Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 năm 2024

Văn là môn thi bắt buộc trong kỳ tốt nghiệp THPT 2020. Tuyển sinh số xin gửi tới các thí sinh tuyển tập văn mẫu các tác phẩm Văn quan trọng lớp 12 dưới đây để tham khảo.

Like và Theo dõi Fanpage Tuyển sinh số (https://www.facebook.com/tuyensinhso/) để cập nhật thêm nhiều tin tức tuyển sinh, tài liệu ôn thi học kì, ôn thi THPT quốc gia và được tư vấn tuyển sinh miễn phí.

Việt Bắc

Sóng

Đất nước

Tây Tiến

Người lái đò sông Đà

Ai đã đặt tên cho dòng sông

Vợ nhặt

Vợ chồng A Phủ

Chiếc thuyền ngoài xa

Rừng xà nu

Xem thêm:

  • Thầy giáo môn Hóa mách thí sinh chiêu ôn tập, luyện đề để đạt điểm cao
  • Khi nào đến thời gian điều chỉnh nguyện vọng thi Đại học 2020?

Jennie

Địa chỉ trụ sở: Tòa nhà Viettel, Số 285, Đường Cách Mạng Tháng 8, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0309532909 do Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp lần đầu vào ngày 06/01/2010.

Văn mẫu lớp 12 là nguồn tư liệu quan trọng cho học sinh, chứa đựng đa dạng các bài văn như nghị luận xã hội, nghị luận văn học, văn thuyết minh, văn phát biểu cảm nghĩ... Tất cả đều có trong bộ sưu tập văn mẫu lớp 12, hỗ trợ học sinh dễ dàng tìm kiếm, tham khảo và áp dụng. Đặc biệt, tài liệu này giúp học sinh nâng cao và bổ sung kiến thức văn học 12 một cách nhanh chóng.

\>> Tải ngay toàn bộ văn mẫu lớp 12 tại đây

Tổng hợp những bài văn mẫu 12 chất lượng, đặc sắc bao gồm đủ dạng bài từ nghị luận văn học, nghị luận xã hội, văn thuyết minh, phân tích đến biểu cảm và phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học... Hệ thống đầy đủ và tuân thủ chương trình sách giáo khoa ngữ văn 12, những bài văn mẫu xuất sắc giúp học tập và làm văn trở nên thuận lợi và đơn giản hơn.

Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 năm 2024

Bộ sưu tập những bài văn mẫu lớp 12 xuất sắc

Mục Lục bài viết: 1. Văn mẫu hay môn tiếng Anh lớp 12. 2. Nghị luận xã hội: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình. 3. Nghị luận xã hội: Học vấn không có quê hương nhưng người học phải có Tổ quốc . 4. Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. 5. Nghị luận xã hội: Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động. 6. Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. 7. Nghị luận xã hội: Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích. 8. Phân tích tình huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. 9. Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. 10. Phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Những bài văn mẫu lớp 12 ấn tượng

1. Văn mẫu xuất sắc môn tiếng Anh lớp 12.

Bài số 1. Viết đoạn văn khoảng 140 từ để nói về môn thể thao bạn yêu thích nhất. Nêu lý do của bạn.

Theo quan điểm của tôi, có nhiều môn thể thao khiến tôi quan tâm, nhưng môn tôi thích nhất là bơi lội vì nhiều lý do. Trước hết, bơi lội giúp tôi có sức khỏe tốt. Nhờ đó, tôi có thể học lâu hơn và có thể đạt được kết quả tốt. Hơn nữa, nhờ môn thể thao này, tôi có thể giải toả tâm trí sau một ngày học tập vất vả ở trường. Nhờ đó, tôi có thể tránh bị căng thẳng. Cuối cùng, khi tập bơi, tôi có thể kết bạn với những người có cùng sở thích. Tóm lại, bơi lội là môn thể thao yêu thích của tôi vì những lý do đã nêu.

Bài số 2. Viết đoạn văn khoảng 140 từ để nêu lý do về sự tuyệt chủng của nhiều loài.

Theo quan điểm của tôi, có nhiều lý do dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài. Trước hết, môi trường sống của các loài động và thực vật đang bị phá hủy. Điều này dẫn đến việc động vật không có nơi sống. Kết quả là chúng chết. Ngoài ra, nhiều loài đã tuyệt chủng do ô nhiễm. Cuối cùng, con người tiếp tục săn bắt động vật bất hợp pháp để lấy lông, da, thực phẩm và các bộ phận cơ thể có giá trị khác. Do đó, số lượng các loài này ngày càng giảm đi. Tóm lại, phá hủy môi trường sống, ô nhiễm và săn bắt động vật bất hợp pháp là nguyên nhân chính dẫn đến sự tuyệt chủng.

Bài số 3. Viết đoạn văn khoảng 140 từ để đề xuất biện pháp/giải pháp bảo vệ các loài quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng.

Theo quan điểm của tôi, có nhiều biện pháp để bảo vệ các loài quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Trước hết, chúng ta nên bảo vệ môi trường sống tự nhiên bằng cách trồng thêm cây hoặc thiết lập thêm khu dự trữ. Điều này giúp cho những loài này có nơi an toàn để sinh sống. Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo tồn để họ sẵn lòng đóng góp vào việc bảo vệ các loài đang gặp nguy hiểm. Cuối cùng, chính phủ cần ban hành luật lệ để ngăn chặn việc săn bắt bất hợp pháp các loài này. Tóm lại, chúng ta có thể thực hiện nhiều biện pháp để bảo vệ các loài quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng.

2. Nghị luận xã hội Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình.

Trong thời đại hiện đại và phát triển khoa học, giáo dục đóng vai trò quan trọng. Học tập là vấn đề được xã hội quan tâm. Học để làm gì? UNESCO đã đề xuất mục đích học tập: 'Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình'.

Mục đích học tập mà UNESCO đề ra không chỉ phản ánh xu hướng của thời đại mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc. Học tập phải đáp ứng cả hai yêu cầu: hấp thụ kiến thức và áp dụng vào thực tế, phát triển nhân cách. Đầu tiên: 'học để biết'. Học sinh bắt đầu bằng việc học chữ cái, số, cách viết và đọc. Điều này tạo ra nền tảng cơ bản, dần dần hình thành một hệ thống kiến thức toàn diện ở mức phổ thông. Học ở đây là quá trình tiếp nhận kiến thức từ người khác và làm giàu vốn kiến thức cá nhân. Qua học tập, chúng ta hiểu về quy luật tự nhiên, quy tắc xã hội, cách sống và giá trị cuộc sống. Hấp thụ kiến thức có thể coi là mục đích học tập cơ bản nhất. Học tập làm giàu tri thức cho con người, làm cho trí tuệ con người tỏa sáng.

Tuy nhiên, theo quan điểm của ông cha ta, 'Trăm hay không bằng tay quen”. Nếu chỉ chú trọng vào học lý thuyết mà không thực hành, sẽ gặp khó khăn và thậm chí là thất bại. Một ví dụ rõ ràng là cuộc sống của những người hiểu nhiều nhưng kỹ năng thực hành lại kém. Ngược lại, nông dân 'chân lấm tay bùn” không qua trường lớp nào, nhưng tay nghề lại xuất sắc. Đó là khả năng quan sát, rút kinh nghiệm từ lao động. Người chỉ biết nói mà không làm là người vô dụng. Họ chỉ biết trang trí bản thân mình mà không rèn luyện kỹ năng.

Vì vậy, 'học' không đủ mà còn phải 'đi đôi với hành'. Không nên thiên vị một phía: 'học' quan trọng hơn hay 'hành' quan trọng hơn, mà cần phải kết hợp giữa cả hai yếu tố đó. Trong xã hội ngày nay, tri thức là quan trọng. Để thực hiện công việc kỹ thuật cao, cần nắm vững lý thuyết và áp dụng phù hợp. Công nghệ hiện đại khác biệt nhiều so với lao động nông thôn. Lý thuyết và thực hành liên kết sẽ tăng hiệu suất làm việc. Ta thấy tác động hai chiều giữa 'học” và 'hành', 'biết' và 'làm', chúng bổ sung, tương tác, là hai khía cạnh của quá trình.

Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 năm 2024

Nghị luận xã hội Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình- Văn mẫu lớp 12 tuyển chọn

Ngoài việc kết hợp giữa thu thập kiến thức và thực hành, UNESCO đã chỉ ra:' học để chung sống, học để tự khẳng định mình'. Đây là mục đích học tập rất nhân văn. Học tập giúp ta hiểu sâu hơn về thế giới, làm cho tâm hồn ta linh hoạt, đa dạng và phong phú. Ta biết cười với niềm vui của người khác, đau với nỗi đau của con người, giúp đỡ, chia sẻ, cảm thông và tìm thấy bản thân. Tri thức tự nó đã làm cho con người trở nên rộng lượng, vị tha hơn và tự tin hơn trong cuộc sống.

Trong thời đại ngày nay, cuộc sống hiện đại đã thay đổi cách suy nghĩ của con người. Một phần sinh viên hiện đại thường không rõ ràng về mục đích học tập của mình. Họ hấp tấp trong việc học như một chiếc máy, coi nó như nhiệm vụ không thể tránh khỏi, là trách nhiệm không thể từ chối, đối với cha mẹ và thầy cô. Họ học để đạt bằng cấp, để có sự nghiệp và quên mất lợi ích của việc học. Họ nghĩ rằng nếu xã hội coi học tập chỉ là nghĩa vụ bắt buộc và dừng lại ở mức độ biết thì mỗi cá nhân sẽ không phát huy được tài năng và sự sáng tạo của bản thân, góp phần hạn chế sự phát triển xã hội. Vì vậy, việc xác định mục đích học tập là rất quan trọng.

Mục đích học tập theo đề xuất của UNESCO là rất chính xác và nhân văn. Nó giúp chúng ta dễ dàng định hình hướng đi trong học tập, làm cho quá trình học trở nên hiệu quả và có ý nghĩa hơn. Tri thức như một chiếc thang dài, mỗi bậc thang vượt qua là bước tiến trong sự phát triển bản thân. Học vấn làm đẹp con người!

3. Nghị luận xã hội Học vấn không có quê hương nhưng người học phải có Tổ quốc.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã truyền đạt tình cảm với cội nguồn, truyền thống dân tộc qua 'Vang bóng một thời' nhưng tại sao ông vẫn thấy 'Thiếu quê hương'? Hồn thơ Tế Hanh gắn bó với nước non, quê cha đất tổ, tình cảm ấy không bao giờ phai nhạt. 'Quê hương' - tiếng gọi vô cùng thiêng liêng! 'Quê hương' - tình cảm ấy rộng lớn đến đâu! Có lẽ vì vậy mà L.Pasteur đã nói: 'Học vấn không có quê hương nhưng người học phải có Tổ quốc'.

Mọi sự tồn tại trong vũ trụ đều xuất phát từ một nguồn cội, một điểm bắt đầu đặc biệt. Thế nhưng, với L. Pasteur, tại sao học vấn lại không có điểm xuất phát như vậy? Đầu tiên, có vẻ như không hợp lý, nhưng nếu nhìn vào cuộc đời của ông, điều này hoàn toàn hợp lý. Bởi vì mọi tri thức, chân lý, đạo đức trên thế giới không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ cá nhân nào. Chúng là của toàn nhân loại, nhưng chỉ trở nên hữu ích khi mỗi cá nhân biết cách học và lựa chọn. Do đó, 'học vấn không có quê hương'.

Tuy nhiên, ngược lại, người sở hữu tri thức nhân loại, một khía cạnh không có nguồn cội, vẫn cần phải có một quê hương. Theo quy luật của cuộc sống, cây có gốc, suối có nguồn, con người cũng không nằm ngoài sự sáng tạo của tạo hóa.

Thực sự, 'học vấn không có quê hương'... Trong kho tri thức của loài người, không ai có thể khám phá toàn bộ, chỉ dừng lại ở một phần nào đó và ở một góc nhìn cụ thể trong đại dương tri thức. Vốn tri thức của chúng ta nhỏ bé như một hạt nước giữa biển cả tri thức. Do đó, học vấn không có nguồn gốc cụ thể, vì chúng ta tiếp cận nó theo mọi hình thức và mọi góc độ khác nhau, như câu ca ngợi 'đi một ngày đàng, học một sàng khôn'. Chúng ta thu nhận tri thức rộng rãi, và điều này chứng minh câu nói của L. Pasteur là hoàn toàn đúng.

Trước hết, người có quê hương là người biết nơi mình sinh ra, quê hương, nguồn gốc của mình. Nhưng 'quê hương' không chỉ là điều đó, nó còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn. 'Có quê hương' là mang theo tình yêu cho nơi chúng ta sinh sống, là trân trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, là mong muốn trở về trong mỗi chuyến đi xa... Và là sự chan chứa trong tim... tâm hồn dân tộc...

'Quê hương là điều gì vậy mẹ Được cô giáo dạy phải thấu hiểu ... Nếu quê hương không chở che Thì cuộc sống trở nên vô nghĩa' (Quê hương – Đỗ Trung Quân)

Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 năm 2024

Những bài văn mẫu lớp 12 tuyển chọn đem đến cơ hội cho học sinh củng cố kiến thức và nâng cao kỹ năng viết

Thật vậy, người học không thể thiếu quê hương vì tình cảm với quê hương là giá trị tinh thần cơ bản, là nền móng vững chắc giúp xây dựng nhân cách con người. Bằng cách tiếp thu tinh hoa văn hóa, con người có thể nâng cao kiến thức và mở rộng tầm hiểu biết. Với vốn tri thức sâu sắc, người học nhận thức rõ giá trị của quê hương. Tình cảm này kích thích ý thức trách nhiệm phục vụ đất nước. Họ giữ gìn và phát triển những giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Một ví dụ điển hình cho những người có tri thức là Tiến sĩ toán học Lê Bá Khánh Trình. Ông là giáo sư giảng dạy tại Đại học Khoa Học Tự Nhiên và từng giành giải đặc biệt tại kì thi Toán Quốc tế năm 1979. Mặc dù có nhiều cơ hội ở các trường Đại học nổi tiếng thế giới, nhưng tình yêu quê hương đã thúc đẩy ông quyết định ở lại và làm việc tại Việt Nam. Tình cảm này thể hiện sự cống hiến và đóng góp cho ngành Toán học của đất nước.

Tuy nhiên, có những người trí thức với học vấn cao lại thiếu những tình cảm cơ bản nhất của con người. Như Nhĩ - nhân vật trong truyện ngắn Bến quê của nhà văn Nguyễn Minh Châu, một người trí thức đi khắp thế giới chỉ để cuối cùng nhận ra giá trị của bãi bồi ở bên kia dòng sông quê nhà, nơi mà anh chưa bao giờ đặt chân đến. Thực tế hiện nay, một số thanh niên trí thức sống một lối sống đáng lo ngại. Vẫn còn tình trạng chảy máu chất xám, những tổ chức phản động vẫn hoạt động. Vậy nên, nếu muốn là người trí thức, hãy biết trân trọng tình cảm với quê hương.

