Vì sao chi phí quốc phòng của nhật chỉ chiếm 1 gdp của nước này

Tại sao chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản lại thấp (không vượt quá 1% GDP)?

...

Tại sao chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản lại thấp (không vượt quá 1% GDP)?

A. Do Nhật Bản không được phát triển lực lượng quân đội thường trực

B. Do Nhật Bản đã cam kết từ bỏ chiến tranh

C. Do Nhật Bản nhận được sự bảo hộ hạt nhân từ Mĩ

Đáp án chính xác

D. Do tình hình khu vực Đông Bắc Á ổn định

Xem lời giải

Mục lục

  • 1 Tổng quan
  • 2 Lịch sử kinh tế Nhật Bản
    • 2.1 Giao lưu với châu Âu (thế kỉ 16)
    • 2.2 Thời kỳ Edo (1603–1868)
    • 2.3 Thời kỳ trước chiến tranh (1868-1945)
    • 2.4 Sau chiến tranh (từ 1945 tới 1985)
  • 3 Nông nghiệp
  • 4 Ngư nghiệp
  • 5 Công nghiệp
  • 6 Thương mại và dịch vụ
    • 6.1 Thương mại
    • 6.2 Dịch vụ
    • 6.3 Mua sắm
    • 6.4 Ngành du lịch
  • 7 Giao thông vận tải và thông tin liên lạc
  • 8 Những thách thức về kinh tế
    • 8.1 Tác động của nạn thất nghiệp
    • 8.2 Những người vô gia cư
  • 9 Chú thích
  • 10 Xem thêm
  • 11 Tham khảo

Tổng quanSửa đổi

Trải qua ba thập kỷ phát triển kinh tế kể từ năm 1960, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Nhật Bản khiến người ta phải gọi đây là kỳ tích kinh tế Nhật Bản thời hậu chiến. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp, nền kinh tế đã đặt được mức tăng trưởng bình quân 10% vào những năm 1960, 5% trong những năm 1970s và 4% vào những năm 1980, nhờ đó Nhật Bản đã vươn lên và duy trì vị thế là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong suốt từ năm 1978 đến 2010 khi bị Trung Quốc vượt qua. Năm 1990, thu nhập bình quân đầu người của Nhật Bản ngang bằng thậm chí là cao hơn hầu hết các nước phương Tây.

Vào thời kỳ nửa sau của những năm 1980, giá cổ phiếu và bất động sản tăng cao đã tạo ra bong bóng kinh tế . Bong bóng kinh tế đã đột ngột kết thúc khi Sở giao dịch chứng khoán Tokyo sụp đổ vào năm 1990–92 khiến giá bất động sản đạt đỉnh vào năm 1991. Tăng trưởng ở Nhật Bản trong suốt những năm 1990 chỉ ở mức 1,5%; thấp hơn so với mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu khiến nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng suy thoái tồi tệ và được biết đến với tên gọi Thập kỷ mất mát. Thậm chí là sau khi nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục trì trệ thêm một thập kỷ nữa, thuật ngữ này được đổi tên thành 2 thập kỷ năm mất mát. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010 vẫn cao hơn so với châu Âu và Hoa Kỳ.

Với tốc độ tăng trưởng thấp này, nợ quốc gia của Nhật Bản đã tăng lên do gánh nặng của các khoản chi tiêu cho phúc lợi xã hội mà nguyên nhân chủ yếu là do sự già hóa của dân số khiến cơ sở thuế bị thu hẹp lại. Tình trạng "Những ngôi nhà bị bỏ hoang" tiếp tục lan rộng từ nông thôn đến thành thị ở Nhật Bản.

Nền kinh tế của Nhật Bản vào năm 2021 bằng 2/3 quy mô của châu Mỹ theo Ngân hàng Thế giới.

Do là một quốc đảo có địa hình nhiều núi và núi lửa nên quốc gia này không có đủ tài nguyên thiên nhiên để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế với dân số đông tiếp tục phát triển thêm, do đó việc xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế so sánh như các sản phẩm công nghiệp mang tính kỹ thuật, có sự đầu tư cao về nghiên cứu và phát triển để đổi lấy là nhập khẩu nguyên liệu thô và dầu mỏ luôn được chú trọng. Nhật Bản là một trong ba nhà nhập khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới bên cạnh Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ về tổng sản lượng phục vụ nhu cầu tiêu dùng nông sản nội địa đồng thời cũng là quốc gia nhập khẩu cá và các sản phẩm thủy sản lớn nhất thế giới. Chợ bán buôn trung tâm thủ đô Tokyo là chợ bán buôn các mặt hàng truyền thống đến từ Nhật Bản lớn nhất, bao gồm cả chợ cá nổi tiếng Tsukiji. Việc săn cá voi tại Nhật Bản với bề ngoài là để phục vụ các hoạt động nghiên cứu, đã bị kiện là bất hợp pháp theo luật pháp quốc tế.

