ số liệu thực tế, Bộ Tài chính khẳng định, thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng DCP tiếp tục thực hiện theo quy định hiện hành nhằm bảo đảm nguyên tắc thuế suất của nguyên liệu thấp hơn thành phẩm và hạn chế ảnh hưởng đầu vào của ngành chăn nuôi. Theo thống kê của cơ quan Hải quan, kim ngạch nhập khẩu DCP thuộc nhóm 28.35 chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc, chiếm tới 90% sản lượng nhập khẩu. Hơn nữ, Thông tư số 166/2014/TT-BTC về biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc giai đoạn 2015-2018 thì mặt hàng DCP thuộc nhóm 28.35 có thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt là 0%. Hồng Vân …
| Tin mới | admin | 06/09/2016 | | Quyết định số 3545/QĐ-BNN-QLCL ngày 26 tháng 8 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chỉ định tạm thời phòng kiểm nghiệm phục vụ quản lý nhà nước | …
| Quyết định | admin | 01/09/2016 | | Tập đoàn Rusagro của Nga sắp xuất khẩu thịt lợn sang Việt Nam | Sputnik đưa tin, ông Maxim Basov, Tổng giám đốc của Rusagro – một trong những tập đoàn nông nghiệp lớn nhất của Nga – cho biết tập đoàn này có khả năng bắt đầu bán thịt lợn cho Việt Nam từ năm 2017. Trong một hội nghị, ông Basov nói: “Việt Nam đã cấp phép cho thịt lợn Nga vào nước này, còn chúng tôi đang làm giấy phép xuất khẩu… Việc giao hàng cho Việt Nam, tôi nghĩ, có thể bắt đầu trong năm tới.” Tuy nhiên, ông không nêu rõ khối lượng hàng xuất khẩu. Nhóm Rusagro nằm trong số 5 nhà sản xuất thịt lợn lớn của Nga, đồng thời tham gia sản xuất đường và sản phẩm từ mỡ động vật. Năm 2015, tổ hợp chăn nuôi lợn Rusagro đã xuất xưởng 198 nghìn tấn thịt lợn, đứng thứ hai sau Tập đoàn nông nghiệp Miratorg (384,9 nghìn tấn thịt), và chiếm 6% thị phần thịt lợn trong …
| Tin mới | admin | 01/09/2016 | | Quan hệ Việt Nam – Mỹ trong lĩnh vực nông nghiệp: Rất đa dạng, phong phú và nhiều tiềm năng | Tại Hà Nội, chiều ngày 30/8, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đã có buổi tiếp và làm việc với ngài Ted Osius, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam về quan hệ hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp. Đánh giá về quan hệ Việt Nam – Mỹ thời gian qua, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, Mỹ hiện là thị trường nông sản quan trọng thứ 2 của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt 5,69 tỷ USD và nhập khẩu 1,4 tỷ USD. Trong đó, dẫn đầu là các sản phẩm thủy sản, rau quả, hạt điều, cà phê, chè, hạt tiêu, gạo… Cùng với đó, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Mỹ của nước ta trong 3 năm qua luôn tăng với tốc độ trên dưới 20%/năm; trong đó, thủy sản và gỗ là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đánh giá về quan hệ nông nghiệp giữa Việt Nam – Mỹ, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng định: “Rất đa dạng, phong phú và nhiều tiềm năng; đặc biệt là việc mở rộng, đẩy mạnh hợp tác xuất khẩu các sản phẩm như: trái cây, tôm, cá basa… thời gian tới”. Tại buổi làm việc, hai bên cũng thống nhất đẩy mạnh hợp tác về khoa học kỹ thuật; tăng cường thương mại; nông nghiệp công nghệ cao, vệ sinh an toàn thực phẩm; chống buôn bán động vật hoang dã và các hoạt động hợp tác về thích ứng với biến đổi khí hậu. Ngài Ted Osius, Đại sứ Mỹ khẳng định sẽ nỗ lực thúc đẩy chính phủ trong việc thực hiện các cam kết trong môi trường của Hiệp định TPP. …
| Tin mới | admin | 31/08/2016 | | Quyết định số 624/QĐ-CN-GSL ngày 31 tháng 8 năm 2016 Chỉ định cơ sở đào tạo, tập huấn về kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho trâu, bộ | …
| Quyết định | admin | 31/08/2016 | | Quyết định số 623/QĐ-CN-GSL ngày 31 tháng 8 năm 2016 Chỉ định cơ sở đào tạo, tập huấn về kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho trâu, bộ | …
| Quyết định | admin | 31/08/2016 | | Thứ trưởng Bộ NNPTNT làm việc tại huyện Lộc Bình | Ngày 25/8/2016, Đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do Thứ trưởng Trần Thanh Nam làm Trưởng đoàn đã đến làm việc tại tỉnh Lạng Sơn và có buổi khảo sát về tình hình xuất khẩu nông sản qua biên giới Việt – Trung tại huyện Lộc Bình. Làm việc với Đoàn tại cửa khẩu Chi Ma, huyện Lộc Bình có đồng chí Nguyễn Công Trưởng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng lãnh đạo một số Sở, Ngành liên quan. Về phía huyện Lộc Bình có lãnh đạo UBND huyện cùng lãnh đạo phòng chuyên môn của huyện Đoàn công tác khảo sát thực tế tại khu vực Co Sa Đoàn công tác đã đi thực địa tại khu vực cửa khẩu, khu vực Co Sa nhằm đánh giá thực tế việc xuất nhập khẩu các loại nông sản qua khu vực này. Ngay sau khi đi thực địa, đoàn đã được nghe báo cáo của Chi cục Hải quan Cửa khẩu Chi Ma về tình hình hoạt động xuất khẩu các loại nông sản của Việt Nam được thực hiện tại khu vực cửa khẩu Chi Ma từ năm 2015 đến nay cụ thể: các mặt hàng cá đông lạnh, tôm, thịt bò sống, lợn thương phẩm, chè, hạt vừng, đỗ, dừa. Hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng dược liệu và các loại quả, hạt khô, đồ nội thất, phụ tùng, thiết bị nông nghiệp…Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 162,5 triệu USD. Đặc biệt trong các mặt hàng xuất khẩu có mặt hàng lợn thương phẩm, thịt bò sống. Trong 8 tháng đầu năm 2016 tổng lượng hàng hóa xuất qua Chi cục Hải quan Chi Ma là 24.790 tấn và đạt kim ngạch là 45,3 triệu USD; tổng trọng lượng mặt hàng thủy sản là 38.590 tấn, kim ngạch đạt gần 70 triệu USD, tăng gấp 03 lần so với cùng kỳ… Sau khi khảo sát thực tế và nghe báo cáo của Chi cục Hải quan Cửa khẩu Chi Ma, đồng chí Nguyễn Công Trưởng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng đại diện lãnh đạo một số Sở, Ngành đã đề xuất, kiến nghị với đoàn khảo sát một số vấn đề như: Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các cơ quan kiểm dịch động, thực vật có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi trong việc kiểm dịch hàng hóa, tạo môi trường thông thoáng phục vụ cho việc xuất nhập khẩu hàng nông, lâm, thủy sản, đồng thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn được chủ động điều hành xuất khẩu hàng nông lâm sản, thực phẩm tươi sống qua các điểm thông quan ngoài khu vực cửa khẩu phụ, lối mở đã được công bố để tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu tái xuất được thuận lợi. Đề nghị Bộ chuyển cho tỉnh Lạng Sơn quản lý Khu cách ly kiểm dịch động vật thuộc Chi cục Kiểm dịch động vật vùng Lạng Sơn đang quản lý để tỉnh sửa chữa phục vụ công tác quản lý mặt hàng thực phẩm tươi sống đến làm thủ tục kiểm dịch xuất khẩu sang Trung Quốc. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam phát biểu tại buổi làm việc Đoàn công tác đã đi thực địa tại khu vực cửa khẩu, khu vực Co Sa nhằm đánh giá thực tế việc xuất nhập khẩu các loại nông sản qua khu vực này. Ngay sau khi đi thực địa, đoàn đã được nghe báo cáo của Chi cục Hải quan Cửa khẩu Chi Ma về tình hình hoạt động xuất khẩu các loại nông sản của Việt Nam được thực hiện tại khu vực cửa khẩu Chi Ma từ năm 2015 đến nay cụ thể: các mặt hàng cá đông lạnh, tôm, thịt bò sống, lợn thương phẩm, chè, hạt vừng, đỗ, dừa. Hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng dược liệu và các loại quả, hạt khô, đồ nội thất, phụ tùng, thiết bị nông nghiệp…Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 162,5 triệu USD. Đặc biệt trong các mặt hàng xuất khẩu có mặt hàng lợn thương phẩm, thịt bò sống. Trong 8 tháng đầu năm 2016 tổng lượng hàng hóa xuất qua Chi cục Hải quan Chi Ma là 24.790 tấn và đạt kim ngạch là 45,3 triệu USD; tổng trọng lượng mặt hàng thủy sản là 38.590 tấn, kim ngạch đạt gần 70 triệu USD, tăng gấp 03 lần so với cùng kỳ… Sau khi khảo sát thực tế và nghe báo cáo của Chi cục Hải quan Cửa khẩu Chi Ma, đồng chí Nguyễn Công Trưởng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng đại diện lãnh đạo một số Sở, Ngành đã đề xuất, kiến nghị với đoàn khảo sát một số vấn đề như: Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các cơ quan kiểm dịch động, thực vật có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi trong việc kiểm dịch hàng hóa, tạo môi trường thông thoáng phục vụ cho việc xuất nhập khẩu hàng nông, lâm, thủy sản, đồng thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn được chủ động điều hành xuất khẩu hàng nông lâm sản, thực phẩm tươi sống qua các điểm thông quan ngoài khu vực cửa khẩu phụ, lối mở đã được công bố để tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu tái xuất được thuận lợi. Đề nghị Bộ chuyển cho tỉnh Lạng Sơn quản lý Khu cách ly kiểm dịch động vật thuộc Chi cục Kiểm dịch động vật vùng Lạng Sơn đang quản lý để tỉnh sửa chữa phục vụ công tác quản lý mặt hàng thực phẩm tươi sống đến làm thủ tục kiểm dịch xuất khẩu sang Trung Quốc. Tin, ảnh: Ngọc Anh – Đài Lộc …
| Tin mới | admin | 29/08/2016 | | Một số chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở một số nước khu vực Châu Á. | ( Bangladesh; Bhutan; China; Nepal; India; Pakistan; Philippines; Sri Lanka; Thailand; Vietnam) I. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BÒ SỮA Ở KHU VỰC CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2014-2016 Các chính sách này bao gồm các nội dung chính sau: Tăng hỗ trợ đối với các chương trình sữa học đường đã có. Một số quốc gia/vùng lãnh thổ như: Thái Lan, Philipine và Việt Nam bổ sung thêm chương trình mới được phê duyệt hoặc bổ sung thêm mục tiêu ở các khu vực mới. Cải thiện hỗ trợ tín dụng đối với người chăn nuôi bò sữa tại Bangladesh, Philippines and Sri Lanka. Giới thiệu các giải pháp để tăng quy mô trang trại và tăng số lượng bò sữa tại Trung Quốc và Philipine. Tăng cường thúc đẩy phát triển chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa ở Bangladesh và Ấn Độ. Cải thiện giống bò sữa ở Trung Quốc, Ấn Độ và Philipines. Tạo môi trường để gia tăng sự cạnh tranh của các nhà sản xuất sữa quy mô nhỏ ở Bangladesh, Thái Lan, Trung Quốc, Pakistan, Sri Lanka và Việt Nam. Hỗ trợ giới thiệu sữa bột tại Nepal và Sri Lanka. Luật An toàn thực phẩm đã được sửa đổi và thúc đẩy mạnh mẽ tiêu dùng trong nước đối với các sản phẩm sữa nội địa. Các giải pháp thương mại trong ngành sữa đã hỗ trợ người chăn nuôi tư nhân tại Nepal, Ấn Độ và Pakistan. II. NỘI DUNG VÀ MỤC TIÊU Đến cuối năm 2015, trong1/4 thế kỷ Khu vực châu Á Thái Bình Dương đã đạt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ giảm một nửa tỷ lệ người đói và thiếu dinh dưỡng. Tiêu dùng các sản phẩm sữa gia tăng tại các khu vực là nhân tố đóng góp lớn cho sự thành công trong việc cải thiện dinh dưỡng, đặc biệt đối với trẻ em. Tăng trưởng tiêu dùng sữa mạnh mẽ ở một số thị trường ở Khu vực châu Á Thái Bình Dương đặc biệt là Indonesia. Tuy nhiên, châu Á và đặc biệt là các nước Nam Á thiếu hụt vi chất dinh dưỡng vẫn rất phổ biến. Hàng năm, sữa là một trong 3 loại hàng hoá được sản xuất ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương có tổng giá trị đạt hơn 110 tỷ USD. Trong giai đoạn 1980 – 2013, sản lượng sữa của khu vực châu Á Thái Bình Dương tăng trưởng gần 4,5%/năm, trong khi năm 2013 tăng trưởng của toàn cầu chỉ đạt 1,5%. http://www.fao.org/fileadmin/user_upload/hlpe/hlpe_documents/HLPE_Reports/HLPE-Report-10_EN.pdf Sản lượng sữa Khu vực châu Á Thái Bình Dương đạt 290 triệu tấn tương đương 38% sản lượng sữa toàn cầu. Gần đây, Ấn Độ trở thành nước sản xuất sữa lớn nhất thế giới với 146,31 triệu tấn trong niên vụ 2014-2015. Trong thập kỷ tới, sản lượng sữa toàn cầu ước tính tăng thêm 120 triệu tấn và 3/4 lượng sữa này được sản xuất tại khu vực châu Á Thái Bình Dương và 73% trong đó được sản xuất từ các nước đang phát triển, đặc biệt là Ấn Độ và Pakistan. Lý đo chính do Khu vực này có các chương trình quan trọng để hỗ trợ cho phát triển sản xuất sữa. Trung Quốc là quốc gia sản xuất sữa lớn thứ ba trên thế giới và sản lượng sữa ở nước này ước tính sẽ gấp 3 lần vào 2030. Hệ thống chăn nuôi ở Khu vực Châu Á Thái Bình Dương thường kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt. Thông thường mỗi trang trại chỉ có rất ít gia súc, họ sản xuất chưa đến 80% thực phẩm tiêu dùng tại Châu Á. Thực tế là, CAFOs (concentrated Animal Feeding Operations – cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp tập trung) hoặc trang trại nhà máy cho chăn nuôi bò sữa đang được chuyển dịch sang châu Á, hàng nghìn con bò và các nhà chăn nuôi bò sữa trên thế giới và nhà chăn nuôi bò trong nước thường làm việc với nhau như là đối tác của các chính phủ. Tuy nhiên, CAFOs hướng tới chăn nuôi gia súc an toàn không ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng. Thêm vào đó, các nhà sản xuất sữa quy mô lớn thường tách những nhà sản xuất quy mô nhỏ ra khỏi thị trường nên ảnh hưởng tới thu nhập của nhiều người đặc biệt là dân cư nông thôn. Gia tăng sản xuất sữa bởi các chương trình sữa học đường tăng: Thái Lan và Philipine đang thực hiện các chương trình sữa học đường và đó là mô hình để các nước học tập. Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam đã có kinh nghiệm thực hiện các chương trình sữa học đường với các mức độ khác nhau. Một số khó khăn đối với cải thiện năng suất và hiệu quả của các cơ sở sản xuất sữa quy mô nông hộ ở khu vực này bao gồm: thức ăn, thiếu giống tốt, kỹ năng quản lý kém và khả năng tài chính. Do đó, thách thức là cần kết hợp phát triển và đầu tư công nghệ; hỗ trợ đối với sản xuất sữa quy mô nông hộ thành nhà sản xuất sữa hàng hoá quy mô nhỏ. III. KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ QUỐC GIA 1. Bangladesh Tháng 1/2016, Thủ tướng quyết định tiếp tục hỗ trợ tài chính cho “Chương trình sản xuất sữa và thụ tinh nhân tạo” nhằm thúc đẩy chăn nuôi bò sữa và giảm phụ thuộc vào nhập khẩu sữa. Ngân hàng Bangladesh cùng với sự hỗ trợ của Bộ Thuỷ sản và Chăn nuôi thực hiện Chương trình hỗ trợ tài chính TK 200 đối với các ngân hàng tham gia và NBFIs thông qua ngân hàng Bangladesh, đảm bảo tài chính phù hợp với người chăn nuôi tham gia sản xuất sữa và thụ tinh nhân tạo để sản xuất sữa đủ cung cấp cho tiêu dùng nội địa. Các hỗ trợ tài chính cho ít nhất 10.000 đối tượng được nhận nguồn vốn vay ưu đãi. Tham gia chương trình này, người chăn nuôi được vay 50.000 TK và Tk 2 lakh từ ngân hàng và sẽ hoàn vốn trong vòng 4,5 năm. Người chăn nuôi có thể mượn Tk 50.000/1 bò cái tơ để làm bò sinh sản trong vòng 3 tháng và vay tối đa Tk 2 lakh cho 4 bò tơ để đưa vào sản xuất sữa. Nếu mua bò nội sẽ được ưu tiên hơn. Phụ nữ và hộ chăn nuôi có lãi sẽ được vay thêm vốn. Thông tin chung: Sản lượng sữa niên vụ 2014-15 của Bangladesh 6,96 tỷ lít sữa (609.85 crore litter of milk), tăng 14,3% mỗi năm và mới chỉ đáp ứng gần 50% nhu cầu tiêu dùng sữa trong nước. Nguồn: http://www.thedailystar.net/business/low-cost-loans-dairy-farmers-201646 http://www.thefinancialexpress-bd.com/2016/01/17/11100 Hỗ trợ phát triển chăn nuôi Một phần của kế hoạch hành động (2008-2015) và Kế hoạch đầu tư quốc gia đối với nông nghiệp (2011-2015), Chính phủ đã thực hiện Chương trình 5: Tập trung phát triển chăn nuôi gia cầm và bò sữa. Chương trình 5 với mục tiêu phát triển chăn nuôi bền vững thông qua cải tiến kỹ thuật, thú y và thực hành quản lý linh hoạt. Chương trình này phù hợp với Chính sách thực phẩm quốc gia và đảm bảo đa dạng dạng hoá sản phẩm nông nghiệp và thúc đẩy sản xuất chăn nuôi. Chương trình này bao gồm 4 chương trình nhỏ: a) Tăng cường năng lực đối với các dịch vụ thú y bao gồm: hệ thống chẩn đoán và giám sát để khoanh vùng dịch. b) Tăng cường năng lực đối với chăn nuôi quy mô nông hộ thông qua nâng cao nhận thức ở cộng đồng và các dịch vụ tư vấn. c) Cải tiến chất lượng và số lượng của các yếu tố đầu vào thông qua các đối tác tư nhân. d) Nghiên cứu phát triển chăn nuôi thông qua cải thiện di truyền. Thông tin chung: Chính phủ thực hiện chương trình NFP-PoA (2008-2015) hướng dẫn thực hiện Chính sách thực phẩm quốc gia. Sau đó, Chính phủ ban hành Kế hoạch đầu tư quốc gia đối với chính sách này dành cho Nông nghiệp, An toàn thực phẩm và dinh dưỡng (CIP, 2011-2015), những kế hoạch này chia thành 12 chương trình đầu tư để đảm bảo thực hiện kế hoạch hành động của Chính sách thực phẩm quốc gia. Nguồn: http://www.fao.org/3/a-az470e.pdf Cải thiện năng suất và khả năng đánh giá thị trường đối với nhà sản xuất sữa quy mô nhỏ, kể từ năm 2011, Bangladesh đã thực hiện Chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa quy mô nông hộ. Mục tiêu chính của chương trình này là cải thiện năng suất, khả năng đánh giá thị trường của người chăn nuôi bò sữa quy mô nhỏ và liên kết với chương trình sữa học đường để phát triển chăn nuôi bò sữa. Chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa quy mô nhỏ là chương trình đầu tiên của Kế hoạch Đầu tư và Chiến lược quốc gia đối với phát triển chăn nuôi bò sữa quy mô nông hộ ở châu Á – Mỗi cốc sữa của khu vực châu Á dành cho trẻ em châu Á được phát triển bởi APHCA (Animal Production and Health Commission for Asia and the Pacific – Chăn nuôi và sức khoẻ cộng đồng khu vực Châu Á và Thái Bình Dương) dành cho các nước thành viên và được hỗ trợ tài chính bởi CFC (Common Fund for Commodities) FAO and APHCA. Ở Bangladesh, dự án này được hỗ trợ bởi chính phủ (Cục Chăn nuôi, Bộ Thuỷ sản và Chăn nuôi). Thông tin chung: năm 2013, Chính phủ dự thảo Chính sách khuyến nông chăn nuôi được dựa trên Chiến lược chăn nuôi và những thách thức của hệ thống chăn nuôi. Nguồn:http://www.fao.org/ag/againfo/home/en/news_archive/AGA_in_action/2011_dairy_dev_asia.html 2. Trung Quốc Trung Quôc đang thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi bò sữa. Chính phủ bắt đầu thực hiện thúc đẩy tái cơ cấu ngành chăn nuôi bò sữa trong nước từ 2008, khi mà melamine được phát hiện trong sữa công thức dành cho trẻ em tại 22 công ty, làm cho hàng nghìn trẻ em bị ốm và có một số bị chết. Chính phủ cố gắng tăng cường kiểm soát và hỗ trợ phát triển chế biến các sản phẩm sữa. Đến hết năm 2014, Chính phủ có kế hoạch hình thành 10 công ty chế biến sữa bột lớn, doanh thu của từng công ty đạt hơn 2 tỷ quan (323 triệu USD). Và con số này sẽ giảm xuống còn 5 tỷ quan vào năm 2018, đánh dấu giai đoạn hai của quá trình củng cố. Nguồn: http://www.wsj.com/articles/chinas-dairy-consolidation-push-to-spur-deal-making-1404719783 Cải thiện chất lượng đàn giống Năm 2015, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc cho biết chính sách hỗ trợ tinh bò sữa để cải thiện chất lượng giống tiếp tục được thực hiện. Chính sách này cung cấp cho người chăn nuôi tinh bò để phối giống cho khoảng 8,4 triệu con bò giống, gồm các giống bò sau: Holstein, jersey, trâu, Simental, Brown cattle, Yak và Sanhe. Bộ Nông nghiệp cũng có chương trình hỗ trợ 3000 phôi, đối với các trang trại lớn muốn nhập khẩu tinh và phôi từ nước ngoài bởi chất lượng cao hơn. Nguồn:http://gain.fas.usda.gov/Recentpercent20GAINpercent20Publications/Dairypercent20andpercent20Productsper cent20Annual_Beijing_Chinapercent20-ercent20Peoplespercent20Republicpercent20of_11-18-2015.pdf Luật An toàn thực phẩm sửa đổi được ban hành ngày 24/4/2015, Uỷ ban Thường vụ của Quốc hội Trung Quốc sửa đổi Luật An toàn thực phẩm ban hành năm 2009. Luật mới tăng cường giám sát và kiểm soát các bước trong chuỗi sản xuất, phân phối và thương mại và thu hồi sản phẩm đối với thực phẩm. Điều khoản đặc biệt được đưa ra đối với các sản phẩm thực phẩm không an toàn trong thời gian gần đây, đặc biệt là thực phẩm chức năng và sữa công thức dành cho trẻ em. Luật An toàn thực phẩm sửa đổi có hiệu lực từ 1/10/2015. Sự thay đổi chính liên quan tới việc đăng ký và ghi chép, theo dõi quá trình sản xuất đối với sản xuất và nhập khẩu thực phẩm, thực phẩm online, thực phẩm tự nhiên, thức ăn cho trẻ em, thực phẩm biến đổi gen, thực phẩm chức năng. Thông tin chung: Luật mới được cho là rất nghiêm ngặt đối với vấn đề an toàn thực phẩm. Điều đó cho thấy rằng quan điểm của Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi sau các vụ scandal về thực phẩm trong những năm gần đây, dẫn tới khó khăn đối với tiêu thụ sản phẩm thực phẩm nội địa. Nguồn: https://www.hg.org/article.asp?id=36735 3. Nepal Chính sách hỗ trợ mới đối với chế biến sữa bột thuộc sở hữu nhà nước và tư nhân cũng được khuyến khích sản xuất sữa bột. Chính phủ đã hỗ trợ 50% giá mua máy chế biến cỏ khô để tăng cường sản xuất cỏ giàu dinh dưỡng đối với những trang trại nuôi trên 50 con bò và trâu trong năm tài chính sắp tới. Để thúc đẩy cơ giới hoá nông nghiệp, thuế và thuế VAT sẽ được miễn khi nhập khẩu máy như máy kéo, máy cày, máy làm đất, máy gặt lúa. Nguồn: http://www.mof.gov.np/uploads/document/file/Finalpercent20Budgetpercent20Speechpercent20201516percent20English_20150715122729.pdf Chính sách xuất khẩu sữa lần đầu tiên được phê chuẩn vào tháng 12 năm 2015 theo kế hoạch của Chính phủ xuất khẩu sữa sang Ấn Độ. Từ lần đầu tiên đó, mỗi ngày Nepal đã xuất khẩu 30.000 lít sữa sang quốc gia láng giềng. Bước tiến này đã đạt mục tiêu có thể được gọi là “milk holiday”. Do đó, Bộ Tài chính đã quyết định chi 16,09 triệu Rs để trợ cấp cho các hoạt động xuất khẩu sữa. Sữa của Nepan đắt hơn sữa của Ấn Độ 5,96 Rs/lít. Hợp tác xã phát triển sữa (Dairy Debelopment Corporation DDC) sẽ bán sữa theo giá sữa tại Ấn Độ. Nguồn:http://kathmandupost.ekantipur.com/news/2015-09-19/cabinet-approval-to-milk-export-plan.html. 4. Ấn Độ Chính phủ đã phê duyện chương trình phát triển ngành sữa (NDP) năm 2015, trong đó 1 dự án có bổ sung thêm 3 tỉnh (Uttarakhand, Jharkhand and Chhattisgarh). Trong 2 năm gần đây, chương trình này mở rộng hơn so với Kế hoạch ngành sữa quốc gia giai đoạn 1. Thông tin chung: NDP được phê duyệt tháng 2/2012 với tổng nguồn vốn 416 nghìn USD (INR 20 triệu), thời gian thực hiện trong 6 năm từ 2011-2017 để đáp ứng mục tiêu sản xuất được 150 triệu tấn sữa. Trong giai đoạn một của kế hoạch tập trung vào 14 bang chăn nuôi bò sữa chính, chiếm 90% tổng sản lượng sữa cả nước. Năm 2012, giai đoạn 1 của NDP với hỗ trợ gia tăng năng suất thông qua cải tiến chất lượng giống và dinh dưỡng, nâng cao năng lực của hệ thống thu gom sữa tại các làng và quản lý dự án. Thời gian thực hiện dự án đã được kéo dài thêm 2 năm đến 2018-2019 để đạt được mục tiêu. Nguồn: http://gain.fas.usda.gov/Recentpercent20GAINpercent20Publications/Dairypercent20andpercent20Productsper cent20Annual_Newpercent20Delhi_India_10-11-2013.pdf Cải tiến chất lượng giống và nâng cao chất lượng sản phẩm được thực hiện theo Chương trình quốc gia phát triển sữa và giống bò (NPBBDD, 2012-2017). Các hoạt động chính của BPBBDD bao gồm dịch vụ phối giống, cải thiện cơ sở hạ tầng để nâng cao sản lượng sữa đạt chất lượng, thu gom, chế biến và marketing sản phẩm sữa, cung cấp dịch vụ đầu vào cho chăn nuôi bò sữa, đào tạo cho người chăn nuôi về quản lý trang trại. Ban quản lý dự án tại Rashtriya Gokul trực thuộc NPBBDD tập trung nâng cao tiềm năng di truyền của các giống bản địa. Từng bang có chính sách cải tiến giống riêng đối với bò sữa, do đó có sự khác biệt giữa các bang về chất lượng giống của các giống nhập ngoại và giống bản địa. Nguồn:http://gain.fas.usda.gov/Recentpercent20GAINpercent20Publications/Dairypercent20andpercent20Productsper cent20Annual_Newpercent20Delhi_India_10-15-2015.pdf Hỗ trợ cho chăn nuôi bò sữa tư nhân GOI đang tăng cường hỗ trợ phát triển chăn nuôi bò sữa tư nhân theo nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ, Chương trình phát triển doanh nghiệp hỗ trợ 25-33,33% tổng chi phí để làm trang trại, chế biến sữa quy mô nhỏ, hạ tầng để bảo quản sữa, cửa hàng giới thiệu sản phẩm sữa. Chương trình phát triển doanh nghiệp đã thực hiện từ 2009 để thúc đẩy ngành sữa thông qua hỗ trợ tài chính cho việc mua bò hoặc máy vắt sữa và các hoạt động khác liên quan tới ngành sữa. Chương trình này sẽ được tiếp tục thực hiện trong năm 2015-2016 với tổng nguồn vốn 1270 triệu Rs (127 crore). Một chương trình khác hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp (Agri-Clinics and Agri-Business Centres (ACABC) xây dựng trung tâm tư vấn để hỗ trợ các dịch vụ cho người chăn nuôi. Nguồn:http://gain.fas.usda.gov/Recentpercent20GAINpercent20Publications/Dairypercent20andpercent20Productsper cent20Annual_Newpercent20Delhi_India_10-15-2015.pdf Cải thiện an toàn vệ sinh thực phẩm đối với sữa Chính phủ Ấn Độ (GOI) đang xây dựng dự thảo các quy định sửa đổi bổ sung về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm đối với thực phẩm và thức ăn bổ sung, 2016, liên quan tới ngành sữa. Nguồn:http://gain.fas.usda.gov/Recentpercent20GAINpercent20Publications/WTOpercent20Notifiedpercent20Draftpe