Quê hương thường là nguồn cảm hứng sáng tạo lớn trong nghệ thuật, từ thi ca, âm nhạc đến hội họa. Tình yêu quê hương là tình yêu với gia đình, ngôi làng, đồng cỏ, là ký ức về những câu ca, lời ru của mẹ, là sự chứa đựng, thấm đẫm trong cuộc sống khó khăn của cha. Khi tình cảm với quê nhà sâu đậm, ý thức về việc xây dựng và bảo vệ nơi yêu thương trong mỗi người cũng được nâng cao. Và học vấn là con đường để con người mang theo hai tiếng quê hương. Người có quê hương thường là người có học vấn. Đó có thể là những nông dân vì yêu thương mảnh đất, cánh đồng mà trở thành kỹ sư nông nghiệp với những cải tiến khoa học. Cũng có thể là những nghệ nhân làng nghề vì tình yêu với nét đẹp truyền thống mà kết hợp sáng tạo khoa học kĩ thuật vào sản xuất... Còn nhiều người khác như vậy! Tình yêu quê hương trở thành nguồn động viên để mầm mống lý tưởng cao đẹp phát triển trong con người. Có quê hương, con người có thể trở thành người có học vấn và người có học vấn thì chắc chắn phải có 'quê hương'.

Nhà bác học người Pháp này sử dụng từ 'nhưng' để nối liền hai vế câu đối lập nhau, nhấn mạnh giá trị của 'Quê hương và Tổ quốc'. 'Nhưng người học vấn phải có Tổ quốc'. Tổ quốc là nơi chúng ta sinh ra, lớn lên và hòa mình vào những giá trị văn hóa và linh thiêng của Tổ quốc, nó còn là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi nuôi dưỡng tinh thần của chúng ta. Như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết:

'Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi'

Tổ quốc, nơi mà con người sinh ra, mang theo những giá trị tận cùng, là mảnh đất ấm êm của gia đình, xóm làng, những kỷ niệm ấu thơ dịu dàng. 'Người học vấn phải có Tổ quốc' không chỉ là một chân lý chung, mà còn là lời răn dạy, nhắc nhở về trách nhiệm của người hiểu biết về đạo lý, đặc biệt là khi ở xa quê hương. Đây là tình cảm nhân văn, sâu sắc trong trái tim con người, là thước đo của đạo đức.

Tổ quốc là nơi con người có thể bay cao trên bầu trời tri thức. Mẹ Tổ quốc luôn mở cửa đón những con cái trở về với mong muốn xây dựng và phát triển. Tình yêu Tổ quốc là sức mạnh hai chiều, là giao thoa giữa con người và đất nước. Câu nói của L. Pasteur chứa đựng bài học về cách sống: không ai có thể quên Tổ quốc.

Yêu quê hương là yêu và giữ gìn những giá trị truyền thống của đất nước. Như Vũ Đình Liên tiếc nuối cho 'Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ' hay nhân vật bà Hiền trong văn Nguyễn Khải, họ là những người được giáo dục để trân trọng vẻ đẹp cổ truyền và thuần phong mĩ tục của thủ đô ngàn năm. Họ là cây cầu nối giữa hiện tại và quá khứ, giữa sự hiện đại và giá trị truyền thống.

Yêu đất nước không nhất thiết phải tham gia vào những dự án lớn, kế hoạch tỷ đô. Lòng yêu nước thể hiện qua những biểu hiện giản dị hơn.

Bản dạy của mẹ Âu Cơ, dòng máu Việt chảy trên bờ Thái Bình Dương, quê hương hòa mình vào tâm hồn Việt. Dù ở đâu, tình yêu quê hương luôn là động lực mạnh mẽ, sẵn sàng hỗ trợ đất nước.

Chính sách hỗ trợ người tài về xây dựng đất nước cần được cải thiện. Việc chảy máu chất xám có thể giải quyết khi có những người tài năng đầy lòng với Tổ quốc, xã hội cần mở cửa rộng ra cho sự sáng tạo và đóng góp.

'Dòng suối hòa mình vào sông, sông chảy ra dải trường giang Von-ga, sông Von-ga rót vào biển. Yêu nhà, yêu làng xóm, yêu mái nhà tranh là yêu Tổ quốc.' Thanh niên Việt Nam cũng có thể thể hiện tình yêu đất nước thông qua những hành động nhỏ như bảo vệ môi trường, giúp đỡ cộng đồng.

Với trình độ học vấn cao, chúng ta không nên quên quê hương và Tổ quốc. Phải học tập để làm cho Tổ quốc Việt Nam phồn thịnh, như Bác Hồ đã nói 'Non sông, đất nước Việt Nam của chúng ta có sánh ngang với các cường quốc năm châu khác được hay không chính là nhờ vào công lao học tập của các cháu...'

4. Đánh giá hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Trong một đêm khói lạnh năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một ngôi làng bên bờ sông Đáy, ký ức trong Quang Dũng hồi sinh. Là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến, anh chịu trách nhiệm phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Cuộc chiến trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa đầy khó khăn, với rừng nguyên sinh, sốt rét quấy nhiễu, thuốc men khan hiếm, và đường đi chông gai qua những dãy núi hoang sơ.

Đội quân Tây Tiến chủ yếu là thanh niên Hà Nội, đa phần là học sinh, những tư sản trí thức, chiến đấu trong cảnh khốn cùng vẫn giữ ngọn lửa lãng mạn anh hùng. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, viết vào năm 1918 (trước đây mang tên 'Nhớ Tây Tiến'), thể hiện tình cảm nhớ thương và tình yêu với một thời kỳ chiến đấu gay go nhưng đầy oai hùng.

Để mô tả người lính, Quang Dũng sử dụng chi tiết, hình ảnh thực tế của đoàn quân Tây Tiến, nhưng bằng bút lãng mạn để tôn lên đặc điểm phi thường, tài năng của họ, tạo ra vẻ đẹp độc đáo và hiếm có trong bối cảnh lịch sử. Bài thơ được xây dựng trên cảm xúc nhớ thương, mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ.

Sông Mã rời xa, Tây Tiến hỡi Chờ nhớ rừng núi, chờ vơi vơi

Hình ảnh sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như mở cánh cửa cho những câu chuyện oai hùng của đoàn quân Tây Tiến. Trên bước đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng, nên tên 'sông Mã' được nhắc đến ngay từ đầu. Câu thơ giống như một lời kêu gọi da diết, khoảng cách về địa lý xa xôi nhưng nỗi nhớ luôn hiện hữu. Trong câu thứ hai, hai từ 'nhớ' được sử dụng với nhịp 4/3, tinh tế diễn đạt sự mong đợi và khát khao của tác giả. Sự độc đáo nằm ở từ 'chơi vơi', tạo cảm giác lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng người, tạo nên sự chống chếch và hụt hẫng. Nỗi nhớ về Tây Tiến, mặc dù xa vời nhưng lại trở nên gần gũi, nhẹ nhàng mà ám ảnh. Chữ 'ơi' ở cuối câu thơ tạo ra sự dịu dàng lâng lâng, làm cho cảm xúc của người đọc trở nên chặt chẽ. Ngay sau đó, nhà thơ mô tả chi tiết nỗi nhớ của mình.

Sài Khao sương che đoàn quân mệt Mường Lát hoa rơi trong đêm hơi

Những địa danh Sài Khao, Mường Lát trong ký ức của Quang Dũng trở nên gần gũi và đặc biệt. Viết về đoàn quân mệt mỏi, Quang Dũng thêm vào đó hình ảnh 'sương che', 'hoa rơi', 'đêm hơi'. Rõ ràng chất hiện thực và lãng mạn kết hợp nhau, tạo nên diễn đạt độc đáo về Tây Tiến.

Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được tô thêm sắc màu huyền bí, thơ mộng, làm giàu thêm sắc thái lãng mạn cho khung cảnh rừng núi, nơi đoàn quân Tây Tiến bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong ký ức, những kỷ niệm còn tươi mới như còn sống, nhà thơ gợi mở hình ảnh về thời kỳ khó khăn:

Leo lên dốc khuỷu, đi thăm thẳm Heo hút mây cồn, súng hòa trời

Hai câu thơ sắc nét và sinh động diễn đạt một cách cụ thể nhất những khó khăn của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ đầu tiên, với nhịp 4/3 và thanh trắc, đưa người đọc đến với sự gập ghềnh hiểm trở của địa hình. Điều đặc biệt là những từ ngữ như 'khúc khuỷu', 'thăm thẳm' làm cho không gian mở ra đầy chiều sâu; cao, rộng, sâu, xa. Người đọc cảm nhận được vất vả và gian khổ của người lính. Câu thơ thứ hai, với từ ngữ 'heo hút', không chỉ mang độ sâu mà còn tạo cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo, hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của người lính Tây Tiến đầy gian khó và nguy hiểm. Hơn nữa, chữ 'súng hòa trời' độc đáo, là hình ảnh từ thực tế nhưng lại đặc sắc. Nó tạo nên không gian tưởng tượng lãng mạn trong khi xuất phát từ cuộc sống thực, từ con mắt tinh tế và bút tài đa dạng của nhà thơ. Hình ảnh 'súng hòa trời' không chỉ kể về gian khổ mà còn làm tỏa sáng tinh thần mạnh mẽ và tư thế kiêu hùng của con người. Ngoài ra, nó còn chứa đựng một chút tính hài hước, tinh nghịch, là phong cách trẻ trung và lãng mạn. Trong khung cảnh hoang sơ và lạnh lẽo, hình ảnh con người không cảm thấy mình nhỏ bé mà ngược lại khẳng định vị thế chủ nhân, bản lĩnh của chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan. Ngoài ra, hình ảnh của thời kỳ khó khăn cũng được biểu hiện qua câu thơ:

Chiều tàn oai lãnh thác vang thét Đêm huyền bí Mường Hịch cọp đùa giỡn

Hình ảnh 'oai lãnh thác vang thét' và 'Mường Hịch cọp đùa giỡn' là minh chứng sống động về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến phải đối mặt trong những thời kỳ 'chiều chiều', 'đêm đêm' trở nên như những khoảnh khắc mộng mơ, như một ẩn dụ về Tây Tiến ghi sâu trong tiềm thức của tác giả. Quang Dũng, khi miêu tả về khổ cực của người lính, đã chấp nhận thực tế một cách chân thực nhất:

Bạn đồng đội mệt nhọc không tiến bước Gục xuống, súng mũ bỏ lại, lãng quên đời

Mọi khó khăn, gian khổ của người lính hiện hóa qua từ ngữ 'mệt nhọc không tiến bước'. Tuy nhiên, trong sự 'mệt nhọc' đó, người đọc cảm nhận được sự kiêu hãnh, vững vàng của những người lính trên con đường hành quân, và cảm giác như họ là những anh hùng trong bóng tối. Từ 'bỏ lại, lãng quên đời' tạo nên hình ảnh của sự hy sinh và không ngừng chiến đấu, nhưng cũng chứa đựng vẻ nhẹ nhàng, tinh tế, và sẵn lòng hy sinh vì mục tiêu cao cả. Những người lính Tây Tiến không chỉ là anh hùng gan dạ mà còn có những khoảnh khắc nghỉ ngơi đẹp như mơ:

Doanh trại rực sáng đèn hòa mình vào bữa tiệc ánh đuốc Kìa cô gái mặc chiếc áo xiêm tinh tế Khèn lên man mác, nàng hòa nhạc về tình đồng đội Âm điệu như bài hát Viên Chăn, xua đi mọi phiền muộn

Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 năm 2024

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến, Mẫu Văn lớp 12

Họ để lại sau lưng những hòn tên mùi đạn, quên hết những lo lắng vất vả của chiến trường, giữa cuộc sống bình dị, người lính Tây Tiến xuất hiện như những người bình thường, gần gũi. Một buổi liên hoan bất ngờ trở thành một ngày hội sáng tạo sôi động qua con mắt lãng mạn của những chiến sĩ không gian đêm hội đuốc hoa lung linh rực rỡ, câu thơ tràn ngập ánh sáng và màu sắc, như một bức tranh sống động. Từ 'bừng' không chỉ mô tả ánh sáng, bó đuốc rực rỡ của đêm hội mà còn là sự bừng lên của niềm vui, niềm đam mê tự hào. Trong sự huyên náo của đêm hội, hình ảnh người em gái trở nên trung tâm, như mọi ánh nhìn đều hướng về phía cô gái, 'kìa em xiêm áo tự bao giờ' - một cảm xúc ngạc nhiên, điều này tạo nên sự thán phục và say đắm ngay sau đó. Hán việt 'xiêm áo' tạo nên sự trang trọng, hình ảnh người em gái trở nên quyến rũ. Từ 'tự bao giờ' như làm lộ cảm xúc ngạc nhiên của người lính, họ đã tưởng như hình ảnh đêm hội với người em gái ấy đã tồn tại từ lâu để rồi bất ngờ nhận ra. Bức tranh của đêm hội được làm mới, được trang trí để người đọc tưởng tượng người em gái như một nàng tiên xuất hiện từ cổ tích giữa thế giới hiện thực khắc nghiệt. Đây chính là tâm trạng lãng mạn của bài thơ. Điểm nhấn trong bức tranh đêm hội là hình ảnh của âm nhạc, của tiếng nhạc, nhịp điệu cũng là nhịp của trái tim náo nức, tiếng nhạc của tâm hồn như lan tỏa từng chữ. Thời kỳ mê say và lãng mạn của người lính Tây Tiến còn được thể hiện qua hình ảnh đẹp đẽ:

Nhớ quá, Tây Tiến, cơm hừng khói Mai Châu mùa em thơm nồng xôi

Hình ảnh cơm hừng khói, mùi vị của xôi thơm nồng như làm cho tâm hồn người xa quê chầm chậm. Câu thơ chủ yếu sử dụng thanh bằng, tạo ra một cảm xúc nhẹ nhàng, mơ mộng, một chút bâng khuâng nhớ nhung, một chút đắc đỏ, đủ để làm xao động lòng người khi hồi tưởng về Tây Tiến. Quang Dũng, qua những câu thơ tài hoa, kể lại thời kỳ mê say ấy.

Ngàn thước cao vút, ngàn thước sâu dẫn dắt Nơi nhà Pha Luông, cơn mưa xa khơi

Câu thơ đầu tiên như là một dải rừng uốn lượn, mở ra những góc khuất hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thứ hai nhẹ nhàng như là hơi thở bên tai, kể một câu chuyện buồn ngọt đã lạc lõng trong trí nhớ của tác giả: tưởng chừng mơ hồ không rõ ràng, tưởng như đâu đó xa xôi, nhưng lại lưu luyến và ấm áp trong tim. Cuộc sống chiến trường không chỉ là những khó khăn và đau thương, mà còn là những khoảnh khắc đẹp đẽ, đầy ắp nghệ thuật. Chính cuộc sống này, tràn ngập những kỷ niệm thơ mộng và huyền bí, đã xóa bỏ những vết thương và gian khổ trong quãng đời chiến đấu của người lính. Tiếp theo, cảm xúc chuyển biến: từ giọng huyên náo, mê hoặc chuyển sang giai điệu trầm lắng, buồn bã nhưng đậm chất nhớ nhung:

Người về Châu Mộc, chiều sương phủ Hồn lau dọc bến, dáng người cô đơn Có cảm giác nhìn người trên con đường cô quạnh Độc mộc, trôi nhẹ dòng nước hoa đong đưa