Mặc dù nhiều loại khoáng sản đã được khai thác trên khắp đất nước, nhưng hầu hết các nguồn tài nguyên khoáng sản đều phải nhập khẩu kể từ thời hậu chiến. Các quặng chứa kim loại được khai thác trong nước là rất khó xử lý do chúng chỉ ở cấp thấp. Mặc dù có nguồn tài nguyên rừng đa dạng và rộng lớn khi chiếm 70% diện tích cả nước theo số liệu được thống kê vào cuối những năm 1980, nhưng chúng lại không được khai thác một cách rộng rãi do các quyết định chính trị ở cấp địa phương, tỉnh và quốc gia khi Nhật Bản quyết định không khai thác tài nguyên rừng để thu lợi kinh tế. Các nguồn tài nguyên trong nước chỉ đáp ứng được từ 25 đến 30% nhu cầu gỗ của cả nước. Nông nghiệp và đánh bắt là những ngành nghề khai thác tài nguyên phát triển tốt nhất nhưng cũng phải trải qua nhiều năm đầu tư và sự vất vả, chăm chỉ lao động của người dân mới có được. Do đó, quốc gia đã tập trung phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo để chuyển đổi nguyên liệu thô nhập khẩu từ nước ngoài. Chiến lược phát triển kinh tế này đòi hỏi phải thiết lập một cơ sở hạ tầng kinh tế mạnh mẽ để tạo ra nguồn năng lượng, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc và bí quyết công nghệ cần thiết.

Ngành khai thác vàng, Magnesi và bạc đều đáp ứng được nhu cầu cho hoạt động sản xuất công nghiệp hiện tại, mặc dù vậy Nhật Bản vẫn phải phụ thuộc vào nguồn tài nguyên nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho ngành công nghiệp hiện đại. Các mặt hàng như quặng sắt, đồng, bôxít và nhôm cũng như nhiều loại lâm sản đều là các tài nguyên nhập khẩu quan trọng.

So với các nền kinh tế công nghiệp phát triển khác, Nhật Bản được có mức xuất khẩu được cho là thấp so với quy mô của nền kinh tế. Từ giai đoạn 1970-2018, Nhật Bản là nền kinh tế ít phụ thuộc vào xuất khẩu nhất trong G7 và thứ hai trên toàn thế giới. Đây cũng là một trong những nền kinh tế ít phụ thuộc vào thương mại nhất trong giai đoạn 1970-2018.

Nhật Bản là quốc gia nhận nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đặc biệt thấp. Nguồn vốn FDI chảy vào quốc gia này cho đến nay là thấp nhất trong G7 tính đến năm 2018 và thậm chí còn thấp hơn cả các nền kinh tế có quy mô nhỏ hơn nhiều như Áo, Ba Lan và Thụy Điển. Tỷ lệ vốn FDI đầu vào trên GDP của nước này được cho là thấp nhất trên thế giới.

Nhật Bản đang tụt hậu về năng suất lao động so với các nước phát triển khác. Trong giai đoạn từ năm 1970 đến 2018, Nhật Bản là quốc gia có năng suất lao động thấp nhất trong các quốc gia thuộc G7. Đặc thù của nền kinh tế Nhật Bản là các doanh nghiệp lâu đời (shinise), trong đó có một số doanh nghiệp đã hoạt động được hơn một nghìn năm và nhờ vậy mà có được uy tín lớn. Ngược lại, văn hóa khởi nghiệp ở Nhật Bản không được nổi bật như những nơi khác.[55]

Lịch sử kinh tế Nhật BảnSửa đổi

Bức tranh thuộc trường phái ukiyo-e được vẽ vào năm 1856 miêu tả về Echigoya, hay ngày nay là Mitsukoshi

Với sự tăng trưởng thần kỳ qua ba giai đoạn, Nhật Bản là một trong số các quốc gia được nghiên cứu nhiều nhất về lịch sử kinh tế. Giai đoạn đầu tiên bắt đầu từ sự thành lập thành phố Edo (năm 1603) dẫn đến sự phát triển toàn diện của kinh tế nội địa. Giai đoạn thứ hai chính từ cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân (năm 1868) đưa nước Nhật trở thành cường quốc đầu tiên ở châu Á có thể sánh vai được với các quốc gia châu Âu. Trong giai đoạn cuối cùng, từ vị thế là nước thua trận trong Thế Chiến thứ hai (năm 1945) đảo quốc này đã vươn mình trở nên kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Giao lưu với châu Âu (thế kỉ 16)Sửa đổi

Những người châu Âu thời Phục Hưng đã thán phục Nhật khi họ đến đây vào thế kỷ 16. Đảo quốc này được đánh giá là có rất nhiều kim loại quý, chủ yếu là dựa trên những tính toán của Marco Polo về các lâu đài và đến thờ được mạ vàng, ngoài ra còn dựa trên sự phong phú của các quặng mỏ lộ thiên từ các miệng núi lửa khổng lồ được đặc trưng bởi một đảo quốc có nhiều núi lửa. Các quặng này được khai thác triệt để và trên quy mô lớn và Nhật đã từng là nhà xuất khẩu lớn vàng, bạc và đồng lớn vào thời kỳ Công nghiệp trước khi việc xuất khẩu những mặt hàng này bị cấm.

