Vì sao phật giáo bị diệt ở ấn độ

Vìcó nhiều người thắc mắc việc Đạo Phật biến mất trênđất Ấn Độ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệtđỉnh.

Bạn đang xem: Tại sao phật giáo không phát triển ở ấn độ

Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả làmột người Ấn Độ, cũng là một người trưởng thành trongxã hôị Ấn Độ Giáo, dưới quan điểm của một học giảhiện đại để cống hiến qúy vị. 

* **

Sựbiến mất của Đạo Phật ở Ấn Độ, nơi nó đã đượcsinh ra, trưởng thành và đạt đến những thành tựu cao nhất,là một hiện tượng đáng ngạc nhiên và đau lòng. Thế nàovà tại sao Đạo Phật đã không tồn tại lâu dài trong nhữngngười gần gũi nhất với nó là một vấn đề khó hiểuvới nhiều ý kiến bất đồng. Quan điểm chung của các nhàhọc giả Ấn Độ là sự xao lãng và sa đọa trong đời sốngĐạo Đức và Tâm Linh của giới tu sĩ Phật Giáo, Tăng cũngnhư Ni. Tuy nhiên nhìn dưới ánh sáng lịch sử, việccho rằng sự xuống dốc về đạo đức của hàng ngũ TăngGià Phật Giáo dường như là chuyện hoang đường không cónhững bằng chứng xác đáng. Nói như Swami Vivekananda rằng:Phật Giáo phải chết, một cái chết tự nhiên trên đấtẤn Độ vì những đệ tử của Phật đã từ bỏ đấngThượng Đế vĩnh hằng ra khỏi đất nước cũng không đúng.Nếu đó là lý do thì tại sao Kỳ Na Giáo đã tồn tại trênđất Ấn khi Mahavira cũng không thừa nhận Thượng Đế làđấng Tối Cao. Tín đồ Kỳ Na Giáo, cũng giống như PhậtGiáo, không thừa nhận thẩm quyền của kinh điển Vệ Đà.Vì vậy, đó không phải là lý do suy tàn của Phật Giáo trênđất Ấn. 

Theoquan điểm của chúng tôi, Phật Giáo đã chết một cái chếtkhông tự nhiên, và những nguyên do đưa đến sự biến mấtcủa nó là những nguyên do bên ngoài hơn là bên trong. Khôngchỉ thế, một chiến dịch có hệ thống và tính toán đãđược tiến hành vì quyền lợi ích kỷ của người Bà LaMôn Giáo đã đẩy Phật Giáo ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốncủa nó. Lý do là vì Đức Phật đã lên án chế độ giaicấp và nhấn mạnh vào sự bình đẳng của mọi người. Trongkhi đó tín đồ của Bà La Môn bằng mọi cách bảo vệ hệthống giai cấp để bám lấy những ưu đãi của họ trongsự phân chia giai cấp đó, nhưng tín đồ Phật Giáo, khônggiống như tín đồ Kỳ Na Giáo, không chịu thỏa hiệp trênvấn đề nầy. Điều nầy đã đưa đến mâu thuẩn. NgườiBà La Môn một mặt phát động chiến dịch chống Phật Giáo,ngược đãi tín đồ Phật Giáo, một mặt đem những điểmtốt của Phật Giáo vào hệ thống của họ để thuyết phụcquần chúng. Những yếu tố ngoại tại, cộng với một vàisai lầm nội bộ đã nhanh chóng làm Phật Giáo suy tàn tạiẤn Độ. 

XUNGĐỘT GIỮA BÀ LA MÔN VÀ PHẬT GIÁO 

Trướckhi có Phật Giáo, Ấn Độ chưa từng biết đến những đạolý về bình đẳng và tình huynh đệ. Theo Nguyên Nhân Ca(PurushaSuka) của kinh Lê Câu Phệ Đà(Rig Veda), chủng tộc Bà La Mônsinh ra từ miệng, chủng tộc Sát Đế Lợi (Kshatriya) sinh ratừ tay, chủng tộc Phệ Xá(Vaishya) sinh ra từ đùi, và chủngtộc Thủ Đà La(Sudra) sinh ra từ bàn chân của Brahma là ThầnSáng Tạo. Xã hội này đặt nền tảng trên nguồn gốc thầnthoại Chaturvarna và được quy định bằng nguyên lý phân biệtgiai cấp; giai cấp Bà La Môn được xếp hàng đầu, tiếpđến là giai cấp Sát Đế Lợi, Phệ Xà, và Thủ Đà La làthấp nhất. Quy luật về sự phân biệt giai cấp cũng quy địnhnhững quyền lợi và ưu thế của họ. Ngay cả những hìnhphạt về sự phạm tội cũng được đặt trên nền tảngkhác biệt giai cấp. Người Bà La Môn sẽ bị hình phạt nhẹnhất và người thuộc giai cấp Thủ Đà La sẽ bị hình phạtnặng nhất. Như vậy, toàn bộ cơ cấu xã hội được đặttrên nguyên tắc bất bình đẳng. 