Hồi tưởng của tác giả bắt đầu từ hình ảnh 'chiều sương phủ', không gian như trở nên mờ ảo, che phủ bởi một nỗi buồn sâu thẳm. Từ 'ấy' giúp người đọc cảm nhận được sự xa xôi, làn mạch của kí ức. Những dòng thơ không mô tả chính xác cảnh vật, nhưng thay vào đó, những hình ảnh được mô tả giống như qua một tấm kính nhòe, không rõ ràng, nhưng lại đầy cảm xúc và huyền bí. Nhà thơ không phải là người miêu tả cảnh vật mà là người mô tả tâm hồn, trạng thái tinh thần, để người đọc cảm nhận được không khí u buồn và lắng đọng. Sự độc đáo nhất của bài thơ có lẽ là sử dụng cấu trúc câu 'có cảm giác nhìn', 'có nhớ'. Đây không chỉ là những câu hỏi, mà còn là những lời gợi nhắc, lời nhắn nhủ sâu sắc. Có thể hồn lau, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh lưu luyến trong tâm hồn tác giả, và khi được gợi lại, chúng giống như những điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự chuyển đổi trong cách sử dụng các cụm từ 'có cảm giác nhìn', 'có nhớ' là sự chuyển đổi giữa giác quan và tâm trạng, đánh thức trái tim. Câu thơ thứ tư rất độc đáo, hình ảnh của 'nước lũ' đối diện với 'hoa đong đưa': một bên là sức mạnh mãnh liệt và dữ dội, một bên là sự nhẹ nhàng và êm dịu. Hình ảnh 'hoa đong đưa' có lẽ không chỉ là hình ảnh mô tả thực tế mà còn là hình ảnh diễn đạt tâm trạng của tác giả. Từ 'đong đưa' không chỉ diễn đạt sự chuyển động mà còn mang theo nhiều ý nghĩa tình cảm, nó giống như là sự đong đưa của tâm hồn mê say, đầy nghệ thuật và phong cách độc đáo của Quang Dũng. Việc đọc Tây Tiến là như làm một chuyến hành trình quay về quá khứ với đoàn quân hùng mạnh đã góp phần vào trang sử hào hùng. Để mô tả hình ảnh của người lính, nhà thơ đã sử dụng những chi tiết và hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng được trình bày bằng bút pháp tinh tế để làm nổi bật vẻ phi thường, tài năng, mang đến cho độc giả một cái nhìn độc đáo và quý báu về người lính trong giai đoạn lịch sử:

Binh đoàn Tây Tiến, đoàn chiến sĩ đầu trọc Quân lính, màu lá cây, đầy hùng oai

Nhà thơ Quang Dũng gọi lời tình yêu của mình bằng cái tên hấp dẫn 'đoàn binh không mọc tóc'. Điều thú vị là họ biến những khó khăn thành nguồn cảm hứng, tự hào cho bản thân mình. Tương tự, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng sáng tạo tên gọi cho tiểu đội của mình dựa trên hiện thực khó khăn 'tiểu đội xe không kính', làm cho tinh thần của họ trở nên lạc quan và hài hước. Câu thơ thứ hai tạo ra sự đối lập giữa 'quân xanh màu lá cây' và 'dữ oai hùng mạnh', hiện thực khó khăn gặp phải và tinh thần anh hùng của lính Tây Tiến. Ba từ 'dữ oai hùng' tạo nên không khí hùng vĩ cho câu thơ, làm cho người đọc cảm nhận sức mạnh của đoàn quân chuẩn bị ra trận, câu thơ mang lại nhịp điệu mạnh mẽ và tôn vinh tinh thần dũng cảm. Những lính Tây Tiến không chỉ là những chiến binh, mà còn là những người tràn đầy ước mơ và hoài bão. Từ đây, nhà thơ đã khắc họa một bức tranh chân thực về người lính trong cuộc chiến chống Pháp:

Ánh mắt to tròn nhìn xa xăm biên giới Đêm, Hà Nội nổi lên như một giấc mơ quyến rũ

Hai câu thơ đặt nặng vào từ 'mộng' và 'mơ'. Sự sử dụng của từ 'tròn' đặc biệt, thể hiện rằng mọi ước mơ, khao khát đều hiển hiện rõ trên đôi mắt. 'Ánh mắt to tròn' không chỉ là một hành động mạnh mẽ, mà còn là cái nhìn đầy bi thương, thể hiện sự khát khao và đau đáu của lính Tây Tiến. Chữ 'mộng' khiến cho câu thơ trở nên sâu lắng, âm nhạc của nỗi buồn lẻ loi. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc tới một bài thơ của Nguyên Đình Thi: 'Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu'. Nỗi nhớ về người yêu, về 'dáng kiều thơm' nào đó, không phải quá xa hoa, nhưng lại đầy ý nghĩa và tình cảm cao quý. Điều này làm cho hình ảnh của người lính trở nên gần gũi và chân thực hơn. Nỗi nhớ là nguồn động viên mạnh mẽ trong hành trang của họ, làm tăng thêm sức mạnh và ý chí để chiến đấu và chiến thắng, như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên Hà Nội khi rời khỏi bàn học và bắt đầu hành trình tham gia chiến trận – những con người 'lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa'.

Người lính Tây Tiến sống và chết với vẻ anh hùng:

Nơi biên cương rải rác, mồ xa xứ Trận chiến đầy khắc nghiệt, lòng chẳng e sợ Chiếc áo bào che lấp hình bóng liệt sĩ Dòng sông Mã hòa giọng hát buồn lẻ loi

Nhà thơ mô tả sự ra đi của họ mà không nổi bật nỗi đau, sự đau khổ, nhưng thay vào đó, ông tôn vinh tinh thần anh hùng, lòng dũng cảm. Câu thơ rõ ràng, đẹp đẽ cho đến khi âm điệu bất ngờ chuyển sang sâu lắng và chậm rãi.

Sự hy sinh, lòng chấp nhận khó khăn của người lính là điều vô cùng thiêng liêng và cao cả. Trong hành quân, họ bắt gặp những mộ viễn xứ của những người lính chết xa quê hương. Nhưng với ánh nhìn bình thản, họ chấp nhận sự hiện thực đau đớn đó. Nếu câu thứ nhất nói về 'Bi', thì câu thứ hai tập trung vào vẻ 'Tráng', 'Hùng'. Câu thơ thứ hai như một lời tuyên bố kiêu hãnh của lính Tây Tiến: không sợ khó khăn, không ngần ngại trước nguy hiểm, họ kiên trì trong ý chí, dũng cảm trong hành động, tự hào trong tinh thần anh hùng. Tác giả sử dụng hình ảnh của 'áo bào' để tả sự ra đi của lính, tạo nên không khí thiêng liêng và giảm đi sự buồn thương. Điều này tạo ra một hình ảnh đầy cảm động, thể hiện sự chia sẻ của tác giả đối với lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp tục với hình ảnh sông Mã – nhân chứng của lịch sử. Sông Mã 'gầm lên khúc độc hành' – một khúc ca buồn lẻ loi. Chữ 'gầm' nhân hóa, làm cho nỗi nhớ của con người hòa quyện với nỗi nhớ của dòng sông, hay nói cách khác, dòng sông mang đi những khúc ca buồn của con người. 'Anh về đất' là biểu tượng cho hình ảnh quê hương, thực hiện trách nhiệm vinh quang của mình. Tiếng gầm của sông Mã, như những tràng pháo tay, vĩnh biệt những người lính yêu dấu. Cuối cùng, sau khi hồi tưởng về hình ảnh đoàn binh Tây Tiến mê đắm trong lãng mạn, Quang Dũng tiết lộ mong ước của mình về một ngày gặp lại Tây Tiến:

Tây Tiến, nơi khắc sâu dấu chân người, dấu hẹn với vô vàn kỷ niệm Đường đèo dẫn lối qua núi non, cuộc hành trình đầy thách thức Những ai từng bước chân lên Tây Tiến trong mùa xuân ấy Hồn hồi về Sầm Nứa, nay chẳng trở về như xưa

Cảm xúc trong câu thơ trở về với nỗi nhớ, nuối tiếc, nhưng vẫn rực rỡ hào quang. Nỗi nhớ sâu sắc khiến cho lòng trở nên kiên cường, quyết tâm trước khó khăn. Khoảng cách xa xôi làm tăng thêm giá trị cho nỗi nhớ, vẻ vang cho sự quyết tâm. Hai câu cuối, như lời mời gọi, lời hẹn ước, đầy ánh sáng và hi vọng. Đó chính là lời hẹn gặp Tây Tiến trong mùa xuân, mùa của niềm vui và chiến thắng. Câu thơ kết thúc với sự kiêu hãnh, như lời thề, lời hứa quyết tâm. Nỗi nhớ về đoàn binh và quê hương Tây Tiến trở thành tình yêu và niềm hạnh phúc tha thiết trong tâm hồn của Quang Dũng.