Nước Nhật thời Phục Hưng cũng được đánh giá là một xã hội phong kiến phức tạp với một nền văn hóa đặc sắc và nền kỹ thuật tiền công nghiệp mạnh mẽ. Dân số đa phần tập trung đông ở các thành thị và thậm chí có những trường Đại học Phật giáo lớn hơn cả các học viện ở phương Tây như Salamanca hoặc Coimbra. Các nhà nghiên cứu châu Âu về thời đại này có vẻ đồng ý rằng người Nhật "chẳng những vượt trội tất cả các dân tộc phương Đông mà còn ưu việt hơn cả người Tây Phương" (Alessandro Valignano, 1584, "Historia del Principo y Progresso de la Compania de Jesus en las Indias Orientales).

Những du khách Tây Phương đầu tiên đã rất ngạc nhiên về chất lượng của hàng thủ công và dụng cụ rèn đúc của Nhật Bản. Điều này xuất phát từ việc bản thân nước Nhật khá khan hiếm những tài nguyên thiên nhiên vốn dễ tìm thấy ở Âu Châu, đặc biệt là sắt. Do đó, người Nhật nổi tiếng tiết kiệm đối với tài nguyên nghèo nàn của họ, càng ít tài nguyên họ càng phát triển các kỹ năng để bù đắp.

Các con tàu của Bồ Đào Nha đầu tiên (thường khoảng 4 tàu kích cỡ nhỏ mỗi năm) đến Nhật chở đầy tơ lụa, gốm sứ Trung Hoa. Người Nhật rất thích những thứ này, tuy nhiên họ lại bị cấm giao dịch với Trung Quốc do các Hoàng đế Trung Hoa muốn trừng phạt các Nụy khấu thường xuyên cướp bóc ở vùng bờ biển Trung Quốc. Sau đó, người Bồ Đào Nha, được gọi là Nanban (Nam Man) chớp lấy cơ hội và đóng vai trò như một trung gian thương mại ở châu Á.

Thời kỳ Edo (1603–1868)Sửa đổi

Đồ sứ xuất khẩu của Nhật Bản mang kiểu cách châu Âu, có hình dáng giống một cái bát có vòi nước ở trong chậu cạo râu của thợ cắt tóc vào khoảng năm 1700.

Trong những thập kỷ cuối cùng của mậu dịch Nanban, nước Nhật đã có tương tác mạnh mẽ với các cường quốc Tây Phương về mặt kinh tế và tôn giáo. Khởi đầu của thời kỳ Edo trùng với những thập kỷ này khi Nhật Bản đã đóng được những chiến thuyền vượt đại dương theo kiểu Tây phương đầu tiên như thuyền buồm 500 tấn San Juan Bautista chuyên chở phái bộ ngoại giao Nhật do Hasekura Tsunenaga dẫn đầu đến châu Mỹ rồi sau đó đến châu Âu. Cũng trong giai đoạn đó, chính quyền Mạc Phủ đã trang bị khoảng 350 Châu Ấn Thuyền có ba cột buồm và được trang bị vũ khí để phục vụ việc mua bán ở châu Á. Các nhà phiêu lưu người Nhật như Yamada Nagamasa đi lại rất năng động khắp Á Châu.

Để loại trừ ảnh hưởng của Thiên chúa giáo, Nhật Bản tiến vào một thời kỳ cô lập gọi là tỏa quốc với nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhẹ. Tuy nhiên không lâu sau đó vào những năm 1650, ngành sản xuất đồ sứ xuất khẩu của Nhật Bản đã phát triển rất mạnh khi mà cuộc nội chiến đã khiến trung tâm sản xuất đồ gốm xứ của Trung Quốc ở Cảnh Đức Trấn phải ngừng hoạt động trong vài thập kỷ. Trong giai đoạn còn lại của thế kỷ 17, hầu hết các mặt hàng đồ sứ Nhật Bản được dùng để xuất khẩu mà chủ yếu là ở Kyushu. Thương mại sa sút do sự cạnh tranh mới của Trung Quốc vào những năm 1740 trước khi được hồi phục khi Nhật Bản mở cửa vào giữa thế kỷ 19.

Phát triển kinh tế trong suốt thời kỳ Edo bao gồm đô thị hóa, gia tăng vận tải hàng hóa bằng tàu, mở rộng thương mại nội địa và bắt đầu mua bán với nước ngoài, phổ biến thương nghiệp và thủ công nghiệp. Thương mại xây dựng rất hưng thịnh song hành với các cơ sở ngân hàng và hiệp hội mậu dịch. Các lãnh chúa chứng kiến sự tăng mạnh dần trong sản xuất nông nghiệp và sự lan rộng của ngành thủ công ở nông thôn.