ĐứcPhật đã làm một cuộc cách mạng chống lại những luậtlệ xã hội áp bức đó và lên án hệ thống giai cấp. Ngàikhông thừa nhận nguồn gốc linh thiêng của giai cấp, và chứngminh sự dối trá của giai cấp Bà La Môn khi tuyên bố rằnghọ sinh ra từ miệng của Brahma. Ngài bác bỏ lời tuyên bốcủa người Bà La Môn, họ cho rằng chỉ có họ mới có thểđạt đến những đức hạnh tâm linh, và khẳng định rằngngười trong bất kỳ giai cấp, màu da hay tín ngưỡng nào đềucó thể phát triển trong tâm họ những đức hạnh đó. Ngàicòn đi xa hơn nữa: 

- Hãylàm cho không còn ai, nam hay nữ, bất kỳ thuộc nền tảngkinh tế xã hội nào, bị cản trở trên con đường đạt đếnsự toàn thiện. Đó là quyền của mỗi người, khả năngbên trong của mỗi người, và sự toàn thiện đó có thểđạt đến do sự cố gắng không ngừng của riêng mỗi người,không do sự giúp đỡ của một tha nhân, thần thánh hay siêunhiên nào. 

ĐứcPhật còn dạy rằng: Tất cả mọi người đều giống nhau,nếu phân chia họ ra một cách nhân tạo là hành động điênrồ. Trong kinh Vesttha, Ngài nói rằng: Trong đời sống củaloài thú có những sự khác biệt dựa trên những đặctính nền tảng khác nhau. Trong đời sống của các loài câycỏ cũng vậy. Nhưng không có những sự khác biệt như thếtrong sự phân loại loài người thành những ngăn kín, vì nhânloại là một và có cùng những đặc tính như nhau. Vì vậy,Đức Phật khẳng định một cách dứt khoát: Giá trị làđặt nền tảng trên những hành động, chứ không phải trênsự sinh ra, một sự việc vô tình, không phải là thước đocon người. Ngài cũng bước những bước cụ thể trong việcnhổ tận gốc sự tệ hại của giai cấp. Những bước đólà: Phơi trần huyền thoại về nguồn gốc thượng đẳngdo người Bà La Môn tuyên bố về họ; khuyến khích giai cấpthấp bằng cách thọ trai tại nhà họ; và chấp nhận nhữngngười thuộc giai cấp thấp xuất gia và được coi ngang hàngvới những người khác trong hàng ngũ Tăng Già. Hô hào cácTỳ Kheo quên giòng giống giai cấp của họ, một lần ĐứcPhật nói: Này các thầy, giống như những giòng sông, sôngHằng, sông Yamuna, sông Aciravati, sông Sarasvati, và sông Mahikhi chúng đều chảy về biển lớn. Cũng như vậy, này cácthầy, bốn giai cấp: Bà La Môn, Sát Đế Lỵ, Phệ Xá, vàThủ Đà La khi họ đi theo giáo pháp và giới luật của NhưLai, họ từ bỏ những khác biệt của giai cấp và sắp hạng,và trở thành những phần tử của một khối duy nhất vàđồng nhau. 

ỞẤn Độ vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch, người BàLa Môn giáo tìm sự cứu rổi và giải thoát bằng những tếlễ hy sinh, người theo đạo Kỳ Na và Ajivaka tế lễ bằngsự tự hành hạ thân xác. Đức Phật trái lại dạy đệtử của Ngài vượt qua biển khổ luân hồi bằng cách đemsự tốt đẹp cho chúng sanh khác, thay vì làm hại họ hay hạichính bản thân mình. Ngài dạy con đường đi đến Niết Bànbằng những phương tiện: 

1-Tự điều khiển, tự tiết chế, và giảm thiểu những đammê; 

2-Mở lòng thương yêu tất cả mọi loài, người, chim muông,thú vật; và 

3-Giúp đỡ người nghèo yếu. 

Ngàicũng nhấn mạnh: 

a-Cơ hội bình đẳng cho mọi người; 

b-Thân thế bình đẳng cho mọi người; 

c-Tự do tư tưởng; và 

d-Tình huynh đệ toàn khắp. 

KhiĐức Phật giảng Giáo Pháp của Ngài, nó lôi cuốn quần chúngở khắp mọi giới; giàu và nghèo, cao sang và thánh thiện,thấp thỏi và hạ tiện. Những người thuộc giai cấp BàLa Môn cũng không bị bỏ rơi. Thật vậy, phần lớn các đệtử thân cận của Đức Phật là những người thuộc giaicấp Bà La Môn. Ngay cả về sau, một số những ngọn đuốcdẫn đầu trong Đạo Phật là những vị từ Bà La Môn quayvề. Trong những thế kỷ tiếp sau, giáo lý xã hội của ĐứcPhật đã tạo một sức đẩy làm xã hội Ấn Độ tiến lên,và những giai cấp thấp xác định quyền bình đẳng củahọ, vì vậy mà tín đồ Bà La Môn đã quay lại chống đốiPhật Giáo. 

Thậtsự, người Bà La Môn không chống đối Phật Giáo trên nhữnggiáo lý thuộc triết lý hay đạo đức, nhưng điều mà họkhông thích là tư tưởng về sự bình đẳng trong Đạo Phật.Như Tiến sĩ Ambedkar nói: 

- Bấtbình đẳng là giáo lý chính thức của đạo Bà La Môn. ĐứcPhật chống lại gốc rể và cành lá của nó. Ngài là mộtđối thủ mạnh mẽ nhất của chế độ đẳng cấp và làcột trụ vững chãi nhất của tinh thần bình đẳng. Khôngcó một lý lẽ nào về vấn đề giai cấp mà ngài không bácbỏ. 