Phong Lan, nhà phê bình văn học, nhận định: 'Tây Tiến, bức tượng đài bất tử về những người lính vô danh'. Sự bất tử nằm trong vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của họ. Người lính Tây Tiến, qua bài thơ của Quang Dũng, sẽ sống mãi mãi trong tâm hồn và trong ký ức của nhân loại.

5. Xã hội học: Mọi phẩm chất đức hạnh được thể hiện qua hành động.

Khi mỗi hành động tốt được thực hiện, chúng ta đang làm rõ đức hạnh bên trong mình. Như M. Xi-xê-rông từ Pháp đã nói:

“Tất cả những phẩm chất của đức hạnh đều thể hiện trong những hành động cụ thể.”

Mỗi con người mang theo cả hai khía cạnh, tích cực và tiêu cực. Trong những phẩm chất tích cực, đức hạnh là trụ cột, là những phẩm chất tốt đẹp có thể có sẵn hoặc được phát triển thông qua quá trình rèn luyện. Hành động không chỉ là những việc cụ thể mà còn là bản thể của đức hạnh. Đó là phần còn lại của mặt tích cực mỗi người. Câu nói của M. Xi-xê-rông vẫn giữ nguyên ý nghĩa gốc của nó, với ý rằng tất cả những phẩm chất tốt đẹp cần phải được thể hiện qua hành động cụ thể.

Dấu ấn đức hạnh không tự nhiên được thừa nhận, mà phụ thuộc vào những hành động ý nghĩa mà người đó thực hiện. Đó có thể là những việc nhỏ như giúp đỡ người già băng qua đường, nhường chỗ cho phụ nữ và trẻ em trên xe buýt, hoặc chăm sóc và quan tâm đến những người xung quanh. Những hành động nhỏ hằng ngày bắt nguồn từ một tâm hồn trong sáng, hướng tới cái thiện, đó chính là cách thể hiện đức hạnh.

Người ta thường nói: 'Ý nghĩa như nụ hoa, lời nói như bông hoa, còn việc làm mới là quả ngọt.'

Khi ta có ý nghĩa về một việc làm tốt, hãy nói ra để chia sẻ. Nhưng đừng chỉ nói suông, hãy thực hiện bằng tất cả tấm lòng, biến những ý nghĩa thành hành động cụ thể, chỉ như vậy mới tạo ra 'quả ngọt'.

Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt cần xem xét kỹ. Nói dối thường được coi là xấu, nhưng đôi khi, trong việc bác sĩ phải nói dối về tình trạng sức khỏe để an ủi bệnh nhân, đó là một hành động cao cả. Nhưng vẫn còn những người thiếu đức hạnh, nói lời lớn lao nhưng hành động ngược lại, vì họ chủ yếu tập trung vào lợi ích cá nhân. Chúng ta cần thay đổi họ thay vì loại bỏ.

Một xã hội tốt là nơi mọi người thực hiện nhiều việc tốt, tu dưỡng bản thân, hoàn thiện tâm hồn. Điều đó bắt nguồn từ đức hạnh, là sự thể hiện của con người với tất cả những phẩm chất tốt đẹp.

Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 năm 2024

Văn mẫu cho học sinh lớp 12 là tài liệu quan trọng giúp họ nắm bắt kiến thức một cách hiệu quả.

Nhạc sỹ thiên tài người Đức Beethoven đã nói: 'Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là mang lại hạnh phúc cho người khác'. Ý kiến này có nguyên giá trị trong xã hội hiện đại. Hạnh phúc không chỉ là sự thỏa mãn cá nhân mà còn là hành động cống hiến, trao đi để tạo ra giá trị.

Mỗi người đều tìm kiếm hạnh phúc theo cách riêng của mình. Beethoven đặt ra quan niệm sống đẹp, tôn vinh cống hiến và lòng vị tha. Hạnh phúc đối với những người như vậy không chỉ là niềm vui cá nhân mà còn là sự ý nghĩa của cuộc sống khi họ làm việc vì người khác, góp phần vào hạnh phúc chung. Điều này đã được thể hiện qua những hành động cao quý của các anh hùng chiến sỹ Cách mạng, đem lại hạnh phúc tự do và độc lập cho dân tộc.

Việc mang lại hạnh phúc cho người khác không chỉ đơn giản mà còn là hành động cao quý. Tuy nhiên, xã hội vẫn còn những người ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân và gây bất hạnh cho người khác. Chúng ta cần phê phán những hành động này và khuyến khích mọi người hướng đến sự cống hiến và chia sẻ hạnh phúc.

6. Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân với những hình tượng anh hùng hùng dũng hiện lên dưới một lớp ngôn ngữ dân tộc thuần khiết và chuẩn mực, cố gắng hồi sinh một thời quá khứ huy hoàng. Tuy nhiên, ông cảm thấy như mình không đủ sức. Trong tác phẩm 'Chữ người tử tù', Nguyễn Tuân dẫn dắt nhân vật viên quản ngục theo hướng đó.

Nhân vật này không phải anh hùng như Huấn Cao, cũng không phải một kẻ đao phủ máu lạnh. Quản ngục trở thành hình ảnh trung gian, nằm giữa cái đẹp và cái xấu. Dưới bàn tay tài năng của Nguyễn Tuân, hình ảnh này trở nên mơ hồ, không rõ đường ranh giới.

Mặc dù có vẻ như viên quản ngục là một người chấp nhận số phận, nhưng không khỏi giữ lại chút bi tráng và cảm giác mất mát: 'Chuyện triều đình quốc gia chúng ta biết gì mà bàn bạc thêm lời'. Bị chôn vùi trong khung cảnh phong kiến, 'phép nước' đã làm cho quản ngục quen thuộc với việc giao tù và những 'mánh khóe hành hạ thường lệ'. Những khoảnh khắc đó, viên quản ngục lạnh lùng như cỏ may, ngoan ngoãn như một người nô lệ trung thành với vai trò của mình.

Nhưng bất ngờ, bên trong con người đó vẫn tồn tại một mầm sống tươi xanh của cái đẹp. Mầm ấy bị đè bẹp nhưng vẫn sống như chờ đợi một lúc nào đó được vươn lên. Rồi thời điểm đó cũng đến. Huấn Cao, con người văn võ song toàn xuất hiện với “cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Quản ngục bắt đầu rơi vào một tâm trạng khó xử, đấu tranh âm thầm trở thành biểu hiện tiêu biểu cho tính “hướng nội” mà Nguyễn Tuân thường bày tỏ trong tác phẩm của mình.

Cuối cùng, niềm đam mê cái đẹp chiến thắng. Mặc dù chiến thắng chưa tuyệt đối, nhưng đủ biến viên quản ngục thành một con người khác. “Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao lên khỏi mặt đất, nâng đỡ một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”, “Ngôi sao chính trị' ám chỉ Huấn Cao. “Thanh âm phức tạp” ngầm chỉ quản ngục. Quản ngục muốn nâng niu cái đẹp nhưng lại sợ. Vì vậy, Nguyễn Tuân để nhân vật này hóa thân thành một cái gì đó vô hình, hư ảo. Chi tiết này vừa bộc lộ nét mạnh của Vang bóng một thời lãng mạn và khao khát đánh thức cái đẹp, vừa lộ thấp thoáng điểm yếu và sự yếu đuối của Nguyễn Tuân trong cái nhìn hoài vọng xa xôi. Điều này khiến Nguyễn Tuân tránh né và trách móc ông trời: '‘Ông trời nhiều khi chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết giữa một đống cặn bã”.

