Tháp chương sơn được xây dựng ở đâu

Phật giáo vốn đã du nhập vào nước ta từ lâu và ăn sâu trong tâm thức của người Việt. Dưới triều đại nhà Lý, Phật giáo phát triển thịnh vượng và trở thành quốc giáo của nước Đại Việt. Bởi lẽ đó mà Vua, quan, dân chúng thời Lý thường xuyên góp tiền xây dựng chùa, đúc chuông, tô tượng, viết giáo lý nhà Phật. Chùa chiền được xây dựng ở khắp nơi và bảo tháp Vạn Phong Thành Thiện là một trong số đó. 

“Linh sơn” 3 lần rồng vàng hiện hữu

Được nhắc đến nhiều trong các thư tịch cổ như “Việt Sử lược”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục”… Bảo tháp Vạn Phong Thành Thiện hay bảo tháp Chương Sơn là công trình Phật giáo kỳ vĩ được xây dựng dưới thời Vua Lý Nhân Tông. 

Bảo tháp Chương Sơn được khởi dựng từ năm 1108 và hoàn thành vào năm 1117. Sách Việt sử lược chép rằng: “Năm Mậu Tý, hiệu Long Phù Nguyên Hòa năm thứ 8 (1108), mùa xuân, tháng Giêng, xây tháp Chương Sơn”. Còn trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, tại phần Nhân Tông hoàng đế, Đinh Dậu, năm thứ 8 (1117) (Tống Chính Hòa) năm thứ 7 có ghi chép lại rằng: “Tháng 3, ngày Bính Thìn, vua ngự đến núi Chương Sơn để khánh thành bảo tháp Vạn Phong Thành Thiện. Có rồng vàng hiện”.

Về huyền tích này, trong “Việt sử lược” cũng ghi lại, tại đỉnh núi Chương Sơn khi xây dựng bảo tháp có 3 lần rồng vàng xuất hiện vào các năm 1107, 1114, 1117. Điều đó cho thấy đây là vùng đất thiêng và các vua nhà Lý thường lui tới. 

Tra trong sử sách, thấy ít nhất 12 lần địa danh bảo tháp Chương Sơn được ghi chép trong Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư. Một loạt sự kiện xảy ra quanh núi Chương Sơn được “Việt sử thông giám cương mục” ghi lại như: vua ngự chơi Chương Sơn năm 1106; dừng chân thưởng ngoạn, vua lại trên đường tới hành cung Ứng Phong (Ứng Phong là phủ Nghĩa Hưng thời Lê, tức là đất ba huyện Nghĩa Hưng, Ý Yên, Vụ Bản, tỉnh Nam Định ngày nay) xem cày ruộng… 

Chùa tháp Chương Sơn còn có tên khác là Bảo Đài Sơn. Trong kho tàng thơ văn xưa của Việt Nam còn thấy thơ phú của các bậc vua Lý, chúa Trịnh ghi ở Bảo Đài Sơn. Vua Lý Nhân Tông (1279-1293) có thi phẩm truyền đời Đăng Bảo Đài Sơn (Lên núi Bảo Đài). Xin ghi lại thi phẩm của Nhân Tông hoàng đế như sau: 

“Ðịa tịch đài du cổ,

Thời lai xuân vị thâm.

Vân sơn tương viễn cận.

Hoa kính bán tình âm.

Vạn sự thủy lưu thủy,

Bách niên tâm dữ tâm.

Ỷ lan hoành ngọc địch,

Minh nguyệt mãn hung khâm”.

Dịch nghĩa:

“Đất hẻo lánh, đài thêm cổ kính,

Theo thời tiết, mùa xuân về chưa lâu.

Núi mây như xa, như gần,

Ngõ hoa nửa rợp, nửa nắng.

Muôn việc như nước tuôn nước,

Trăm năm lòng lại nhủ lòng.

Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc,

Ánh trăng sáng chan hoà trước ngực”.

Trong bài thơ, chữ “Đài” Nhà vua nói đến chính là ngọn tháp Bảo Đài - Chương Sơn bên chùa Đông Sơn. Nơi mà Nhà vua “Tựa hiên ôm sáo ngọc” dưới ánh trăng trong lấp lánh đầy người. Không chỉ có các vị vua, quan thời nhà Lý mới ngây ngất trước vẻ đẹp của bảo tháp Chương Sơn, cùng phong cảnh hữu tình nơi đây mà ngay cả Chúa Trịnh Sâm (1767-1782) khi tới đây cũng cảm tác bài thơ “Bảo Đài Sơn”. 

 Thành bậc lan can (tay vịn thành bậc) của phế tích Chương Sơn.

Người dân nơi đây vẫn thường nhắc lại rằng, ngôi chùa xưa được xây dựng trên đỉnh núi vào thời nhà Lý có quy mô rất lớn, khoảng 100 gian. Khi đó, trên đỉnh núi còn có ngôi chùa thờ Phật bằng gỗ trạm trổ vô cùng tinh xảo, đẹp mắt. Thế nhưng, khi nhà Minh sang xâm lược vào thế kỷ XV, chúng đã phá hủy hoàn toàn bảo tháp và ngôi chùa.