rcent20Standardspercent20forpercent20Fortifiedpercent20Milkpercent20andpercent20Ediblepercent20Lactose _Newpercent20Delhi_India_4-8-2016.pdf 5. Pakistan Hỗ trợ hợp tác xã chăn nuôi thông qua bảo hiểm chăn nuôi Để giảm thiểu rủi ro đối với chăn nuôi quy mô nhỏ và thúc đẩy sự phát triển loại hình trang trại này, Chính phủ đã thực hiện Chương trình bảo hiểm chăn nuôi từ năm 2014-2015 cho các trang trại có số lượng bò đến 10 con. Chương trình bảo hiểm chăn nuôi hỗ trợ các hợp tác xã chăn nuôi bò sữa khi có thiên tai hoặc dịch bệnh. Thông tin chung: Chính phủ có Chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi quốc gia năm 2007. Về tổng thể, Chính sách này thúc đẩy “sự phát triển chăn nuôi ở khu vực tư nhân cùng với chăn nuôi được hỗ trợ của nhà nước”. Tập trung chủ yếu vào nâng cao năng suất/vật nuôi và chuyển dịch hỗ trợ hướng tới thị trường và chăn nuôi hàng hoá. Nguồn: http://www.finance.gov.pk/survey/chapters_16/02_Agriculture.pdf Pakistan Economic Survey 2015-16 Miễn thuế nhập khẩu bò tơ và thức ăn cho bò Để tăng cường hỗ trợ cho người chăn nuôi bò sữa, miễn thuế nhập khẩu đối với bò tơ và thức ăn bổ sung cho bò sữa. Trong năm 2015-2016 (Tháng 7-tháng 3), 324.495 tấn sữa thay thế và 311.530 tấn thức ăn bổ sung cho bò được nhập khẩu. Tương tự, để thúc đẩy và khuyến khích gia tăng giá trị của sản phẩm chăn nuôi đã qua chế biến, thuế nhập khẩu đối với máy móc cho chế biến thịt, sữa được miễn thuế. Thông tin chung: Pakistan là một trong những quốc gia sản xuất sữa lớn nhất thế giới, nhưng chỉ có 5% sản lượng sữa được đưa vào chế biến để gia tăng giá trị trong khi phần còn lại chủ yếu là tiêu dùng nội địa tại hệ thống tiêu thụ truyền thống. Chăn nuôi có vai trò quan trọng trong kinh tế của quốc gia này, thực tế chăn nuôi bò sữa đóng góp 58% giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp và 11% GDP năm 2015-2016. Rất nhiều dự án được thực hiện với mục tiêu tăng cường chăn nuôi bò sữa đang được thực hiện tại Punjab (Giảm nghèo cho phụ nữa qua hỗ trợ bò tơ và cừu/dê tại Punjab, 2014-15 đến 2017-18). Sản lượng chăn nuội chịu tác động lớn bởi thiếu giống vật nuôi năng suất cao, kiểm soát dịch bệnh kém, thiếu thức ăn và quy trình chăn nuôi chưa phù hợp. Nguồn: Pakistan Economic Survey 2015-16 http://121.52.153.178:8080/xmlui/bitstream/handle/123456789/13902/20152016.pdf?sequence=1&isAllowed=y 6. Philipines Hỗ trợ tài chính cho người chăn nuôi bò sữa Ủy ban Sữa Quốc gia (NDA National Dairy Authority) ký biên bản ghi nhớ với Ngân hàng phát triển Philipine ngày 30/6/2015 và đó là cam kết của Chính phủ để hỗ trợ phát triển chăn nuôi bò sữa thông qua hỗ trợ tài chính, kỹ thuật đối với các hoạt động chăn nuôi, chế biến và marketing sữa và sản phẩm sữa cho người chăn nuôi. Theo cam kết này, Chương trình hỗ trợ tín dụng được gọi là “Chương trình hỗ trợ tài chính kinh doanh nông nghiệp đối với ngành sữa (Sustainable Agribusiness Financing Programme for the Dairy Industry (SAFP-Dairy) được thực hiện để hỗ trợ nâng cao chất lượng sản phẩm và hỗ trợ tài chính cho chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa, marketing sản phẩm sữa và sửa chữa cơ sở hạ tầng. Nguồn: http://www.nda.da.gov.ph/index.php/en/about-us/accomplishments Ngân hàng sữa hỗ trợ thực phẩm cho các trường học qua dự án của NDA kết hợp với người chăn nuôi được thực hiện từ năm 2015 để thúc đẩy Chương trình uống sữa. Từng người chăn nuôi, hợp tác xã chăn nuôi hay bất kỳ cá nhân đều có thể trở thành nhà tài trợ của ngân hàng sữa nếu họ đóng góp 3000 Php. NDA cấp chứng nhận nhà tài trợ và dùng số tiền đó để mua thực phẩm cho trẻ em suy dinh dưỡng trong 120 ngày. Ban đầu có 10 ngân hàng sữa với 6 nhà tài trợ. Nguồn: http://www.nda.da.gov.ph/index.php/en/about-us/accomplishments Chương trình sữa học đường mới được thực hiện từ tháng 3/2015, Chương trình sữa học đươngf Tacloban tại Philippine được thực hiện trong thời gian ngắn trong tháng 6. Hơn 1000 trẻ em ở các trường mẫu giáo và các trường học được cung cấp sữa uống hàng ngày trong năm học 2015-2016, 2016-2017. Các hoạt động được thực hiện bao gồm: sữa uống hàng ngày, một bài tập để nâng cao nhận thức cho cha mẹ biết họ nhận được hỗ trợ như thế nào từ chương trình này. Thêm vào đó, đại diện của cơ quan đào tạo Tacloban và Hiệp hội sũa Alaska và Tetra Laval đã ký bản ghi nhớ cho chương trình có tác động nhiều hơn so với các chương trình đã thực hiện từ những năm trước. Thông tin chung: Bộ Giáo dục đã thực hiện chương trình quốc gia thực phẩm học đường (national School-Based Feeding Programmes) từ năm 2010 và chương trình thực phẩm bổ sung từ năm 2011. Nguồn: http://www.tetrapak.com/th/about/newsarchive/more-children-than-ever-get-school-milk-in-tetra-pakpackages Tăng số lượng đàn bò sữa Chiến lược chính của NDA là Chương trình tăng số lượng bò sữa với mục tiêu mở rộng chăn nuôi trong nước thông qua nhập khẩu bò sữa, phôi và thiết bị để từ đó nâng cao chất lượng của đàn bò sữa trong nước cùng với các chương trình giống, liên kết người chăn nuôi và bảo tồn đàn vật nuôi hiện có. Thêm vào đó, chương trình này sẽ nâng cao năng lực cho người chăn nuôi. Thông tin chung: NDA là tổ chức giám sát và hỗ trợ phát triển của ngành chăn nuôi bò sữa Philipine. NDA thúc đẩy ngành chăn nuôi bò sữa phát triển cả về số lượng bò sữa và sản lượng sữa, từ đó dịch vụ ngành sữa phát triển: dịch vụ kỹ thuật, các chương trình gia tăng tiêu dùng sữa, thúc đẩy tiêu dùng sữa. Trong hơn 7 năm qua, sản xuất sữa trong nước đã tăng trưởng vơi tốc độ trung bình 7% và nhu cầu tiêu dùng sữa ngày càng tăng. Nguồn:http://gain.fas.usda.gov/Recentpercent20GAINpercent20Publications/Dairypercent20andpercent20Productsper cent20Annual_Manila_Philippines_10-28-2014.pdf 7. Sri Lanka Chính sách hỗ trợ mới đối với sữa bột Chính phủ có chính sách khuyến khích các nhà sản xuất sữa trong nước tăng sản xuất. Do đó, nguồn vốn cho 2015/2016 để giảm giá sữa bán lẻ đối với sản phẩm sữa bột hộp 400g từ 325 Rs xuống còn 295 Rs. Chính phủ hỗ trợ cho các nhà máy đóng gói và bán sữa bột hộp 400g 30 Rs/hộp, tổng nguồn vốn cho chương trình này là 1 tỷ Rs. Chương trình này có tác động song song đó là hỗ trợ nhà sản xuất trong nước và giảm chi phí sinh hoạt cho người dân. Thông tin chung: Thị phần của ngành sữa nội địa rất nhỏ. Chính phủ trước đã thực hiện một số biện pháp trực tiếp hướng tới sản xuất sữa nội địa và giảm nhập khẩu các sản phẩm sữa. Nguồn: https://www.parliament.lk/budget-2016 Cải thiện tín dụng Ngân hàng Trung ương được thực hiện từ tháng 4/2014 với chương trình vay vốn đặc biệt để thúc đẩy hỗ trợ chăn nuôi bò sữa và chế biến sản phẩm sữa quy mô lớn. Thông qua chương trình này, nguồn vốn được dùng cho hoạt động: trồng cỏ, quản lý đàn bò, làm chuồng nuôi, vận chuyển sữa và các hoạt động của sản xuất sữa. Các chương trình khác đang thực hiện để hỗ trợ cho người chăn nuôi bò sữa ở một số huyện. Nguồn vốn này dự tính khoảng 25 triệu LKR (tương đương 190.000 USD) mỗi năm, mỗi năm tăng 8%, người vay sẽ trả lại trong vòng 5,5 năm (66 tháng). Nguồn:http://www.news.lk/news/sri-lanka/item/477-loan-scheme-to-promote-liquid-milk-production 8. Thái Lan Hỗ trợ cho người chăn nuôi Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã đang hỗ trợ cho người chăn nuôi bò để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành sữa Thái Lan trong thị trường ASEAN. Các giải pháp được Chính phủ thực hiện để hỗ trợ cho nhà sản xuất sữa bao gồm: hỗ trợ 1 bath/1kg sữa tươi nguyên liệu, do đó gia tăng giá bán sữa lên 19 bath/kg. Chính phủ đồng ý nhập khẩu 22.000 tấn sữa bột không kem trong năm nay để đáp ứng phần thiếu. Thông tin chung: 40% sản lượng sữa sản xuất trong nước được đưa vào Chương trình sữa học đường với mục tiêu cung cấp sữa cho trẻ em ở trường học trong khi các đối tượng còn lại sử dụng sữa thương phẩm. Thái Lan hiện đang là nhà sản xuất sữa lớn nhất khu vực ASEAN. Nguồn: http://news.thaivisa.com/thailand/milk-producers-in-thailand-given-support-to-increase-theircompetitiveness/37232/ Mở rộng chương trình sữa học đường Để giảm số lượng trẻ em suy dinh dưỡng và hỗ trợ thị trường sữa sản xuất trong nước, Thái Lan đã và đang áp dụng Chương trình quốc gia hỗ trợ ăn trưa và sữa tại các trường học từ năm 1985 để giải quyết người chăn nuôi biểu tình vì không bán được sữa vào năm 1984. Sữa học đường là phần quan trọng của thị trường sữa Thái Lan, chiếm hơn 30% thị trường sữa nước. Do đó, sữa học đường sẽ được mở rộng từ 200 ngày trong năm học lên 230 ngày, thêm 30 ngày trẻ em được uống sữa kể cả trong kỳ nghỉ. Sữa được cung cấp dưới dạng sữa tiệt trùng để bố mẹ nhận từ trường học. Nguồn: http://www.brightergreen.org/files/dairypolicybrieffinal4.25.14.pdf http://www.fao.org/fileadmin/templates/est/COMM_MARKETS_MONITORING/Dairy/Documents/School_Milk_ Programme_in_Thailand.pdf 9. Việt Nam Kế hoạch phát triển ngành sữa của Chính phủ Việt Nam được thực hiện từ tháng 2/2016 nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành sữa và ứng dụng kỹ thuật và công nghệ. Để phát triển ngành này theo hướng mở rộng, đa dạng hoá sản phẩm sữa. Mục tiêu của Việt Nam phấn đấu sản lượng sữa hàng năm của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2020 tăng 5-6%. Chính phủ sẽ đầu tư khoảng 8 triệu USD để xây dựng nhà máy đóng gói và dây truyền in nhãn sữa, chiếm khoảng 50% tổng nhu cầu. Thông tin chung: Ngành sữa là ngành có mức tăng trưởng cao nhất trong công nghiệp thực phẩm ở Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng trung bình 18%/năm. Thêm vào đó, với tốc độ tăng trưởng dân số 1,2%/năm, tốc độ tăng trưởng GDP 6-8%, thu nhập bình quân đầu người tăng, ngành sữa Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển. Tiêu thụ sữa bình quân/người ở Việt Nam ước tính đạt 20 kg ở năm 2015 và 25 kg vào năm 2020. Sản lượng sữa của quốc gia này đáp ứng 34% nhu cầu tiêu dùng nội địa trong năm 2015 và đạt 38% vào năm 2020. Thị trường nội địa và thị trường quốc tế là những thị trường tiềm năng đối với sự tăng trưởng kinh tế và mang lại cơ hội phát triển cho ngành sữa Việt Nam. Nguồn: http://www.dairyViet Nam.com/en/Viet Nam-Markets-for-milk-and-milk-production/For-SustainableDevelopment-of-Milk-Industry.html Chương trình sữa học đường mở rộng Chương trình sữa học đường ở Việt Nam đã thực hiện được 7 năm, và hiện nay có 500.000 trẻ em được tham gia, tăng gần 8 lần kể từ năm 2013. Trẻ em tại các trường mẫu giáo và tiểu học được uống 3-4 hộp sữa loại 180ml/ngày. Chương trình này được thực hiện từ nguồn hỗ trợ của UBND các tỉnh, công ty chế biến sữa như Vinamilk, TH… và cha mẹ học sinh. Tetra Pak đang hỗ trợ các tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình này. Tác động của chương trình đối với sức khoẻ của trẻ em rất rõ rang, ví dụ: tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở trẻ em trong độ tuổi 3-5 tuổi giảm từ 15,6% xuống còn 3,7% trong năm 2014 tại các tỉnh tham gia chương trình. Nguồn: http://www.tetrapak.com/th/about/newsarchive/more-children-than-ever-get-school-milk-in-tetra-pakpackages Kiểm soát giá đối với các sản phẩm sữa dành cho trẻ em Thủ tướng đã phê duyệt chương trình bình ổn giá đối với sản phẩm sữa dành cho trẻ em từ tháng 4/2014. Giá của các sản phẩm này giảm từ 50.000VNĐ đến 70.000VNĐ (2,4-3,3USD)/hộp. Theo một báo cáo điều tra bởi Bộ Công thương cho biết: trong 15 tháng trước có 5 công ty đã tăng giá đối với các sản phẩm sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi (Nguồn: http://english.Viet Namnet.vn/fms/business/101568/business-in-brief-7-5.html). TS. Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng, Cục Chăn nuôi, Bộ …
| Tin mới | admin | 29/08/2016 | | Công khai doanh nghiệp được phép nhập khẩu Salbutamol làm thuốc. | Công văn số 1635/QLD-KD ngày 23 tháng 8 năm 2016 của Cục Quản lý dược về việc nhập khẩu nguyên liệu Salbutamol làm …
| Tin mới | admin | 26/08/2016 | | Quyết định số 3486/QĐ-BNN-KH Ban hành kế hoạch hành động của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện Nghị quyết 71/NQ-CP ngày 05 tháng 8 năm 2016 về phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 7 năm 2016 | …
| Quyết định | admin | 26/08/2016 | | Thông tư số 30/2016/TT-BNNPTNT ngày 25 tháng 8 năm 2016 sửa đổi, bổ sung Điều 9 Thông tư số 15/2015/TT-BNNPTNT ngày 26 tháng 3 năm 2015 Hướng dẫn nhiệm vụ các Chi cục và các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Quyết định, Thông tư | admin | 26/08/2016 | | Chăn nuôi hướng về trang trại | (Chinhphu.vn) – Cục Chăn nuôi, Bộ NN&PTNT cho biết trong thời gian tới sẽ thúc đẩy ngành chăn nuôi tập trung theo thứ tự ưu tiên về loại sản phẩm chính là lợn, gà, bò thịt, bò sữa. Ngành cũng sẽ chuyển từ quy mô nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập trung theo trang trại, duy trì chăn nuôi nông hộ nhưng theo hình thức công nghiệp và ứng dụng công nghệ cao Trên cơ sở điều kiện vùng miền và các đối tượng nuôi cụ thể, Bộ NN&PTNT và các địa phương đã và đang chỉ đạo tái cơ cấu vùng chăn nuôi theo hướng chăn nuôi lợn chuyển từ các vùng có mật độ dân số cao như Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ sang vùng Bắc Trung Bộ, miền núi phía bắc và Tây Nguyên. Chăn nuôi gà ổn định cơ cấu và quy mô tại vùng Đồng bằng sông Hồng, trung du miền núi phía bắc, Bắc Trung Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng sang vùng Tây Nguyên. Chăn nuôi bò thịt phát triển ở các vùng duyên hải miền Trung và trung du miền núi phía bắc; chăn nuôi bò sữa ở các vùng truyền thống và có khả năng đầu tư công nghệ cao như Mộc Châu, Ba Vì, Lâm Đồng, Nghệ An, Gia Lai, Thanh Hóa… Trong phương thức chăn nuôi, Bộ phối hợp với các địa phương chỉ đạo tập trung chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung theo trang trại, gia trại, duy trì chăn nuôi nông hộ nhưng theo hình thức công nghiệp và ứng dụng công nghệ cao. Chăn nuôi công nghiệp công nghệ cao đang có xu hướng phát triển mạnh với các tập đoàn kinh tế lớn trong nước và nước ngoài đầu tư như TH, Hoàng Anh Gia Lai, Bình Hà, DABACO, Thái Dương… Cả nước hiện có hơn 200 mô hình chăn nuôi áp dụng VietGAP được cấp chứng nhận với quy mô từ hàng nghìn đến mấy trục triệu con/lứa. Quy trình trên sẽ được hướng dẫn triển khai mạnh mẽ trong thời gian tới. Một số tỉnh đã tổ chức liên kết theo chuỗi sản phẩm từ sản xuất đến thị trường, trong đó doanh nghiệp là nòng cốt, xác định các chuỗi ngành hàng lợi thế của địa phương. Hiện nay đã xuất hiện một số sản phẩm chăn nuôi được xuất khẩu mạnh. Ví dụ, năm 2015, thịt lợn sữa đông lạnh xuất sang Trung Quốc, Hong Kong đạt 39.400 tấn, trị giá 103,5 triệu USD; trứng vịt muối xuất khẩu sang Malaysia, Singapore, Trung Quốc đạt 31,6 triệu quả, trị giá 4,9 triệu USD; mật ong xuất khẩu sang Mỹ, Triều Tiên, Đài Loan đạt 56.400 tấn, trị giá 140 triệu USD… Theo Cục Chăn nuôi, từ năm 2013 đến nay, ngành đã có sự chuyển biến khá rõ nét về chất lượng đàn giống vật nuôi, nhiều giống vật nuôi có năng suất cao được nhập khẩu từ các nước tiên tiến. Cùng với đó đã có nhiều thay đổi đầu tư trong phát triển chăn nuôi từ các tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước, chất lượng sản phẩm chăn nuôi được kiểm soát tốt hơn. Sản xuất chăn nuôi tăng trưởng khá cao và chuyển đổi theo hướng tích cực. Giá trị sản xuất tăng trung bình 4,1%/năm (năm 2013 tăng 3,4%, 2014 tăng 4,6%, năm 2015 tăng 4,3%, quý I/2016 tăng 4,2%)… Đến nay các sản phẩm chăn nuôi trong nước đã đáp ứng cơ bản nhu cầu các loại thực phẩm cho tiêu dùng nội địa và bước đầu cho xuất khẩu. Đỗ …
| Tin mới | admin | 26/08/2016 | | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2016 | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm …
| TT thị trường | admin | 25/08/2016 | | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2016 | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm …
| TT thị trường | admin | 25/08/2016 | | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 4 năm 2016 | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 4 năm …
| TT thị trường | admin | 25/08/2016 | | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2016 | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm …
| TT thị trường | admin | 25/08/2016 | | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 2 năm 2016 | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 2 năm …
| TT thị trường | admin | 25/08/2016 | | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 1 năm 2016 | Giá sản phẩm chăn nuôi tháng 1 năm …
| TT thị trường | admin | 25/08/2016 | | Công văn số 7149/BNN-CN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc quản lý chất Salbutamol | …
| Công văn | admin | 24/08/2016 | | Công văn số 7149/BNN-CN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc quản lý chất Salbutamol | Công văn số …
| Tin mới | admin | 24/08/2016 | | Tuyên bố chung Panama về phát triển chăn nuôi bền vững toàn cầu trong khuôn khổ chương trình nghị sự toàn cầu của Liên hiệp quốc về phát triển chăn nuôi bền vững | TS. Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng, Cục Chăn nuôi, Bộ NN-PTNT 1. Giới thiệu. Phát triển chăn nuôi bền vữngtrước những thách thức to lớn về biến đổi khí hậutrên toàn cầuđã nhận được sự quan tâm rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong những năm qua. Vì vậy, trong khuôn khổ Chương trình nghị sự toàn cầu của Liên hiệp quốc về phát triển chăn nuôi bền vững, Hội nghị đa đối tác về chăn nuôi bền vững đã được tổ chức 6 lần, gồm: – Lần thứ nhất lần được tổ chức tại Brasília, Brazil từ 17-20/5/2011 và đưa ra Tuyên bố Bracilia sau Hội nghị; – Lần thứ 2, Hội nghị đa đối tác về chăn nuôi bền vững đã được tổ chức tại Phuket, Thái Lan từ01-04/12/2011 và ra Tuyên bố chungPhuket. – Hội nghị đa đổi tác về chăn nuôi bền vững lần thứ 3 được tổ chức tại Nairobi, Kenya từ 22-24/01/2013 vàcông bố Tuyên bố chung Nairobi về chăn nuôi bền vững toàn cầu lần 3; – Hội nghị lần thứ 4 được tổ chức từ ngày 15-17/10/2013 tại Ottawa, Canada và công bố Tuyên bố chung Ottawa về chăn nuôi bền vững toàn cầu lần 4; – Hội nghị lần thứ 5 lại được tổ chức tại California, Hoa Kỳ từ 05-07/10/2014 và công bố Tuyên bố chung California về chăn nuôi bền vững toàn cầu lần 5; – Hội nghị lần thứ 6 lại được tổ chức tại Panama City, Panama từ 20-23/06/2016 và công bố Tuyên bố chung Panama về chăn nuôi bền vững toàn cầu lần 6. Như vậy, từ năm 2011 đến nay Chương trình Nghị sự của Liên hiệp quốc về phát triển chăn nuôi bền vững đã tổ chức 6 lần hội nghị đa đối tác về phát triển chăn nuôi bền vững. 2. Hội nghị Đa đối tác về phát triển chăn nuôi bền vững toàn cầu lần thứ 6 Hội nghị này được tổ chức tại Panama City, nước Cộng hòa Panama từ 20-23/06/2016 với sự tham gia của 170 đối tác trong lĩnh vực chăn nuôi trong khuôn khổ của Chương trình Nghị sự của Liên hiệp quốc về phát triển chăn nuôi bền vững. Trong Hội nghị, các đại biểu tham dự từ các nhóm đối tác khác nhau: Chính phủ, tổ chức xã hội dân sự, khu vực tư nhân, nhà tài trợ, nhà nghiên cứu/viện sĩ, tổ chức phí chính phủ, tổ chức đa chính phủ, tổ chức đa phương. Tham dự Hội nghị cũng có 2 đại biểu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Đánh giá về đóng góp của lĩnh vực chăn nuôi cho Mục tiêu phát triển bền vững của Chương trình nghị sự của Liên hiệp quốc đến năm 2030, một hệ thống gồm 17 mục tiêu kỳ vọng được sự nhất trí của 193 quốc gia sẽ ảnh hưởng tới quyết định của các quốc gia này trong 15 năm tới. a) Thách thức đối với phát triển bền vững Chăn nuôi dù là trực tiếp hoặc gián tiếp đều liên quan đến tất cả 17 Mục tiêu phát triển bền vững và đối diện với nhiều thách thức để đạt được mức độ bền vững trong khi vẫn phải đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng của con người đối với các sản phẩm chăn nuôi. Để giải quyết những thách thức đồng nghĩa vớicách tiếp cận tổng thể, hiệu quả và đảm bảo sức khỏe: Tổng thể: Nhiều người phải phụ thuộc vào vật nuôi để sống, bao gồm cả việc làm dựa trên chuỗi giá trị. Chăn nuôi là nguồn sinh kế chính cho hàng trăm triệu người nghèo ở nông thôn, bao gồm một tỷ lệ lớn là phụ nữ. Vật nuôi nông trại mang lại thu nhập và là tài sản, góp phần tăng năng suất nông nghiệp và sự tham gia vào thị trường. Chăn nuôi không những góp phần giảm sự bất bình đẳng mà còn góp phần giảm tỷ lệ lớn lao động trẻ em và những rủi ro về nghề nghiệp. Cách tiếp cận tổng thể góp phần tăng cường vai trò của chăn nuôi trong giảm nghèo, thu hẹp bất công trong khi vẫn bảo vệ được những con người dễ bị tổn thương và đảm bảo hoạt động sản xuất và tiêu dùng có trách nhiệm. Hiệu quả: Chăn nuôi không chỉ sử dụng một phần lớn tài nguyên thiên nhiên: đất, nước, dinh dưỡng và năng lượng, mà còn chịu trách nhiệm đối với biến đổi khí hậu. Trong khi các nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và phát thải khí nhà kính cần phải giảm đi, lĩnh vực chăn nuôi có tiền năng lớn để giảm phát thải thông qua việc sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên khi áp dụng các quy trình thức hành và công nghệ sẵn có. Sức khỏe: Là nguồn protein và năng lượng có chất lượng nhưng cũng cung cấp cho cơ thể những vi chất dinh dưỡng cơ bản, sản phẩm chăn nuôi chính là sản phẩm đảm bảo an ninh lương thực-thực phẩn và năng lượng cũng như đảm bảo sức khỏe cho con người, đặc biệt là trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi. Tuy nhiên, các bệnh vật nuôi cũng gây ra rủi ro đối với sức khỏe con người và sản xuất chăn nuôi có thể gây ra các vấn đề về vệ sinhnhư thải phân vật nuôi ra môi trường. b) Chăn nuôi tồn tại nhiều cơ hội Trong Hội nghị, nhiều cơ hội đã được xác định và thảo luận của các đại biểu tham dự. Ví dụ, thu hẹp khoảng cách khác biệt trong các hệ thống chăn nuôi có thể đóng góp cho việc sản xuất nhiều hơn hoặc ít hơn sản phẩm trong khi vẫn cải thiện được thu nhập của người nông dân. Ma trận hiệu quả do các đối tác của Chương trình nghị sự phát triển sẽ được áp dụng trong các dự các thử nghiệm ở các khu vực khác nhau trên Thế giới. Hệ thống chăn thả gia súc có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên như đất, nước và đa dạng sinh học trong khi vẫn dẫn đến phát thải các bon và xung đột với việc giảm phát thải các bon. Cơ sở dự liệu của 17 dự án thử nghiệm về đồng cỏ đã được phát triển cho các đối tác của Chương trình nghị sự và xác định những cơ hội và tiềm năng cho việc nhân rộng. c) Các cam kết Ngày họp thứ 3 được bố trí để tập trung cho Vùng châu Mỹ La tinh và Diễn đàn chính sách cao cấp của vùng đã được tổ chức với sự tham gia của một số bộ trưởng và thành viên quốc hội của một số nước trong Vùng. Sau khi thảo luận về những chính sách của Vùng, hệ thống sản xuất và các vấn đề đầu tư, các quốc gia đã tái khảng định tầm quan trọng của chăn nuôi ở trong vùng và những cam kết của họ để phát triển chăn nuôi bền vững. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chung Panama nhận thức về những đóng góp quan trọng của lĩnh vực chăn nuôi đối với Chương trình nghị sự của Liên hiệp quốc đến năm 2030 và sự cần thiết trong hoạt động điều phối và nhất trí thực thi trong đổi mới chính sách, phát triển thể chế và đầu tư cho sự thay đổi thực hành bền vững trong lĩnh vực chăn nuôi. Với tuyên bố này, các đại biểu của Chương trình nghị sự toàn cầu về phát triển chăn nuôi bền vững đã chấp nhận những thách thức phát triển bền vững và thể hiện những cam kết mạnh mẽ trong thực thi. 3. Tuyên bố Panama dịch ra tiếng Việt TUYÊN BỐ PANAMA NGÀY 23/6/2016 VỀ CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ TOÀN CẦU VỀ CHĂN NUÔI BỀN VỮNG ĐÓNG GÓP CHO CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẾN NĂM 2030 CỦA LIÊN HIỆP QUỐC Chúng tôi, những đối tác của Chương trình nghị sự Toàn cầu về Chăn nuôi bền vững, đã tham dự Hội nghị đa đối tác lần thứ 6 tại Thành phố Panama theo lời mời của Chính phủ nước Cộng hòa Panama, cùng cam kết phát triển bền vững ngành chăn nuôi để mang lại những lợi ích to lớn cho nhân loại và hành tinh của chúng ta. Chúng tôi tuyên bố: Đóng góp quan trọng của chăn nuôi cho Chương trình nghị sự tới năm 2030 của Liên hiệp quốc cho phát triển bền vững, gồm: – Vai trò sống còn của chăn nuôi trong xóa đói, giảm nghèo và tăng cường an ninh lương thực – thực phẩm, dinh dưỡng và sức khỏe; – Đóng góp tiềm năng của chăn nuôi cho sử dụng bền vững các hệ sinh thái trên cạn nhằm giảm thiểu suy thoái về môi trường, biến đổi khí hậu và cải thiện đa dạng sinh học; – Vai trò của ngành chăn nuôi trong việc duy trì hòa bình và đa sắc tộc của xã hội loài người. Yêu cầu phối hợp hoạt động thông qua đối tác, bao gồm: – Tiếp tục mở rộng đối thoại đối với tất cả các đối tác trong ngành chăn nuôi để thay đổi trong thực hành chăn nuôi bền vững và được xã hội đồng thuận. – Tập trung đổi mới trong nghiên cứu, công nghệ, phát triển xã hội và xây dựng năng lực nhằm thúc đẩy thay đổi trong thực hành chăn nuôi từ cấp địa phương tới phạm vi toàn cầu; – Tạo lập tiến bộ và ứng dụng kiến thức. Chúng tôi thống nhất: Hỗ trợ Mục tiêu Phát triển bền vững và công nhận các mục tiêu này là Khung tổng thể cho Chương trình nghị sự toàn cầu về Phát triển chăn nuôi bền vững; Cam kết đối thoại đa đối tác nhằm thống nhất xây dựng từ địa phương tới toàn cầu, những sáng kiến và mạng lưới hoạt động; Tiếp cận tổng hợp về chăn nuôi bền vững bao gồm sự cân nhắc về sinh kế, tác động xã hội, sức khỏe của con người và phúc lợi của vật nuôi, tác động môi trường, sử dụng và sở hữu đất, và đa dạng sinh học; Xây dựng các công cụ để phối hợp đưa ra các quyết định phản ánh sự đa dạng về hệ thống chăn nuôi và sự khác biệt về điều kiện và tính ưu tiên; Đóng góp cho đổi mới chính sách, phát triển thể chế và đầu tư bền vững cho những thay đổi trong thực hành chăn nuôi; Tiếp tục đánh giá tiến độ định kỳ. 4. Tuyên bố Panama nguyên bản tiếng Anh (xem tài liệu đính …