Từ ý niệm đó, quản ngục nghĩ mình “chọn nhầm nghề mất rồi', Nguyễn Tuân tìm kiếm cái đẹp và đã tìm thấy cái đẹp long lanh, mong manh giữa một vùng trời đen tối.

Miễn những mánh khóe hành hạ, biệt đãi những người tử tù, rồi xin chữ một cách khéo léo, gắn thêm nét đẹp vào con người quản ngục: “Biết người tài, không phải là kẻ xấu'. Mặc dù vậy, sau khi biệt đãi, toan tính xin chữ, quản ngục vẫn sợ, dặn viên thơ lại nói với Huấn Cao: “Miễn là ngài giữ kín cho”. Chi tiết này nhỏ nhưng quan trọng. Nó vừa lãng mạn vừa thực tế. Mến tài của Huấn Cao nhưng sợ “phép vua”. Nguyễn Tuân phát hiện điều đó và biểu hiện nó tài tình.

Mến tài năng của Huấn Cao, khao khát sở hữu “chữ ông Huấn treo là báu vật trên đời”, tới lúc này, quản ngục không chỉ là quản ngục, mà là biểu tượng của Nguyễn Tuân, nhịp tim và hơi thở dành trọn cho việc tôn vinh cái đẹp. “Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhặt người sau khi tiếp đọc công văn”. Không còn là sự thương tiếc, xót xa, nhưng đã đạt đến đỉnh điểm của niềm đau, thẫn thờ. Khi nhận công văn, quản ngục biết trước nhưng vẫn cảm thấy đột ngột, hụt hẫng. Khát vọng nghệ thuật bừng tỉnh trong một con người đã thúc đẩy quản ngục hành động, điều ngược lại với những gì quản ngục nói: “Ta biết rồi, công việc của ta đã có phép trước”.

Tình yêu đối với cái đẹp đã trở thành đam mê, đánh thức khí phách tiềm ẩn suốt bao nhiêu năm.

Trong cảnh cho chữ hùng vĩ, có một chi tiết đặc sắc: “Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền xèng đánh dấu ô chữ đặt lên phiến lục ông”. “Khúm núm” không phải chỉ vì nịnh bợ mà còn là vì sự cảm phục. Khi sự cảm phục đạt đến đỉnh điểm, truyện kết thúc ở mức cao trào. “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Một tác phẩm nghệ thuật tài hoa, kết thúc truyện một cách đỉnh cao. Nghệ thuật duyên dáng đó làm nổi bật cái đẹp toàn diện, tinh tế và rất đặc biệt của cả người xin chữ và người cho chữ.

Suốt chiều dài của truyện, nhân vật quản ngục mang ý nghĩa nhất định. Quản ngục không chỉ là hình ảnh độc đáo, mà còn là nhân vật gắn với những đặc điểm chung của Vang bóng một thời, của quan niệm và phong cách của Nguyễn Tuân: lãng mạn và hiện thực, là tiếng nói của thiên lương, của tinh thần dân tộc, là biểu hiện của sự “yêu mến và than tiếc những cái đã qua và có sức làm sống lại một thời xưa cũ”.

7. Cuộc trò chuyện về xã hội: Hãy tập trung vào việc mang lại giá trị, đừng chỉ mải mê trở thành người nổi tiếng

Phải sống thế nào để hòa mình với đạo đức, để trở thành người nổi bật hoặc người có ý nghĩa thực sự?

Đây là một góc nhìn khá hợp lý, một phương châm thực tế đã được nhiều người ghi nhớ: 'Hãy tập trung vào việc mang lại giá trị, đừng chỉ mải mê trở thành người nổi tiếng'.

Vậy, người nổi tiếng là ai? là người có ích như thế nào?

Người nổi tiếng là những người mà mọi người biết đến, tiếng tăm lan xa. Điều này có thể xuất phát từ sự tôn vinh vì tài năng và đức độ, nhưng cũng có thể do tai tiếng và uất ức.

Ví dụ, thầy giáo Nguyền Ngọc Kí, mặc dù tàn tật từ khi sinh ra, nhưng đã trở nên nổi tiếng khi sử dụng đôi chân của mình để sáng tạo, làm nghệ thuật, được hàng triệu học sinh yêu mến. Trần Đăng Khoa, một nhà thơ thần đồng, đã nổi tiếng từ khi mới 9 - 10 tuổi. Ngược lại, tướng cướp Năm Cam trist famous với những hành động tàn ác, giết người trong quá khứ. Sở Khanh, một nhân vật trong 'Truyện Kiều', cũng nổi tiếng với những hành động nổi bật.

'Bạc tình nôi tiếng lầu xanh, Một tay chôn biết mấy cành phù dung'. (Truyện Kiều)

Người có ích là những người mang lại lợi ích và hiệu quả cho gia đình hoặc xã hội thông qua sự phục vụ và đóng góp. Nhân dân lao động là những người có ích, được xã hội nhớ đến với công lao: 'Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?'. Người có ích là những người hữu ích, mang lại giá trị tích cực cho cộng đồng, trái ngược với những người vô tích sự.

Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 năm 2024

Bộ sưu tập những bài văn mẫu lớp 12 xuất sắc nhất

Câu này nhắc nhở chúng ta hãy sống có ý nghĩa, phát huy tài năng và đức độ của mình để đóng góp: 'trước hết là trở thành người có ích', đặt sự hiến dâng và phục vụ gia đình, đất nước là nghĩa vụ và niềm hạnh phúc suốt cuộc đời.

Để trở thành người nổi tiếng, đòi hỏi có tài năng và thành tích lớn, đóng góp đáng kể cho xã hội. Đối với những người bình thường, chỉ làm công việc thường ngày, một cuộc sống bình yên là đủ. 'Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng' vì điều đó thường chỉ là ảo tưởng. Câu tục ngữ: 'Liệu cơm gắp mắm' nhấn mạnh ý thức thực tế và cần phải sống có ý nghĩa! 'Hữu danh vô thực' châm biếm những kẻ nổi tiếng mà không có đóng góp thực tế trong xã hội.

Mỗi người, dù ở đâu, trong mọi địa vị xã hội, từ lãnh đạo đến công nhân, giàu có hay nghèo đói, trẻ con hay người lớn, đều cần học tập, lao động, và phát triển để trở thành người có ích. Người có ích là người quý phái, được tôn vinh vì những đóng góp lớn cho xã hội và gia đình. 'Người hoàn thiện nhất là người hữu ích nhất cho xã hội' (Kinh Coran).

Người trẻ, đám trẻ 'tuổi nhỏ thực hiện công việc nhỏ', siêng năng, học giỏi. Lão thành: 'Sống khỏe, sống hạnh phúc, sống có giá trị'. Công nhân, nông dân nỗ lực lao động để đóng góp cho sự phát triển của xã hội, đất nước. Giáo viên, kỹ sư, bác sĩ... hết lòng hiến dâng tài năng cho sự hiện đại hóa và công nghiệp hóa của quê hương. Chiến sĩ bộ đội đang giữ chặt khẩu súng, bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, duy trì hòa bình cho đất nước.

Cuộc sống cần phải có ước mơ, luôn giữ tinh thần cao quý và nỗ lực xây dựng cho bản thân một tương lai tốt đẹp. Không nên mơ mộng quá cao, nhưng cũng đừng chấp nhận sự nhàn nhạt.

Câu khẩu hiệu: “Không có nhiều trở ngại đối với thanh niên nếu họ dám đối mặt” luôn nhắc nhở các bạn trẻ hãy sống đẹp, phấn đấu trở thành những người hữu ích, có ý nghĩa cho gia đình và đất nước.

8. Phân tích tình huống đặc sắc trong tác phẩm ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Tác phẩm ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân mô tả cuộc sống khốn cùng, chật vật của nhân dân Việt Nam trong năm 1945, khi nạn đói giết chết hơn hai triệu người từ Bắc tới Trung. Viết ngay trong giai đoạn khó khăn, truyện mang tên Xóm Ngụ Cư, sau đó được viết lại và xuất bản dưới tựa đề Vợ Nhặt vào năm 1954. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng tác phẩm vẫn là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.