Chúngta không nghi ngờ rằng, được khuyến khích với tinh thầnbình đẳng do Đức Phật dạy, những người giai cấp thấptrong xã hội xác định quyền tự do của họ và chống lạisự ưu thế của người Bà la môn. Điều nầy làm suy yếunền tảng của hệ thống giai cấp và đã hạ tầng giai cấpBà La Môn xuống tận đất. 

KhiĐạo Phật yếu đi chút đỉnh, người Bà La Môn giáo dùngmọi cách để lấy lại quyền lực và danh vọng đã mất.Họ không những cố gắng phục hồi lại hệ thống giai cấpmà còn tìm cách hủy diệt những giáo pháp của Đức Phậtkhỏi đất nước Ấn Độ. Xin trích lời của Har Dayal: 

- Nhữngthầy tế triệt tiêu ngôn ngữ Pali trên đất Ấn. Họ khôngnhững ghét tiếng Pali về phương diện giáo lý, triết họchay những giới luật của Đức Phật. Họ biết Đức Phậtlà một vị Thầy lớn lao và tôn sùng Ngài. Nhưng họ muốnrằng những lời dạy tuyệt vời của Đức Phật không đượcnghe thấy trên đất Ấn, vì những lời dạy nầy có nănglực phá hủy thành lũy giai cấp. Họ nói: Dù tiếng Pali tiêudiệt; dù nước Ấn Độ tiêu diệt; nhưng giai cấp của chúngta phải nắm quyền lãnh đạo. 

Đểtranh đấu với Đạo Phật, người Bà La Môn phải làm nhiềuviệc sửa đổi trong những giáo lý của họ. Họ bỏ sựhy sinh súc vật để cúng tế. Họ cũng bải bỏ giáo lý chorằng các kinh điển Phệ Đà không thể sai lầm. Tuy nhiên,về quan điểm phân chia giai cấp (Chaturvarna), họ không chịuđầu hàng. Họ phải thừa nhận tác dụng của những lý lẽcủa Đức Phật chống lại Chaturvana. Và họ phát động mộtsự điều chỉnh triết học cho Chaturvana được tìm thấytrong sách Bạt Già Phạm Ca (Bhagavad-Gita), một tác phẩm cótrước Phật. Nói như P.L. Narasu trong cuốn Cốt Tủy ĐạoPhật: 

- Mụcđích chính của Gita là lén lút ủng hộ sự lãnh đạo vàdanh vọng của giai cấp Bà la môn, ra đời để đáp ứng nhữngnhu cầu mà Đạo Phật đã làm thỏa mãn. Bất cứ điều gìcao thượng và tuyệt vời trong Gita là điều mà Bà La Môngiáo đã vay mượn từ đối thủ của nó và xử dụng chomục đích riêng tư của mình. Đặc biệt là để ngăn chặnnhững người Thủ Đà La không từ bỏ niềm tin cố cựu củahọ. Phần còn lại là một khối những lặp đi lặp lại,những mâu thuẩn, những sự vô lý, kết quả của một cốgắng không thành công trong việc làm dung hòa mọi phương diệntrong quan điểm truyền thống. 

Mụcđích chính của Bạt Già Phạm Ca là bảo vệ, làm mạnh hệthống giai cấp được thấy rõ trong cách giải thích chữDharma (Pháp). Nghĩa chữ Dharma trong Phệ Đà là những nghi lễhay những nghi thức. Trong Gita cũng như trong Manu-Smriti, chữDharma được dùng có nghĩa là: Những bổn phận củabốn giai cấp trong thế gian. Trong Gita, Krishna bảo Arjuna chiếnđấu, vì đó là Dharma (bổn phận giai cấp) của ông ta. Ôngta còn nói: 

- Thàchết mà làm tròn bổn phận của giai cấp; làm theo nhữngbổn phận dành riêng cho giai cấp khác là việc làm nguy hiểm. 

Tínđồ Phật Giáo trái lại không chịu từ bỏ sự chống đốicủa họ đối với tư tưởng Chaturvarna. Đó là lý do đầutiên của sự chống đối giữa Phật Giáo và Bà La Môn giáo. 

Tiếnsĩ Amberka tìm dấu vết nguồn gốc mâu thuẩn giữa Phật Giáovà Bà La Môn giáo từ một nguồn khác. Ông nói: 

- Khiđọc qua toàn bộ Văn Học Phật Giáo, tôi thấy rằng 90% tínđồ Phật Giáo trước kia là những người Bà la môn. Nhữngngười Bà La Môn thường đến gặp Đức Phật để thảoluận và tranh cải, và khi thua, thường đặt tin tưởng vàoĐức Phật và cuối cùng chấp nhận Phật Giáo. Văn Học PhậtGiáo chứa đầy những sự việc như vậy. Vì vậy, Phật Giáolà một tôn giáo đã nẩy nở giữa đại đa số những ngườiBà La Môn, làm thế nào về sau lại bị chính những ngườiBa la môn tiêu diệt? 