| Tin mới | admin | 22/08/2016 | | Khám phá ‘công viên’ lợn vùng biên | TP – Nằm cách biên giới Campuchia 6km, với quy mô hơn 50 ha như một công viên cây xanh thu nhỏ, trại Lộc Phát là một trong những trại chăn nuôi lớn, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại nhất hiện nay. Nơi đây được coi là “resort farm” dành cho lợn chứ không còn là một trại chăn nuôi thông thường. Quy trình khép kín Hiếm có trại lợn nào mà cây xanh rợp bóng như trại Lộc Phát. Các hàng cây thẳng tắp được cắt tỉa kỹ càng chạy dài trên những lối đi vào trại. Nói đến trại lợn nhiều người nghĩ ngay đến mùi nồng nặc của lợn, phân, nước thải, nhưng bước vào trại Lộc Phát, chúng tôi chỉ thấy một không gian xanh mướt. Qua quy trình khử trùng, tắm sạch sẽ, thay quần áo chuyên dụng của trại, chúng tôi được kỹ sư Ngô Hồng Kiệt, Trưởng phòng Kỹ thuật dẫn đi tham quan. Theo ông Kiệt, trại Lộc Phát (Công ty CP Chăn nuôi C.P Việt Nam) nằm ở xã Lộc Hòa (Lộc Ninh, Bình Phước) có hai khu trại hoạt động độc lập gồm Lộc Ninh 1 nuôi lợn nái sinh sản (2.400 con) và Lộc Ninh 2 nuôi heo hậu bị (12.000 con). Với tổng diện tích hơn 50 ha đất, nhưng hai khu trại chỉ được xây dựng trên 12ha, còn lại là cây xanh, đường nội bộ. “Các giống lợn ở đây đều là các giống cụ kỵ được nhập từ nước ngoài, có đội ngũ kỹ thuật chọn lọc những cá thể có đặc tính di truyền tốt nhất tạo ra những con heo đực, heo cái tốt nhất cho thị trường và làm giống cho những trang trại khác”, ông Kiệt giới thiệu. Cụ thể, theo ông Kiệt, heo được nhập từ Thái Lan về Việt Nam theo cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh). Cty sẽ cho lai tạo với nhau để cấp giống ông bà, cấp giống bố mẹ cho các trại chăn nuôi trên toàn quốc. Ngoài việc chú trọng về tăng năng suất, tăng khả năng sinh sản thì Cty cũng chú ý đến chất lượng thịt, tạo lượng mỡ ít trong thịt heo… Được biết, với heo sinh sản ở trại Lộc Ninh 1, trước khi được nhập đàn, heo phải ở trại cách ly. Lúc này, heo khoảng 5 – 6 tháng tuổi, trọng lượng mỗi cá thể từ 100 – 150kg. Trong 60 ngày cách ly sẽ tiêm một số vắc – xin trị bệnh truyền nhiễm. Khi cách ly xong sẽ tiến hành phối giống. Heo nuôi con trong vòng 21 ngày sẽ cai sữa, tách heo mẹ và heo con. Heo mẹ được chuyển về khu lái khô, khoảng 5 – 7 ngày sau sẽ được phối giống trở lại. Những con nào không phối lại được sẽ bị loại thải theo hình thức bán thịt. Với heo con cai sữa sẽ được chuyển qua trại Lộc Ninh 2 nuôi trong vòng 22 tuần tuổi. Tại đây, bộ phận giống sẽ lựa chọn những con giống tốt nhất, con nào không đạt tiêu chuẩn về giống sẽ được bán thịt. Nếu đạt tiêu chuẩn giống, heo sẽ được chuyển làm heo cái hậu bị để tiếp tục nhập đàn lại cho trại nái sinh sản. “Đó là quy trình khép kín mà trại Lộc Ninh 1, Lộc Ninh 2 thực hiện”, ông Kiệt nói. Tự động, không có dịch bệnh Do chủ yếu được tự động hóa nên nhân sự cũng ít. Hai trại heo với hàng chục nghìn con nhưng chỉ có vỏn vẹn hơn 60 kỹ sư, công nhân. Theo đó, trại Lộc Ninh 1 có khoảng 35 người, Lộc Ninh 2 có 28 người. “Cty đầu tư hệ thống tự động hóa trong chăn nuôi như hệ thống tự động kiểm soát nhiệt độ, kiểm soát nước tự động và hệ thống cho ăn tự động. Cám được xe chuyên dụng vận chuyển về trại, được lập trình sẵn theo tiêu chuẩn của từng cá thể, từng giai đoạn phát triển của heo. Từ đây, cám sẽ được chuyển tự động tới từng máng ăn, từng chuồng. Lập trình sẵn theo từng giai đoạn phát triển của heo”, TS Kiều Minh Lực, Phó tổng Giám đốc Cty CP Chăn nuôi C.P Việt Nam. “Gần như tận dụng được tất cả mọi thứ, quy trình khép kín, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Vấn đề môi trường và an toàn dịch bệnh được quan tâm đặc biệt nên gọi đây là một công viên lợn cũng không có gì là quá cả”. TS Kiều Minh Lực Hiếm có trại chăn nuôi nào sạch như Lộc Phát vì có hệ thống kiểm soát dịch bệnh 100%. Theo đó, để kiểm soát được bệnh tai xanh, tất cả heo cái hậu bị, nhập đàn lại trại sinh sản đều được lấy máu kiểm tra 100%. Trong quá trình hoạt động, chăn nuôi, định kỳ 4 tháng một lần sẽ lấy máu kiểm tra. Trong trại Lộc Ninh 1, có các khu mang thai, khu nái đẻ quy mô lớn, hoạt động theo nguyên tắc cùng vào, cùng ra một đợt. “Khu mang thai có 4 nhà, mỗi một nhà 540 con. Khu nái đẻ có 6 nhà, mỗi nhà 120 con. Tất cả sẽ cùng vào, cùng ra một đợt. Ở khu mang thai và khu nái đẻ, mỗi cá thể đều có ô riêng biệt, chế độ ăn cũng riêng biệt với từng cá thể”, ông Kiệt nói. Ở trại Lộc Ninh 2 nuôi heo hậu bị theo 2 giai đoạn. Heo con sau khi tách mẹ sẽ chuyển qua cai sữa khoảng 8 tuần. Sau đó, heo sẽ chuyển sang giai đoạn nuôi hậu bị khoảng 12 tuần trước khi được chọn giống và xuất ra bên ngoài. Theo ông Kiệt, khu xuất bán có 2 nhà, một chỗ chuyển heo giống, một chỗ chuyển heo thịt. Mục đích chính là phòng dịch. Các xe từ bên ngoài vào phải dừng ở vị trí quy định. Xe trung chuyển từ trại sẽ mang heo ra vị trí đó để tránh tiếp xúc, cách ly với dịch bệnh từ bên ngoài. Để bảo vệ môi trường và tiết kiệm, trại cũng xây dựng hệ thống biogas. Theo đó, tất cả nước thải của khu tái sinh sản và hậu bị sẽ tập trung về hai túi khí, sau thời gian ủ, nước sẽ ra hồ còn khí sẽ dẫn về nhà máy phát điện. Lượng nước qua 4 hồ sẽ dùng để tưới cây công nghiệp trong khuôn viên như cao su, điều, tiêu. Vấn đề nước ngọt của trại cũng rất khó khăn, nên sau khi xử lý bằng hóa chất, một lượng nước này sẽ được tận dụng lại để vệ sinh chuồng. Trại cũng đầu tư một máy phát điện để tận dụng nguồn khí sinh học tiết kiệm được lượng điện tiêu thụ từ 30 – 35%. Ngoài ra, trại có nuôi cá sấu, khoảng 5.000 con để giải quyết những phụ …
| Tin mới | admin | 18/08/2016 | | Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam kiểm tra công tác đảm bảo ATTP | Ngày 13/8, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã khảo sát một số mô hình sản xuất, cung ứng nông sản, suất ăn tập thể tại huyện Tiên Du và làm việc với lãnh đạo UBND tỉnh Bắc Ninh về công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Thứ trưởng Vũ Văn Tám tham gia cùng đoàn công tác của Phó Thủ tướng. Tại khu trang trại trồng rau của Công ty Hương Việt Sinh (Khu nông nghiệp công nghệ cao xã Việt Đoàn), Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng mô hình liên kết giữa người dân và doanh nghiệp cần tiếp tục được đẩy mạnh, tạo niềm tin để người dân và doanh nghiệp luôn “chung thủy” với nhau, hướng tới phát triển bền vững, không vì lợi nhuận trước mắt. Chia sẻ với Phó Thủ tướng, chị Nguyễn Thị Luyên (thôn Dền, xã Cảnh Hưng) cho biết, gia đình chị có 4 sào ruộng nhưng trước đây phải trồng gối đầu từng sào vì phải tự đi bán, thu nhập khoảng 5 triệu đồng/sào. Sau khi tham gia vào dự án của Công ty Hương Việt Sinh, 4 sào rau của gia đình chị luôn hoạt động hết công suất, cho thu nhập gấp đôi trước kia. Công ty Hương Việt Sinh đã liên kết với hàng chục hộ nông dân để cung cấp nguồn rau, thịt an toàn, chế biến gần 40.000 suất ăn cung cấp cho học sinh 40 trường tiểu học ở Hà Nội và Bắc Ninh. Phó Thủ tướng cùng đoàn công tác cũng đã đến thăm một gia đình chăn nuôi bò sữa, cung cấp nguồn sữa tươi cho Công ty Vinamilk; Chi nhánh Công ty Thuận An, ở xã Bất Lự, huyện Tiên Du, đơn vị cung cấp hơn 1.000 suất ăn cho công nhân 3 nhà máy tại Tiên Du; Công ty đầu tư phát triển gia công gà Dabaco thuộc Công ty cổ phần tập đoàn Dabaco (xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du). Từ thực tiễn hoạt động của Dabaco, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Nguyễn Như So đề xuất với Phó Thủ tướng về việc thành lập quỹ do doanh nghiệp đóng góp nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm; đồng thời tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người sản xuất, người tiêu dùng về vấn đề an toàn thực phẩm; đào tạo, nhân rộng các mô hình, quy trình sản xuất, chế biến thực phẩm sạch. “Doanh nghiệp biết kiểm tra thế nào, xử lý ra sao là hiệu quả, tiết kiệm nhất, đơn vị nào làm ăn nghiêm chỉnh, đơn vị nào không. Vì vậy, khi tham gia vào quỹ này thì chính bản thân doanh nghiệp sẽ giám sát lẫn nhau bên cạnh hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước”, ông So trao đổi. Chiều cùng ngày, làm việc với lãnh đạo UBND tỉnh Bắc Ninh, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh Bắc Ninh gần Thủ đô Hà Nội, tập trung rất nhiều khu công nghiệp, nhiều cơ sở sản xuất bia rượu, nước giải khát, chăn nuôi, chế biến thực phẩm… Tỉnh đã có nghị quyết rất sớm về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và đã triển khai việc này, từ tuyên truyền vận động người dân đến tạo điều kiện về đất đai, cơ chế cho doanh nghiệp triển khai các mô hình chuỗi nông sản sạch… Phó Thủ tướng lưu ý với lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh: Khó nhất là cách thức tuyên truyền, cổ vũ người tốt, mô hình tốt và làm cho dân hiểu, tuân theo quy trình sản xuất an toàn. “Thói quen của bà con là thường rỉ tai nhau về cách canh tác, dùng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón… Đây là điểm cần chú ý trong công tác tuyên truyền, vận động người dân. Bây giờ hiện tượng hai luống rau, một luống để ăn, một luống để bán đã ít đi, chứng tỏ khi chúng ta tuyên truyền đầy đủ, đến nơi đến chốn thì 10 người chắc 9 người sẽ không vì chạy theo lợi nhuận mà trồng rau bẩn, làm hại sức khỏe người khác”, Phó Thủ tướng nói. Về đề xuất lập quỹ an toàn thực phẩm của Công ty Dabaco, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng đây là sáng kiến rất đáng hoan nghênh. Phó Thủ tướng nhấn mạnh: “Trước đây, chúng ta đề cập nhiều đến vai trò của chính quyền địa phương, đoàn thể chính trị, xã hội nhưng chưa chú trọng vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp. Bởi chính các doanh nghiệp cũng mong muốn bên cạnh tuyên truyền, biểu dương những đơn vị làm ăn nghiêm chỉnh, phải phát hiện, xử lý công khai các cơ sở làm ăn gian dối”. Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu về quy định liên quan đến vận hành quỹ, xã hội hóa trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, lấy mẫu kiểm nghiệm thực phẩm…/. Theo …
| Tin mới | admin | 15/08/2016 | | Xuất khẩu lợn sang Trung Quốc: Thị trường tiềm năng nhưng nhiều rủi ro | Trong thời gian vừa qua, việc thương lái Trung Quốc đột ngột dừng thu mua lợn mỡ (lợn có trọng lượng khoảng trên 1 tạ/con) đã khiến giá lợn hơi trong nước giảm mạnh. Thậm chí tình trạng này đã khiến nhiều tiểu thương đứng ngồi không yên khi hàng loạt xe chở lợn bị ách tắc tại cửa khẩu. Cung cấp lợn thương phẩm cho thị trường. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN) Liên quan đến vấn đề này Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) Nguyễn Văn Trọng cho rằng, đối với ngành chăn nuôi nói chung và ngành lợn nói riêng, Trung Quốc là thị trường tiềm năng nhưng vẫn có nhiều rủi ro. Giá lợn “rớt” mạnh Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, giá thu mua lợn hơi tại các tỉnh phía Nam trong tháng 7/2016 nhìn chung diễn biến theo xu hướng giảm. Cụ thể, tại một số địa phương như Vĩnh Long, An Giang, giá đã giảm 500 đồng/kg đến 1.000 đồng/kg so với thời điểm đầu tháng, hiện mức giá dao động từ 42.500 đồng/kg- 44.000 đồng/kg. Tại Đồng Nai, giá lợn hơi bán ra tại các trại hiện cũng chỉ còn 42.000-43.000 đồng/kg, giảm 5.000-6.000 đồng/kg so với mức giá cuối tháng trước. Nếu so với mức giá “đỉnh” vào tháng Tư và đầu tháng 5/2016, giá lợn hơi trên địa bàn Đồng Nai đã giảm đến 12.000-13.000 đồng/kg, tương đương mức giảm hơn 23%. Lý giải vấn đề này, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Văn Trọng cho rằng, nguyên nhân của việc giá “rớt” mạnh là do thời điểm này lượng lợn tồn ở Trung Quốc còn nhiều nên nước này hạn chế nhập. Trong khi đó, Đồng Nai cung cấp hơn 50% sản lượng lợn hơi Việt Nam xuất sang thị trường Trung Quốc nên giá lợn tại đây bị ảnh hưởng ngay. “Như trong năm nay ở thời điểm tháng Ba, tháng Tư vừa qua giá lợn tăng rất cao. Do thời điểm này nhu cầu phía Trung Quốc tăng lên rất nhiều, trong khi nguồn cung trong nước của họ sản xuất vẫn đang thiếu nên họ nhập lợn vào ồ ạt với giá tốt nên dân mình đổ xô mua giống nhân đàn. Tuy nhiên, khi thị trường của họ đã bão hòa thì họ lập tức không nhập nữa, khiến người chăn nuôi trong nước hết sức bị động,” ông Trọng lý giải. Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Nguyễn Văn Trọng cho biết, xuất khẩu lợn sang Trung Quốc hiện nay vẫn bằng con đường tiểu ngạch. (Ảnh: PV/Vietnam+) Mặt khác, theo ông Trọng, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu lợn sang Trung Quốc bằng con đường tiểu ngạch. “Mà tiểu ngạch thì hoàn toàn bị động chính vì vậy nó có những rủi ro khi người ta tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ,” ông Trọng phân tích thêm. Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hiệp hội chăn nuôi Việt Nam Nguyễn Đăng Vang, mặc dù giá lợn hơi ở thời điểm này giảm mạnh, song người nuôi hiện vẫn có lãi. Bởi giá thành sản xuất hiện khoảng 39.000-42.000 đồng/kg trong khi giá bán hiện tại cỡ khoảng 45.000-49.000 đồng/kg. Vừa là rủi ro, vừa là cơ hội Ông Trọng cho biết, hiện tại nước ta vẫn xuất khẩu thịt lợn bằng con đường tiểu ngạch sang Trung Quốc. Vấn đề này vừa là rủi ro nhưng cũng vừa là cơ hội. Bởi thị trường Trung Quốc được đánh giá là một trong những thị trường “dễ tính” không có những yêu cầu khắt khe về chất lượng. “Tuy nhiên, hiện tiêu chuẩn nhập vào thị trường Trung Quốc, thì người dân Trung Quốc chỉ nhập những con lợn có kích cỡ lớn hơn cỡ trên 1 tạ/con do nhu cầu Trung Quốc sử dụng là thịt nhiều mỡ. Cho nên trên cơ sở đó, nếu xuất khẩu sang Trung Quốc có phần dừng lại thì lợn trong nước trên 1 tạ/con bao giờ cũng có giá hạ hơn. Đó là cái rủi ro rất lớn cho người sản xuất,” ông Trọng chỉ rõ. Ông Trọng cũng cho rằng, để có kế hoạch cho sản xuất thì xuất-nhập khẩu chính ngạch bao giờ cũng tốt hơn. Song nhập khẩu chính ngạch không thể đơn phương mình thực hiện được mà mình phải có thỏa thuận hai bên. Khi xuất-nhập khẩu chính ngạch thì phải có những thủ tục hành chính và chất lượng sản phẩm cũng phải đáp ứng những tiêu chuẩn của nước nhập hoặc tiêu chuẩn vùng. “Trong thời điểm hiện tại những sản phẩm của mình và những sản phẩm của Trung Quốc vẫn có những hạn chế về an toàn thực phẩm cho nên có cái khó khi xuất khẩu bằng đường chính ngạch. Nhưng nếu xuất khẩu bằng con đường chính ngạch thì nó chắc chắn hơn và có kế hoạch hơn và không rơi vào tình trạng cung cầu mất cân đối,” ông Trọng nhấn mạnh. Mặc dù có những rủi ro cao, song Chủ tịch Hiệp hội chăn nuôi Việt Nam vẫn đánh giá Trung Quốc là một thị trường có giá cao và có tiềm năng của ngành chăn nuôi của Việt Nam. “Hiện tại ở Trung Quốc giá lợn hơi khoảng 66.000-68.000 đồng/kg, nếu mình sản xuất vừa phải và có kế hoạch thì chắc chắn vẫn có thể xuất với giá tốt,” Chủ tịch Nguyễn Đăng Vang cho hay. Chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học Trong câu chuyện thu mua lợn mỡ này, ông Trọng cũng đánh giá, phía Trung Quốc không chủ động mua mà chỉ mua khi nhu cầu thiếu, không có kế hoạch trước. Việc thu mua cũng hoàn toàn thông qua các thương lái Việt Nam và thương lái Trung Quốc. Nuôi lợn thịt sử dụng thức ăn bổ sung men vi sinh ở Vĩnh Phúc. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN) “Do đó, người chăn nuôi cần lưu ý, để tránh rủi ro không nên ồ ạt thay thế đàn ở thời điểm giá cao, ngược lại cũng không nên bỏ đàn tại thời điểm giá xuống. Khi đã xác định chăn nuôi là nghề thì phải đảm bảo sự ổn định, đều đặn mới đem lại lợi nhuận,” ông Trọng khuyến cáo. Đồng quan điểm, ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cũng cho rằng, đối với sản xuất thì thị trường là một trong những yếu tố quan trọng nhất. “Chúng ta có thị trường tốt, có sản xuất tốt thì sẽ phát triển ổn định,” ông Dương nói. Theo ông Dương, về lâu dài, để đảm bảo sự phát triển ổn định, người chăn nuôi nên tiến hành chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành 8 VietGAP mới cho trang trại và 2 VietGAP mới cho nông hộ. Những VietGAP này được xây dựng đơn giản hơn nhiều so với trước, giảm khoảng 30 chỉ tiêu nhưng vẫn đảm bảo an toàn và đảm bảo phù hợp với vùng. Bên cạnh đó, người nuôi cần tăng cường sử dụng giống vật nuôi bản địa có chất lượng cao để cạnh tranh được với thị trường quốc …
| Tin mới | admin | 12/08/2016 | | Thông tư số 29/2016/TT-BNNPTNT ngày 05/8/2016 Quy định tiêu chuẩn đối với nhân viên thú y xã, phường, thị trấn | …
| Thông tư | admin | 10/08/2016 | | Quyết định số 34/2016/QĐ-UBND ngày 03/8/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre Ban hành quy định chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ trên địa bàn bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016-2020 | …
| Quyết định | admin | 10/08/2016 | | 7 tháng năm 2016 giá trị xuất khẩu nông sản đạt 17,8 tỷ USD, tăng 5,1% | Mặc dù, giá trị xuất khẩu nông sản 7 tháng năm 2016 đạt 17,8 tỷ USD, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2015, nhưng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: gạo, thủy sản, cà phê… lại đang có những tồn tại riêng, ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu bền vững. Nhu cầu suy giảm, tăng rào cản Chiều 9/8, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức cuộc họp đánh giá lại tình hình xuất khẩu nông, lâm thủy sản của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2016 và đề ra các giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong những tháng cuối năm. Theo đánh giá chung của Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT), 6 tháng đầu năm 2016 kinh tế thế giới phục hồi chậm, nhìn chung giá các mặt hàng nông sản ở mức thấp hơn so với năm 2015. Bên cạnh đó, tình hình hạn hán, xâm nhập mặn nặng nề dẫn tới tăng trưởng âm của ngành nông nghiệp. Về thị trường gạo, có xu hướng giảm giá từ tháng 5/2016 cho tới nay, nguyên nhân là do Việt Nam chưa có các hợp đồng lớn từ các thị trường truyền thống như: Philippines, Indonesia… Bên cạnh đó, Trung Quốc tiếp tục quản lý chặt việc xuất khẩu gạo qua đường tiểu ngạch. “Những năm trước, xuất khẩu gạo tiểu ngạch qua Trung Quốc rất lớn nhưng năm nay rất khó khăn, vì chính sách nhập khẩu của Trung Quốc có sự thay đổi lớn, họ chuyển hướng sang nhập gạo từ Campuchia, Thái Lan, Myanmar….”, bà Bùi Thị Thanh Tâm, Tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực Miền Bắc cho biết. “Còn tại thị trường châu Phi, Thái Lan có nguồn cung gạo từ phẩm cấp thấp tới cấp cao, hơn nữa chi phí vận chuyển lại rẻ hơn Việt Nam. Bên cạnh đó, xuất khẩu sang châu Phi có nhiều rủi ro nên các doanh nghiệp Việt Nam cũng còn e ngại”, bà Tâm nói thêm. “Bộ sẽ lắng nghe ý kiến của tất cả các hiệp hội ngành hàng, kịp thời đề xuất tới các bộ, ngành liên quan để nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn, tín dụng, thuế… cho ngành, cho các doanh nghiệp, hiệp hội. Bên cạnh đó, bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo các địa phương tập trung sản xuất, đối phó lại các ảnh hưởng từ bão lụt, hạn hán, xâm nhập mặn để đáp ứng đủ nguồn cung cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu”. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam Do không kiểm soát được chất lượng nên xuất khẩu nông sản của Việt Nam ở một số thị trường suy giảm mạnh. “Từ năm 2013 tới nay, chúng ta không xuất khẩu được gạo sang Nhật Bản. Năm 2014 xuất sang Mỹ được 70.000 tấn gạo chất lượng cao, Thái Lan bán được 400.000 tấn. Tuy nhiên, đến năm 2015, Thái Lan bán được trên 400.000 tấn thì Việt Nam chỉ xuất được 44.000 tấn. Xuất sang EU thì giảm dần từ 24.000 tấn xuống còn 20.000 tấn năm 2014; 18.000 tấn năm 2015 và sẽ giảm nữa”, ông Huỳnh Thế Năng, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết. Ông Huỳnh Thế Năng, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết: “Theo Chương trình giám sát theo Nghị định thư về gạo và cám của Trung Quốc. Chưa có công ty khử trùng, giám định gạo nào của Việt Nam được phía Trung Quốc công nhận, khiến việc xuất khẩu gạo gặp nhiều khó khăn. Họ sẽ cử các chuyên gia sang làm việc với Việt Nam về vấn đề này trong tháng 11/2016”. Về lĩnh vực thủy sản, xuất khẩu cá tra đang gặp nhiều khó khăn do công dự báo thị trường kém, dẫn đến nguồn cung cá tra dư thừa, khiến giá giảm mạnh từ mức 23.000 đồng/kg xuống còn 16.000 – 17.000 đồng/kg, nhiều nông dân điêu đứng. Ông Trương Đình Hòe – Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP): “Khi giá lên, người nuôi đổ xô thả cá giống, nhưng vì tăng nuôi ồ ạt nên cung vượt xa cầu, giá giảm mạnh. Trong khi đó, thị trường Trung Quốc yêu cầu có giấy chứng nhận chất lượng của Việt Nam cấp, vì vậy nhiều thương lái không mua được nữa. Nhu cầu từ châu Âu cũng giảm vì các nhà nhập khẩu đã mua cá từ lúc giá cao nên chưa thể bán được”. Một vấn đề khác được khá nhiều hiệp hội kiến nghị, đó là xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam vẫn chủ yếu là xuất thô, tỉ lệ chế biến rất hạn chế. “Hiện vẫn có tới 95% cà phê Việt Nam xuất thô với giá 2 USD/kg. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI xuất khẩu cà phê chế biến tới 10 USD/kg. Các công ty có thương hiệu như: Trung Nguyên, Vinacafe, Mê Trang… rất ít. Còn những DN sản xuất cà phê chất lượng kém, cà phê “bẩn” thì mở ra rất nhiều, không quản lý được”, ông Nguyễn Nam Hải, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê cho biết. Bên cạnh đó, mặt hàng tôm của Việt Nam cũng chưa thâm nhập được vào thị trường Australia vì họ chưa công nhận Việt Nam là quốc gia sạch bệnh. Hàn Quốc cũng không nhập sắn lát của Việt Nam vì nghi nhiễm chì. Theo các chuyên gia, nguyên nhân của tình trạng trên là do Việt Nam chưa quản lý được thị trường thuốc bảo vệ thực vật với khoảng 30.000 đại lý, cửa hàng trên cả nước. Khơi thông thị trường xuất khẩu Để gỡ khó trong việc xuất khẩu gạo, bà Bùi Thị Thanh Tâm cho rằng: “Rất cần có sự can thiệp của Chính phủ để ký các hợp đồng xuất khẩu đối với mặt hàng gạo. Đề nghị Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương đề xuất lên Chính phủ về vấn đề này. Ngoài ra, cần tháo gỡ những rào cản kỹ thuật, thuế quan tại các thị trường Mexico, Mỹ… Đồng thời giảm thuế VAT cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để họ xây dựng thương hiệu”. Ông Huỳnh Thế Năng, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam kiến nghị: “Đề nghị Bộ NN&PTNT giúp đỡ kinh phí để các chuyên gia Trung Quốc sang Việt Nam kiểm tra, công nhận cho các công ty Việt Nam có đủ tiềm lực xuất khẩu sang Trung Quốc, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp”. Về xuất khẩu thủy sản, VASEP đề nghị Bộ NN&PTNT nhanh chóng thống kê chính xác về sản lượng cá tra thực tế để có cơ sở đánh giá. “Kiến nghị từ nay tới cuối năm có thống kê dữ liệu quốc gia về cá tra, trên cơ sở cân đối cung cầu xuất khẩu. Đồng thời áp dụng quy chuẩn Việt Nam về chất lượng cá tra, nhanh chóng ổn định chất lượng cá tra với thị trường EU mới giúp tăng trưởng xuất khẩu”, ông Trương Đình Hòe – Tổng Thư ký VASEP nói. Ngoài ra, ông Hòe cho rằng cần xử lý vấn đề khủng hoảng truyền thông. Thông tin cá chết ở 4 tỉnh miền Trung đã ảnh hưởng tới xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đánh đồng các loại thủy sản của Việt Nam có chất lượng không tốt. Cần có chiến lược truyền thông cấp Quốc gia cho thủy sản. Để tăng cường xúc tiến thương mại, ông Lê Văn Bảnh, Cục trưởng Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối cho biết: “Bộ sẽ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài liên kết để tăng cường xuất khẩu. Đặc biệt là tìm đầu ra cho thị trường gạo tại các nước như: Indonesia, Philippines, thị trường châu Phi. Tập trung xây dựng thương hiệu gạo, dự kiến tới tháng 11 năm nay sẽ hoàn thiện bộ tiêu chuẩn chất lượng gạo, đầu năm 2017 sẽ thi thiết kế logo thương hiệu gạo Quốc gia. Với thủy sản, tháng 11/2016 sẽ cử đoàn sang Mỹ để tháo gỡ các kỹ thuật liên quan tới xuất khẩu cá tra, chè…”. Ông Nguyễn Quang Sơn, Trưởng phòng Hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại , Cục giám sát quản lý, Tổng Cục Hải quan: Đối phó với thương lái Nhóm hàng nông sản xuất khẩu luôn luôn được ưu tiên số một nhưng Trung Quốc đang quản lý biên mậu rất chặt. Ngoài ra, thương lái Trung Quốc có sự đoàn kết cao, ví dụ đến mùa vải, họ thống nhất mức giá 3 nhân dân tệ/kg, khiến người dân tranh bán, đưa vải lên cửa khẩu rất nhiều. Sau đó, họ đồng loạt giảm xuống 2 nhân dân tệ/kg, dùng lực lượng kiểm dịch, kiểm soát rất chặt, khiến vải phải xếp hàng dài, hỏng nhiều. Đến khi chúng ta không kiên nhẫn được nữa, giảm giá xuống 1 nhân dân tệ/kg thì họ mới mua. Tình trạng này không chỉ diễn ra với vải mà áp dụng cho tất cả các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Chúng ta cũng gặp rất nhiều nhưng chưa rút được kinh nghiệm. Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Dương Phương Thảo: Tăng cường chất lượng Thị trường Trung Quốc chiếm 28,5% tổng lượng xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam, tuy nhiên thống kê này vẫn chưa đầy đủ vì lượng xuất tiểu ngạch rất lớn. Chúng tôi đã cử đoàn sang làm việc với Trung Quốc, họ ghi nhận và hứa tạo điều kiện tối đa cho hàng nông sản Việt Nam. Nhưng thông điệp của họ là sẽ siết chặt hoạt động xuất tiểu ngạch để chống buôn lậu, đồng thời họ sẽ tăng cường giám sát chất lượng, kiểm soát đầu mối được phép nhập vào Trung Quốc, giám sát nhà máy chế biến, sản xuất. Do vậy, cần cải thiện chất lượng nông, lâm, thủy sản. Hơn nữa, từ năm 2014, Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT đã ký hợp tác để tăng cường xuất khẩu nhưng việc hợp tác này vẫn chỉ ở trên “giấy”. Do vậy, cần xây dựng các chương trình hợp tác cụ thể về xúc tiến thương mại. Theo Hữu Vinh …
