Vì sao có tên gọi là sông hồng

Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149 km bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Việt Nam và đổ ra biển Đông. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km.

Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà hay sông Cái (người Pháp đã phiên tên gọi này thành Song-Koï). Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lãnh thổ Việt Nam tại xã A Mú Sung (huyện Bát Xát), chính giữa sông là điểm phân chia lãnh thổ hai nước. Đến thành phố Lào Cai, sông Hồng chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam qua phía đông thủ đô Hà Nội trước khi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt (ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Nam Định).

Ở Lào Cai sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái cách Lào Cai 145km thì sông chỉ còn ở cao độ 55m. Giữa hai tỉnh đó là 26 ghềnh thác, nước chảy xiết. Đến Việt Trì thì triền dốc sông không còn mấy nên lưu lượng chậm hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu con sông này.

Các phụ lưu chính của sông Hồng trên lãnh thổ Việt Nam có thể kể đến là sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông Chảy và sông Gâm). Sông Hồng có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Lại thuộc Hải Dương và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quý Cao (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ), nối sông Hồng và sông Đáy là hai sông Phủ Lý và sông Nam Định. Ở Trung Quốc, các sông như sông Lý Tiên (tức sông Đà), sông Đăng Điều (tức sông Nậm Na), sông Bàn Long (tức sông Lô) và sông Phổ Mai (tức sông Nho Quế) cùng một số sông nhỏ khác như sông Mễ Phúc, sông Nam Khê chảy qua biên giới hai nước vào Việt Nam.

Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét khối nước.

Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.

Ngoài những giá trị kinh tế, sông Hồng còn làm nên một cảnh quan vô cùng đẹp cho vùng đồng bằng Bắc Bộ. Người ta ví nó như một con Rồng đỏ uốn lượn hùng dũng và sinh động.

PhuthoPortal (Nguồn HNMO)

Gần đây, trên các bản tin thời tiết của Đài Truyền hình Trung ương thấy các biên tập viên nói nhiều đến tên sông Thao khi thông báo về tình hình lũ lụt trên sông Hồng. Vậy con sông này thực chất tên là gì?

Lần tìm trên Google, thấy có một tài liệu khá lí thú. Đó là bài tham luận “Tên gọi của sông Hồng: Dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hóa trong lịch sử người Việt” của tác giả Trần Trí Dõi, Khoa Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, trình bày tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, từ ngày 4 - 7/12/2008.

Vì sao có tên gọi là sông hồng
Phú Thọ nhìn từ Hữu ngạn sông Thao

Ông Trần Trí Dõi cho biết, sách sử xưa ghi lại, khi chảy vào Việt Nam sông Hồng có các tên là sông Cái, Thao, Nhị/Nhĩ Hà, Phú Lương, Bạch Hạc, Tam Đới, Đại Hoàng, Xích Đằng, Hoàng Giang, Lô/Lô Giang. Theo ông, qua hơn mười tên gọi khác nhau của sông Hồng và một số biến thể của chúng, có thể nhận thấy những tên gọi ban đầu dường như có gốc gác Nam Á và Thái - Kađai. Về sau, trừ trường hợp tên gọi “sông Cái”, những tên gọi Nam Á và Thái - Kađai ấy đều bị “Hán hoá” hay “Hán - Việt” để có dạng thức như ngày nay. Lí giải cách đặt tên con sông này qua các thời kì, ông cho rằng, cư dân ven sông đã đặt tên sông theo 3 nhóm. Nhóm thứ nhất là tên gọi sông Cái, sông Thao, sông Nhĩ Hà/Nhị Hà, sông Hồng/Hồng Hà. Đây là cách gọi tên theo “tính chất, đặc điểm” của con sông bằng ngôn ngữ của chủ thể. Nhóm tên gọi thứ hai là Bạch Hạc, Tam Đới, Xích Đằng và Đại Hoàng là chỉ “địa danh lãnh thổ nơi con sông chảy qua”. Nhóm tên gọi thứ ba là sông Phú Lương và sông Lô/Lô Giang, là tên gọi Hán hóa và Hán - Việt hóa các tên gọi sông thuần Việt từ thời tối cổ.