Theoquan điểm của chúng tôi, lý do chính của sự việc nầy làsự thờ cúng thần linh gia đình. Ở Ấn Độ, giống như thầnlàng và thần nước, có những vị thần gia đình cũng đượcnhững người Bà La Môn thờ cúng. Những thầy tế thườngthờ cúng những vị thần nầy bắt đầu gây ảnh hưởngvào quốc sự qua những bà hoàng. Vua A Dục (Ashoka) sau khi quyy theo Phật Giáo đã từ bỏ việc thờ cúng đó và dời tượngcủa những thần dùng trong việc thờ cúng nầy. Vua A Dụcnói: 

- Khita tôn kính Đức Phật, đấng Giác Ngộ, thì không cần thờcúng vị thần linh nào khác. 

Hànhđộng nầy của vua A Dục làm cho những người Bà La Môn lolắng không ít vì nó chấm dứt những phương tiện sinh sốngvà bóc lột bất công của họ. Họ nguyện sẽ phục thù chosự mất mát đó. 

Nhữngngười Bà La Môn có quan niệm rằng: 

- Saukhi chết những ông vua sẽ bị đọa vào địa ngục vì nhữngsai lầm và thiếu sót của họ. Vì vậy, họ không đồng ýlàm những người lãnh đạo, nhưng muốn làm những Cố VấnTối Cao của các vị Vua. Để trả thù sự mất mát vì việcchấm dứt sự thờ cúng những thần gia đình (Kulapuja), nhữngngười Bà La Môn từ bỏ phương châm chỉ làm những ngườicố vấn, họ cố gắng nắm lấy quyền lực. Với sự giúpđở của những người Sát Đế lỵ, họ thiết lập trụcBà La Môn-Sát Đế lỵ để chống lại Phật Giáo. Ưu thếcủa Bà La Môn giáo trở lại ở Ấn Độ là một trong nhữngnguyên do suy sụp của Phật Giáo. 

Sựnổi bật của Phật Giáo từ sự hạ thấp giai cấp Bà LaMôn, cũng đưa đến sự dãy chết của những quyền lợi thiêngliêng của những Vua chúa thuộc giai cấp Sát Đế lỵ. Vìvậy, không nghi ngờ gì những người thuộc giai cấp Sát ĐếLỵ, trong những giai đoạn đầu là những người ủng hộPhật Giáo, về sau trở nên đối lập với Phật Giáo. Nhưmột nhà văn viết: 

- Nhữngngười Sát Đế Lỵ sợ Phật Giáo vì nó đe dọa nền tảngvà sự hiện hữu giai cấp của họ, vì những người bịáp bức được khuyến khích bởi những giáo lý bình đẳngtìm cách vùng dậy. 

Nhưvậy, để bảo đảm sự an toàn cho những quyền lợi củahọ, những người Sát Đế Lỵ tham vọng âm mưu với nhữngngười Bà La Môn và bước từng bước củng cố hệ thốnggiai cấp. Bằng sự sắp xếp chung, giai cấp Sát Đế Lỵ đượcđồng ý làm Vua và những người Bà La Môn là những đạithần. Sự thỏa hiệp nầy bảo đảm quyền lực và danh vọngcho cả hai giai cấp nầy và sự thấp kém vĩnh viễn của nhữnggiai cấp khác, mà Phật Giáo sẽ không bao giờ tha thứ. Vìvậy, để giữ quyền lực chính trị trong tay họ, hai giaicấp nầy tạo một mặt trận thống nhất chống lại và phárối sự phát triển của Phật Giáo. 

SỰGÂY THÙ HẬN 

Tôngiáo của Đức Phật là một cái gai trong mắt những ngườiBà La Môn phản động, vì nó đã lật đổ giai cấp thầytế khỏi ngôi vị cao của nó, mà bao nhiêu thế kỷ đã bảođảm cho họ mọi thứ ưu đãi và tiện nghi vật chất. Vìvậy khi ảnh hưởng của Phật Giáo suy yếu, họ trả đũavà tấn công Phật Giáo bằng nhiều cách để trả thù sựmất mát của họ. Họ dùng những ngôn ngữ tồi tànnhất và những mánh khóe tồi tàn nhất để nhục mạ vàhạ thấp Phật Giáo dưới mắt quần chúng. Ngay cả họcòn bẻ cong ý nghĩa từ và thành ngữ riêng của Phật Giáo.Chúng tôi hy vọng rằng sự phân tích phê bình trong nhữngđoạn sau đây sẽ có thể làm cho độc giả nhận thức đượctầm quan trọng trong thảo luận của chúng ta: 

1)Vua A Dục, một vị vua Phật Giáo vĩ đại nhất, trong nhữngcáo thị ông tự gán cho mình là Người được chư Thần thươngyêu (Devanam Priya), nhưng những nhà văn phạm Bà La Môndịch chữ nầy là những sự điên rồ yêu thương. R.K.