Khoảng giữa thế kỷ 18, dân số Edo đã đạt hơn 1 triệu người trong khi Osaka và Kyoto mỗi nơi cũng có hơn 400,000 cư dân. Nhiều thành thị xây xung quanh các thành quách cũng phát triển. Osaka và Kyoto trở thành những trung tâm thương mại và thủ công đông đúc nhất trong khi Edo là trung tâm cung ứng thực phẩm và nhu yếu phẩm cho người tiêu dùng thành thị.

Lúa gạo là nền tảng của nền kinh tế, các lãnh chúa phong kiến thu thuế từ nông dân dưới dạng gạo với thuế suất cao khoảng 40% vụ thu hoạch. Gạo được bán ở các chợ fudasashi ở Edo. Để sớm thu tiền, các lãnh chúa sử dụng các Hợp đồng kỳ hạn để bán gạo chưa được thu hoạch. Những hợp đồng này tương tự như loại hợp đồng tương lai thời hiện đại.

Dưới thời này, Nhật Bản dần dần tiếp thu khoa học và công nghệ phương Tây (gọi là Hà Lan học, hay "rangaku", "học vấn của người Hà Lan") qua thông tin và những cuốn sách của các thương nhân đến từ Hà Lan ở Dejima. Lĩnh vực học tập chính là địa lý, dược học, khoa học tự nhiên, thiên văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, cơ học như nghiên cứu về các hiện tượng điện, và khoa dược học, với ví dụ về sự phát triển của đồng hồ Nhật Bản, hay wadokei, chịu ảnh hưởng của kỹ thuật phương Tây.

Thời kỳ trước chiến tranh (1868-1945)Sửa đổi

Kể từ giữa thế kỷ 19, sau cuộc Duy tân Minh Trị, Nhật Bản đã mở cửa cho thương mại và ảnh hưởng của phương Tây và đã trải qua hai thời kỳ phát triển kinh tế. Lần đầu tiên bắt đầu một cách nghiêm túc vào năm 1868 và kéo dài đến Thế chiến thứ hai; lần thứ hai bắt đầu vào năm 1945 và được duy trì cho đến giữa những năm 1980.[cần dẫn nguồn]

Sự phát triển kinh tế trong thời kỳ trước chiến tranh được bắt đầu với chính sách "Làm giàu đất nước, tăng cường lực lượng vũ trang" của Chính quyền Minh Trị. Trong suốt thời kỳ Minh Trị (1868–1912), các nhà lãnh đạo đã xây dựng một hệ thống giáo dục mới dựa trên hệ thống của phương Tây dành cho tất cả những người trẻ tuổi, đồng thời gửi hàng nghìn sinh viên đến Hoa Kỳ và Châu Âu du học và thuê hơn 3.000 người phương Tây đến Nhật Bản để dạy các môn như khoa học, toán học, công nghệ hiện đại và ngoại ngữ (Oyatoi gaikokujin). Chính quyền cũng triển khai xây dựng các tuyến đường sắt, cải thiện chất lượng đường bộ và khánh thành các chương trình cải cách ruộng đất để giúp cho đất nước phát triển hơn nữa.[cần dẫn nguồn]

Nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, chính phủ cho rằng cần nếu giúp các doanh nghiệp tư nhân phân bổ được nguồn lược cũng như lập kế hoạch, họ sẽ được trang bị đầy đủ để đưa nền kinh tế quốc gia đi lên. Chính vì vậy mà vai trò chủ đạo của chính phủ là cung cấp các điều kiện kinh doanh tất nhất cho các doanh nghiệp tư nhân. Nói tóm lại, chính phủ phải là người hướng dẫn và kinh doanh nhà sản xuất. Vào đầu thời kỳ Minh Trị, chính phủ đã xây dựng các nhà máy và xưởng đóng tàu để bán cho các doanh nhân với giá thấp. Nhiều doanh nghiệp trong số này đã phát triển nhanh chóng thành các tập đoàn lớn. Chính phủ nổi lên với tư cách là người thúc đẩy chính doanh nghiệp tư nhân khi ban hành một loạt chính sách ủng hộ doanh nghiệp.[cần dẫn nguồn]

Vào giữa những năm 1930, mức lương danh nghĩa của Nhật Bản "thấp hơn 10 lần" so với của Hoa Kỳ (dựa trên tỷ giá hối đoái giữa những năm 1930), trong khi mức giá nhân công được ước tính là bằng khoảng 44% Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn]

Quy mô và cơ cấu công nghiệp ở các thành phố của Nhật Bản đều được duy trì và điều tiết chặt chẽ mặc dù dân số và các ngành công nghiệp trên các thành phố này đã tăng lên đáng kể.[56]

Sau chiến tranh (từ 1945 tới 1985)Sửa đổi

Xuất khẩu của Nhật Bản năm 2005

Trong giai đoạn những năm 1960 đến 1980, tăng trưởng kinh tế chung là rất nhanh: trung bình 10% vào những năm 1960, 5% trong những năm 1970 và 4% vào những năm 1980. Vào cuối giai đoạn này, Nhật Bản đã trở thành nền kinh tế có thu nhập cao.[57]

Giai đoạn những năm 1990 chính kiến sự tăng trưởng trì trệ của nền kinh tế đã đánh dấu cho sự khởi đầu của thập kỷ mất mát sau sự sụp đổ của bong bóng giá tài sản ở Nhật Bản. Hậu quả là ngân sách quốc gia đã bị thâm hụt nghiêm trọng (phải tri hàng nghìn tỷ Yên để cứu vãn hệ thống tài chính của Nhật Bản) để tài trợ cho các chương trình xấy dựng công trình công cộng lớn.