| Tin mới | admin | 10/08/2016 | | Danh sách các đơn vị được Cục Chăn nuôi chỉ định cơ sở đào tạo, tập huấn về kỹ thuật phối giống nhân tạo cho trâu, bò | STT Tên đơn vị Địa chỉ liên hệ Điện thoại Số Quyết định 1 Xí nghiệp truyền giống gia súc và phát triển chăn nuôi miền Nam 42/18 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường 1, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh – 08.38944438- Fax: 08.39855707 810/ QĐ-CN-GSL ngày 02/11/2015 2 Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi gia súc lớn Xã Lai Hưng, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương – 0650.3564220- Fax: 0650.3564465 811/QĐ-CN-GSL ngày 02/11/2015 3 Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên Tổ 35, phường Phan Đình Phùng, Thành phố Thái Nguyên, Tỉnh Thái Nguyên – 0280 3851 107 809/ QĐ-CN-GSL ngày 02/11/2015 4 Trung tâm Giống gia súc lớn Trung ương Số 6 Nguyễn Công Trứ, Hà Nội – 04.39718853 487/QĐ-CN-GSL ngày 08/7/2015 5 Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì Xã Tả Lĩnh, Ba Vì, Hà Nội – 04.33881040- Fax: 04.33881404 486/QĐ-CN-GSL ngày 08/7/2015 6 Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền Núi Bình Sơn, Sông Công, Thái Nguyên – 0280.3862378 485/QĐ-CN-GSL ngày 08/7/2015 7 Công ty Cổ phần giống gia súc Thanh Ninh Phường Bắc Sơn, Bỉm Sơn, Thanh Hóa – 037.3763105 484/QĐ-CN-GSL ngày 08/7/2015 8 Trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật chăn nuôi Thanh Hóa Số 6- Hạc thành- Tân Sơn-, Thành phố Thanh Hóa, Thanh Hóa – 0373.713.036 483/QĐ-CN-GSL ngày 08/7/2015 9 Trung tâm Nghiên cứu Thích ứng biến đổi khí hậu và hỗ trợ phát triển cộng đồng – Trường Đại học Trà Vinh Số 105, Kiên Thị Nhẫn, Phường 7, Thành phố Trà Vinh, Trà Vinh 074.3.862.357 327/QĐ-CN-GSL ngày 30/5/2015 10 Trung tâm giống vật nuôi Bình Định 91/1 – Nguyễn Thái Học, TP Qui Nhơn, tỉnh Bình Định 056.3525061– 056. 3525139 252/QĐ-CN-GSL ngày 19/4/2016 11 Trung tâm Giống Nông – Lâm nghiệp Quảng Nam QL1A, Tam An, Phú Ninh, Quảng Nam 0510 3869 550 253/QĐ-CN-GSL ngày 19/4/2015 12 Trung tâm giống cây trồng và gia súc Phó Bảng Thị trấn Phó Bảng, Huyện Đồng Văn, Hà Giang Điện thoại: 02193859519 – Fax: 02193859520 624/QĐ-CN-GSL ngày 31/8/2016 13 Trung tâm Giống và kỹ thuật vật nuôi tỉnh Phú Yên Đường Trần Hào – Phường 9 – Tp. Tuy Hòa – Phú Yên Điện thoại liên hệ: 057.3848503 – 3848509 – 3848506 – Fax: 057. 3848507 623/QĐ-CN-GSL ngày …
| Cơ sở đào tạo, tập huấn về kỹ thuật phối giống nhân tạo cho trâu, bò | admin | 08/08/2016 | | Chương trình sữa học đường quốc gia:Động lực từ cơ chế xã hội hóa | Chương trình sữa học đường quốc gia:Động lực từ cơ chế xã hội …
| Tin mới | admin | 08/08/2016 | | Vì sao ngành nông nghiệp Úc lại phát triển thành công đến thế? | Nước Úc được nhìn nhận là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia thịnh vượng nhất trên thế giới, với nền kinh tế lớn đứng thứ 12 trên toàn thế giới. Vào năm 2012, thu nhập bình quân đầu người của Úc đứng thứ năm thế giới. Nước Úc được thành lập vào ngày 01/01/1901 với tên đầy đủ tiếng Anh là Commonwealth of Australia, có nghĩa là khối thịnh vượng chung Úc. Ngay từ khi thành lập, Úc duy trì một hệ thống chính trị dân chủ tự do ổn định, bao gồm sáu bang và một số lãnh thổ với tổng dân số vào khoảng 23,1 triệu người. Với lịch sử non trẻ chỉ hơn 100 năm, với hơn 100 dân tộc đa văn hóa, nước Úc giờ đã trở thành một đất nước giàu mạnh, xây dựng được một nơi có đời sống tốt nhất thế giới, xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng kể cả dịch vụ giáo dục. Với mục tiêu ban đầu là tự đảm bảo nguồn lương thực cho người dân Úc, Chính phủ đã thực sự đầu tư vào việc phát triển ngành nông nghiệp Úc cho dù diện tích đất có thể canh tác được của Úc chỉ chiếm 1% tổng diện tích lục địa Úc (tổng diện tích Úc là 768 triệu héc ta) do chỉ có vùng ven biển là có lượng mưa tương đối tốt. Hiện nước Úc có 18 triệu héc ta trồng trọt và 28 triệu héc ta đồng cỏ trong đó chỉ có 4 triệu héc ta là thực sự có lượng nước đầy đủ Lực lượng lao động chính thức trong lĩnh vực nông nghiệp của Úc là 400.000 người, chiếm 4% lực lượng lao động của toàn nước Úc (vào khoảng 10 triệu người) nhưng nước Úc có chỉ số tự cung cao nhất thế giới (nông nghiệp Mỹ có kim ngạch xuất khẩu nông sản đứng đầu thế giới nhưng chỉ số tự cung tự cấp lại thấp hơn Úc), cụ thể là tính trung bình một nông dân Úc có thể nuôi 190 người. Sản phẩm nông nghiệp chính của Úc là lúa mì, lúa mạch, mía, hoa quả, gia súc, cừu, gia cầm. “Nền nông nghiệp Úc cung cấp nông sản đầy đủ cho thị trường nội địa và xuất khẩu 80% tổng sản lượng, thu nhập của mỗi người nông dân Úc lên đến 100.000 USD/ năm, cao hơn so với GDP bình quân đầu người của Úc (60.000 USD/năm)” Chính sách đầu tư nghiên cứu vào công nghệ và quy trình Úc là một quốc gia có đất rộng người thưa, ít mưa, tình trạng khô hạn xảy ra thường xuyên, Úc không có một ngành nghề nào gọi là truyền thống, kể cả nông nghiệp – vốn là ngành nghề cổ xưa nhất của loài người. Cho nên có thể nói tất cả các cây, con và công nghệ sản xuất hiện đang sử dụng trong nông nghiệp Úc hiện nay đều có nguồn gốc nhập khẩu. Chính vì vậy, để phát huy tối đa hiệu quả của việc nhập khẩu trong việc phát triển nông nghiệp, Chính phủ Úc đã cho xây dựng các Trung tâm nghiên cứu để nhập khẩu giống và công nghệ, kiểm chứng, ứng dụng đại trà và thực hiện tiếp thu công nghệ. Để hỗ trợ hoạt động của các trung tâm này, Chính phủ Úc đã thành lập Hội đồng Nghiên cứu Úc nhằm xây dựng chiến lược và cung cấp kinh phí cho các công trình nghiên cứu khoa học. Hội đồng này đưa ra danh sách những hạng mục ưu tiên có lợi cho quốc gia và đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải lập dự án theo sát danh sách ưu tiên này nếu muốn nhận được tiền tài trợ cho việc nghiên cứu. Đặc biệt hơn, đối với những lĩnh vực mà chính phủ xác định là thực sự cấp thiết đến sự phát triển của nền nông nghiệp, Chính phủ Úc thành lập các Trung tâm chuyên ngành hay còn gọi là Trung tâm ưu tú (Centre of Excellence) để nghiên cứu, cải thiện, ứng dụng và chuyển giao từ kiến thức công nghệ cho nông dân. Bộ Nông nghiệp Úc đã xây dựng 11 Trung tâm như vậy đều khắp trong bang, mỗi Trung tâm phụ trách một ngành hàng nông nghiệp đặc biệt trên một vùng sinh thái thích hợp để giải quyết dứt điểm những khó khăn của vùng đó. Ví dụ như vùng lục địa Narrabri miền tây bắc Úc có khí hậu khô, nóng nên có Trung tâm chuyên về ngành bông vải và cải dầu, vùng miền bắc gần duyên hải vùng Armidale có khí hậu khô nhưng mát mẻ nên có trung tâm về ngành bò thịt, vùng miền trung duyên hải Gosford có khí hậu ôn hoà, gần Sydney nên có Trung tâm Tiếp thị và ngành Làm vườn nhà kính, vùng lục địa Yanco phía tây nam có khí hậu khô, nóng, nhiều ánh sáng nên có Trung tâm Lúa gạo và tưới tiêu. Việc vận hành các trung tâm này đã giúp Bộ Nông nghiệp Úc giải quyết kịp thời các vấn đề theo từng loại nông sản. Các quy trình sản xuất tốt nhất trên thế giới được nhập vào Úc qua các trung tâm này, ví dụ như Quy trình chăm sóc rau quả tươi sạch dành cho việc sản xuất rau quả (được gọi là Fresh care), Quy trình sản xuất thịt tươi sống (được gọi là Cattle Care), Quy trình sản xuất ngũ cốc (được gọi là Grain Care), qua đó, Úc đã có được thương hiệu về an toàn vệ sinh thực phẩm, gia tăng sức cạnh tranh cho xuất khẩu. Theo như số liệu của Cục Kinh tế, khoa học nông nghiệp và nguồn lợi Úc (Abarres), giá trị sản lượng nông nghiệp Úc đạt 43 tỷ đô la Mỹ, tương đương với 3% GDP vào năm 2013. Riêng về sản lượng lúa của bang New South Wales (là bang sản xuất 99% sản lượng lúa của Úc) từ tháng 04/2014 đến tháng 03/2015 đạt 894.000 tấn trên diện tích gieo cấy 90.000 héc ta, tương đương với năng suất là 9,89 tấn/héc ta (năng suất lúa của toàn Việt Nam đạt 6,6 tấn/héc ta vào năm 2014). Chính sách đầu tư vào người nông dân Nền nông nghiệp Úc được quản lý dưới hình thức nông trại, với khoảng 130.000 nông trại trên diện tích 46 triệu héc ta, trung bình một nông trại có diện tích 354 héc ta. Chính sách của chính phủ Úc là xây dựng một nền nông nghiệp vì nông dân, vậy nên Chính phủ giảm tối đã những điều luật, quy định bắt buộc đối với nông dân như các quy định về thuế hay hải quan, đồng thời đưa ra những chính sách hữu hiệu giúp đỡ nông dân ổn định trong sản xuất, tránh hiện tượng bỏ đất lên các thành phố lớn, đồng thời nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh. Vào năm 1997, Úc thực hiện chương trình “Một nền nông nghiệp Úc tiên tiến” và hướng đến xuất khẩu với mục đích nâng cao thu nhập cho nông dân và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế cho nông dân. Đặc điểm nội bật của chương trình này như sau: Hỗ trợ tài chính cho nông dân trong các chương trình giáo dục và đào tạo về kỹ năng quản lý tài nguyên thiên nhiên; Hỗ trợ nông dân thay đổi ngành nghề cho hợp với thay đổi trong thực tế; Hỗ trợ nông dân nâng cao kỹ năng về quản lý tài chính; Tư vấn cho nông dân tình hình tài chính trong và ngoài nước; Hỗ trợ tài chính cho nông dân về các dịch vụ tư vấn của chuyên gia, cũng như tổ chức các lớp tập huấn để nâng cao năng lực phát triển kỹ năng; Cung cấp thông tin giúp nông dân nắm vững biến động thị trường trong và ngoài nước. Vào năm 2004, Chính phủ Úc đã thành lập một nhóm tư vấn xây dựng định hướng và chiến lược cho ngành nông nghiệp và thực phẩm, theo đó Chính phủ điều chỉnh các chính sách và đưa ra các giải pháp về: Nâng cao khả năng đáp ứng của nông dân trước các yêu cầu mới của thị trường và chuỗi cung ứng; Giúp nông dân nâng cao năng lực cạnh tranh; Hỗ trợ nông dân về kỹ năng quản lý tài nguyên thiên nhiên; Bảo đảm môi trường kinh doanh tốt nhất, thông thoáng nhất để các doanh nghiệp tự do hoạt động, tăng mạnh sức cạnh tranh. Xét về mặt bằng chung, nông dân Úc có trình độ giáo dục cao, khoảng 31% có bằng đại học hoặc cao đẳng (trung bình toàn quốc 52%). Các chính sách đầu tư vào nông dân Úc có thể tóm lại theo ba mục chính, đó là: Nông dân Úc là chủ thể của nền nông nghiệp Úc, thể hiện trên thực tế đối với các chính sách này là việc một hộ nông dân Úc được cấp giấy phép sở hữu diện tích đất rất lớn chứ không phải được thuê lại đất của Nhà nước và Nhà nước sẽ xem xét lại tình trạng cho thuê đất sau một thời gian. Nông dân Úc sản xuất theo chuỗi giá trị và phân phối theo chuỗi cung ứng, thể hiện ở điểm các mặt hàng nông nghiệp Úc được đóng gói bao bì đầy đủ với nhãn hiệu “made in Australia” có mặt trên toàn thế giới. Nông dân Úc áp dụng hiệu quả các công nghệ hiện đại bao gồm các máy móc và kỹ thuật công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp. Tại các cánh đồng rộng ngút tầm mắt, những mày cày, máy hái không cần người lái được sử dụng rộng rãi. Đồng thời, nông dân Úc biết cách dùng hệ thống vệ tinh để định vị đường cày cho máy cày qua các thiết bị điện toán tính toán chính xác. Nói tóm lại, với các chính sách hữu hiệu của Chính phủ, Úc đã thành công không chỉ trong vấn đề tự cung tự cấp nguồn lương thực cho người dân trong nước mà còn xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang các nước trên toàn thế giới, nổi bật nhất là các sản phẩm gồm thịt bò, ngũ cốc, hoa quả, sữa và các sản phẩm thuộc sữa, rượu nho, lông cừu, bông vải, đường. Tác giả bài viết: Sưu tầm Nguồn tin: Theo Nhật …
| Tin mới | admin | 04/08/2016 | | Giảm mạnh Salbultamol trong chăn nuôi | Nếu tháng 1/2016 theo giám sát sử dụng Salbultamol trên cả nước có 9,8% các mẫu phát hiện chất cấm này trong sản phẩm chăn nuôi thì đến tháng 6, số liệu Bộ NN&PTNT chỉ ra chỉ còn tỷ lệ 0,2%. Ông Phạm Văn Đông, Cục trưởng Cục Thú y cho biết, việc sử dụng chất cấm thời gian vừa qua đã giảm rất rõ rệt: Tháng 5/2016 chỉ còn 1,31% (14/1.063 mẫu – Hà Nội 7 mẫu, Hải Phòng 5 mẫu, Bình Dương 2 mẫu); Đến tháng 6, đối với chất Salbutamol chỉ phát hiện có 2 mẫu ở Bình Dương trên tổng số 985 mẫu, như vậy chỉ còn 0,2%, giảm tới 9,6% so với tháng 1/2016; thịt cũng không phát hiện mẫu nào. “Chúng ta đã tập trung “đánh” chất cấm rất quyết liệt và có hiệu quả, nhất là sau khi Bộ trưởng có quyết định tiêu hủy lợn có chất cấm” – ông Phạm Văn Đông khẳng định. Qua 3 tháng thực hiện (từ tháng 4 đến tháng 6/2016), phong trào ký cam kết không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi đã triển khai tại 55/63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Thống kê từ các địa phương cho thấy, trong 285.878 hộ đã ký cam kết có 276.065 hộ chăn nuôi, chiếm 96,6% và 9.813 hộ thuộc đối tượng khác có liên quan (hộ kinh doanh thức ăn chăn nuôi, hộ kinh doanh thuốc thú y và giết mổ gia súc, gia cầm), chiếm 3,4%. Vùng có số lượng hộ ký cam kết nhiều nhất là đồng bằng sông Hồng có 181.505 hộ, chiếm 63,5% tổng số hộ đã ký của cả nước, tiếp đến là Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 54.835 hộ, chiếm 19,2%; Trung du và miền núi phía Bắc có 20.175 hộ, chiếm 7,1%; đồng bằng sông Cửu Long có 16.023 hộ, chiếm 5,6%; Đông Nam bộ có 10.023, chiếm 3,8%; Tây Nguyên 2.562 hộ, chiếm 0,9%. “Trong việc triển khai cam kết không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, nhiều tỉnh đã có sự sáng tạo. Bên cạnh tuyên truyền để người chăn nuôi tham gia ký cam kết, đã đồng thời vận động các đối tượng khác có liên quan cùng tham gia (hộ kinh doanh thức ăn chăn nuôi, hộ kinh doanh thuốc thú y và giết mổ gia súc, gia cầm). Qua đó đã mang lại niềm tin cho người tiêu dùng đối với sản phẩm chăn nuôi tại địa phương” – ông Hoàng Thanh Vân, Cục trưởng Cục Chăn nuôi khẳng định. Nằm trong khuôn khổ “Chương trình 100.000 hộ chăn nuôi cam kết không sử dụng chất cấm” do Cục Chăn nuôi, Hiệp Chăn nuôi Việt Nam và Tập đoàn Masan (cụ thể là Công ty Anco và Công ty Proconco), đến nay đã thực hiện ký cam kết không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi tại 19 tỉnh với 55.546 hộ đã đăng ký. Theo ông Hoàng Thanh Vân, trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì việc tuyên truyền các hộ đã tham gia ký cam kết không sử dụng chất cấm thực hiện tốt các nội dung đã cam kết, đồng thời thực hiện các giải pháp giám sát xã hội để đảm bảo việc ký cam kết không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi có hiệu quả thiết thực và bền vững. …
| Tin mới | admin | 04/08/2016 | | Quyết định số 2111/QĐ-UBND ngày 25 tháng 7 năm 2016 của UBND An Giang phê duyệt đơn giá hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ theo Quyết định 50/2014/QĐ-TTg | …
| Quyết định | admin | 04/08/2016 | | Thông báo số 6439/TB-BNN-VP ngày 01/08/2016 Ý kiến kết luận của thứ trưởng Vũ Văn Tám tại Hội nghị Sơ kết công tác cải cách hành chính 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2016. | …
| Thông báo | admin | 03/08/2016 | | Chính sách trợ cấp mới của cộng đồng châu âu cho chăn nuôi bò sữa | 1. Thông tin chung Ngày 18/7/2016, EU đã phê duyệt gói hỗ trợ mới trị giá 500 triệu Euro cho những người nông dân vẫn đang chịu ảnh hưởng của khủng khoảng giá. Gói trợ cấp này cũng tương tự như gói hỗ trợ năm 2015 khi vẫn gồm 150 triệu Euro cho việc giảm sản lượng sữa trên cơ sở tự nguyện. 350 triệu Euro còn lại sẽ phân bổ cho các quốc gia thành viên (28 quốc gia) để bổ sung cho ngân sách thành viên. Gói hỗ trợ này gồm 7 điểm trong đó bao gồm các biện pháp phát triển thị trường cho sản phẩm sữa và các thị trường đầu ra cho hoa quả và rau. 2. Nội dung của gói hỗ trợ 7 điểm cho nông nghiệp 3.1. Kế hoạch giảm sản lượng sữa: 150 triệu Euro sẽ được dùng để hỗ trợ giảm sản lượng sữa đầu vào. Kế hoạch này sẽ vận hành theo cơ chế của EU để người nông dân ở khắp EU có thể tiếp cận nguồn vốn này với cùng một điều kiện như nhau. 3.2. Điều chỉnh về điều kiện: 350 triệu Euro sẽ được sử dụng để thực thi các biện pháp ở các quốc gia thành viên (xem chi tiết phân bổ ở Bảng 1). Quốc gia thành viên có thể được tăng hỗ trợ đến 100%. 3.3. Hỗ trợ cặp tình nguyện: Các quốc gia thành viên dựa vào khả năng đánh giá Sự hỗ trợ theo cặp tình nguyện cho ngành hàng sữa để đảm bảo rằng việc chi trả được thực hiện không theo từng cặp vào năm 2017. 3.4. Việc mở rộng sự can thiệp của khu vực công vào sản phẩm sữa gày diễn ra vào 30/9: Việc sự can thiệp của khu vực công vào sản phẩm sữa gày sẽ mở kéo dài đến cuối tháng 2/2017 khi giai đoạn tiêu chuẩn được tái khởi động. Trần của sản phẩm sữa bột gày được cố định giá ở mức tổng sản lượng là 350.000 tấn đến tận cuối năm 2016. 3.5. Nới lỏng Kế hoạch dự trữ sữa bột gày ở khu vực tư nhân: Cả theo tiêu chuẩn (giữa 90 đến 210 ngày dự trữ) và tăng lên (365 ngày) cho sữa bột gày sẽ được kéo dài đến cuối tháng 2/2017. 3.6. Chi trả trước: Tỷ lệ trả trước sẽ tăng lên 70% cho chi trả trực tiếp từ 16/10/2016 và lên 85% chi trả cho sự phát triển khu vực nông thôn dựa trên diện tích sau khi hoàn thành các thủ tục hành chính. 3.7. Quả và rau: Việc hỗ trợ sẽ được cập nhật thông qua giảm sản lượng quả và rau do các tổ chức sản xuất trong ngành hàng quả và rau thực hiện. 3. Đánh giá chung về chính sách này Trong 2 năm qua, khi EU bỏ cô ta sản xuất sữa đã dẫn đến một hệ lụy đó là người nông dân tăng quy mô đàn bò sữa nhanh đàn dẫn đến sản lượng sữa tăng đáng kể so với những năm trước khi áp dụng cô ta sản xuất. Cùng với thị trường bị thu hẹp đi kèm với lệnh cấm của Liên bang Nga cấm nhập khẩu các sản phẩm nông sản của EU trong đó có các sản phẩm sữa đã làm cho giá sữa và sản phẩm sữa giảm mạnh. Hậu quả này ảnh hưởng to lớn đến người chăn nuôi trong EU và cả thế giới. Với chính sách này, EU hy vọng sẽ cải thiện được giá sữa để đảm bảo phát triển ngành sữa của EU bền vững hơn. Bảng 1. Phân bổ kinh phí của Gói hỗ trợ 7 điểm cho các quốc gia thành viên của EU STT Quốc gia thành viên 7/2016 (Euro) 10/2015 (Euro) 1 Belgium 10.979.636 13.049.568 2 Bulgaria 5.809.941 6.004.009 3 Czech Republic 10.346.106 11.155.561 4 Denmark 9.294.305 11.103.077 5 Germany 57.955.101 69.233.789 6 Estonia 8.081.123 7.561.692 7 Ireland 11.086.327 13.734.230 8 Greece 1.683.910 2.258.253 9 Spain 14.665.678 25.526.629 10 France 49.900.853 62.899.543 11 Croatia 1.517.133 1.812.383 12 Italy 20.942.300 25.017.897 13 Cyprus 297.165 354.997 14 Latvia 9.760.362 8.452.333 15 Lithuania 13.298.661 12.631.869 16 Luxembourg 560.115 669.120 17 Hungary 9.543.566 9.505.286 18 Malta 100.092 119.570 19 Netherlands 22.952.419 29.937.209 20 Austria 5.863.491 7.004.590 21 Poland 22.670.129 28.946.973 22 Portugal 3.988.059 4.764.178 23 Romania 10.896.083 11.145.958 24 Slovenia 1.145.506 1.368.433 25 Slovakia 2.062.803 2.464.247 26 Finland 7.521.715 8.985.522 27 Sweden 6.881.425 5.220.625 28 United Kingdom 30.195.996 36.072.462 EU 350.000.000 420.000.000 Nguồn: Cơ quan Nông nghiệp nước ngoài, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ …
| Tin mới | admin | 03/08/2016 | | Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 17,8 tỷ USD | Trong 7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản ước đạt 17,8 tỷ USD, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh tín hiệu khả quan của cà phê, tiêu, điều, thủy sản… mặt hàng gạo, sắn, cao su gặp nhiều khó khăn. Tăng thu từ cà phê, tiêu, điều Xuất khẩu có nhiều tín hiệu tích cực nhất trong “rổ” hàng hóa ngành nông lâm thủy sản thời gian qua chính là ngành hàng cà phê, tiếp đó là thủy sản, điều… Mặt hàng gạo, sắn, cao su vẫn ảm đạm, có dấu hiệu tụt giảm. Theo thống kê, trong 7 tháng đầu năm 2016, xuất khẩu mặt hàng cà phê ước đạt 1,13 triệu tấn, giá trị gần 2 tỷ USD, tăng 38% về khối lượng và tăng 18% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, nhìn về giá xuất khẩu, bình quân trong 6 tháng đầu năm nay chỉ đạt 1.735 USD/tấn, giảm 15,6% so với cùng kỳ năm 2015. Về thị trường, Đức và Mỹ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong nửa đầu năm nay, với thị phần lần lượt 15,5% và 13%. Cùng đó, những thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam tăng mạnh là Philippines gần 64%, Trung Quốc trên 53% , Angiêri hơn 53%, Hoa Kỳ cũng tăng gần 40%, Đức trên 23% và Nhật tăng 14%… Trong nhóm hàng nông nghiệp, mặt hàng điều, tiêu cũng đạt mức tăng khả quan. Theo đó, trong 7 tháng qua, ngành điều xuất khẩu đạt gần 190 nghìn tấn, giá trị 1,46 tỷ USD, tăng 2,5% về lượng và tăng 9% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2016 đạt gần 7.700 USD/tấn, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2015. Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 33,6%, 13,3% và 13,2% tổng giá trị xuất khẩu hạt điều. Còn mặt hàng tiêu xuất khẩu cũng đạt trên 122 nghìn tấn, giá trị gần 990 triệu USD, tăng trên 26% về lượng và trên 9% về giá trị so cùng kỳ năm ngoái. Thực ra, giá trị thu về chưa tương ứng với khối lượng xuất khẩu là do giá tiêu xuất khẩu giảm, trung bình khoảng 8.082 USD/tấn, giảm khoảng 13 % so với cùng kỳ năm 2015. Một tín hiệu cũng đáng mừng khác, là ngành thủy sản giảm mạnh trong năm 2015 đã có những dấu hiệu phục hồi khi giá trị xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm đạt tới 3,65 tỷ USD, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2015. Các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong nửa đầu năm nay, khi chiếm trên 50% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài ra, mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ cũng đạt 3,8 tỷ USD, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2015. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc – 3 thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2016 – chiếm 68% tổng giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu gạo giảm Trái với những tín hiệu lạc quan từ đầu năm, ngành lúa gạo đang đối mặt với nhiều khó khăn về hạn, mặn, số lượng lẫn giá trị xuất khẩu cũng giảm mạnh. Hiệp hội Lương thực Việt Nam cũng hạ mục tiêu xuất khẩu trong năm nay. Trong 7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo ước đạt 2,93 triệu tấn và 1,32 tỷ USD, giảm 18% về khối lượng và giảm 14% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng lưu ý, giá gạo xuất khẩu bình quân trong nửa đầu năm nay đạt 451 USD/tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2016 với 35% thị phần. Sáu tháng đầu năm 2016 xuất khẩu gạo sang thị trường này đạt trên 910 triệu tấn và 420 triệu USD, giảm 23% về khối lượng và giảm 13,2% về giá trị so với cùng kỳ năm. Indonesia – thị trường nhập khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2016 chiếm 11,6% thị phần. Nhờ những hợp đồng ký dịp cuối năm ngoái, nên xuất khẩu gạo thị trường này nửa đầu năm 2016 đạt 350 triệu tấn và 140 USD, tăng 35% về khối lượng và 29% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng đó, mặt hàng sắn và các sản phẩm từ sắn cũng giảm mạnh, khi xuất khẩu 7 tháng đầu năm nay ước đạt 2,31 triệu tấn và giá trị 615 triệu USD, giảm gần 20% về lượng, gần 30% về giá trị so cùng kỳ năm 2015. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu chính trong 6 tháng đầu năm 2016 (chiếm tới trên 85% thị phần), nhưng giảm tiêu mạnh, tới giảm tới 23,5% về khối lượng và giảm 33% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Cùng mạch giảm kim ngạch của các mặt hàng trên, ngành hàng cao su, chè, dù xuất khẩu khối lượng tăng, nhưng giá giảm mạnh, nên giá trị thu về giảm so cùng kỳ năm ngoái. Theo đó, xuất khẩu cao su trong 7 tháng qua đạt trên 560 nghìn tấn, giá trị 705 triệu USD, tăng 8,8% về khối lượng nhưng giảm 7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Thực tế, giá cao su xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm nay chỉ đạt 1.241 USD/tấn, giảm tới 15% so cùng kỳ năm trước. Trung Quốc và Ấn Độ là 2 thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm này, chiếm trên 60% thị phần. Còn mặt hàng chè, xuất khẩu đạt khoảng 69 nghìn tấn, giá trị 110 triệu USD, tăng gần 5% về lượng nhưng giảm trên 2% về giá trị. Theo Báo Tiền …