Xem thêm: Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Là Gì, Please Wait

Mookerjeenói về sự đồi bại nầy như sau: 

- Vềthành ngữ Deva-nampriya Priyadarsi, V.A. Smith dịch là Đấng ThiêngLiêng và Nhân Từ đối với tôi là chuẩn nhất. Deve nampriyathay vì Deva-Priya có thể là tên gọi có ý coi khinh giới luậtcủa Panini, nhưng được đề cập trong những sự kiện ngoạitrừ luật do Katyana (vào khoảng 359 trước Tây lịch theo R.G.Bhadarkar) được Patanjali (150 trước Tây lịch) và cả Kasika(650 sau Tây lịch) ủng hộ. Tuy nhiên sự ngoại trừ khôngcho phép nhà văn phạm về sau là Bhattoji Dikshita, người đãnhấn mạnh vào việc coi từ Devanampriya là một từ khinh miệt,ngụ ý chỉ một người điên (murkha) không có sự hiểu biếtvề Brahma... Như vậy một danh hiệu được ca tụng trong nhữngthời đại Nada, Maurya, và Sunga, phải chịu sự sa đọa vềý nghĩa dưới thành kiến của người Ba La Môn chống lạivị vua Phật Giáo lỗi lạc. 

2)Đức Phật nhập diệt ở Câu Thi La (Kushinagar) vùng Deoria nướcUttar Pradesh, Câu Thi La cách Gorakhpur 12 dặm về hướng Đông và cách Deoria 21 dặm. Nó nằm trên bờ phía Tây của sôngHiranyavati và vị trí của nó tương ứng với khu vực rộnglớn Ram-bar-ka-Tila nằm ở bờ phía Tây hồ Rambhar. Gồm haichữ Hiranyavati và Rambar có thể tạo thành tên Harambar cho khuvực nầy. Câu Thi La (Kushinagar) là nơi Đại Niết Bàn củaĐức Phật trở thành một nơi hành hương quan trọng và thiêngliêng nhất của tín đồ Phật Giáo. Dĩ nhiên, tín đồPhật Giáo từ khắp nơi trên đất Ấn quy tụ về nơi đâymỗi năm với một số đông lớn lao để tỏ lòng tôn kínhđối với Vị Thầy. Dường như người Bà La Môn hoang mangbởi dân chúng ở Câu Thi La. Họ đưa khuynh hướng tôn giáovào biện pháp xảo quyệt của họ và dạy những người tạigia ngu dốt rằng: Người chết ở Harambar, vùng chung quanh CâuThi La, đọa vào địa ngục hay tái sanh làm con lừa cái, nhưngngười chết ở Kasi (Varanasi) được lên trời. 

Đểbảo vệ quan điểm của chúng tôi, chúng tôi có bằng chứnghùng hồn và có tính cách lịch sử từ cuộc đời của MahatmaKabir, một người hô hào cải cách tôn giáo và xã hội vàothế kỷ thứ mười lăm. Trong thời đại ông, sự tuyên truyềncó tác hại, như được đề cập ở trên, rất thịnh hành.Kabir kịch liệt chống lại quan điểm vô nghĩa nầy. Ông tuyênbố rằng nếu hành động của một người tốt đẹp, ngườiấy chắc chắn sẽ được cứu rỗi dù cho có chết ở Kasihay Harambar. Và để chứng minh hùng hồn niềm tin về Harambarlà sai lầm và vô nghĩa, Kabir, khi tuổi đã gìa, cố ý điđến vùng đất cấm đó và chết vào năm 1518 sau Tây lịchtrong một thị trấn nhỏ Maghar ở vùng Gorakhpur không xa CâuThi La. Kabir, trong những lời để lại, hai lần đề cập đếnsự việc nầy và giải thích đầy đủ mục đích hành hươngđến Maghar của ông mặc dù những ngăn cản mạnh mẽ từbạn bè và những người hâm mộ ông. Theo sự việc trên,Wescott viết trong tác phẩm đáng tin của ông về Kabir nhưsau: 

- Chínhlà nguyện vọng của những môn đệ mà Kabir đã không chấmdứt cuộc đời của ông tại Kasi nơi mà rất nhiều côngtrình tôn giáo được hoàn tất. Họ chủ trương rằng tấtcả mọi người chết ở Kasi sẽ lập tức sinh vào thế giớicủa thần Ram, và những người chết ở Maghar sẽ trở lạithế giới nầy và sinh làm con lừa cái. Kabir khiển trách vềniềm tin của họ. Phải chăng quyền năng của Ram quá giớihạn không thể cứu rỗi người phụng sự ông vì ngườinầy muốn chết ở ngoài Kasi, thành phố của thần Shiva? 

Cảmgiác lo âu và sợ hải trong giới Ấn Độ Giáo quá mạnh đếnnỗi sau khi Kabir chết ở Maghar họ cũng không thể từ bỏđược sự mê tín. Vì vậy, họ đã không xây dựng một đềntưởng niệm Kabir ở đó, họ dựng đền tưởng niệm ởKasi. Người Hồi Giáo đã xây dựng một nơi tưởng niệmKabir ở Maghar, nơi cư ngụ cuối cùng của ông. Đền thờchính ở Maghar vì vậy đã luôn luôn do người Hồi Giáo trôngcoi và về sau vẫn còn dưới sự trông coi của họ, mặc dùmột ngôi đền cho người Ấn Độ Giáo đã được xây dựngở đây. 