Mặc dù vậy vào năm 1998, các dự án xây dựng công trình công cộng của Nhật Bản vẫn khổng thể kích đủ cầu để chấm dứt giai đoạn trì trệ của nền kinh tế. Trong tình tế tuyệt vọng, chính phủ Nhật Bản đã buộc phải tiến hành các chính sách "tái cơ cấu" nhằm thu hút nguồn tiền dư thừa đang được đầu cơ ở các thị trường chứng khoán và bất động sản. Thật không may là các chính sách kinh tế này đã khiến Nhật Bản rơi vào thời kỳ giảm phát liên tục trong nhiều năm từ năm 1999 đến 2004. Ngân hàng Nhật Bản đã sử dụng biện pháp nới lỏng định lượng để làm tăng nguồn cung tiền quốc gia nhằm thúc đẩy kỳ vọng về lạm phát qua đó phát triển kinh tế. Ban đầu chính sách này đã thất bại trong việc đem đến sự phát triển cho nền kinh tế nhưng lại bắt đầu có ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát. Cuối năm 2005, nền kinh tế cuối cùng cũng cho thấy những dấu hiệu hồi phục. Tăng trưởng GDP trong năm 2005 đã đạt 2,8% trong đó riêng quý 4 có mức tăng trưởng là 5,5%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.[58] Không giống như các cuộc phục hồi trước đây, tiêu dùng nội địa là yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng.

Mặc dù đã giảm lãi suất xuống gần mức 0% trong một thời gian dài, nhưng chiến lược nới lỏng định lượng vẫn không đạt được thành công trong việc ngăn chặn giảm phát.[59] Điều này khiến một số nhà kinh tế học, chẳng hạn như Paul Krugman và một số chính trị gia Nhật Bản lên tiếng ủng hộ việc tạo ra kỳ vọng lạm phát cao hơn.[60] Vào tháng 7 năm 2006, chính sách giảm mức lãi suất bằng 0% kết thúc. Năm 2008, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản vẫn duy trì mức lãi suất thấp nhất trong các nước phát triển nhưng giảm phát vẫn chưa được loại bỏ[61] và chỉ số Nikkei 225 đã giảm tới 50% điểm (giai đoạn từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 12 năm 2008). Mắc dù vậy vào ngày 05 tháng 04 năm 2013, Ngân hàng Nhật Bản ra tuyên bố rằng họ sẽ mua 60-70 nghìn tỷ Yên trái phiếu và chứng khoán nhằm loại bỏ tình trạng giảm phát bằng cách tăng gấp đôi lượng cung tiền ở Nhật Bản trong vòng hai năm. Thị trường trên khắp thế giới đã có những phản hồi tích cực với các chính sách mang tính chủ động hiện hành của chính phủ khi mà chỉ số Nikkei 225 đã tăng hơn 42% điểm kể từ tháng 11 năm 2012.[62] The Economist cho rằng những điều chỉnh mang tính tích cực đối với luật phá sản, luật chuyển nhượng đất và luật thuế sẽ hỗ trợ nền kinh tế Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng đầu của gần 15 quốc gia thương mại trên toàn thế giới.

Tháng 12 năm 2018, một thỏa thuận thương mại tự do giữa Nhật Bản và Liên minh châu Âu đã được thông qua và có hiệu lực vào tháng 2 năm 2019. Thỏa thuận này đã tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới chiếm tới 1/3 tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu. Thỏa thuận này giúp giảm 10% thuế hải quan đánh lên các mặt hàng ô tô xuất khẩu của Nhật Bản, 30% thuế đối với pho mát và 10% đối với sản phẩm rượu vang đồng thời mở ra sự phát triển của hoạt động xuất khẩu dịch vụ.[63]

Vào tháng 1 năm 2020, Thủ tướng Shinzo Abe tuyên vố rằng Đại dịch COVID-19 ở Nhật Bản khiến chính phủ phải ban hành tình trạng khẩn cấp quốc gia[64] đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau thế chiến thứ 2.[65] Jun Saito thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản nhận định rằng đại dịch đã giáng "đòn cuối cùng" vào nền kinh tế lâu đời của Nhật Bản, vốn sẽ tiếp tục tăng trưởng chậm lại trong năm 2018.[66]

Khoảng dưới một phần tư người Nhật kỳ vọng điều kiện sinh sống sẽ được cải thiện trong những thập kỷ tới.[67]