Sau khi phá hủy xong bảo tháp, chúng bắt ép dân ta gánh đất từ dưới chân núi lên đổ trên đỉnh Chương Sơn nhằm mục đích chôn lấp tất cả những tàn tích còn sót lại. Đến năm 1670, có hai chị em gái Lương Thị Ngọc Phú và Lương Thị Ngọc Vinh cùng là quý phi của Tây Định vương Trịnh Tạc đã bỏ tiền ra xây chùa ở phía Tây sát dưới chân núi, đưa một số bảo vật còn sót lại của phế tích Chương Sơn xuống.

Nay chùa thuộc thôn Ngô Xá, còn có tên chữ Phi Lai tự. Ngày nay, hai ngôi chùa Nề và Ngô Xá tại xã Yên Lợi là nơi lưu giữ hai bảo vật quan trọng gồm: chân đế bia đá chạm rồng thời Lý và một bức tượng phật A Di Đà bằng đá xanh thời Lý cùng hàng chục hiện vật quý giá khác còn lại của bảo tháp Chương Sơn. 

Đặc sắc nghệ thuật kiến trúc thời Lý

Bắt đầu từ cuối năm 1966 đầu năm 1967, Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật tìm kiếm trên đỉnh núi Chương Sơn với diện tích 900m trong nhiều năm. Theo TS. Hoàng Văn Cương, Bảo tàng tỉnh Nam Định. Trong suốt quá trình khảo cổ, cả đoàn đã vô cùng bất ngờ khi tìm ra chân móng của tháp cổ cùng hơn 200 di vật đá và 50 viên đất nung.

Vết tích còn lại của bảo tháp Vạn Phong Thành Thiện trên núi Chương Sơn là bốn bức tường ghép bằng những tảng đá lớn, quây thành nền hình vuông, hai cửa có bậc lên xuống ở phía Đông và phía Tây, phía dưới là sân lát gạch. Vòng ngoài chân tháp hiện còn mỗi bề rộng 19m.

Đá dùng để xây tháp được liên kết với nhau bằng cá chì theo kiểu đục lỗ mộng, đổ chì nấu lỏng vào hoặc khoan lỗ rồi dùng dây đồng xâu lại thắt chặt. Các bộ phận kiến trúc bằng đá như đố dọc, mí cửa, bệ cửa cuốn, thành bậc, chân cột... của bảo tháp phần lớn đều được phủ kín bằng các hình tượng trang trí đặc trưng thời Lý như: rồng, phượng, khỉ, tượng đầu người mình chim...

Nổi bật trong số đó là chân đế bia đá chạm rồng thời Lý, nặng gần 9 tấn, với kích thước dài 2,4m, rộng 1,76m, dày 0,9m, hiện đang được lưu giữ tại ngôi chùa Nề. Ngôi chùa nằm ở phía Đông núi Chương Sơn, ngay dưới chân núi và mới được xây dựng cách đây hơn 30 năm. Mặt bệ nổi đôi rồng to lớn chầu vào một lá đề, thân rồng trơn không có vảy, chân rồng khỏe khoắn khoe móng vuốt sắc nhọn.

Xung quanh bệ là hình hoa văn sóng nước. Trên bệ đá này có tấm bia được chế tác vào năm 1670, văn bia chữ Hán có đoạn được dịch: “Đến quân Minh sang xâm lược nước ta, chúng sinh lòng gian ác phá hỏng các tượng Phật bằng đá, chỉ còn tượng trên bệ đá ở tầng thứ hai giữa đỉnh núi. Tháp Chương Sơn đã bị phá hủy tan tành”.

 Một tảng đá xây dựng được chạm trổ công phu còn sót của bảo tháp được lưu giữ tại chùa Ngô Xá.

Pho tượng được nhắc đến trong bia đá trên chính là Bảo vật quốc gia tượng Phật A Di Đà bằng đá xám xanh tại chùa Ngô Xá. Về kích thước, tượng có tổng thể bệ và tượng cao 2m. Trong đó, phần tượng cao 0,92m, hai đầu gối khuỳnh rộng 0,72m, phần bệ cao 1,08m, bệ sen có đường kính 0,76m. Tượng có khuôn mặt và dáng hình nam giới, gần gũi với đồi thường.

Phật ngồi trong tư thế thiền định, hai chân xếp bằng, đầu gối khuỳnh rộng, thế ngồi hơi dướn mình ra phía trước. Đầu tượng và thân tượng ghép với nhau bằng mộng có thể tháo rời. Mình tượng thon thả, bụng mảnh dẹt, mặc pháp y với hai lớp áo mỏng bó sát người, xếp thành nhiều nếp.

Thân tượng liền khối với cổ bệ. Cổ bệ hình tròn dẹt, 2 mặt trên dưới phẳng, xung quanh chạm nổi 2 con sư tử trong tư thế nhìn nghiêng, miệng cùng ngậm chung một viên ngọc, đuôi chụm nâng hình lá đề. Bệ tượng có phần trên là đài sen dùng để đặt tượng.