Sức hấp dẫn của tác phẩm đến từ cách nhà văn Kim Lân tạo ra một tình huống truyện độc đáo, đầy kịch tính nhưng cũng chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Cốt truyện khá đơn giản: Một chàng trai nghèo, xấu xí và độc thân kiếm sống bằng nghề kéo xe bò, chỉ với một vài câu đùa và vài bát bánh đúc, anh đã kiếm được cô vợ nhặt - một cô gái đang sống cơ cực vì đói. Họ trở thành vợ chồng giữa khung cảnh u ám, lạnh lẽo, với những tiếng khóc buồn từ những gia đình chết đói theo gió. Bữa cơm cưới của họ chỉ có cháo nát, rau chuối và muối hột.

Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo nên sự ngạc nhiên và thú vị cho xóm ngụ cư. Anh dẫn người phụ nữ lạ mặt về nhà vào buổi tối. Hai người bước vào xóm ngụ cư với bóng tối ảm đạm, những ngôi nhà úp sọp, tối om, không một ánh sáng, chẳng khác gì những khu mộ hoang tàn. Khung cảnh rợp bóng tối và không khí u ám nổi bật. Sự sống chỉ còn rơi vào những thở than mong manh, và bóng đen chết chóc bao trùm mọi nơi.

Tràng dẫn người phụ nữ mới quen về làm vợ để khám phá hạnh phúc gia đình và đối mặt với sự sống trong bối cảnh khốn khó và chết chóc. Vui mừng với sự kiện lớn trong cuộc đời, Tràng hạnh phúc khi dẫn vợ về nhà giữa thời kỳ khốn khó. Một chuyện kỳ lạ và thú vị!

Cảnh Tràng đi trước, với khuôn mặt phởn phở khác thường, và phụ nữ đi sau, gây sự tò mò của xóm ngụ cư. Sự ồn ào và tiếng cười của trẻ con khiến mọi người tò mò đến xem. Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên nhưng cũng muốn chia vui với Tràng. Cả xóm bắt đầu hi vọng vào một sự sống mới, mặc dù nỗi lo vẫn âm ỉ. Họ lo lắng cho sự sống đang đối mặt với cái chết và hy vọng vượt qua.

Bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, ngạc nhiên khi thấy cô gái ngồi trên giường con trai. Khi Tràng nói rằng đây là vợ anh, bà cụ cảm thấy vừa buồn vừa mừng, lo lắng cho tương lai của họ. Bà hiểu rằng mình không thể hoàn thành trách nhiệm cha mẹ vì nghèo đói. Bà cảm thấy thương xót con trai và cô gái vô danh này.

Ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên. Anh không tin vào sự thật: anh có vợ! Anh không nhận ra rằng điều này đã xảy ra. Hôm sau, khi nhìn thấy cô gái quét dọn sân vườn, Tràng vẫn còn ngờ ngợ như đang mơ. Mọi thứ diễn ra như trong giấc mơ, nhưng người phụ nữ với xương thịt đó thực sự là vợ anh, mặc dù không phải là mối quan hệ cưới xin.

Truyện tạo ra một tình huống lạ lùng, đầy trớ trêu và nghệ thuật. Tràng ban đầu vui mừng vì có vợ, nhưng sau đó lo lắng về khả năng nuôi sống họ. Đêm tân hôn của họ, bóng tối và tiếng khóc từ những người chết đói tạo nên bối cảnh kỳ quặc.

Hạnh phúc mong manh của họ bị đánh mất bởi đói kém và cái chết. Tuy nhiên, sự sống vẫn nảy nở từ trong sự chết, thể hiện sức mạnh và ý chí sống sót. Tác giả vạch ra điều này một cách mạnh mẽ và chân thực.

Tình huống đau lòng này làm nổi bật thông điệp nhân văn sâu sắc của tác phẩm, kết hợp với lời tố cáo sự tàn ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền đưa đất nước vào cảnh đói kém. Truyện cũng làm nổi bật vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ, giữ lại niềm tin và hy vọng vào một tương lai tươi sáng.

9. Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Tự nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc làm say đắm lòng người, nhưng dưới vẻ thơ mộng là những khó khăn nguy hiểm. Hình ảnh người lính Tây Tiến trong bài thơ của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài vô hình, tôn vinh sự hùng tráng và tài năng của những con người đến từ Hà Nội. Bài thơ thấu hiểu về cuộc chiến tranh, những gian khổ mà lính phải đối mặt, nhưng vẫn nổi bật với tinh thần lạc quan và dũng cảm.

Quang Dũng, tên thật là Bùi Đình Diệm, người Hà Tây (nay là Hà Nội), là một nghệ sĩ đa tài. Ngoài việc viết văn và làm thơ, ông còn là họa sĩ và nhạc sĩ. Với giọng thơ hồn nhiên và lãng mạn, Quang Dũng nổi tiếng khi viết về người lính Sơn Tây, trong đó có bài thơ Tây Tiến, tác phẩm nổi bật của ông.

Bài thơ mở đầu với hình ảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ và binh đoàn Tây Tiến với cuộc hành quân khó khăn. Những lính trẻ tiến về phía trước với tinh thần lạc quan và hồn nhiên, không ngần ngại khó khăn...(Còn tiếp)

\>> Xem văn mẫu Phân tích bài thơ Tây Tiến tại đây.

10. Phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Với sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lí và triết học, Hoàng Phủ Ngọc Tường kết hợp một cách hài hòa giữa trí tuệ và trữ tình trong bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Tác phẩm này, viết tại Huế năm 1981, là một minh chứng xuất sắc cho phong cách văn chương đặc trưng của ông.

Tác giả tận dụng hiểu biết sâu rộng để mô tả chân thực và rõ nét hình ảnh thủy trình của sông Hương từ thượng nguồn đến khi chảy qua thành phố Huế. Tại thượng nguồn, sông Hương được miêu tả như một bản trường ca rừng già, hùng vĩ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt với những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn. Sử dụng câu văn dài và hình ảnh tươi sáng, tác giả tạo ra một bức tranh sống động về sự mãnh liệt và hùng tráng của sông Hương. Ở thượng nguồn, sông Hương còn được so sánh với cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, với vẻ đẹp dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương ở thượng nguồn giống như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, sông Hương trở thành một sinh thể đa tính cách, hùng tráng nhưng cũng dịu dàng...(Còn tiếp)

\>> Xem chi tiết Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông tại đây.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng.

Ngữ văn 12 có những bài gì?

Và các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 12 bao gồm: Tuyên ngôn độc lập, Tây Tiến, Việt Bắc, Đất Nước, Sóng, Người lái đò sông Đà, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Rừng Xà Nu, Chiếc thuyền ngoài xa, Hồn Trương ba da hàng thịt, Đàn Ghita của Lorca, các tác phẩm nước ngoài (Thuốc, Ông ...

Ngữ văn 12 có bao nhiêu bài?

500 bài văn hay lớp 12.

Bài văn nghị luận văn học là gì?

Nghị luận văn học là dạng văn bản dùng để bày tỏ sự cảm thụ tác phẩm văn học theo suy nghĩ của cá nhân, là những lý lẽ để đánh giá, phân tích, bàn bạc về vấn đề thuộc lĩnh vực văn học để khám phá thế giới nội tâm của tác giả, đồng thời tìm ra những giá trị thuyết phục người khác nghe theo quan điểm, ý kiến cá nhân của ...

Ngữ văn 12 có gì?

Các tác phẩm văn học lớp 12 trọng tâm các bạn cần ôn luyện kỹ.

Tây tiến..

Chiếc thuyền ngoài xa..

Vợ nhặt..

Ai đã đặt tên cho dòng sông..

Vợ chồng A phủ.

Người lái đò sông Đà.

Việt Bắc..

Đất Nước..