Vào ngày 23 tháng 10 năm 2020, Nhật Bản và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chính thức ký kết thỏa thuận thương mại tự do đầu tiên kể từ hậu Brexit, thỏa thuận này sẽ thúc đẩy thương mại giữa Nhật Bản và Vương quốc Anh lên khoảng 15,2 tỷ bảng Anh khi miễn thuế đối với 99% hàng hóa xuất khẩu của Anh sang Nhật Bản. [68][69]

Vào ngày 15 tháng 2 năm 2021, chỉ số trung bình Nikkei đã phá vỡ điểm chuẩn 30k, mức cao nhất kể từ tháng 11 năm 1991.[70] Nguyên nhân là sự hồi phục mạnh mẽ đối với thu nhập của doanh nghiệp, dữ liệu GDP và sự lạc quan đối với sự xuất hiện của vắc-xin COVID-19.[70]

Trong năm kết thúc vào tháng 3 năm 2021, Tập đoàn SoftBank đã đạt lợi nhuận ròng kỷ lục 45,88 tỷ đô la, phần lớn là do sự ra mắt của công ty thương mại điện tử Coupang.[71] Đây là mức lợi nhuận hàng năm lớn nhất mà một công ty Nhật Bản đạt được trong lịch sử.[71]

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thế kỉ 20
    • 1.2 Thế kỉ 21
  • 2 Tổ chức
    • 2.1 Nhánh quân đội
  • 3 Chính sách quốc phòng
    • 3.1 Hội đồng An ninh Quốc gia
    • 3.2 Điều 9 Hiến pháp
    • 3.3 Ngân sách
  • 4 Triển khai tên lửa chống đạn đạo
  • 5 Lực lượng lính biển đánh bộ
  • 6 Thuật cận chiến
  • 7 Nhiệm vụ và hoạt động
    • 7.1 Gìn giữ hoà bình
      • 7.1.1 Hoạt động hải quân ở nước ngoài
  • 8 Ngày Lực lượng Phòng vệ
  • 9 Hình ảnh
  • 10 Xem thêm
  • 11 Ghi chú
  • 12 Tham khảo
    • 12.1 Nguồn
  • 13 Liên kết bên ngoài

Lịch sửSửa đổi

Thế kỉ 20Sửa đổi

Đội Dự bị Cảnh sát, ngày 3 tháng 5 năm 1952

Sau khi thua trận trong Thế chiến lần thứ hai thì quân đội Nhật Bản bị giải tán. Nhật Bản bị Hoa Kì chiếm đóng và chỉ có cảnh sát để trị an và phòng chống phạm tội. Tuy nhiên tình thế căng thẳng trầm trọng thêm ở châu Á và châu Âu cùng các cuộc đình công và biểu tình của phe chủ nghĩa xã hội khiến cho một vài lãnh tụ bảo thủ đòi lập lại quân đội. Giới chính trị Nhật Bản càng tin đất nước cần phải có quân đội riêng khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, quân chiếm đóng tham chiến, Nhật Bản mất gần hết năng lực quốc phòng. Hoa Kì tán thành kế hoạch tự vệ của Nhật Bản. Tháng 7 năm 1950 chính phủ Nhật thiết lập Đội Dự bị Cảnh sát (警察予備隊, Keisatsu-yobitai) bao gồm 75.000 người có vũ khí bộ binh nhẹ.[12][13] Năm 1952 thành lập Đội Cảnh bị Bờ biển (海上警備隊, Kaijō Keibitai).[14][15]

Máy bay huấn luyện Lockheed T-33 của Lực lượng Phòng vệ Đánh không vào ngày 15 tháng 5 năm 1955

Nhật Bản biết rõ để giữ gìn đất nước cần phải có Hoa Kì trợ giúp. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, hai nước kí Hiệp ước Bảo an. Hiệp ước cho phép quân đội Hoa Kì đóng ở Nhật Bản hành động khi nước ngoài lấn áp Nhật Bản, còn các mối đe dọa trong nước và thiên tai thì do các lực lượng của Nhật phụ trách đối phó. Hoa Kì được ra tay để gìn giữ hoà bình ở Đông Á và can thiệp chính trị nội bộ của Nhật Bản. Giữa năm 1952 Đội Dự bị Cảnh sát được mở mộng thành 110,000 người và đổi tên thành Lực lượng Bảo an Quốc gia.[16] Đội Cảnh bị Bờ biển được sát nhập vào cục Bảo an Quốc gia để trở thành tiền đề của Hải quân.

Điều 9 Hiến pháp Nhật Bản
(1) Nhân dân Nhật Bản thành thật mong muốn một nền hòa bình quốc tế dựa trên chính nghĩa và trật tự, cam kết vĩnh viễn không phát động chiến tranh như là một phương tiện giải quyết xung đột quốc tế bao gồm chiến tranh xâm phạm chủ quyền dân tộc và các hành vi vũ lực hoặc các hành vi đe dọa bằng vũ lực.
(2) Để thực hiện các mục tiêu của Khoản trước, lục quân, hải quân và không quân cũng như các tiềm lực chiến tranh khác sẽ không bao giờ được duy trì. Quyền tham chiến của đất nước sẽ không được công nhận.