| Tin mới | admin | 02/08/2016 | | Công văn số 1105/CN-TĂCN ngày 27 tháng 7 năm 2016 về việc thực hiện nghiêm túc quy định về quản lý thức ăn chăn nuôi | …
| Công văn | admin | 29/07/2016 | | Công văn số 1105/CN-TĂCN ngày 27 tháng 7 năm 2016 về việc thực hiện nghiêm túc quy định về quản lý thức ăn chăn nuôi | Công văn số 1105/CN-TĂCN ngày 27 tháng 7 năm 2016 về việc thực hiện nghiêm túc quy định về quản lý thức ăn chăn nuôi. …
| Tin mới | admin | 29/07/2016 | | Thông tư số 26/2016/TT-BNNPTNT ngày 30/6/2016 Quy định về kiểm dịnh động vật, sản phẩm động vật thủy sản | …
| Thông tư | admin | 28/07/2016 | | Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ban hành Thông tư số 27/2016/TT-BNNPTNT ngày 26/7/2016 Quy định giới hạn tối đa cho phép hàm lượng độc tố nấm mốc, kim loại nặng và vi sinh vật trong thức ăn hỗn hợp cho gia súc, gia cầm | Thông tư số 27/2016/TT-BNNPTNT ngày 26 tháng 7 năm 2016 Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia lĩnh vực Thức ăn chăn nuôi Quy định giới hạn tối đa cho phép hàm lượng độc tố nấm mốc, kim loại nặng và vi sinh vật trong thức ăn hỗn hợp cho gia súc, gia …
| Tin mới | admin | 28/07/2016 | | Thông tư số 27/2016/TT-BNNPTNT ngày 26 tháng 7 năm 2016 Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia lĩnh vực Thức ăn chăn nuôi | …
| Thông tư, Thức ăn chăn nuôi | admin | 28/07/2016 | | Nông nghiệp hữu cơ hướng phát triển bền vững | Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là sản xuất theo nguyên tắc được quy định trong tiêu chuẩn Quốc tế IFOAM (Liên đoàn Quốc tế các phong trào canh tác nông nghiệp hữu cơ: www.ifoam.org) với mục tiêu đảm bảo hệ sinh thái cây trồng, vật nuôi, tạo ra những sản phẩm có chất lượng an toàn với người sử dụng và đem lại hiệu quả kinh tế, duy trì và nâng cao độ màu mỡ của đất. Đó là phương pháp nuôi, trồng rau quả, thực phẩm mà không sử dụng bất cứ một loại hoá chất độc hại nào, như thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ hoá chất cũng như các loại phân hoá học, sản xuất hữu cơ chú trọng đến cân bằng hệ sinh thái tự nhiên. Các nguyên tắc cơ bản của nông nghiệp hữu cơ: Nông nghiệp hữu cơ là một hình thức nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, các chất điều tiết sự tăng trưởng của cây trồng, và các chất phụ gia trong thức ăn gia súc. Các nông dân canh tác theo hình thức nông nghiệp hữu cơ dựa tối đa vào việc quay vòng mùa vụ, các phần thừa sau thu hoạch, phân động vật và việc canh tác cơ giới để duy trì năng suất đất để cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng, và kiểm soát cỏ, côn trùng và các loại sâu bệnh khác. Mục đích hàng đầu của nông nghiệp hữu cơ là tối đa hóa sức khỏe và năng suất của các cộng đồng độc lập về đời sống đất đai, cây trồng, vật nuôi và con người. Theo tổ chức nông nghiệp hữu cơ quốc tế IFOAM: “Vai trò của nông nghiệp hữu cơ, dù cho trong canh tác, chế biến, phân phối hay tiêu dùng, là nhằm mục đích duy trì sức khỏe của hệ sinh thái và các sinh vật từ các sinh vật có kích thước nhỏ nhất sống trong đất đến con người.” Nhìn chung canh tác hữu cơ sẽ cải thiện và duy trì cảnh quan tự nhiên và hệ sinh thái nông nghiệp, tránh việc khai thác quá mức và gây ô nhiễm cho các nguồn lực tự nhiên, giảm thiểu việc sử dụng năng lượng và các nguồn lực không thể tái sinh, sản xuất đủ lương thực có dinh dưỡng, không độc hại, và có chất lượng cao,… Ngoài ra còn đảm bảo, duy trì và gia tăng độ màu mỡ lâu dài cho đất, củng cố các chu kỳ sinh học trong nông trại, đặc biệt là các chu trình dinh dưỡng, bảo vệ cây trồng dựa trên việc phòng ngừa thay cho cứu chữa, đa dạng các vụ mùa và các loại vật nuôi, phù hợp với điều kiện địa …
| Tin mới | admin | 26/07/2016 | | Quyết định số 2254/QĐ-UBND Phê duyệt Kế hoạch thực hiện tái cơ cấu lĩnh vực chăn nuôi giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2030 | …
| Quy hoạch chi tiết, Quyết định | admin | 25/07/2016 | | Kế hoạch số 2064/KH-UBND ngày 15 tháng 7 năm 2016 Kế hoạch triển khai thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng đàn Gà đồi Yên Thế, tỉnh Bắc Giang | …
| Quy hoạch chi tiết, Văn bản khác | admin | 25/07/2016 | | Kế hoạch số 160/KH-UBND ngày 12/7/2016 của UBND tỉnh Hà Giang Kế hoạch Quản lý lợn đực giống trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 | …
| Quy hoạch chi tiết, Văn bản khác | admin | 22/07/2016 | | Tự tạo cơ hội: Về quê mở trại nuôi heo | Sau khi tốt nghiệp hệ cao đẳng ngành chăn nuôi – thú y của Trường ĐH Nông Lâm Huế, Tạ Quang Thiên đã về quê và thành công với trang trại heo của mình. Cuối năm 2014, sau ngày tốt nghiệp, nhiều bạn bè cùng lớp của Tạ Quang Thiên (24 tuổi, ở thôn Hiền An, xã Phong Sơn, H.Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế) loay hoay tìm việc làm khắp các tỉnh thành. Riêng Thiên quyết định về quê mở trang trại chăn nuôi heo trong sự băn khoăn của nhiều người. Ngay cả ba mẹ Thiên cũng lo lắng trước sự lựa chọn này. Thiên chia sẻ: “Khi đang học, mình cũng nghĩ ra trường sẽ đi làm ở các công ty về chăn nuôi như các bạn, các anh chị khóa trước. Nhưng sau nhiều lần đi tham quan thực tế trang trại chăn nuôi ở một số tỉnh thành, đặc biệt là lần đi đến H.Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, thấy một số người thành công với trại heo, mình đã thay đổi suy nghĩ và lên kế hoạch làm một trang trại cho riêng mình sau khi ra trường. Mình nghĩ mình đủ khả năng để biến kế hoạch này thành hiện thực, vì quê mình đất không thiếu, kiến thức về chăn nuôi mình cũng có. Ban đầu ít vốn thì mình làm nhỏ. Sau đó làm cuốn chiếu từng phần để hoàn thiện”. Dám nghĩ dám làm, với số vốn ít ỏi vay mượn từ gia đình và bạn bè, Thiên đầu tư mở một trang trại heo trên mảnh đất rộng 600 m2. Trại heo của Thiên được chia làm nhiều dãy, mỗi dãy có nhiều ô. Dãy nuôi heo nái sinh sản chuyên cung cấp heo giống cho trại. Những ô chuồng khác được Thiên nuôi thành nhiều lứa, từ heo giống mới tách đàn đến heo thịt chuẩn bị xuất chuồng. Để thực hiện mô hình chăn nuôi heo khép kín, chủ động con giống và phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả ngay từ đầu, Thiên áp dụng công nghệ lồng heo bầu, heo đẻ, lồng cai sữa, xây dựng chuồng trại đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, góp phần đem lại hiệu quả cao trong quá trình chăn nuôi. Từ 20 con heo nái ban đầu, Thiên phát triển lên gần 40 heo nái cùng 200 heo thịt. Theo quy trình, heo nuôi đến 5 tháng sẽ đạt trọng lượng 1 tạ và xuất chuồng. Bình quân mỗi tháng, trang trại xuất chuồng 3 – 4 tấn heo thịt. Với giá tiêu thụ hiện nay, trừ tiền giống, chi phí chăn nuôi thì lãi từ 20 – 30 triệu đồng/tháng. “Trong chăn nuôi heo, quan trọng nhất là vệ sinh chuồng trại, phòng ngừa dịch bệnh, đừng để bệnh rồi mới chữa. Làm cái gì ban đầu cũng khó khăn, mình cũng vậy, nhưng khắc phục dần, để tiết kiệm chi phí mình phải xắn quần áo làm tất tần tật. Ngoài ra, làm ăn thì phải uy tín, chất lượng thì sản phẩm mới được đón nhận và mình mới tồn tại được”, Thiên chia sẻ. Ông Nguyễn Bá Nam, Bí thư Đảng ủy xã Phong Sơn, cho biết hiện tại trên địa bàn xã có rất nhiều người chăn nuôi heo nhưng đa phần nuôi nhỏ lẻ, cách nuôi truyền thống. Trang trại của Tạ Quang Thiên là một trong những mô hình chăn nuôi tiêu biểu của xã. Thiên vốn học chăn nuôi – thú y nên trại heo của Thiên khá quy mô, cơ sở hạ tầng cũng như quy cách chăn nuôi khá hiện đại, trở thành nơi cung cấp heo thương phẩm uy tín được nhiều thương lái tin cậy. Trang trại cũng là địa chỉ cho bà con có nhu cầu học hỏi kinh nghiệm chăn nuôi. Ngoài gia đình, hiện trang trại của Thiên còn có sự giúp đỡ của Trần Văn Long Đại (quê ở xã Điền Lộc, H.Phong Điền), bạn học cùng lớp chăn nuôi – thú y với Thiên. Đại cho biết: “Khi Thiên mở trại heo, không ít người cho rằng ba mẹ nuôi ăn học bao nhiêu năm chừ về nuôi heo thì thật phí. Nuôi heo cần gì đi học. Nhưng gần 2 năm xây dựng cơ ngơi, trại heo của Thiên ngày càng phát triển và cho thu nhập tốt. Rồi những mùa dịch, heo trong trại của Thiên vẫn khỏe mạnh, không ảnh hưởng, từ đó nhiều người đã thay đổi suy …
| Tin mới | admin | 22/07/2016 | | Mỹ: Bùng phát dịch bệnh do vi khuẩn Salmonella liên quan tới gia cầm | Ngày 19/7, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật của Mỹ (CDC) cho biết trong năm nay đã có ít nhất 611 người tại nước này bị nhiễm bệnh và một người tử vong trong 8 đợt bùng phát dịch bệnh do vi khuẩn đường ruột Salmonella gây ra liên quan tới gia cầm sống. Theo CDC, những đợt bùng phát dịch bệnh trên liên quan tới gà và vịt được chăn nuôi tại 45 bang của Mỹ và bắt đầu xảy ra từ ngày 4/1 tới ngày 25/6. Trong số những người bị nhiễm bệnh, 138 người phải nhập viện và một người đã tử vong, và 195 người bị nhiễm bệnh là trẻ em từ 15 tuổi trở xuống. Phần lớn những người bị nhiễm khuẩn đã có những triệu chứng như tiêu chảy, sốt cao và bị chuột rút ở bụng trong thời gian từ 12 đến 72 giờ đồng hồ. Tình trạng bệnh của họ thường kéo dài từ 4 đến 7 ngày và phần lớn sẽ tự hồi phục mà không cần phải điều trị, tuy nhiên, một số trường hợp có thể bị tiêu chảy ở mức độ nặng và cần phải được nhập viện để chữa trị. Cũng theo CDC, dịch bệnh do khuẩn đường ruột Salmonella sẽ tiếp diễn trong vài tháng tới do các chủ trang trại chăn nuôi gia cầm chưa nhận thức được nguy cơ nhiễm loại vi khuẩn này từ gia cầm sống, hoặc có những hoạt động có thể khiến cho họ bị nhiễm khuẩn. Để phòng chống dịch bệnh trên, CDC khuyến cáo người dân phải vệ sinh chân tay thường xuyên sau khi sờ vào gia cầm sống hoặc bất cứ thứ gì tại khu vực chăn nuôi gia cầm. Ngoài ra, cơ quan trên cũng khuyến cáo không nên để cho trẻ em dưới 5 tuổi cầm hoặc sờ vào gia cầm khi chưa có sự giám sát của người lớn và không được nuôi gia cầm trong …
| Tin mới | admin | 21/07/2016 | | Thông tư số 25/2016/TT-BNNPTNT ngày 30 tháng 6 năm 2016 Quy định về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật trên cạn | …
| Thông tư | admin | 20/07/2016 | | Đại gia chăn nuôi lãi lớn nhờ bán đất | Năm 2016 mới trôi qua một nửa song Dabaco đã thu về 262 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, mức lãi lớn nhất từ trước đến nay. Báo cáo tài chính hợp nhất quý II của Công ty cổ phần Tập đoàn Dabaco Việt Nam (Mã CK: DBC) vừa công bố ghi nhận khoản lợi nhuận đột biến 149 tỷ đồng. Cũng chính nhờ khoản lãi này mà lợi nhuận trước thuế cả quý của công ty đạt 236 tỷ đồng, tăng 263% so với cùng kỳ năm 2015. Lũy kế 6 tháng, doanh nghiệp đạt lợi nhuận sau thuế 262 tỷ đồng, tăng 138% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là con số lợi nhuận lớn nhất từ trước đến nay của công ty. Trước đó trong năm 2015, Dabaco cũng chỉ đạt 252 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế. dai-gia-chan-nuoi-lai-lon-nho-ban-dat Theo ban lãnh đạo Dabaco, sở dĩ doanh nghiệp đạt mức lợi nhuận đột biến này là nhờ hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản, đóng góp gần 119 tỷ đồng. Hồi tháng 4, công ty đã chuyển nhượng thành công dự án Khu công nghiệp Quế Võ 3 tại huyện Quế Võ, Bắc Ninh cho VID Thanh Hóa – đơn vị thành viên của VID Group (nay là TNG Holdings), một trong những doanh nghiệp phát triển khu công nghiệp hàng đầu tại miền Bắc. Sau khi thoái vốn khỏi dự án trên, hiện Dabaco chỉ còn một dự án bất động sản đang triển khai là Khu đô thị Đền Đô tại Từ Sơn, Bắc Ninh. Công ty cho biết sẽ tập trung nguồn lực phát triển chuỗi giá trị 3F (Feed-Farm-Food) trong ngành nông nghiệp. Đối với hoạt động kinh doanh chính, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ quý II của Dabaco đạt hơn 1.680 tỷ đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước. 6 tháng đầu năm, doanh thu đạt 3.019 tỷ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ. Trong tổng doanh thu này, 56% đến từ hoạt động bán thức ăn chăn nuôi gia súc, hơn 40% còn lại đến từ hoạt động kinh doanh con giống và chăn nuôi gà, lợn và bán xăng dầu… Hoạt động sản xuất con giống gia súc gia cầm của công ty ghi nhận mức tăng doanh thu 16,38 tỷ đồng, nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ đạt gần 11 tỷ đồng, so với hơn 20,5 tỷ đồng cùng kỳ. Còn lợi nhuận sau thuế của hoạt động chăn nuôi lợn đạt gần 20,7 tỷ đồng. Năm nay, Dabaco dự kiến đạt tổng doanh thu gần 8.500 tỷ đồng (bao gồm cả doanh thu nội bộ). Lợi nhuận trước thuế và sau thuế lần lượt 346 tỷ và 291 tỷ …
| Tin mới | admin | 19/07/2016 | | Vùng an toàn dịch bệnh được ưu tiên tham gia xúc tiến thương mại | Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật được ưu tiên tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa ban hành Thông tư 14/2016/TT-BNNPTNT quy định về vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Theo đó, vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh được hưởng nhiều quyền lợi như: Được hưởng các quyền lợi theo quy định tại khoản 2 Điều 17, khoản 2 Điều 39 và khoản 2 Điều 55 của Luật thú y; Đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật trên cạn được phép vận chuyển động vật, sản phẩm động vật ra khỏi vùng dịch. Đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh thuỷ sản, được xem xét để xuất bán động vật thủy sản thương phẩm mà không phải qua sơ chế, chế biến khi có công bố dịch tại địa phương theo quy định tại Thông tư số 04/2016/TT-BNNPTNT quy định về phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản. Bên cạnh đó được xem xét cấp chứng nhận đạt Quy phạm thực hành chăn nuôi tốt Việt Nam (VietGAHP) hoặc Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt Việt Nam (VietGAP) khi có yêu cầu; được ưu tiên tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm. Yêu cầu đối với cơ sở an toàn dịch bệnh động vật trên cạn Thông tư nêu rõ yêu cầu cần đáp ứng để cơ sở chăn nuôi động vật trên cạn được chứng nhận an toàn dịch bệnh là thực hiện các yêu cầu về phòng, chống dịch bệnh động vật trên cạn theo quy định; thực hiện giám sát dịch bệnh động vật; không xảy ra dịch bệnh động vật… Về phòng, chống dịch bệnh động vật trên cạn tại cơ sở, cơ sở chăn nuôi thực hiện quy định tại Điều 14, các khoản 1, 2, 3 và 4 của Điều 15 của Luật thú y, cụ thể như sau: Địa điểm chăn nuôi phải theo quy hoạch của địa phương hoặc được cơ quan có thẩm quyền cho phép, bảo đảm cách biệt với khu dân cư, công trình công cộng, đường giao thông chính, nguồn gây ô nhiễm; nước sử dụng trong chăn nuôi phải bảo đảm theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; thực hiện các biện pháp phòng bệnh bắt buộc cho động vật nuôi theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cơ sở lần đầu đăng ký cấp Giấy chứng nhận an toàn dịch bệnh động vật phải đáp ứng điều kiện không có ca bệnh của bệnh đăng ký chứng nhận an toàn trong ít nhất 12 tháng trước thời điểm nộp hồ sơ đăng ký. Yêu cầu đối với cơ sở an toàn dịch bệnh động vật thủy sản, Thông tư nêu rõ, cơ sở sản xuất thủy sản giống phải thực hiện quy định tại Điều 14 và các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 15 của Luật thú y và Thông tư số 04/2016/TT-BNNPTNT với một số nội dung cụ thể như sau: Nước dùng trong sản xuất thủy sản giống phải được xử lý bảo đảm không mang mầm bệnh và không ảnh hưởng đến sức khỏe thủy sản; thủy sản giống nhập vào cơ sở phải có nguồn gốc từ vùng, cơ sở được chứng nhận an toàn dịch bệnh hoặc có kết quả xét nghiệm âm tính của Phòng thử nghiệm được chỉ định đối với bệnh mà cơ sở đang thực hiện giám sát; được kiểm dịch theo đúng quy định hiện hành. Đối với cơ sở lần đầu đăng ký cấp Giấy chứng nhận phải đáp ứng điều kiện không có động vật thủy sản mắc bệnh đăng ký chứng nhận an toàn trong ít nhất 06 tháng trước thời điểm nộp hồ sơ đăng ký. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 19/7/2016. …
| Tin mới | admin | 14/07/2016 | | Hà Nội xây dựng mô hình liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ thịt bò BBB | Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã có kế hoạch triển khai mô hình liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm thịt bò BBB (Blanc Blue Belgium – Bò lang trắng xanh Bỉ). Kế hoạch nhằm giúp người tiêu dùng truy nguyên được nguồn gốc, xuất sứ sản phẩm, quy trình sản xuất rõ ràng. Ngoài ra, mô hình sẽ liên kết sản xuất và tiêu thụ thịt bò BBB đáp ứng một phần nhu cầu thị trường về thực phẩm an toàn, giảm bớt các khâu trung gian, nâng cao hiệu quả chăn nuôi cho người dân. Từ thành công trong mô hình liên kết này có thể nhân rộng công tác sản xuất và tiêu thụ bò BBB ở Thủ đô. Dự án lai tạo giống bò BBB trên nền bò cái lai Sind thành bò lai F1 hướng thịt đang triển khai xây dựng thương hiệu bò thịt Hà Nội do Trung tâm Phát triển chăn nuôi Hà Nội phối hợp với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Giống gia súc Hà Nội thực hiện, bước đầu đã đem lại kết quả khả quan. Dự án đang triển khai xây dựng thương hiệu bò thịt Hà Nội, bước đầu đã đăng ký và được Cục Sở hữu trí tuệ, Tổng cục Đo lường chất lượng bảo hộ độc quyền về nhãn hiệu hàng hóa, nhận diện sản phẩm và mã số, mã vạch đối với sản phẩm giống bò thịt F1 BBB. Từ Hà Nội, công nghệ lai tạo đàn bò thịt F1 BBB đã lan tỏa ra hàng chục tỉnh, thành trên cả nước. Đặc biệt, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đã đề xuất Công ty chuyển giao kỹ thuật lai tạo đàn bò thịt F1 BBB, đào tạo nghề cho công nhân chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm tại Hà Nội. Ngoài ra, Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp Hà Nội cũng triển khai thực hiện mô hình liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm với quy mô 85-100 con bò BBB, triển khai tại xã Ba Trại, huyện Ba …
| Tin mới | admin | 13/07/2016 | | Nhiều vi phạm về chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu | HQ Online)- Theo Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT): Qua công tác thanh tra, kiểm tra của Cục Chăn nuôi và Thanh tra Bộ NN&PTNT đối với thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, đã phát hiện các lỗi thường vi phạm về mặt chất lượng. Cụ thể, đó là thức ăn chăn nuôi sử dụng các loại nguyên liệu không được phép dùng trong chăn nuôi, nhất là các chất tạo màu và bổ sung khoáng chất như: Sắt Sunphat, Đồng Sunphat, Mangan Sunphat, Kẽm Sunphat, Kẽm Oxit…; sử dụng các nguyên liệu đã hết hạn hoặc cận hết hạn sử dụng. Để hạn chế tình trạng trên, Cục Chăn nuôi yêu cầu các đơn vị kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu kiểm tra kỹ trong hồ sơ, nhãn mác về những quy định sử dụng và thời hạn sử dụng đối với nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, đặc biệt lưu ý nhóm nguyên liệu nêu trên. Thử nghiệm 100% các loại kháng sinh có trong các sản phẩm thức ăn chăn nuôi nhập khẩu. Đối với các loại kháng sinh mà đơn vị không phân tích được thì phải gửi phòng thử nghiệm khác đã được chỉ định hoặc báo cáo Cục Chăn nuôi. Trong kiểm tra, nếu phát hiện các lô hàng đã hết hạn sử dụng phải báo cáo ngay cho cơ quan Hải quan dừng không cho đưa hàng vào trong nội địa nhằm hạn chế những phát sinh và rủi ro không cần thiết trong công tác xử lý. Thanh Nguyễn …
| Tin mới | admin | 07/07/2016 | | Dự án chăn nuôi, công nghiệp thực phẩm có vốn 1 tỷ USD của nhà đầu tư Đài Loan tại Hà Tĩnh | Nhà đầu tư đề xuất dự án cảng biển có vốn đầu tư 1,5 tỷ USD và dự án chăn nuôi, công nghiệp thực phẩm có vốn 1 tỷ USD… Tỉnh Hà Tĩnh đã chính thức chấp thuận về mặt chủ trương cho Wei Yu Engineering – một doanh nghiệp của Đài Loan – thực hiện dự án nông nghiệp, cầu cảng tại khu kinh tế Vũng Áng. Theo đó, nhà đầu tư đề xuất sẽ triển khai dự án cảng biển có vốn đầu tư 1,5 tỷ USD, dự án chăn nuôi và công nghiệp thực phẩm có vốn 1 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư hai dự án là 2,5 tỷ USD. Nhà đầu tư cam kết sử dụng công nghệ cao, hiện đại, bảo vệ môi trường. Tổng diện tích dự án là 1.000 ha. Trong đó, Wei Yu sẽ xây dựng 5 cầu cảng tại Vũng Áng bao gồm các cảng số 7, 8, 9, 10, 11. Đây là các cầu cảng vẫn chưa được xây dựng. Khu hậu cần cảng được Wei Yu đề xuất sử dụng 96,8 ha. Về dự án nuôi trồng, công ty dự định phát triển ngành chăn nuôi lợn, gà, sản xuất rau quả với diện tích tổng hợp là 800 ha. Xây dựng các nhà máy chế biến thức ăn gia súc, chế biến bột mì, dầu ăn, thịt đông lạnh, bảo quản thực phẩm… Wei Yu còn dự định xây nhà điều hành và ký túc xá cho các chuyên gia, kỹ sư của công ty, với diện tích 80 ha. Trong văn bản gửi lên UBND tỉnh Hà Tĩnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh nhận định đây là dự án có quy mô lớn, phù hợp với chủ trương thu hút đầu tư của tỉnh. Dự án đầu tư vào nông nghiệp, sử dụng công nghệ cao, thu hút nhiều lao động.Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh cũng đề xuất UBND tỉnh đồng ý về nguyên tắc cho phép Wei Yu khảo sát, đề xuất các nội dung phát triển cầu cảng, phát triển tổng hợp ngành nuôi trồng trên cơ sở quy hoạch và điều kiện thực tế đảm bảo tính hiệu quả, khả thi và phát triển bền vững. Trước mắt sẽ khảo sát giai đoạn 1 của dự án để thực hiện rồi đề xuất các giai đoạn tiếp theo. Về đề xuất sử dụng diện tích 1.000 ha đất, tỉnh Hà Tĩnh cho biết có thể đáp ứng được. Tuy nhiên, về công nghệ, Wei Yu chưa nêu rõ các biện pháp xử lý môi trường trong báo cáo đầu tư. Trong dự thảo văn bản của UBND tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh ủng hộ và cho phép Wei Yu khảo sát, lập dự án sau đó trình cơ quan thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư. Giao các cơ quan ban ngành, ban quản lý kinh tế của tỉnh giúp đỡ, hướng dẫn thông tin cần thiết cho nhà đầu tư. Những năm gần đây, luồng vốn đầu tư trực tiếp từ Đài Loan chảy mạnh vào miền Trung, đặc biệt là khu kinh tế Vũng Áng. Trước đó, tập đoàn Formosa đã rót 10,5 tỷ USD thực hiện dự án thép giai đoạn 1, dự định nâng tổng mức đầu tư lên 28,5 tỷ USD. 4 tháng đầu năm 2016, Đài Loan là nhà đầu tư FDI lớn thứ 3 tại Việt Nam với 666 triệu USD. Luỹ kế, hiện nhà đầu tư Đài Loan đã rót khoảng gần 29 tỷ USD vào Việt Nam, tập trung chủ yếu vào công nghiệp chế biến, chế tạo. Hà Tĩnh và Đồng Nai hiện là hai tỉnh thu hút vốn đầu tư lớn nhất từ Đài Loan. (Trích nguồn Thời báo kinh tế Việt …
| Tin mới | admin | 06/07/2016 | | Thông tư số 17/2016/TT-BNNPTNT ngày 24/6/2016 Hướng dẫn quản lý các nhiệm vụ bảo vệ môi trường thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | …
| Thông tư | admin | 06/07/2016 | | Những chính sách về chăn nuôi – thú y có hiệu lực từ tháng 7 | Chính sách liên quan đến XNK Theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế, đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng bổ sung quy định doanh nghiệp, hợp tác xã mua sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường thì không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng nhưng không được khấu trừ thuế đầu vào. Bổ sung quy định dịch vụ chăm sóc người cao tuổi thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Chính sách liên quan đến KT-XH – Luật Thú y gồm 7 chương, 116 điều. Tại Điều 64 của Luật đã đưa ra các yêu cầu đối với giết mổ động vật để kinh doanh như: Động vật phải khỏe mạnh; có trong Danh mục động vật thuộc diện phải kiểm soát giết mổ và được cơ quan quản lý chuyên ngành thú y kiểm soát theo quy trình; việc giết mổ động vật phải được thực hiện tại cơ sở giết mổ động vật tập trung; trường hợp tại các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn chưa có cơ sở giết mổ động vật tập trung thì việc giết mổ động vật được thực hiện tại cơ sở giết mổ động vật nhỏ lẻ và phải đáp ứng yêu cầu về vệ sinh thú …
| Tin mới | admin | 05/07/2016 | | Thu lãi tiền tỷ từ chăn nuôi | Những ai có dịp đến thăm trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại kết hợp trồng cây ăn quả, cây sưa của gia đình ông Trương Văn Sương, thôn Đạo Trù hạ, xã Đạo Trù (Tam Đảo) đều phải trầm trồ khen ngợi. Với quy hô rộng hơn 4ha đất đồi, được đầu tư tư bài bản, sau 3 năm, ông Trương Văn Sương đã thu lãi hàng tỷ đồng từ mô hình trang trại tổng hợp. Năm nay, ông Trương Văn Sương đã ngoài 60 tuổi, song cách nghĩ, cách làm của ông vẫn rất quyết đoán, mạnh bạo. Được biết, gia đình ông Sương chăn nuôi lợn từ những năm 1997, song quy mô nhỏ và manh mún. Sau khi nghỉ hưu, năm 2013, ông Sương mới bắt tay vào đầu tư chăn nuôi lợn nái ngoại với quy mô lớn. Ông Trương Văn Sương cho biết: Tôi không làm thì thôi, nhưng đã làm phải đầu tư lớn, có hiệu quả. Theo tôi, để phát triển kinh tế trang trại, người chăn nuôi cần phải có 3 yếu tố quan trọng là: Tư duy, đất đai và nguồn vốn để đầu tư. Nếu thiếu 1 trong 3 yếu tố trên rất khó thành công. Có được 3 điều kiện thuận lợi trên, ông Sương đã mạnh dạn đầu tư cho chăn nuôi, trồng trọt và bước đầu gặt hái được những thành quả do công sức mình bỏ ra. Từ chỗ chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún, ông Sương đã đầu tư chuồng trại chăn nuôi theo hướng công nghiệp với quy mô 100 con lợn nái ngoại; gần 600 lợn thương phẩm. Chuồng trại chăn nuôi lợn nái và lợn thương phẩm được ông Sương chia khu, chăn nuôi riêng biệt, đảm bảo quy trình khép kín để phòng bệnh. Tại các chuồng lợn nái và lợn giống đều có “giàn lạnh” để làm mát vào mùa hè. Do không có nước ngầm, ông Sương đã đầu tư đường ống dẫn để “bắt” nước từ suối về phục vụ chăn nuôi và làm mát một số khu chuồng trại bằng hệ thống phun sương. Chị Vi Thị Hà, con dâu ông Sương cho biết: Mặc dù tuổi đã cao song bố em vẫn là người điều hành công việc chính ở trang trại. Mọi việc đều được ông sắp xếp, phân công một cách khoa học, cụ thể. Hiện nay, em được giao quản lý khu vực chuồng lợn giống và lợn thương phẩm với số lượng gần 600 con. Chồng em quản lý khu chuồng lợn nái ngoại gần 100 con. Để đảm bảo phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi, chúng em tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về thú y để có thêm kiến thức áp dụng vào mô hình chăn nuôi của gia đình. Ông Trương Văn Sương cho biết: Từ mô hình chăn nuôi lợn nái ngoại, gia đình tôi đã thu lãi hàng tỷ đồng (đã trừ chi phí). Có lợi nhuận, tôi lại tiếp tục tái đầu tư để mở rộng quy mô chăn nuôi trong thời gian tới. Mục tiêu của tôi từ nay đến năm 2017 sẽ có trên 5.000 m2 chuồng trại để chăn nuôi khoảng 300 con lợn nái ngoại và hàng nghìn lợn thịt. Trước những e ngại về giá lợn hơi nhiều khả năng sẽ giảm mạnh do người dân đang tái đàn ồ ạt, ông Sương khẳng định: Trang trại lợn của gia đình tôi trực tiếp sản xuất con giống, rồi lại trực tiếp nuôi để bán thì không có chuyện lỗ, cho dù giá lợn hơi có sụt giảm. Vấn đề là tôi thu lãi về ít hay lãi nhiều mà thôi. Do đó, thời gian tới, tôi vẫn tiếp tục đầu tư thêm chuồng trại để mở rông quy mô khoảng 200 con lợn nái nữa. Ngoài chăn nuôi lợn, hiện nay, trang trại của ông Sương còn trồng khoảng 2.000 cây dứa và 12.000 cây sưa chuẩn bị cho thu hoạch. Số cây sưa này ông Sương đã đầu tư hàng trăm triệu đồng từ 3-4 năm trước. Đến nay, đồi cây sưa của gia đình ông Sương đã có nhiều thương lái đến hỏi và đặt mua trước với giá trị hàng tỷ đồng. Với sự quyết đoán, tư duy nhanh nhạy trong việc nắm bắt nhu cầu thị trường, ông Trương Văn Sương đã có sự bứt phá ngoạn mục trong phát triển kinh tế gia đình. Từ nguồn lãi hàng tỷ đồng thu được từ chăn nuôi, ông Sương đã có nguồn vốn vững chắc để tiếp tục tái đầu tư vào trang trại của mình với quy mô ngày càng lớn và hiệu quả. Hà …
| Tin mới | admin | 04/07/2016 | | Nghị định số 66/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 Quy định điều kiện đầu tư kinh doanh về bảo vệ và kiểm dịch thực vật; giống cây trồng; nuôi động vật rừng thông thường; chăn nuôi; thủy sản; thực phẩm. | …
| Nghị định | admin | 04/07/2016 | | Quyết định số 2519/QĐ-BNN-PC ngày 22/6/2016 Về việc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành | …
| Quyết định | admin | 04/07/2016 | | Vì sao Australia quyết định tạm ngừng xuất khẩu bò sang Việt Nam? | Vừa qua, Australia đã quyết định tạm ngừng xuất khẩu bò sang Việt Nam với lý do là Công ty Animex Hải Phòng vi phạm tiêu chuẩn ESCAS (quy định xuất khẩu theo chuỗi bảo đảm). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp chăn nuôi, ngành chăn nuôi. Phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) để làm rõ vấn đề này. – Ông có thể cho biết nguyên nhân cụ thể việc Australia tạm ngừng xuất khẩu bò sang Việt Nam? – Ông Tống Xuân Chinh: Việc Australia tạm ngừng xuất khẩu bò sang Việt Nam chính thức từ ngày 13/6 vừa qua là vấn đề mới, lạ, chưa phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên, điều này đã được cảnh báo từ trước. Theo quy định, để được nhập khẩu bò Australia về Việt Nam, các doanh nghiệp đều phải chấp hành đầy đủ các quy định do nước bạn đặt ra như: lò giết mổ, các công đoạn giết mổ cũng như khâu ướp thịt bò trước khi đem bán ra thị trường. Họ sẽ giám sát quy trình từ khi xuất bò đi, việc di chuyển, chuồng trại, lưu nuôi cho đến khi tiến hành giết mổ. Đây là một bộ tiêu chuẩn đảm bảo quy tắc giết mổ nhân đạo mà mỗi nhà nhập khẩu đều phải tuân thủ. Khi doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế thì phía Australia họ mới xuất khẩu bò. Bên cạnh đó, phía Australia cũng có hướng dẫn, tập huấn về các quy định cho các cơ sở giết mổ. Tuy nhiên, vẫn có một số cơ sở giết mổ tại Việt Nam không tuân thủ quy định này. Tại Việt Nam, các đơn vị trực tiếp liên quan như Cục Chăn nuôi, Cục Thú y đã phối hợp với đối tác phía Australia tổ chức hội thảo nhằm nâng cao nhận thức của người chăn nuôi, cơ sở giết mổ… về mọi quy định liên quan đến ESCAS. Đồng thời, Australia cũng cử các nhân viên của Hội về Vật quyền sang Việt Nam để điều tra, đánh giá mức độ vi phạm. Thời gian cấm của Australia phụ thuộc vào việc doanh nghiệp Việt Nam thay đổi và khắc phục như thế nào về các vi phạm đó. – Vậy, đây có phải lần đầu tiên Australia phát hiện ra vi phạm này, thưa ông? – Ông Tống Xuân Chinh: Việc Công ty Animex Hải Phòng vi phạm tiêu chuẩn ESCAS không phải là lần đầu tiên phía Australia phát hiện. Trước đó, tình trạng này đã từng xảy ra tại nước ta nhưng lần này Australia làm quyết liệt và tạm ngừng xuất khẩu bò sang Việt Nam. Trên thế giới cũng đã có nhiều nước vi phạm điều này như Ai Cập, Indonesia, Saudi Arabia… cũng bị Australia cấm xuất khẩu bò. – Việc này ảnh hưởng như thế nào đối với ngành chăn nuôi Việt Nam, thưa ông? – Ông Tống Xuân Chinh: Bị ảnh hưởng và thiệt hại đầu tiên là doanh nghiệp Animex Hải Phòng. Nhưng quan trọng hơn là danh tiếng của Việt Nam liên quan đến việc vi phạm ESCAS là rất lớn. Về mặt kinh tế, hiện tại, thị trường trong nước chưa bị ảnh hưởng bởi chúng ta còn nhiều nguồn khác nữa vẫn đủ cung cấp trong một thời gian. Tuy nhiên, sau đó nếu Việt Nam vẫn chưa được phép nhập bò từ Australia thì các doanh nghiệp chăn nuôi lớn như Hoàng Anh Gia Lai, Bình Hà sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các doanh nghiệp này đã đầu tư rất lớn cho hệ thống chuồng, trại, cơ sở… Nếu chuồng trại không có bò để nuôi thì thiệt hại về kinh tế là rất lớn. Trong khi đó, bò trong nước lại không đủ điều kiện nuôi vỗ béo như hệ thống chuồng, trại mà doanh nghiệp đã đầu tư. Đặc biệt, hiện nay bò giống trong nước cũng không đủ đáp ứng. – Vậy có giải pháp nào để khắc phục tình trạng này không, thưa ông? – Ông Tống Xuân Chinh: Trước mắt, chúng ta cần phải tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức đối với người chăn nuôi, giết mổ, doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với người giết mổ phải được cấp chứng chỉ về nghề này nhằm tuân thủ quy định đối với nước xuất khẩu bò. Bên cạnh đó, các cơ quan như Cục Chăn nuôi, Cục Thú y phối hợp chặt chẽ với phía Australia tăng cường trao đổi về tiêu chuẩn ESCAS. Từ đó, phổ biến lại cho các doanh nghiệp, người chăn nuôi một cách rộng rãi. Về mặt pháp luật, quy định về giết mổ động vật nhân đạo đã được Việt Nam đưa vào Luật Thú y năm 2015 và có hiệu lực từ 1/7/2016. Tuy nhiên Luật này mới chỉ đưa ra nguyên tắc khái quát chung. Do đó, cần phải có quy định cụ thể hơn, đặc biệt là các quy định kỹ thuật về ESCAS. Bên cạnh đó, sớm ban hành các nghị định, thông tư, xây dựng điều kiện về cơ sở giết mổ. Ngoài ra, tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở giết mổ. Nếu giết mổ bò Australia thì phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn ESCAS. Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước đang phối hợp để có một Hiệp định thú y với các nước có nguồn bò lớn tại Nam Mỹ, các nước có điều kiện tự nhiên tương đồng như Việt Nam. Từ đó, chủ động nhập bò từ các nước đó, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam chủ động được nguồn giống. – Ông có khuyến cáo gì cho các doanh nghiệp chăn nuôi trong nước? – Ông Tống Xuân Chinh: Các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm nguồn bò giống tại nhiều nước trên thế giới. Từ đó, cho sinh sản tại Việt Nam hoặc lai tạo với bò trong nước. Điều này còn hạn chế được rủi ro về dịch bệnh. Đặc biệt, nếu bò sinh sản tại Việt Nam thì sẽ không phải tuân thủ theo quy định của các nước xuất khẩu bò đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu bò non về nuôi rồi mới giết mổ, như vậy mới tạo giá trị gia tăng cao. – Xin cảm ơn …
| Tin mới | admin | 01/07/2016 | | Danh sách thảm khảo các đơn vị cung cấp tinh bò sữa, bò thịt và thiết bị chăn nuôi | (Lưu ý: Danh sách dưới đây mang tính chất tham khảo, các tổ chức, cá nhân khi mua các sản phẩm của các đơn vị cần kiểm tra kỹ các thông tin chi tiết của sản phẩm) STT Tên đơn vị Địa chỉ Điện thoại Người đại diện 1 Xí nghiệp Truyền giống và PTCN miền Nam 42/58 Nguyễn Bỉnh Khiêm phường 1, Quận Gò Vấp, TPHCM 0838944438 0918053252 Nguyễn Viết Thoan 2 Công ty TNHHMTV bò sữa Châu Á Thái Bình Dương 14E17 Thảo Điền, phường Thảo Điền, Quận 2, TPHCM 01689654845 Lưu Hùng Sơn 3 Công ty TNHH Đầu Tư và Phát triển Nam Thái 110A tỉnh lộ 8, xã Tân Thạnh Tây, huyện Củ Chi, TP HCM 0946834868 Trần Quốc Thịnh 4 Công ty TNHH XNK TM và DV Đại Dương Cơ sở 1: 518 tổ 15, phường Cầu Diễn, Quận Nam Từ Liêm, Hà NộiCơ sở 2: Khu phố 5, phường Trảng Dài, TP. Biên Hòa, Đồng Nai Cơ sở 3: Số 60 đường Đồng Khởi, khóm 7, phường 6, TP Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh Cơ sở 1: 0977553256Cơ sở 2: 0912114489 Cơ sở 3: 0908147666 Cơ sở 1:Đào Đình HảoCơ sở 2:Trần Văn Ngọc Cơ sở 3:Lưu Phúc 5 Công ty TNHH Dịch Vụ Công Nghệ Á Châu 144 Nguyễn Hồng Đào, P.14, Q.Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh 0985 640 999 Mr. Xuân Hòa 6 Trung tâm công nghệ sinh học chăn nuôi, trực thuộc Phân Viện chăn nuôi nam bộ Khu phố 6, phường Phú Mỹ, TP. Thủ dầu một, Bình dương ĐT 06506251811, fax 06506251812 GĐ TT TS. Đoàn Đức …
| CSSXKD giống vật nuôi | admin | 01/07/2016 | | Thông tư số 18/2016/TT-BNPTNT ngày 24 tháng 6 năm 2016 quy định một số nội dung về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý | …
| Thông tư | admin | 01/07/2016 | | Quyết định số 2509/QĐ-BNN-CN ngày 22 tháng 6 năm 2016 về việc ban hành Quy chế chứng nhận và quy trình thực hành chăn nuôi tốt cho chăn nuôi lợn, gà an toàn trong nông hộ | …
| Quyết định | admin | 30/06/2016 | | Dồn lực lấy lại tốc độ tăng trưởng nông nghiệp | Trong 6 tháng vừa qua, sản xuất nông, lâm, thủy sản đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Điều đó dẫn tới đóng góp của lĩnh vực này vào GDP 6 tháng đầu năm giảm 0,18%, tốc độ tăng trưởng ngành chưa đạt mức kế hoạch đề ra. Ngày 29/6, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức hội nghị “Sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2016”. Theo thống kê của Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT), đây lần đầu tiên, toàn ngành không có tăng trưởng trong 6 tháng. Trong 6 tháng đầu năm, đóng góp của lĩnh vực nông, lâm, thủy sản giảm 0,18%, trong đó nông nghiệp giảm 0,78%, lâm nghiệp tăng 5,75%, thủy sản tăng 1,25%. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 397.400 tỷ đồng, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm 2015. Trong thời gian này, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thác thức như tình hình xâm nhập mặn xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, hạn hán gay gắt xảy ra trên diện rộng ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên làm nhiều diện tích gieo trồng không thể sản xuất do thiếu nước; cá chết bất thường ở các tỉnh ven biển miền Trung; thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông, thủy sản sụt giảm… đã tác động mạnh đến kết quả hoạt động và thực hiện kế hoạch của ngành. Sản xuất trồng trọt bị thiệt hại nặng nề do thiên tai, dẫn đến tăng trưởng giảm. Vụ lúa Đông Xuân, cả nước đạt 19,37 triệu tấn, giảm 1,326 triệu tấn (-6,4%) so với vụ Đông Xuân năm 2015; riêng Đồng bằng sông Cửu Long giảm 1,14 triệu tấn so với cùng kỳ (-10,2%). Bên cạnh đó, các loại cây trồng ngắn ngày cũng có diện tích và sản lượng giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Các loại cây công nghiệp dài ngày, chủ yếu tập trung thâm canh diện tích sẵn có, trồng mới không nhiều; tập trung trồng tái canh cây cà phê, cải tạo vườn điều, vườn cao su. Bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT) cho biết: Mặc dù phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn, nhưng 6 tháng đầu năm toàn ngành đã đạt nhiều kết quả; tái cơ cấu tiếp tục được triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Toàn ngành đã tập trung thực hiện các giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường để kịp thời định hướng sản xuất; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và khuyến khích tiêu dùng trong nước. Các đơn vị đã giải quyết linh hoạt, hiệu quả các rào cản kỹ thuật; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương để mở cửa thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông sản hàng hóa… Vì vậy, xuất khẩu vẫn duy trì được đà tăng trưởng mặc dù giá xuất khẩu nhiều mặt hàng giảm. Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành 6 tháng ước đạt 15,04 tỷ USD, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2015. Giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản và vật tư nông nghiệp ước đạt 10,66 tỷ USD, giảm 8,7%. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát đánh giá, trước hai thách thức lớn là hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu, kết quả đạt được là cố gắng lớn của toàn ngành. Cùng với việc xử lý những tình huống nghiêm trọng về thị trường, các đơn vị đã quyết liệt, kịp thời thực hiện các nhiệm vụ đặt ra, tái cơ cấu các lĩnh vực đã có sự chuyển biến tích cực trên thực tế. Về nhiệm vụ từ nay đến cuối năm, Bộ trưởng Cao Đức Phát yêu cầu thực hiện các giải pháp đồng bộ để sản xuất nông nghiệp có khả năng cạnh tranh cao hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn gắn với xây dựng nông thôn mới. Các lĩnh vực cần tận dụng mọi khả năng để phục hồi, duy trì tăng trưởng sản xuất, triển khai có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. “Trong chỉ đạo điều hành phải luôn sâu sát, quyết liệt, đặc biệt lưu ý luôn thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ quản lý nhà nước; trong đó chú trọng xây dựng, triển khai, thực hiện các cơ chế, chính sách, nhất là các cơ chế chính sách có tính chất động lực. Chỉ đạo giải quyết các vấn đề tình thế nhưng cũng phải chú ý đến vấn đề dài hạn, phương châm là suy nghĩ chiến lược, hành động cụ thể”, Bộ trưởng Cao Đức Phát nêu rõ. …
| Tin mới | admin | 30/06/2016 | | Thông tư số 14/TT-BNNPTNT ngày 02 tháng 6 năm 2016 quy định về vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh | …
| Thông tư | admin | 30/06/2016 | | Canada tìm ra công nghệ phát hiện giới tính trứng gà trước khi ấp | Giáo sư Michael Ngadi thuộc Đại học McGill, cho biết điểm khác là công nghệ mới này sử dụng kỹ thuật hình ảnh liên quang cho phép những quả trứng được nhìn thấu dưới màu sắc khác nhau của ánh sáng. Theo đó, khi nhìn qua vỏ trứng dưới ánh sáng hồng ngoại, phôi đực và cái có sự phân bố khác nhau của các tế bào. Với sự hỗ trợ của Hiệp hội các chủ trang trại sản xuất trứng gà vùng Ontario (Canada), kỹ thuật này đang được các nhà nghiên cứu của Đại học McGill thúc đẩy với năng suất từ 3.000-6.000 quả trứng mỗi giờ. Những quả trứng giống không được chọn sẽ được đưa ra thị trường tiêu thụ như trứng thương phẩm, thay vì được đem đi ấp. Công nghệ này được đánh giá là hiệu quả nhất và là giải pháp bền vững nhằm chấm dứt tình trạng hàng triệu con gà trống con bị giết chết ngay sau khi ra khỏi lồng ấp. Phát minh này đang nhận được sự chào đón không chỉ từ các nhà sản xuất trứng Canada, mà cả ở Mỹ, châu Âu và nhất là từ các tổ chức bảo vệ động vật. Trước đó, các tổ chức bảo vệ động vật cùng các hiệp hội khoa học đã tìm kiếm những giải pháp công nghệ mới nhằm chung tay chấm dứt thực trạng hàng trăm triệu gà trống con phải chết hằng năm trong quy trình chăn nuôi công nghiệp. Ước tính có đến 50 triệu gà trống con bị giết chết trong ngành công nghiệp gia cầm của Pháp mỗi năm, ở Đức cũng với con số tương đương, còn ở Mỹ là cao gấp đôi. Trước đây cũng đã có các công nghệ kiểm tra giới tính của trứng gà, nhưng các phương pháp này đều chỉ thực hiện được khi trứng đã cho vào ấp và gây lãng phí vì trứng bị loại vẫn bị tiêu hủy mà không thể đem ra bán trên thị …
| Tin mới | admin | 28/06/2016 | | Thông báo số 5130/TB-VP-BNN ngày 20 tháng 6 năm 2016 thông báo ý kiến kết luận của thứ trưởng Vũ Văn Tám về Hội nghị phát triển chăn nuôi trong điều kiện hạn hán ở các tỉnh Duyên hải miền Trung | …
| Thông báo | admin | 22/06/2016 | | Thông báo số 5128/TB-BNN-VP ngày 20/6/2016 Thông báo ý kiến Kết luận của Bộ trưởng Cao Đức Phát tại cuộc họp đánh giá 3 năm thực hiện đề án tái cơ cấu chăn nuôi | …
| Thông báo | admin | 22/06/2016 | | Thông tư 08/2016/TT-BNNPTNT ngày 01/6/2016 Quy định giám sát an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản | …
| Thông tư | admin | 22/06/2016 | | Điện thoại liên hệ: | Bộ phận “Một cửa”: 043.728.6130 Phó chánh Văn phòng, Trưởng Bộ phận “Một cửa”: Ông Đặng Đình …
| Liên hệ công tác | admin | 21/06/2016 | | Ngành nông nghiệp tập trung khôi phục tốc độ tăng trưởng | Chia sẻ với báo chí tại buổi gặp mặt nhân kỷ niệm 91 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam21/6, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho biết “Trong những tháng tới phải tìm mọi cách khôi phục lại tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, không chỉ cho năm nay mà cho những năm sau”. Theo đó, trong những tháng cuối năm 2016, ngành nông nghiệp tiếp tục tập trung chỉ đạo, khắc phục hậu quả của thiên tai, khôi phục sản xuất; đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để xoay chuyển tình thế như việc kịp thời nắm tình hình thị trường; đề xuất các giải pháp để giữ vững thị trường trong nước và xuất khẩu… Về trồng trọt, đối với cây trồng hàng năm (lúa, hoa màu), Cục Trồng trọt phối hợp với các địa phương triển khai sản xuất trên diện tích tối đa, đảm bảo đạt năng suất cao, đúng thời vụ. Đối với cây lâu năm, Cục Trồng trọt phối hợp với các địa phương để hướng dẫn nông dân khôi phục lại diện tích chết do hạn hán và dịch bệnh. “Bây giờ là lúc chúng ta phải hướng dẫn cho dân rất kỹ để khôi phục lại các vườn cây lâu năm và hậu quả của nó sẽ kéo dài không chỉ có năm nay mà ít nhất 2 – 3 năm nữa” – Bộ trưởng Cao Đức Phát nhấn mạnh. Bên cạnh đó, Cục Bảo vệ thực vật theo dõi sát sao để kiểm soát dịch bệnh và đề xuất các giải pháp để đảm bảo an toàn thực phẩm trên rau, chè và hồ tiêu để củng cố và giữ niềm tin với hàng nông sản của Việt Nam ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Đối với chăn nuôi là ngành được đặt hy vọng kéo và bù lại tăng trưởng cho ngành trồng trọt và thời cơ của ngành chăn nuôi đang rất tốt. Vì thế, theo Bộ trưởng Cao Đức Phát, cần phải tận dụng thời cơ này để thúc đẩy sản xuất mạnh lên, nhưng phải chú ý làm một cách bền vững. Ngành chăn nuôi cũng cần tiếp tục giám sát việc sử dụng chất cấm, kháng sinh để duy trì kết quả đạt được và tiếp tục đẩy lùi, ngăn chặn việc lạm dụng trong sử dụng. Trong lĩnh vực thủy sản, Tổng cục Thủy sản đã lập một tổ công tác trực tiếp nằm trong Nam bộ để theo dõi sát sao, chỉ đạo về mặt kỹ thuật để khôi phục nhanh việc nuôi tôm; đồng thời khôi phục sản xuất và nuôi trồng thủy sản ở một số tỉnh miền Trung để sớm ổn định đời sống ngư dân. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong những tháng đầu năm 2016, ngành nông nghiệp đã phải ứng phó với rất nhiều tình huống cấp bách về thiên tai, cực đoan trong nhiều thập kỷ mới có. Do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino và biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài đã làm khoảng 288.259 hộ dân thiếu nước sinh hoạt; 249.944 ha lúa, 18.960 ha hoa màu, 30.522 ha cây ăn quả, 149.704 ha cây công nghiệp bị thiệt hại, sản lượng lúa giảm khoảng 844 nghìn tấn. Tính đến ngày 20/5, ước khoảng 1.355 con gia súc gia cầm bị chết và hàng ngàn con khác đang thiếu nước uống; ước khoảng 6.857 ha nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại. Tính đến giữa tháng 5/2016, t ổng thiệt hại trên phạm vi cả nước vào khoảng 9.735 tỷ đồng (thiệt hại do rét đậm, rét hại là 700 tỷ đồng, thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn là 8.906 tỷ đồng, thiệt hại do dông, lốc, sét, mưa đá là 129 tỷ đồng). Nhìn chung, sản xuất hầu hết các lĩnh vực trồng trọt , nuôi trồng thủy sản đều suy giảm nghiêm trọng về sản lượng và diện tích nuôi trồng. Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, vụ lúa Đông Xuân cả nước diện tích ước đạt 3,1 triệu ha, năng suất ước đạt 64,2 tạ/ha, sản lượng ước đạt 19,9 triệu tấn, giảm khoảng 844 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân năm trước… Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung nhưng lĩnh vực chăn nuôi lại đang nổi lên như một điể m sáng về tăng trưởng sản xuất và thu hút nhiều doanh nghiệp lớn tham gia đầu tư, xây dựng chuỗi chăn nuôi hiện đại, khép kín. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thông kê, đàn trâu cả nước giảm 1,5-2%, đàn bò tăng khoảng 1-1,5% so với cùng kỳ năm 2015; đàn lợn và gia cầm tăng mạnh, tăng khoảng 3 – 3,5% so với cùng kỳ. Đáng lưu ý, một loạt các doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Hòa Phát, Công ty cổ phần Hùng Vương bắt đầu đầu tư vào nuôi lợn theo chuỗi khép kín, hiện đại với số lượng rất lớn trong bối cảnh thị trường Trung Quốc đang dự báo sẽ thiếu nguồn cung về thịt. Như vậy, đây là một cơ hội lớn để doanh nghiệp giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm chăn nuôi./. …