3)Những người cuồng tín Bà La Môn không dừng lại ở đó.Họ tiếp tục thẳng tay gây sự hận thù và ghét bỏ đốivới tín đồ Phật Giáo trải qua nhiều thế kỷ và giữ mãitinh thần nầy cả trong văn học. Xin trích dẫn ra một sốsau đây: 

a-Nikant trong tác phẩm Prayaschit Mayukha trích một bài thơ từManu (bộ luật tập cấp): - Nếu người nào chạm phải mộttín đồ Phật Giáo hay một tín đồ của Panchupat, Lokayataka,Nastika hay Mahapataki, người ấy phải tắm để tẩy uế. 

b-Cùng một giáo lý được Apraka dạy trong Smiriti. Vradha Haritđi xa hơn và tuyên bố rằng bước vào chùa Phật Giáo làmột tội lỗi cần phải tắm để thanh trừ tội lỗi đó. 

c-Sự việc gây ấn tượng nhất về thái độ nầy đối vớitín đồ Phật Giáo được tìm thấy trong vở kịch Mricchakatika.Trong màn Vii của vở kịch, người anh hùng Charudatta và bạnlà Maitriya đang chờ Vasantasena ở quảng trường bên ngoàithành Ujjain. Cô nàng không đến và Charudatta quyết định rờiquảng trường. Khi họ rời nơi đây, họ thấy vị sư PhậtGiáo tên là Samvakaha. Thấy ông ta, Charudatta nói: 

- Nầybạn Maitriya, tôi đang nóng lòng muốm gặp Vasantasena. Nầy,hãy cùng đi. (Sau khi bước vài bước) A, đây là một cảnhtượng không may, một ông tăng Phật Giáo đang đi về hướngchúng ta. (Sau khi suy tư một chút) tốt, hãy để cho ông tađi đướng nầy, chúng ta sẽ đi con đường khác. (Rời sânkhấu). 

Trongmàn viii, vị tăng ở trong vườn lớn của Sakara, người anhrể của Vua. Nhìn thấy áo của ông ta trong một cái hồ, Sakara,theo sau là Vita, bật dậy và hăm dọa giết vị tăng. Sau đâylà cuộc đối thoại giữa họ: 

Sakara: 

- Hãydừng lại, ông thầy tu tồi bại. 

Tăngsĩ: 

- A!Đây là người anh rễ của Vua. Bởi vì có một số tăng sĩxúc phạm đến nhà vua, nên nhà vua đánh đập bất cứ tăngsĩ nào ông gặp. 

Sakara: 

- Hãydừng lại, ta sẽ bẻ chiếc đầu của ông như người ta bẻmột cộng rau dền trong tiệm ăn (Đánh ông ta). 

Vita: 

- Nầybạn, đánh một tu sĩ khoác trên mình chiếc áo choàng, đãtừ bỏ thế gian, là một việc không chính đáng. 

Tăngsĩ vui mừng: 

- Xin hãy vui lòng, cư sĩ. 

Sakara: 

- Nầybạn, coi đó. Hắn xỉ nhục tôi. 

Vita: 

- Ôngta nói gì? 

Sakara: 

- Hắngọi tôi là cư sĩ. Tôi là tên thợ cạo hay sao? 

Vita: 

- Ồ!ông ta thật sự tán tụng anh như là một người sùng tínĐức Phật. 

Sakara: 

- Tạisao ông lại đến chỗ nầy? 

Tăngsĩ: 

- Đểgiặt những y phục nầy. 

Sakara: 

- A!ông là ông thầy đồi bại. Ngay cả tôi cũng không tắm trongao nầy; ta sẽ giết ông bằng một trận đòn. 

Saukhi bị đánh thật nhiều, vị tăng được cho đi. Đó là mộttu sĩ Phật Giáo trong đám đông Ấn Độ Giáo. Ông ta bị xalánh và tránh né. Cảm tưởng chán ghét đối với ông thậtlà lớn lao, đến nỗi người ta tránh né cả con đường màông ta đã đi qua. Cảm tưởng ghê tởm đậm đặc đến nỗisự đi vào của một tín đồ Phật Giáo khiến cho ngườiẤn Độ Giáo phải đi ra. Người Bà La Môn được miễn tộitử hình, ngay cả còn được miễn hình phạt về thể xác.Nhưng tu sĩ Phật Giáo bị đánh đập và hành hạ không thươngxót, không hối tiếc, như là không có gì sai lầm khi làm việcđó. 

d-Chanalya (Kautilya), một đại thần Bà La Môn nổi danh dướithời vua Chiên Đà La Quật Đa (Chandragupa) của vương triềuKhổng Tước (Maurya), cũng là một phần tử nằm trong chiếndịch gây hận thù đối với Phật Giáo. Ông nói: 

- Khimột người hưởng dụng bửa ăn cúng cho chư thần và tổtiên, những người thuộc giòng Thích Ca (tín đồ Phật Giáo),Ajivaka, Thủ đà la, và những tù nhân đi đày, phải chịumột hình phạt một trăm Panas. 

e-Những tác giả của những Puranas(Thánh Thư) cũng tuyên truyềnchống Phật Giáo không ít. Họ coi Đức Phật như là mộtAvtara(hóa thân) của Vishnu nhưng đối xử với Ngài với sựkhinh miệt. 

- Thánhthư Brhannardiya coi một người Bà La Môn bước vào nhà củamột tín đồ Phật Giáo là một tội lỗi lớn dù cho có gặpsự nguy hiểm lớn. 