Hiến pháp năm 1947 được chính quyền chiếm đóng phê chuẩn[17] cấm Nhật Bản tuyên chiến để giải quyết tranh chấp quốc tế và không cho giữ lục quân, hải quân, không quân, hay tiềm năng quân sự khác.[1] Tuy nhiên những chính phủ về sau cho rằng Nhật Bản vẫn còn quyền tự vệ và dần dần phát triển Lực lượng Phòng vệ, được Hoa kì khuyến khích.

Ngày 1 tháng 7 năm 1954 Sở Phòng vệ thành lập. Sau đó Đội Dự bị Cảnh sát được cải tổ thành Lực lượng Phòng vệ Đánh bộ tức là lục quân, Đội Cảnh bị Bờ biển cải tổ thành Lực lượng Phòng vệ Đánh biển tức là hải quân,[14][15] và Lực lượng Phòng vệ Đánh không tức là không quân được thành lập. Tướng Keizō Hayashi được bổ nhiệm làm chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Tham mưu.[1]

Ngày 6 tháng 1 năm 1955 Lực lượng Không quân Viễn Đông của Không quân Hoa Kì thông báo sẽ giao 85 máy bay cho không quân mới của Nhật Bản, trang bị quân sự đầu tiên của lực lượng.[18]

Ngày 19 tháng 1 năm 1960 Hoa Kì và Nhật Bản kí Hiệp ước Hợp tác và Bảo an. Hoa Kì phải báo Nhật Bản trước khi điều động quân đội và không được can thiệp chính sự nội bộ của Nhật Bản.[19] Hai nước phải giúp đỡ lẫn nhau nếu lãnh thổ Nhật Bản bị tấn công. Hiệp ước quy định một nước lâm nguy là cả Hoa Kì lẫn Nhật Bản đều gặp nguy hiểm, nên hai nước cần phải có năng lực kháng chiến; Hoa Kì có cớ đặt căn cứ quân sự ở Nhật Bản vậy. Liên minh giữa Nhật Bản và Hoa Kì tồn tại lâu hơn bất kỳ liên minh nào khác giữa hai cường quốc kể từ năm 1948.[20]

Năm 1983 Thủ tướng Nhật Nakasone Yasuhiro hứa sẽ biến Nhật Bản thành "tàu sân bay không thể đánh chìm ở Thái Bình Dương" để giúp Hoa Kì chống máy bay ném bom của Liên Xô.[21][22]

Mặc dù không bị hiến pháp cấm có vũ khí hạt nhân, vì là nước duy nhất bị đánh bom hạt nhân nên Nhật Bản quyết tâm không bao giờ mắc lại tai hoạ nguyên tử. Luật Năng lượng hạt nhân năm 1956 cấm nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích không hoà bình. Từ năm 1956 Nhật Bản thi hành chính sách "ba không": không sở hữu vũ khí hạt nhân, không sản xuất vũ khí hạt nhân, không nhập khẩu vũ khí hạt nhân. Năm 1976 Nhật Bản phê chuẩn Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và nhắc lại sẽ không bao giờ "phát triển, sử dụng vũ khí hạt nhân hay cho phép vận chuyển qua lãnh thổ Nhật Bản". Tuy nhiên tục xem Nhật Bản là "có năng lực hạt nhân", tức là có thể phát triển vũ khí hạt nhân trong một năm nếu tình huống chính trị xấu kém thêm đáng kể, do sở hữu công nghệ cao cấp cùng nhiều nhà máy điện hạt nhân.[23] Nhiều nhà phân tích xét Nhật Bản là nước hạt nhân trên thực tế,[24][25] đùa rằng chỉ cần chìa vít là có được vũ khí hạt nhân,[26][27] bom thực ra nằm trong tầng hầm.[28]

Ngày 28 tháng 5 năm 1999 Nhật Bản thông qua luật cho phép Lực lượng Phòng vệ tham gia "hậu phương" nếu Hoa Kì tiến hành chiến tranh liên hệ tới "vấn đề của khu vực."[29]

Thế kỉ 21Sửa đổi

Ngày 9 tháng 1 năm 2007 Cục Phòng vệ (防衛庁) trực thuộc Phủ Nội các được nâng cấp thành Bộ Quốc phòng (防衛省).[30] Hoạt động nước ngoài của Lực lượng Phòng vệ được liệt từ "việc khác" thành "nhiệm vụ cơ bản", về cơ bản thay đổi bản chất của lực lượng vì không còn chỉ mang tính chất quốc phòng nữa. Nay Lực lượng Phòng vệ Đánh biển có thể hoạt động trên toàn thế giới, như phòng chống cướp biển. Cùng năm Thủ tướng Abe Shinzō tuyên bố hiến pháp Nhật Bản không cấm tất cả vũ khí hạt nhân miễn là được giữ ở mức ít nhất và mục đích có hạn.[31]