Về tên gọi sông Thao, bắt nguồn từ chữ là tao (trong “nặm tao”), nghĩa là “sông lớn, sông chính” theo cách gọi của cộng đồng cư dân ngữ hệ Thái - Kađai từng cư trú ở vùng sông này thời cổ xưa.

Về tên gọi sông Hồng/Hồng Hà có nghĩa là “sông có mầu nước đỏ”. Theo “Đại Nam nhất thống chí” thì đến giữa thế kỉ XIX, tên sông vẫn là Nhị hay Nhị Hà. Khi xâm lược Việt Nam, với yêu cầu ghi tên sông vào văn bản, người Pháp đã lựa chọn đặc điểm của nước sông và thể hiện bằng ngôn ngữ của mình là “rivière rouge” (sông có màu nước đỏ/hồng). Tên gọi này được Việt hóa thành sông Hồng hay Hồng Hà và được dùng phổ biến đến nay.

Qua tài liệu trên cho thấy, sông Thao là tên gọi cổ, đến nay vẫn còn được người dân vùng Phú Thọ, Việt Trì dùng để chỉ đoạn sông Hồng chảy qua nơi này. Còn tên sông Hồng mới có từ khoảng giữa thế kỉ XIX và theo cách gọi của người Pháp nhưng trong thực tế lại được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp lí của Nhà nước và quen thuộc với người dân cả nước. Vì vậy, khi nghe tên sông Thao được nhắc nhiều trên truyền hình, nhiều người cảm thấy lạ lẫm.

Thiết nghĩ, Nhà nước cần thống nhất cách gọi tên cho con sông này và nên gọi là sông Hồng cho phổ biến, thông dụng hơn.

Vì sao có tên gọi là sông hồng

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng phòng, chống tham ô, lãng phí trong Đảng, Nhà nước. Người cho rằng tham ô, lãng phí là “những căn bệnh nguy hiểm”, “là giặc nội xâm”, “là tội ác” không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, vật chất, mà còn về mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; làm suy yếu bộ máy của Đảng, Nhà nước; gây mất lòng tin của Nhân dân.

Vì sao có tên gọi là sông hồng

Suốt chiều dài lịch sử 4.000 năm dựng nước và giữ nước, người Việt đã hình thành cốt cách riêng. Nguyễn Trãi từng viết: “Duy ngã Đại Việt chi quốc/Thực vi văn hiến chi bang” (Duy nước Đại Việt ta/Thật là một nước văn hiến). Những họa tiết khắc vạch trên trống đồng, thạp đồng ở các di chỉ văn hóa là minh chứng cho truyền thống tự lực, tự cường.

Vì sao có tên gọi là sông hồng

Không phải trong thời gian gần đây mà đã nhiều năm qua, dư luận rất bất bình về việc các đơn vị tiến hành bảo tồn, trùng tu các di tích nhưng đã làm sai lệch, thậm chí mất đi nguyên trạng của di tích ông cha để lại…

Vì sao có tên gọi là sông hồng

Sau khi Quốc hội khóa 12 ban hành Luật Người cao tuổi (NCT) năm 2009, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương đã cụ thể hóa bằng nhiều chính sách ưu đãi đối với NCT.

Vì sao có tên gọi là sông hồng

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Quốc hội ban hành Nghị quyết 25/2021/QH15 ngày 28/7/2021 về “Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hóa đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, thực hiện xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu và NTM cấp thôn, bản, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân…”

Phiên bản di động
song Hong anh 1

Câu 1: Tên gọi khác của sông Hồng?

  • Sông Cái
  • Sông Thao
  • Sông Hồng Hà
  • Cả 3 đáp án trên

Sông Hồng từng có khoảng 10 tên gọi khác nhau trong lịch sử như sông Cái (sông chính), sông Thao (sông chính), sông Hồng Hà, sông Nhị Hà, sông Nhĩ Hà. Theo giải thích trong sách "Đại Nam nhất thống chí", đoạn sông Nhị Hà chảy qua địa phận Hà Nội, uốn cong như hình vành tai, mới có tên Nhĩ Hà, gọi lệch là Nhị Hà.

song Hong anh 2

Câu 2: Huyện nào của tỉnh Lào Cai là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt”?