- Thánhthư Agni tuyên bố rằng con của vua Tịnh Phạn dụ dỗ nhữngngười Daitya trở thành tín đồ Phật Giáo. 

- Thánhthư Vayu nói một cách khinh khi về Phật Giáo: Với hàm răngtrắng, cặp mắt nhìn thẳng, đầu cạo trọc, và áo đỏ,những người Thủ Đà La sẽ thực hiện những hành vi tôngiáo. 

- Thánhthư Vishnu gán cho Đức Phật tên: Người dụ dỗ vĩ đại.Họ coi Ngài là một Maha Moha, người hiện ra trong thế gianđể lọc lừa những ma quỉ. Nó còn cảnh cáo thêm về tộilỗi chuyện trò với tín đồ Phật Giáo, nói rằng nhữngngười nói chuyện với những nhà khổ tu trọc đầu sẽ bịđọa vào địa ngục. 

4)Một phần trong chiến lược hủy nhục của họ, người ẤnĐộ Giáo còn dùng một phương pháp khác làm mất uy tín nhữngtín đồ Phật Giáo và chùa chiền của họ. Họ gán cho nhữngtên gọi xấu xa và bẩn thỉu cho những chùa, tu viện PhậtGiáo. Ví dụ, tàn tích của ngôi tháp ở Ghantasila vùng AndhraPradesh được họ gọi là Langa Dibba có nghĩa là gò đĩ điếm.Sự gán những tên bẩn thỉu cho những địa danh cổ củaPhật Giáo được các nhà học giả ngu dốt trích ra, lấylàm lý lẽ để nói rằng Phật Giáo biến mất ở Ấn Độ,vì những ngôi chùa của nó đã trở thành những nơi đồibại, và các Tỳ Kheo đã không sống đời sống đáng kính.Họ lý luận rằng: 

- Nhữngnơi lễ bái của Phật Giáo đã đi đến chỗ đồi bại cùngcực về luân lý, nên dân chúng khinh thường và xa lánh. 

Chúngtôi đồng ý rằng khi các ngôi chùa bắt đầu trở nên sungtúc, tu sĩ Phật Giáo, một cách nào đó trở nên hướng vềbản thân và từ bỏ bổn phận của họ đối với nhu cầutâm linh và xã hội quần chúng. Và họ bắt đầu sống mộtcách thoải mái trong những tu viện và không tham gia vào lýtưởng phụng sự xã hội. Điều nầy cuối cùng đã ảnhhưởng một mức độ nào đó vào việc truyền bá và duy trìGiáo Pháp. Nhưng nói rằng Phật Giáo suy tàn vì sự sụp đổcủa những tiêu chuẩn đạo đức trong hàng ngũ Tăng Già làđiều không có gì bảo đảm. Không có một bằng chứng nàođể củng cố lập luận nầy, ngoại trừ những danh hiệuđáng nghi ngờ gắn liền với một số địa điểm. Theo quanđiểm của chúng tôi, những tên gọi bôi bác kia đã đượctạo ra do những người Ấn Độ Giáo quá khích, với chủý hạ nhục những chùa chiền Phật Giáo. Nhưng đối vớitrò tuyên truyền nham hiểm đó, không có một lý lẽ chứngminh cho những nhãn hiệu vô nghĩa gán cho những ngôi chùa PhậtGiáo thiêng liêng. V.R. Narla nói: 

- Quảthật là chưng hửng và buồn không ít, vì rằng không nhữngở Ghantasila, nhưng ở Gudivada, Bhattiprola, China Ganjam, Pedda Ganjam,và một số nơi khác, những di tích của những ngôi chùa PhậtGiáo thiêng liêng bị gán cho những tên nhơ bẩn như Langa Dibbavà Bojamadani Dibba. Một ngoại lệ mà tôi biết là tháp Amaravati.Tên địa phương của nó là Dipala Dinne, có nghĩa là gò đèn.Nhưng ngay cả về những ngọn đèn, cũng có thể không phảichỉ cho sự tán tụng, vì trong thực tế tất cả những nơicó gò thuộc di tích Phật Giáo, có truyền thống địa phươnglà những gái ăn sương cư ngụ trên gò dùng đèn để làmhiệu. Có thể những tên xấu xa được gán cho những gò ditích Phật Giáo là nói lên sự việc Phật Giáo đã bị sựđàn áp của những người Ấn Độ Giáo cuồng tín về sau,hoặc có thể nó đánh dấu mức độ xuống thấp của PhậtGiáo, trong thời gian cuối cùng khi nó mang hình thái của KimCang Thừa (Vajrayana) hay Sahajayana, những hình thái không khácvới mật giáo phóng dật. Hai lý do trên, chúng tôi tin tưởngvào lý do thứ nhất nhiều hơn. 