Tháng 7 năm 2010 căn cứ nước ngoài đầu tiên của Nhật Bản sau Thế chiến lần thứ hai thành lập ở Djibouti, Somalia.[29]

Ngày 18 tháng 9 năm 2015 Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép Lực lượng Phòng vệ bảo vệ các nước đồng minh trong lúc chiến đấu lần đầu tiên kể từ năm 1947. Lực lượng Phòng vệ được cung cấp vật liệu cho các nước đồng minh tham chiến trên phạm vi quốc tế và bảo vệ các cơ sở vũ khí nước ngoài góp phần bảo vệ Nhật Bản. Lý do đưa ra là không bảo vệ hay trợ giúp nước đồng minh sẽ làm suy yếu liên minh giữa các nước và gây nguy hiểm cho Nhật Bản. Đây là những thay đổi quốc phòng lớn nhất của Nhật Bản kể từ Thế chiến lần thứ hai.[31]

Tháng 5 năm 2017 Thủ tướng Abe Shinzo hứa sẽ sửa đổi Điều 9 Hiến pháp trước khi năm 2020 kết thúc, là điều khoản cấm Nhật Bản tuyên chiến để giải quyết tranh chấp quốc tế. Thủ tướng Shidehara Kijūrō viết Điều 9 dưới sự giám sát của chính quyền chiếm đóng.[32][33][34]

Tổ chứcSửa đổi

Cờ hiệu Thủ tướng Nhật Bản
Bộ Quốc phòng Nhật Bản

Thủ tướng là tổng tư lệnh của Lực lượng Phòng vệ. Dưới quyền Thủ tướng là Bộ trưởng Quốc phòng.[35][36][37][38]

Tổng Tham mưu trưởng (統合幕僚長, Tōgō Bakuryō-chō) có nhiệm vụ tham mưu cho Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng, đồng thời là người đứng đầu Bộ Tham mưu Liên quân (統合幕僚監部, Tōgō Bakuryō Kanbu). Bộ Tham mưu bao gồm Cố vấn cao cấp của Tổng Tham mưu trưởng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Tham mưu trưởng Hành chính, và nhiều phòng ban và nhân viên đặc biệt.[39] Mỗi nhánh quân đội có Tham mưu trưởng riêng đứng đầu.[39][40][41][42]

Tổng Tham mưu trưởng là sĩ quan cấp cao nhất của Lực lượng Phòng vệ và phụ trách thi hành mệnh lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng dưới chỉ đạo của Thủ tướng.[38][43] Tổng Tham mưu trưởng giám sát các nhánh quân đội và nắm quyền chỉ huy vào thời chiến, nhưng trong thời bình chỉ được hoạch định chính sách và phối hợp quốc phòng.[35][36]

Tham mưu trưởng của mỗi nhánh quân đội có quyền quản lý lực lượng của họ.[37][43][44]

Nhánh quân độiSửa đổi

  • Lực lượng Phòng vệ Mặt đất
  • Lực lượng Phòng vệ Biển
  • Lực lượng Phòng vệ Trên không

Chính sách quốc phòngSửa đổi

Hội đồng An ninh Quốc giaSửa đổi

Ngày 4 tháng 12 năm 2013 Hội đồng An ninh Quốc gia thành lập để cho Thủ tướng được thảo luận các vấn đề an ninh quốc gia thường xuyên và khi cần thiết.

Điều 9 Hiến phápSửa đổi

Mặc dù Điều 9 Hiến pháp cấm Nhật Bản lập quân đội và tuyên chiến để giải quyết tranh chấp giữa các nước, từ năm 2000 có đề nghị làm suy yếu hay thậm chí xoá Điều 9. Hiện nay giới chính trị Nhật Bản giải thích hiến pháp cho thành lập quân đội để tự vệ, nên Lực lượng Phòng vệ chỉ được phụ trách quốc phòng và không có năng lực tấn công tầm xa.

Ngân sáchSửa đổi

Biểu đồ tròn cho thấy chi tiêu quân sự của các nước vào năm 2018, tính bằng tỉ đô-la Mỹ, theo Viện nghiên cứu Hoà bình quốc tế Stockholm

Năm 1976 Thủ tướng Takeo Miki tuyên bố nên giữ chi tiêu quốc phòng ở mức 1% tổng sản phẩm quốc nội của Nhật Bản,[45] giữ nguyên đến năm 1986.[46] Năm 2005 ngân sách quân đội của Nhật Bản ở mức khoảng 3% ngân sách quốc gia; khoảng một nửa chi cho chi phí nhân sự, trong khi phần còn lại dành cho các chương trình vũ khí, chi phí bảo trì và vận hành.[47] Năm 2011 Nhật Bản có ngân sách quân đội lớn thứ tám trên thế giới.[48][49]

Năm 2015 quân đội Nhật Bản có ngân sách 4,98 nghìn tỷ Yên, tăng 2,8% so với năm trước.[50]

Nhật Bản thông qua ngân sách quốc phòng lớn chưa từng thấy