  • Bát Xát
  • Bắc Hà
  • Bảo Yên
  • Bảo Thắng

Theo Cổng thông tin điện tử Lào Cai, cột mốc 92 ở suối Lũng Pô, thôn Lũng Pô, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Ca, là địa điểm đầu tiên con sông Hồng chảy vào nước ta.

song Hong anh 3

Câu 3: Sông Hồng chảy qua địa phận tỉnh nào?

  • Hưng Yên
  • Ninh Bình
  • Hải Dương
  • Cả 3 tỉnh trên

Theo "Bách khoa toàn thư Việt Nam", sau khi chảy vào nước ta từ địa phận tỉnh Lào Cai, sông Hồng chảy qua các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình, đổ ra biển Đông với chiều dài hơn 500 km.

song Hong anh 4

Câu 4: “Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” là lời của ca khúc nào?

  • Bài ca sông Hồng
  • Ngẫu hứng sông Hồng
  • Tình ca Tây Bắc
  • Gửi em ở cuối sông Hồng

“Anh ở biên cương / Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt / Ở nơi ấy mùa này con nước / Lắng phù sa in bóng đôi bờ…”. Đó là những câu hát ngọt ngào, da diết trong ca khúc "Gửi em ở cuối sông Hồng" của nhạc sĩ Thuận Yến.

song Hong anh 5

Câu 5: Tên một cây cầu nổi tiếng bắc qua sông Hồng?

  • Long Biên
  • Nhật Tân
  • Chương Dương
  • Cả 3 cây cầu trên

Theo Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội, nhiều cầu được bắc qua sông Hồng. Trong đó, Long Biên, Nhật Tân, Chương Dương là những cầu nổi tiếng bắc quan sông Hồng ở địa phận thủ đô Hà Nội.

song Hong anh 6

Câu 6: Tên dòng sông nằm trong hệ thống sông Hồng?

  • Sông Đuống
  • Sông Luộc
  • Sông Ninh Cơ
  • Cả 3 dòng sông trên

Theo Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, hệ thống sông Hồng gồm 10 sông khác nhau, trong đó có cả 3 dòng sông trên. Đó là sông Đà, sông Thao, sông Lô, sông Hồng, sông Đáy, sông Đào Nam Định, sông Ninh Cơ, sông Đuống, sông Luộc, sông Trà Lý.

song Hong anh 7

Câu 7. Đồng bằng châu thổ sông Hồng có diện tích xếp thứ mấy trong số các đồng bằng của Việt Nam?

  • Thứ nhất
  • Thứ hai
  • Thứ ba
  • Thứ tư

Theo sách giáo khoa địa lý, với diện tích khoảng 1,5 triệu ha, đồng bằng châu thổ sông Hồng có diện tích lớn thứ hai ở Việt Nam, sau đồng bằng sông Cửu Long.

song Hong anh 8

Câu 8. Nền văn hóa nào từng ra đời ở châu thổ sông Hồng?

  • Văn hóa Phùng Nguyên
  • Văn hóa Đông Sơn
  • Văn hóa Hòa Bình
  • Cả 3 nền văn hóa trên

Sách "Lịch sử cổ đại Việt Nam" chép rằng sông Hồng quan trọng bậc nhất của nước ta trong chiều dài lịch sử. Dòng sông này chính là nơi phát tích của nền văn minh sông Hồng với những nền văn hóa nổi tiếng như Phùng Nguyên, Đông Sơn, Hòa Bình, Đồng Đậu, Gò Mun.

Khung cảnh Thuỷ điện Hoà Bình xả lũ nhìn từ trên cao Thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng, đúng 8h ngày 7/7,Thủy điện Hòa Bình đã mở 1 cửa xả đáy và liên tục phát điện tối đa các tổ máy.

Hàng trăm nghìn giặc Nguyên - Mông thua tan tác ở Chương Dương, Hàm Tử

“Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù” là hai chiến thắng oanh liệt của Đại Việt trong chiến dịch đẩy lui 500.000 quân Nguyên - Mông xâm lược lần thứ hai.