Đểchứng minh sự điên rồ của những lý lẽ sau, chúng tôi xinđộc giả ghi nhớ những sự hành trì đồi bại hơn nhiềutrong những đền Ấn Độ Giáo. Chúng tôi không có ý liệtkê ra đây một danh sách dài về những tội ác của nhữngthầy tế Bà La Môn trong những năm tháng đó. Đoạn tríchsau đây từ một bài viết của ishwar Singh Bais cũng đủ đểphản ảnh đời sống trong các đền Ấn Độ Giáo ngày xưa.Ông viết: 

- Nhữngvũ nữ của mỗi đền được sắp hàng thứ nhì. Họ là nhữngdevdasis hay nô lệ của chư thần, nhưng họ được gọi bằngcái tên thô lậu của những gái điếm. Và trong thực tế,họ gắn bó với nghề nghiệp của họ để ban ân huệcho người nào yêu cầu và được trả lại bằng tiền. Dườngnhư ban đầu họ được dành riêng cho những thầy Bà La Mônmua vui. Và những người đàn bà nầy, được công chúng biếtđến về sắc đẹp của họ, được hiến dâng một cáchđặc biệt trong việc phụng sự các thần linh của Ấn ĐộGiáo. Nhiệm vụ chính của họ gồm có múa và hát trong đềnhai lần mỗi ngày, sáng và tối trong những cuộc lễ côngcộng. Tất cả thời gian còn lại giữa những cuộc lễ, thìdùng vào những việc xấu hổ hơn, và một việc không phảilà ít xảy ra, là ngay cả những đền thờ thiêng liêng cũngbị biến thành những nhà chứa. Xa hơn nữa, Có ít đền thờmà vị thần ở đó không đòi quyền chữa trị bịnh khôngsinh đẻ của đàn bà. Thường thường những thầy tế khuyênhọ ở lại qua đêm tại đền, nơi đây, họ nói thần linhcảm động với lòng thành của họ, có thể viếng họ trongtinh thần và sẽ giao hợp với họ. Với mánh khóe nầy, những thầy tế thỏa mãn dục vọng của họ. 

Ngoàinhững hành động trong những đền thờ Ấn Độ Giáo đãđược đề cập, tầm quan trọng về những quan hệ dục tìnhtrong Ấn Độ Giáo cũng được thấy rõ ràng trong những cảnhdâm đãng trên những bức tường của những đền thờ ởKonark, Khajuraho, v.v. Về những công trình điêu khắc ở Konark,A.L. Basham nói trong tác phẩm Kỳ Quan Ấn Độ: 

- Tínhcách dâm đãng lộ liễu một cách hiếm có của nhiều côngtrình điêu khắc ở Kornark đã đem lại cho Chùa Đen một tiếngtăm nhơ nhớp. Những hình Maithuna, với những cặp ôm sátnhau hay đang trong tư thế giao hợp, được phổ biến là nhữngnét trang trí đặc trưng của nhiều ngôi đền Ấn Độ, nhưngnhững hình ở Konark đặc biệt sống động. Những hình điêukhắc ở Khajuraho cũng tương tự. 

Nhưvậy chúng ta có thể không do dự nói rằng: Nếu ở đâu nhữngtiêu chuẩn luân lý bị sa đọa, đó là những nơi cư ngụcủa các thần và nữ thần Ấn Độ Giáo. Thật vậy, nhưishwar Singh Bais nói: 

- Trongnhiều đền thờ, và từ thế kỷ thứ tám sau Tây lịch vềsau, trong hầu hết các đền thờ Ấn Độ Giáo, sự sa đọabắt đầu và với đời sống trong đền biến nó thành địangục. Các thầy tế đã hy sinh sự cao thượng và đạo đức,chỉ giữ lại tham lam và dục vọng. Nếu Ấn Độ Giáo cóthể nẩy nở dưới bầu không khí đồi bại đó, thì việcbiến mất của Phật Giáo không rõ ràng, dù cho có một sốsa đọa trong tiêu chuẩn luân lý của những người mộ đạo;vì vậy chúng tôi không chấp nhận điều nầy. Từ đó, chúngtôi quả quyết luận điệu gán cho sự thối nát trong cácchùa chiền không phải là không có căn cứ mà còn có táchại, và những lý do của sự suy tàn của Phật Giáo phảiđược tìm thấy ở chổ khác. 

SỰNGƯỢC ĐÃI 

Mộttrong những nguyên nhân chính làm cho Phật Giáo suy tàn và sụpđỗ nhanh chóng ở Ấn Độ là sự đàn áp của những nhàcầm quyền cũng như những người cuồng tín. 

BốSa Mật Đa La (Pushyamitra), một tướng lãnh Bà La Môn dướitriều Brihadratha, vua cuối cùng của vương triều Khổng Tước(Maurya), là người đầu tiên ngược đãi Phật Giáo. Ông ámsát nhà vua vào năm 185 trước Tây lịch; soán lấy ngôi vuanước Ma Kiệt Đà (Magadha), cai trị bằng sự khủng bố. Mộtông vua Ấn Độ Giáo khác đàn áp Phật Giáo là Sasanka, vuanước Gauda (Bengal), hành động phản bội đầu tiên của ônglà giết Rajyavardhana vào năm 605 sau Tây lịch, anh của Harsha,vị hoàng đế Phật Giáo cuối cùng. Sasanka là một ngườithuộc giai cấp Bà La Môn và tín ngưỡng thần Shiva. Ông cuồngtín đến nổi trong cơn giận dữ ông đã phá hủy cây BồĐề. Ngài Huyền Trang ghé Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 637sau Tây lịch, vào khoảng ba thế hệ sau biến cố trên, ghilại như sau: 

Video liên quan

Chủ đề