| Tin mới | admin | 21/06/2016 | | Nông nghiệp Việt: “Miếng bánh” thơm thu hút đầu tư công nghệ cao | Đứng trước cơ hội của thị trường, nhiều “ông lớn” thuộc các thành phần kinh tế khác đã quyết định đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao với kỳ vọng sớm chiếm lĩnh thị phần, tiến tới đưa sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu. Loạt bài “Nông nghiệp Việt: ‘Miếng bánh’ thơm thu hút đầu tư công nghệ cao” của nhóm phóng viên VietnamPlus sẽ đem tới cho độc giả cái nhìn cụ thể về vấn đề này. Bài 1: Vì sao xuất hiện làn sóng “đại gia” ồ ạt đầu tư vào nông nghiệp? Lợi nhuận khủng, ưu đãi từ cơ quan chức năng, cơ hội từ thị trường… là những “miếng mồi” hấp dẫn thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp sạch… “Thu tiền nhanh” Là quốc gia nông nghiệp, Việt Nam có nhiều thế mạnh về khí hậu, các giống cây trồng, vật nuôi. Thậm chí, có nhiều đặc sản mà nhiều quốc gia không có. Thế nhưng, do cách làm manh mún, thiếu hiệu quả, suốt bao nhiêu năm qua, ngành nông nghiệp vẫn loay hoay với bài toán thực phẩm sạch, an toàn, cho năng suất cao và sản phẩm của Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Ở trong nước, nhu cầu thực phẩm sạch cũng “nóng” lên hàng ngày. Người tiêu dùng ngày càng lo ngại và không ít người thành thị đã phải tự trồng rau để đáp ứng phần nào nhu cầu thực phẩm cho gia đình. Điều này đòi hỏi cần có sự đổi mới trong ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, trồng trọt để làm ra sản phẩm an toàn, năng suất cao để cung cấp ra thị trường. Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho hay, nhu cầu của thị trường của sản phẩm nông nghiệp sạch là rất lớn. Theo một điều tra của đơn vị này tại hai thành phố lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, về ngành hàng thịt lợn, rau, người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn 30% giá trị của sản phẩm nếu biết được đó là sản phẩm an toàn và có nguồn gốc. Thế nhưng, với một nền nông nghiệp theo quy mô hộ gia đình, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, ngành nông nghiệp vẫn loay hoay với bài toán đầu tư để phát triển. Trước yêu cầu thực tế, Chính phủ đã có nhiều chính sách để hút các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này như ưu đãi về thuế đất, thuê mặt nước, hỗ trợ lãi suất tiền vay, hỗ trợ hạ tầng, phát triển thương hiệu… Khu vực trồng cà chua theo công nghệ Fujitsu của FPT. (Ảnh: FPT) Nói về câu chuyện “đại gia” làm nông nghiệp, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn bảo rằng, các doanh nghiệp thấy ngành này có cơ hội. Bởi, đầu tư vào nông nghiệp có cái lợi là “thu tiền nhanh.” Cụ thể, nếu như trước đây, doanh nghiệp đầu tư vào bất động sản, xây dựng, sắt thép… thì nay thấy nông nghiệp là ngành cạnh tranh tốt với các điều kiện về tự nhiên, lao động giá rẻ… Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát không ít lần bày tỏ mong muốn nền nông nghiệp Việt Nam được hiện đại hóa, có sức cạnh tranh cao và hội nhập nhanh chóng với thị trường quốc tế. Muốn làm được điều này, cần phải có khoa học công nghệ cao và bản thân doanh nghiệp sẽ là chất xúc tác, đòn bẩy đưa khoa học vào nông nghiệp một cách bài bản và hiệu quả nhất. Lợi nhuận “khủng” nhờ bán bò Trên thực tế, trong vài năm gần đây, có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp với quy mô lớn như Vinamilk, TH Truemilk, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, VinGroup… Những đơn vị này cũng áp dụng nhiều quy trình sản xuất hiện đại, áp dụng công nghệ mới và đã cho những kết quả ban đầu khá tốt như nguồn sữa sạch, thực phẩm sạch có chất lượng cao. Một ví dụ điển hình, theo ông Võ Hoàng Sơn, Tổng giám đốc Công ty Hoàng Anh Gia Lai, doanh thu bán hàng quý 1 của Công ty tăng 923 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2015, kéo theo nhuận sau thuế đạt 303 tỷ đồng, tăng 232% (quý 1/2015: 91 tỷ đồng). Nguyên nhân có được kết quả kinh doanh đột biến là nhờ vào đàn bò. Cụ thể, doanh thu bán bò trong quý đạt 1.233 tỷ đồng trong khi giá vốn là 1.100 tỷ đồng. Những con số này là rất đáng chú ý nếu đặt trong bối cảnh gần một năm nay, nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán không khỏi “mất ngủ” trước sự trượt dốc giá cổ phiếu của Hoàng Anh Gia Lai (mã HAG-HoSE) từ mức 26.100 đồng/cổ phiếu (phiên 3/10/2014) xuống còn 6.700 đồng (phiên 19/4/2016). Bên cạnh kết quả kinh doanh tốt từ mảng nông nghiệp, cùng với những cam kết hỗ trợ từ phía các ngân hàng, giá cổ phiếu HAG đã có những chuyển biến tích cực hơn, chốt giá giao dịch ngày 29/4 đạt 8.000 đồng/cổ phiếu. “Đại gia thép” Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát (mã HPG-HoSE) tại Hội nghị cổ đông năm 2015 cũng đã thông qua việc góp vốn thành lập Công ty nông nghiệp quản lý hoạt động chăn nuôi và sản xuất thức ăn chăn nuôi với vốn điều lệ dự kiến 2.500 tỷ đồng. Trang trại của VinGroup hứa hẹn cho các sản phẩm nông nghiệp sạch năng suất cao. (Nguồn: VinGroup) Còn đại diện của Tập đoàn VinGroup thì cho biết, tháng 3/2015, đơn vị này đã gia nhập lĩnh vực nông nghiệp với mong muốn góp phần cung cấp nguồn nông phẩm sạch, an toàn cho người dân. Tới cuối tháng 7/2015, VinGroup đã ký kết hợp tác với 3 đối tác hàng đầu thế giới về cung ứng công nghệ cao cho sản xuất nông nghiệp với tổng trị giá lên tới trên 1.000 tỷ đồng. Ba đối tác này đều đến từ những nền nông nghiệp nổi tiếng, gồm NETAFIM (Israel); KUBOTA (Nhật Bản) và Teshuva Agricultural Projects – TAP (Israel). Các đối tác sẽ cung cấp cho VinEco nền tảng công nghệ cao phục vụ sản xuất nông nghiệp an toàn trên quy mô lớn theo tiêu chuẩn VIETGAP và GLOBALGAP. Phía VinGroup cũng cho rằng, với bản chất tốt đẹp của người nông dân, khi có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn, đưa phương thức sản xuất, kinh doanh bài bản thì ngành nông nghiệp sẽ có bước tăng trưởng mạnh mẽ, hấp dẫn đầu tư trong và ngoài nước./. Bài 2: Nông nghiệp công nghệ cao: Ai “dắt nông dân nhỏ” vào thị trường …
| Tin mới | admin | 21/06/2016 | | 1. Công nhận cơ sở đủ điều kiện khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức, cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Giấy đề nghị công nhận cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm (theo Mẫu KN-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) một trong các giấy tờ sau: Quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp; Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh); Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (hoặc Giấy phép đầu tư). Bản chính thuyết minh điều kiện cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm (theo Mẫu KN-2a hoặc Mẫu KN-2b tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) chứng chỉ hành nghề của chủ cơ sở hoặc người phụ trách kỹ thuật. + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong vòng 12 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ và tổ chức kiểm tra, đánh giá điều kiện cơ sở đăng ký. Trong trường hợp kết quả kiểm tra điều kiện cơ sở không đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản cho cơ sở về nội dung không phù hợp và thời gian yêu cầu báo cáo khắc phục. Trong thời gian 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo khắc phục của cơ sở, Cục Chăn nuôi xem xét đánh giá báo cáo khắc phục; nếu cần thiết sẽ tổ chức kiểm tra các nội dung đã khắc phục. Trong trường hợp kết quả kiểm tra điều kiện cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi trình Bộ cho ý kiến về việc công nhận cơ sở đủ điều kiện khảo nghiệm, thử nghiệm trong thời gian 05 ngày làm việc. + Trong thời gian 02 ngày làm việc sau khi có ý kiến chấp thuận của Bộ trưởng, Cục Chăn nuôi ban hành Quyết định công nhận cơ sở đủ điều kiện khảo nghiệm, thử nghiệm. Trường hợp Bộ không chấp thuận, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản cho cơ sở đăng ký và nêu rõ lý do. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: + Tổ chức. + Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: + Quyết định công nhận cơ sở đủ điều kiện khảo nghiệm, thử nghiệm. Thời hạn hiệu lực của Quyết định công nhận cơ sở đủ điều kiện khảo nghiệm, thử nghiệm: 05 năm. + Thông báo các nội dung không phù hợp và thời hạn khắc phục. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Giấy đề nghị công nhận cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm (theoMẫu KN-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản chính thuyết minh điều kiện cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm (theo Mẫu KN-2a hoặc Mẫu KN-2b tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Điều kiện cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường được thực hiện theo quy định tại điểm khoản 2 Điều 55 Nghị định số 33/2005/NĐ-CP ngày 15/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Thú y và khoản 5 Điều 52 Pháp lệnh Thú y. Riêng điểm đ khoản 2 Điều 55 Nghị định số 33/2005/NĐ-CP ngày 15/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Thú y được chi tiết như sau: Có đủ dụng cụ, phương tiện, thiết bị cần thiết đáp ứng yêu cầu khảo nghiệm, thử nghiệm. Trong trường hợp cơ sở không đủ dụng cụ, phương tiện, thiết bị phân tích các chỉ tiêu cần khảo nghiệm thì phải có hợp đồng với cơ sở kiểm nghiệm được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định. (Điều 6 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 2. Cho phép khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức, cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Giấy đăng ký khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm (theo Mẫu KN-3 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp); Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (hoặc Giấy chứng nhận đầu tư); Quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp. Bản mô tả thông tin kỹ thuật của sản phẩm (theo Mẫu KN-4 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản chính Phiếu kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm. Bản chính Đề cương khảo nghiệm, thử nghiệm (theo Mẫu KN-5a hoặc Mẫu KN-5b tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản chính Hợp đồng khảo nghiệm, thử nghiệm. Bản chính hoặc bản sao chứng thực Giấy chứng nhận lưu hành tự do (Certificate of free sale) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp (áp dụng đối với sản phẩm nhập khẩu). + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong vòng 12 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ đăng ký khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm theo các Quy chuẩn kỹ thuật. Trong trường hợp chưa có Quy chuẩn kỹ thuật, Tổng cục Thủy sản hoặc Cục Chăn nuôi tổ chức Hội đồng khoa học đánh giá đề cương khảo nghiệm. Nếu kết quả thẩm định, đánh giá hồ sơ và đề cương khảo nghiệm, thử nghiệm đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi trình Bộ cho ý kiến về việc cho phép khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm trong thời gian 05 ngày làm việc. Nếu kết quả thẩm định, đánh giá hồ sơ và đề cương khảo nghiệm, thử nghiệm không đạt yêu cầu hoặc không được Bộ chấp thuận, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản cho cơ sở đăng ký và nêu rõ lý do. + Trong thời gian 02 ngày làm việc sau khi có ý kiến chấp thuận của Bộ trưởng, Cục Chăn nuôi ban hành Quyết định khảo nghiệm, thử nghiệm và phân công đơn vị giám sát khảo nghiệm, thử nghiệm. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: + Tổ chức. + Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: + Quyết định khảo nghiệm, thử nghiệm và phân công đơn vị giám sát khảo nghiệm, thử nghiệm. Thời hạn hiệu lực của Quyết định khảo nghiệm, thử nghiệm và phân công đơn vị giám sát khảo nghiệm, thử nghiệm hoặc Văn bản không chấp thuận: Không. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Giấy đăng ký khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm (theo Mẫu KN-3 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản mô tả thông tin kỹ thuật của sản phẩm (theo Mẫu KN-4 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản chính Đề cương khảo nghiệm, thử nghiệm (theo Mẫu KN-5a hoặc Mẫu KN-5b tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Các trường hợp phải khảo nghiệm, thử nghiệm: + Sản phẩm mới sản xuất trong nước trước khi đăng ký lưu hành; + Sản phẩm nhập khẩu lần đầu vào Việt Nam do nước ngoài sản xuất chưa có tên trong danh mục sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản được phép lưu hành tại Việt Nam. (Khoản 1 Điều 8 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 3. Cấp Giấy chứng nhận lưu hành sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức, cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Giấy đăng ký lưu hành sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp); Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (hoặc Giấy phép đầu tư); Quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp. Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) chứng chỉ hành nghề sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi hoặc nuôi trồng thủy sản. Bản chính Tiêu chuẩn cơ sở (hoặc bản sao chụp Tiêu chuẩn công bố áp dụng (có xác nhận của cơ sở)). Nhãn của sản phẩm có xác nhận của cơ sở (theo hướng dẫn tại Mẫu ĐKLH-2 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) (in mầu, 02 bản). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) kết quả kiểm tra, đánh giá và phân loại điều kiện cơ sở theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bản chính thuyết minh quy trình sản xuất (theo Mẫu ĐKLH-3 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) đối với sản phẩm sản xuất trong nước. Bản chính hoặc bản sao (có xác nhận của cơ sở) Báo cáo kết quả nghiên cứu sản xuất, thử nghiệm và Quyết định công nhận tiến bộ kỹ thuật công nghệ sinh học của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn áp dụng đối với sản phẩm là kết quả của công trình nghiên cứu được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận tiến bộ kỹ thuật công nghệ sinh học. Bản chính báo cáo kết quả khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm (theo Mẫu KN-7 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) áp dụng đối với sản phẩm đã qua khảo nghiệm, thử nghiệm. Bản chính kết quả kiểm nghiệm của sản phẩm áp dụng đối với sản phẩm đăng ký theo quy định tại điểm a và c khoản 1 Điều 12 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015. Bản chính hoặc bản sao chứng thực Giấy chứng nhận lưu hành tự do (Certificate of free sale) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước sản xuất cấp đối với sản phẩm nhập khẩu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 12 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015. + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong thời gian 20 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ, tổ chức Hội đồng đánh giá kết quả kiểm nghiệm, khảo nghiệm, nghiên cứu sản phẩm. Nếu kết quả thẩm định hồ sơ, đánh giá của Hội đồng đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi trình Bộ trưởng cho ý kiến về việc công nhận sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường. Bộ cho ý kiến trong thời gian 05 ngày làm việc. + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ khi có ý kiến chấp thuận của Bộ trưởng, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận lưu hành từng sản phẩm đăng ký. Trong trường hợp không được Bộ chấp thuận, Cục Chăn nuôi thông báo cho cơ sở bằng văn bản, nêu rõ lý do và không trả lại hồ sơ. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: + Tổ chức. + Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: + Giấy chứng nhận lưu hành. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận lưu hành: 05 năm. + Văn bản không chấp thuận. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Giấy đăng ký lưu hành sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Nhãn của sản phẩm có xác nhận của cơ sở (theo hướng dẫn tại Mẫu ĐKLH-2 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản chính thuyết minh quy trình sản xuất (theo Mẫu ĐKLH-3 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) đối với sản phẩm sản xuất trong nước. Bản chính báo cáo kết quả khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm (theo Mẫu KN-7 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) áp dụng đối với sản phẩm đã qua khảo nghiệm, thử nghiệm. – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): + Đăng ký lưu hành sản phẩm lần đầu: Sản phẩm là kết quả của công trình nghiên cứu được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận tiến bộ kỹ thuật công nghệ sinh học theo quy định tại Thông tư số 23/2010/TT-BNNPTNT ngày ngày 07 tháng 4 năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về công nhận tiến bộ kỹ thuật công nghệ sinh học của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Sản phẩm mới sản xuất trong nước, sản phẩm lần đầu nhập khẩu vào Việt Nam đã được khảo nghiệm, thử nghiệm theo quy định tại Điều 9 Thông tư này. Sản phẩm đáp ứng các quy định tại Phụ lục IIA hoặc Phụ lục IIB ban hành kèm theo Thông tư này và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng (nếu có). + Đăng ký lưu hành lại sản phẩm: Sản phẩm đã được công nhận lưu hành tại Việt Nam khi có sự thay đổi một trong các trường hợp sau phải đăng ký lại: Thay đổi thành phần, công thức; thay đổi dạng bào chế; thay đổi đối tượng sử dụng; thay đổi phương pháp, quy trình sản xuất mà làm thay đổi chất lượng sản phẩm; thay đổi khi đánh giá lại chất lượng, hiệu quả, độ an toàn của sản phẩm. (Khoản 1, khoản 2 Điều 12 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 4. Gia hạn Giấy chứng nhận lưu hành sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức, cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Giấy đăng ký lưu hành sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp); Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (hoặc Giấy phép đầu tư); Quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp. Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) chứng chỉ hành nghề sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi hoặc nuôi trồng thủy sản. Bản chính Tiêu chuẩn cơ sở (hoặc bản sao chụp Tiêu chuẩn công bố áp dụng (có xác nhận của cơ sở)). Nhãn của sản phẩm có xác nhận của cơ sở (theo hướng dẫn tại Mẫu ĐKLH-2 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) (in mầu, 02 bản). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) kết quả kiểm tra, đánh giá và phân loại điều kiện cơ sở theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) Giấy chứng nhận lưu hành hoặc văn bản chứng nhận lưu hành do cơ quan có thẩm quyền cấp. Bản chính kết quả kiểm nghiệm của sản phẩm, Báo cáo quá trình sản xuất, kinh doanh và sử dụng sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-4 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong thời gian 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi tổ chức thẩm định hồ sơ và đánh giá kết quả kiểm nghiệm, báo cáo quá trình sản xuất, kinh doanh và sử dụng sản phẩm. Nếu kết quả thẩm định và đánh giá đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận lưu hành từng sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi cho cơ sở đăng ký gia hạn. Trường hợp không cấp Giấy chứng nhận lưu hành, Cục Chăn nuôi thông báo cho cơ sở bằng văn bản, nêu rõ lý do. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: + Tổ chức. + Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: + Giấy chứng nhận lưu hành. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận lưu hành: 05 năm. + Văn bản không chấp thuận. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Giấy đăng ký lưu hành sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Nhãn của sản phẩm có xác nhận của cơ sở (theo hướng dẫn tại Mẫu ĐKLH-2 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản chính kết quả kiểm nghiệm của sản phẩm, Báo cáo quá trình sản xuất, kinh doanh và sử dụng sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-4 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Sản phẩm trước khi hết hiệu lực lưu hành 06 tháng, khi cơ sở có nhu cầu đăng ký lưu hành tiếp (Khoản 3 Điều 12 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 5. Thay đổi thông tin Giấy chứng nhận lưu hành sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức, cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Giấy đăng ký lưu hành sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản chính Tiêu chuẩn cơ sở (hoặc bản sao chụp Tiêu chuẩn công bố áp dụng (có xác nhận của cơ sở)). Nhãn của sản phẩm có xác nhận của cơ sở (theo hướng dẫn tại Mẫu ĐKLH-2 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) (in mầu, 02 bản). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) kết quả kiểm tra, đánh giá và phân loại điều kiện cơ sở theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) Giấy chứng nhận lưu hành hoặc văn bản chứng nhận lưu hành do cơ quan có thẩm quyền cấp. Giấy đề nghị thay đổi thông tin sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-5 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong thời gian 08 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ. Nếu kết quả thẩm định hồ sơ đạt yêu cầu, Cục Chăn nuôi cấp Giấy chứng nhận lưu hành từng sản phẩm đã thay đổi thông tin. Thông báo cho cơ sở bằng văn bản, nêu rõ lý do nếu không cấp Giấy chứng nhận lưu hành. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: + Tổ chức. + Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: + Giấy chứng nhận lưu hành. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận lưu hành: 05 năm. + Văn bản không chấp thuận. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Giấy đăng ký lưu hành sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Nhãn của sản phẩm có xác nhận của cơ sở (theo hướng dẫn tại Mẫu ĐKLH-2 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Giấy đề nghị thay đổi thông tin sản phẩm (theo Mẫu ĐKLH-5 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Sản phẩm đang được phép lưu hành tại Việt Nam khi có một trong những thay đổi sau: + Thay đổi loại hình doanh nghiệp, tên doanh nghiệp. + Thay đổi hình thức trình bày nhãn. + Thay đổi hoặc bổ sung quy cách, bao bì đóng gói. + Thay đổi trụ sở chính hoặc địa điểm sản xuất. + Thay đổi hình thức, màu sắc của sản phẩm nhưng chất lượng của sản phẩm không thay đổi. (Khoản 4 Điều 12 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 6. Chứng nhận chất lượng sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi nhập khẩu | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức, cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng (theo Mẫu KTCL-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này) (02 bản). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) các giấy tờ sau: Hợp đồng mua bán (Contract), Danh mục sản phẩm kèm theo (Packing list). Bản sao chứng thực Chứng chỉ chất lượng (C/A – Certificate of Analysis). Các tài liệu khác có liên quan: Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) vận đơn (Bill of Lading); hóa đơn (Invoice); tờ khai hàng hóa nhập khẩu; giấy chứng nhận xuất xứ (nếu có) (C/O-Certificate of Origin); ảnh hoặc bản mô tả sản phẩm; mẫu nhãn hàng nhập khẩu (đã được gắn dấu hợp quy nếu sản phẩm đã được công bố hợp quy) và nhãn phụ (nếu nhãn chính chưa đủ nội dung theo quy định. + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong thời gian 03 ngày làm việc khi nhận được hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ và thông báo chất lượng sản phẩm. +Trường hợp sản phẩm nhập khẩu thuộc đối tượng theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 18 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015, Cục Chăn nuôi xác nhận Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc, Cục Chăn nuôi tiến hành thu mẫu kiểm nghiệm, phân tích chất lượng và thông báo kết quả kiểm tra chất lượng sản phẩm cho cơ sở. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: + Tổ chức. + Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy xác nhận chất lượng hoặc Thông báo không đạt chất lượng. Thời hạn hiệu lực của Giấy Giấy xác nhận chất lượng hoặc Thông báo không đạt chất lượng: Không. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng (theo Mẫu KTCL-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 7. Chứng nhận chất lượng sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi xuất khẩu | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Tổ chức, cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng (theo Mẫu KTCL-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) các giấy tờ sau: Hợp đồng mua bán, tiêu chuẩn công bố áp dụng, mẫu nhãn sản phẩm và các hồ sơ khác có liên quan. Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp); Giấy chứng nhận đầu tư; Quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp. Bản sao chụp (có xác nhận của cơ sở) kết quả kiểm tra, đánh giá và phân loại điều kiện cơ sở đạt loại A hoặc B. + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong thời gian 10 ngày làm việc khi nhận được hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi thẩm định hồ sơ, thông báo cho cơ sở kế hoạch thu mẫu kiểm tra; tổ chức thu mẫu hoặc ủy quyền cho cơ quan quản lý về lĩnh vực chăn nuôi hoặc nuôi trồng thủy sản địa phương tiến hành thu mẫu kiểm tra; chuyển mẫu cho cơ sở kiểm nghiệm để kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm; thông báo kết quả kiểm tra chất lượng sản phẩm xuất khẩu ngay khi có phiếu kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm của cơ sở kiểm nghiệm. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: + Tổ chức. + Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy xác nhận chất lượng hoặc Thông báo không đạt chất lượng. Thời hạn hiệu lực của Giấy Giấy xác nhận chất lượng hoặc Thông báo không đạt chất lượng: Không. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng (theo Mẫu KTCL-1 tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 8. Cấp chứng chỉ hành nghề sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Đơn đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề (theo Mẫu CCHN-1 Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) kèm theo 2 ảnh màu 4 x 6 cm. Bản sao chứng thực bằng cấp, giấy chứng nhận trình độ chuyên môn. Sơ yếu lý lịch. Giấy chứng nhận sức khỏe xác nhận đủ sức khỏe để làm việc do cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên cấp. Giấy xác nhận của cơ sở sản xuất, kiểm nghiệm, khảo nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường về thời gian đã thực hành tại cơ sở áp dụng đối với trường hợp quy định tại điểm a, c khoản 1, 2 Điều 23 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015. Văn bản đồng ý của Thủ trưởng cơ quan nơi người đó công tác áp dụng đối với trường hợp người đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề là cán bộ, công chức. + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong thời gian 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Chăn nuôi kiểm tra hồ sơ và cấp chứng chỉ hành nghề cho người đăng ký nếu hồ sơ đạt yêu cầu. Trường hợp không cấp chứng chỉ hành nghề, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản cho người đề nghị cấp và nêu rõ lý do. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: + Chứng chỉ hành nghề. Thời hạn hiệu lực của Chứng chỉ hành nghề: 05 năm. + Văn bản không chấp thuận. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Đơn đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề (theo Mẫu CCHN-1 Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015). – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): + Điều kiện về bằng cấp chuyên môn hành nghề sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, kiểm nghiệm, khảo nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi: Chủ hoặc người phụ trách kỹ thuật của cơ sở hành nghề sản xuất, kiểm nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng kỹ sư chăn nuôi thú y, bác sỹ thú y, dược sỹ; có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đăng ký hành nghề. Chủ cửa hàng kinh doanh sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng trung cấp chăn nuôi thú y, thú y. Người trực tiếp bán hàng tối thiểu phải có chứng chỉ tập huấn về lĩnh vực đăng ký hành nghề do cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành cấp. Chủ hoặc người phụ trách kỹ thuật của cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng kỹ sư chăn nuôi thú y, bác sỹ thú y, có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đăng ký hành nghề. Chủ hoặc người phụ trách kỹ thuật của cơ sở xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng kỹ sư chăn nuôi thú y, bác sỹ thú y. + Điều kiện về sức khỏe: Điều kiện về sức khỏe đối với người hành nghề thú y được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 64 của Nghị định số 33/2005/NĐ-CP. + Điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề đối với người nước ngoài được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 64 của Nghị định số 33/2005/NĐ-CP. (Điều 23 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 9. Gia hạn (cấp lại) chứng chỉ hành nghề sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi | – Trình tự thực hiện: + Bước 1: Cá nhân trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện về Bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Cục Chăn nuôi. + Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra: Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cho cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi Phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả; vào sổ hồ sơ; sau đó chuyển hồ sơ cho phòng chuyên môn giải quyết. + Bước 3: Phòng chuyên môn xử lý hồ sơ, trình lãnh đạo Cục ký hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. + Bước 4: Chuyển kết quả về Bộ phận “một cửa” để trả kết quả cho cá nhân đúng hẹn. – Cách thức thực hiện: + Trực tiếp. + Qua đường bưu điện. – Thành phần, số lượng hồ sơ: + Hồ sơ gồm: Đơn đăng ký gia hạn chứng chỉ hành nghề (theo Mẫu CCHN-2 Phụ lục I Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) kèm theo 2 ảnh màu 4 x 6 cm. Bản sao hợp pháp chứng chỉ hành nghề đã cấp. Giấy chứng nhận sức khỏe xác nhận đủ sức khỏe để làm việc do cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên cấp. + Số lượng hồ sơ: 01 bộ. – Thời hạn giải quyết: + Trong thời gian 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi xem xét tính đầy đủ của hồ sơ và có văn bản hướng dẫn bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định. + Trong thời gian 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Chăn nuôi kiểm tra hồ sơ và cấp chứng chỉ hành nghề cho người đăng ký nếu hồ sơ đạt yêu cầu. Trường hợp không cấp chứng chỉ hành nghề, Cục Chăn nuôi thông báo bằng văn bản cho người đề nghị cấp và nêu rõ lý do. – Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Cá nhân. – Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. – Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: + Chứng chỉ hành nghề. Thời hạn hiệu lực của Chứng chỉ hành nghề: 05 năm. + Văn bản không chấp thuận. – Lệ phí (nếu có): Không. – Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Đơn đăng ký gia hạn chứng chỉ hành nghề (theo Mẫu CCHN-2 Phụ lục I Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015) kèm theo 2 ảnh màu 4 x 6 cm. – Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): + Điều kiện về bằng cấp chuyên môn hành nghề sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, kiểm nghiệm, khảo nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi: Chủ hoặc người phụ trách kỹ thuật của cơ sở hành nghề sản xuất, kiểm nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng kỹ sư chăn nuôi thú y, bác sỹ thú y, dược sỹ; có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đăng ký hành nghề. Chủ cửa hàng kinh doanh sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng trung cấp chăn nuôi thú y, thú y. Người trực tiếp bán hàng tối thiểu phải có chứng chỉ tập huấn về lĩnh vực đăng ký hành nghề do cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành cấp. Chủ hoặc người phụ trách kỹ thuật của cơ sở khảo nghiệm, thử nghiệm sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng kỹ sư chăn nuôi thú y, bác sỹ thú y, có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đăng ký hành nghề. Chủ hoặc người phụ trách kỹ thuật của cơ sở xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong chăn nuôi tối thiểu phải có bằng kỹ sư chăn nuôi thú y, bác sỹ thú y. + Điều kiện về sức khỏe: Điều kiện về sức khỏe đối với người hành nghề thú y được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 64 của Nghị định số 33/2005/NĐ-CP. + Điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề đối với người nước ngoài được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 64 của Nghị định số 33/2005/NĐ-CP. (Điều 23 Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). – Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: Thông tư số 23/2015/TT-BNNPTNT ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 1. Đăng ký khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi mới | 1.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm kiểm tra thành phần hồ sơ và thông báo bằng văn bản cho tổ chức, cá nhân đăng ký những thành phần hồ sơ chưa đạt yêu cầu để bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn không quá 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm thành lập hội đồng hoặc tiến hành soát xét, phê duyệt nội dung đề cương khảo nghiệm, kiểm tra điều kiện cơ sở khảo nghiệm và ban hành quyết định phê duyệt nội dung đề cương khảo nghiệm. Trường hợp không ban hành quyết định phê duyệt nội dung đề cương khảo nghiệm, Cục Chăn nuôi phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 1.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 1.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi (theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017); – Đề cương khảo nghiệm; – Bản thuyết minh điều kiện của cơ sở thực hiện khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi theo các tiêu chí quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 1.4. Thời hạn giải quyết: Không quá 35 ngày làm việc. – Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ: Không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký khảo nghiệm. – Thẩm định hồ sơ, thành lập Hội đồng thẩm định hoặc tiến hành soát xét, phê duyệt nội dung đề cương khảo nghiệm: Không quá 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. 1.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 1.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 1.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định phê duyệt nội dung đề cương khảo nghiệm. Thời hạn hiệu lực của Quyết định phê duyệt nội dung khảo nghiệm: Không. 1.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 1.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Đơn đăng ký khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi (theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017). 1.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Điều kiện đối với cơ sở khảo nghiệm thức ăn chăn nuôi: – Có hoặc thuê địa điểm, cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên ngành đáp ứng yêu cầu khảo nghiệm từng loại thức ăn trên từng đối tượng vật nuôi; chuồng trại, ao, lồng, bè, bể phù hợp với việc bố trí khảo nghiệm. + Người phụ trách kỹ thuật phải có bằng tốt nghiệp từ đại học trở lên về chuyên ngành chăn nuôi, chăn nuôi – thú y, công nghệ sinh học. (Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản). 1.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản. – Thông tư số 20/2017/TT-BNNPTNT ngày 10 tháng 11 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 2. Công nhận thức ăn chăn nuôi mới | 2.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Kết thúc khảo nghiệm, tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Thành lập Hội đồng khoa học chuyên ngành để đánh giá kết quả khảo nghiệm và hoàn tất các thủ tục công nhận thức ăn chăn nuôi mới. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ khi nhận được báo cáo kết quả khảo nghiệm, Cục Chăn nuôi thành lập Hội đồng khoa học chuyên ngành để đánh giá kết quả khảo nghiệm và ban hành quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới. Trường hợp không ban hành quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới, Cục Chăn nuôi phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 2.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 2.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: Báo cáo kết quả khảo nghiệm. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 2.4. Thời hạn giải quyết: Không quá 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Báo cáo kết quả khảo nghiệm. 2.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 2.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 2.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới. Thời hạn hiệu lực của Quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới: Không. 2.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 2.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Không. 2.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không. 2.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản. – Thông tư số 20/2017/TT-BNNPTNT ngày 10 tháng 11 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 3. Đăng ký thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước được phép lưu hành tại Việt Nam | 3.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân (bao gồm cả trường hợp đăng ký thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành trở lại tại Việt Nam đối với trường hợp đã có thông báo ngừng lưu hành sản phẩm thức ăn chăn nuôi thương mại) gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm kiểm tra thành phần hồ sơ và thông báo bằng văn bản cho tổ chức, cá nhân đăng ký những thành phần hồ sơ chưa đạt yêu cầu để bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn không quá 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm thẩm định nội dung hồ sơ và ban hành văn bản xác nhận thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam và đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trường hợp không ban hành văn bản xác nhận, Cục Chăn nuôi phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 3.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 3.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam (theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017). – Bản sao thông báo tiếp nhận công bố hợp quy về điều kiện cơ sở sản xuất, gia công thức ăn chăn nuôi. – Bản chính hoặc bản sao chứng thực hợp đồng gia công thức ăn chăn nuôi (đối với trường hợp tổ chức, cá nhân đăng ký thức ăn chăn nuôi gia công tại cơ sở đã công bố hợp quy về điều kiện sản xuất, gia công thức ăn chăn nuôi). – Bản chính hoặc bản sao các giấy tờ sau: Tiêu chuẩn công bố áp dụng, thông báo tiếp nhận công bố hợp quy, quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới (nếu có). – Bản chính hoặc bản sao phiếu kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu chất lượng và an toàn của sản phẩm trong tiêu chuẩn công bố áp dụng và trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng được cấp bởi các phòng thử nghiệm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định hoặc thừa nhận. Trong trường hợp chỉ tiêu chất lượng, an toàn của sản phẩm chưa có phòng thử nghiệm được chỉ định, thừa nhận, thì Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định tạm thời đơn vị thực hiện thử nghiệm phù hợp. – Mẫu nhãn của sản phẩm (có đóng dấu xác nhận của nhà sản xuất). b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 3.4. Thời hạn giải quyết: Không quá 25 ngày làm việc. – Thời hạn kiểm tra thành phần hồ sơ: Không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký. – Thời hạn thẩm định nội dung hồ sơ, ban hành văn bản xác nhận: Không quá 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. 3.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 3.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 3.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Văn bản chấp thuận. Thời hạn hiệu lực của Văn bản chấp thuận: 05 năm. 3.8. Phí, lệ phí: Không. 3.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai: Mẫu Đơn đăng ký thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam (theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017). 3.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính: Thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Phải công bố tiêu chuẩn áp dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn và có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng. Phải công bố hợp quy theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng (nếu có). – Mỗi sản phẩm thức ăn chăn nuôi có một tiêu chuẩn chất lượng được công bố chỉ được đặt 01 tên thương mại tương ứng. – Thức ăn chăn nuôi mới: Sau khi có quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới của Bộ Nông nghiệp và PTNT, nếu tổ chức, cá nhân có thức ăn chăn nuôi mới có nhu cầu lưu hành tại Việt Nam thì phải tiến hành thực hiện các quy định tại điểm a khoản 2 Điều 12 Nghị định số 39/2017/NĐ-CP và được phép sử dụng các kết quả thử nghiệm trong hồ sơ công nhận thức ăn chăn nuôi mới cho hoạt động công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc công bố hợp quy. 3.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản. – Thông tư số 20/2017/TT-BNNPTNT ngày 10 tháng 11 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 4. Đăng ký thức ăn chăn nuôi nhập khẩu được phép lưu hành tại Việt Nam | 4.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân (bao gồm cả trường hợp đăng ký thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành trở lại tại Việt Nam đối với trường hợp đã có thông báo ngừng lưu hành sản phẩm thức ăn chăn nuôi thương mại) gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm kiểm tra thành phần hồ sơ và thông báo bằng văn bản cho tổ chức, cá nhân đăng ký những thành phần hồ sơ chưa đạt yêu cầu để bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn không quá 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm thẩm định nội dung hồ sơ và ban hành văn bản xác nhận thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam và đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trường hợp không ban hành văn bản xác nhận, Cục Chăn nuôi phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 4.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 4.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký thức ăn chăn nuôi nhập khẩu được phép lưu hành tại Việt Nam (theo Mẫu số 05 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017); – Giấy chứng nhận lưu hành tự do (Certificate of free sale) hoặc văn bản có giá trị tương đương của thức ăn chăn nuôi nhập khẩu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp theo quy định; – Bản sao một trong các giấy chứng nhận ISO, GMP, HACCP hoặc tương đương của cơ sở sản xuất; – Bản thông tin sản phẩm do nhà sản xuất cung cấp bao gồm: Tên các loại nguyên liệu, chỉ tiêu chất lượng, chỉ tiêu an toàn, công dụng, hướng dẫn sử dụng; – Bản tiêu chuẩn công bố áp dụng của tổ chức, cá nhân đăng ký thức ăn chăn nuôi nhập khẩu được phép lưu hành tại Việt Nam; nhãn phụ sản phẩm thể hiện bằng tiếng Việt theo quy định; – Phiếu kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu chất lượng và an toàn sản phẩm được cấp bởi phòng thử nghiệm do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ chỉ định hoặc được công nhận bởi tổ chức công nhận quốc tế, tổ chức công nhận khu vực hoặc do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định, thừa nhận; – Mẫu nhãn của sản phẩm (có xác nhận của nhà cung cấp hoặc nhà nhập khẩu); Hồ sơ là bản chính hoặc bản sao chứng thực kèm theo bản dịch ra tiếng Việt có xác nhận của tổ chức, cá nhân đăng ký nhập khẩu. Nếu bản chính không phải là tiếng Anh thì bản dịch tiếng Việt phải có dịch thuật và chứng thực. b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 4.4. Thời hạn giải quyết: Không quá 25 ngày làm việc. – Thời hạn kiểm tra thành phần hồ sơ: Không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký. – Thời hạn thẩm định nội dung hồ sơ, ban hành văn bản xác nhận: Không quá 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. 4.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 4.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 4.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Văn bản chấp thuận. Thời hạn hiệu lực của Văn bản chấp thuận: 05 năm. 4.8. Phí, lệ phí: Không. 4.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai: Mẫu Đơn đăng ký thức ăn chăn nuôi nhập khẩu được phép lưu hành tại Việt Nam (theo Mẫu số 05 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017). 4.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính: Thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Phải công bố tiêu chuẩn áp dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn và có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng. Phải công bố hợp quy theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng (nếu có). – Mỗi sản phẩm thức ăn chăn nuôi có một tiêu chuẩn chất lượng được công bố chỉ được đặt 01 tên thương mại tương ứng. – Thức ăn chăn nuôi mới: Sau khi có quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới của Bộ Nông nghiệp và PTNT, nếu tổ chức, cá nhân có thức ăn chăn nuôi mới có nhu cầu lưu hành tại Việt Nam thì phải tiến hành thực hiện các quy định tại điểm a khoản 2 Điều 12 Nghị định số 39/2017/NĐ-CP và được phép sử dụng các kết quả thử nghiệm trong hồ sơ công nhận thức ăn chăn nuôi mới cho hoạt động công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc công bố hợp quy. 4.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản. – Thông tư số 20/2017/TT-BNNPTNT ngày 10 tháng 11 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | | 5. Đăng ký lại thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam | 5.1. Trình tự thực hiện: – Bước 1: Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ về Cục Chăn nuôi. – Bước 2: Kiểm tra nội dung hồ sơ: Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm kiểm tra thành phần hồ sơ và thông báo bằng văn bản cho tổ chức, cá nhân đăng ký những thành phần hồ sơ chưa đạt yêu cầu để bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Chăn nuôi có trách nhiệm thẩm định nội dung hồ sơ và ban hành văn bản xác nhận thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam và đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trường hợp không ban hành văn bản xác nhận, Cục Chăn nuôi phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 5.2. Cách thức thực hiện: Chưa quy định. 5.3. Thành phần, số lượng hồ sơ: a) Hồ sơ gồm: – Đơn đăng ký lại thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam (theo Mẫu số 06 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017); – Bản tiêu chuẩn công bố áp dụng và bản thông báo tiếp nhận công bố hợp quy (nếu có) là bản chính hoặc bản sao chụp có xác nhận của nhà sản xuất; – Mẫu nhãn của sản phẩm (có đóng dấu xác nhận của nhà sản xuất, nhà cung cấp hoặc nhà nhập khẩu). b) Số lượng hồ sơ: 01 bộ. 5.4. Thời hạn giải quyết: Không quá 15 ngày làm việc. – Thời hạn kiểm tra thành phần hồ sơ: Không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký. – Thời hạn thẩm định nội dung hồ sơ, ban hành văn bản xác nhận: Không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. 5.5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: – Tổ chức. – Cá nhân. 5.6. Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính: Cục Chăn nuôi. 5.7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Văn bản chấp thuận. Thời hạn hiệu lực của Văn bản chấp thuận: Không. 5.8. Phí, lệ phí (nếu có): Không. 5.9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có): Mẫu Đơn đăng ký lại thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam (theo Mẫu số 06 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017). 5.10. Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Thức ăn chăn nuôi được phép lưu hành tại Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: – Phải công bố tiêu chuẩn áp dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn và có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng. Phải công bố hợp quy theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng (nếu có). – Mỗi sản phẩm thức ăn chăn nuôi có một tiêu chuẩn chất lượng được công bố chỉ được đặt 01 tên thương mại tương ứng. – Thức ăn chăn nuôi mới: Sau khi có quyết định công nhận thức ăn chăn nuôi mới của Bộ Nông nghiệp và PTNT, nếu tổ chức, cá nhân có thức ăn chăn nuôi mới có nhu cầu lưu hành tại Việt Nam thì phải tiến hành thực hiện các quy định tại điểm a khoản 2 Điều 12 Nghị định số 39/2017/NĐ-CP và được phép sử dụng các kết quả thử nghiệm trong hồ sơ công nhận thức ăn chăn nuôi mới cho hoạt động công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc công bố hợp quy. 5.11. Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: – Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản. – Thông tư số 20/2017/TT-BNNPTNT ngày 10 tháng 11 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện Nghị định số 39/2017/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy …
| Uncategorized | admin | 20/06/2016 | https://nongnghiep.vn/video/su-dung-nguyen-lieu-san-co-ha-gia-thanh-thuc-an-chan-nuoi-tv318341.html
Sử dụng nguyên liệu sẵn có hạ giá thành thức ăn chăn nuôi. Chờ đón sự kiện trình diễn quốc tế AGRITECHNICA Live 2022. Giá heo hơi ngày 18/3 tăng cao nhất 3.000 đồng/kg. Hành tím giảm giá do nguồn cung tăng.
Truyền hình Nông nghiệp
|