Đài sen hình tròn dẹt, mặt ngoài tạo 2 lớp cánh sen nổi ôm sát nhau. Lớp cánh trên to mập, cứ một cánh to xen một cánh nhỏ. Lớp dưới cánh dài nhỏ, bố trí so le với lớp trên. Trên mặt các cánh sen chạm nổi hình một đôi rồng chầu, thân hình mềm mại, đầu hướng lên trên, với các chi tiết hoa văn dày đặc được chạm đục tinh tế.

Tượng Phật A Di Đà từng được thờ tại phế tích bảo tháp Chương Sơn. 

Đây là điểm đặc trưng của nghệ thuật trạm khắc thời Lý, rồng thời kỳ này không giống rồng Trung Hoa hay thể hiện uy quyền. Con rồng thời Lý dù trên bất cứ chất liệu nào cũng được chạm khắc không quá sâu, hoặc có thể hiểu là hình khối không nổi quá cao. Có lẽ thẩm mỹ thời Lý không thích hình khối mà quan tâm nhiều đến hình dáng. 

Ngoài bức tượng Phật A Di Đà thì hiện vật là thành bậc lan can hay còn gọi là tay vịn thành bậc của di tích bảo tháp Chương Sơn được công nhận là bảo vật Quốc gia. Di vật này gồm hai tấm đá lớn ghép lại, chạm hình sóng cuộn, tay vịn được chạm cả hai bên mặt, mỗi mặt có 7 hình người, trong điệu múa dâng hoa, mỗi người ở tư thế khác nhau.

Các nhà khảo cổ còn tìm thấy ở đây những viên gạch lớn ghi chữ Hán “Lý gia đệ tứ đế Long Phù Nguyên Hòa ngũ niên tạo”. Nghĩa là được chế tạo vào đời vua thứ tư nhà Lý, niên hiệu Long Phù Nguyên hóa năm thứ năm - tức 1105, chứng tỏ những viên gạch này được sản xuất trước khi xây dựng tháp 3 năm.

Nhiều di vật độc đáo thời Lý được tìm thấy tại quần thể di tích bảo tháp Chương Sơn; đình - chùa Ngô Xá và chùa Nề là minh chứng cho một vùng địa linh, còn lưu giữ bao giá trị đặc sắc về lịch sử, văn hóa cũng như kiến trúc, nghệ thuật. 

Tháp Bình Sơn (Tháp Then, Tháp chùa Then, Tháp chùa Vĩnh Khánh) thuộc thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; là một kiến trúc Phật giáo mang dấu ấn của một giai đoạn khá dài (khoảng từ thế kỷ XIV tới XVI). Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh toạ lạc trên một gò đất cao và rộng rãi, diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ là 17.200m2, bao gồm: Tháp Bình Sơn, tòa Tam bảo cũ, Tam bảo mới, giếng mực, nhà khách, hồ sen, cổng, các công trình phụ trợ.

1. Tháp Bình Sơn

Tháp hiện nay cao 16,5 mét, (chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ), được cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về ngọn, với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ ngôi tháp được xây bằng gạch nung không tráng men. Từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét hoa văn hoàn chỉnh nhất. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng với hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu"… Từ tầng thứ ba trở lên, trang trí vẫn còn, nhưng càng lên cao, chiều ngang mặt tháp càng bị thu hẹp, thì trang trí cũng giảm dần. Về chất liệu, tháp Bình Sơn được xây dựng bằng ba loại gạch:

- Loại thứ nhất là “gạch khẩu”: có nhiều cỡ, hình chữ nhật, để trơn, dầy mỏng không nhất loạt như nhau. Những gạch này thường được dùng để xây chân bệ, “gờ chỉ” lộ ra ngoài, hoặc được chèn lên mấu các viên gạch ốp ở phía trong.

- Loại gạch thứ hai hình hộp, có trang trí, thường được dùng ở chân bệ và các đường diềm, mặt lộ ra ngoài lớn hơn mặt “gạch khẩu”. Loại gạch này được chế tác công phu, rõ ràng có gia công trong nhiều khâu.

- Loại thứ ba cũng là gạch trang trí, nhưng có phần khác loại thứ hai về hình dáng cũng như công dụng. Loại này thường được dùng để xây dựng các tầng tháp cao.

2. Toà Tam bảo cũ: được đại trùng tu năm 1976 lùi lại 20m so với vị trí cũ, dạng chữ Đinh, có diện tích 131,5 m2, bao gồm Tiền đường 5 gian (kích thước  7,55m x 13,12m), Hậu cung 3 gian (5,74m x 7,6m). Đặc biệt công trình có 2 cột đồng trụ phía trước, đua ra 6m, tạo như tay ngai. Nền lát gạch đỏ kích thước 250 x 250cm, cao so với sân 0,32m, đến chân tầu mái cao 1,87m, đến đáy thượng lương tiền đường cao 4,62m và đến đáy thượng lương hậu cung cao 4,53m. Hệ thống tượng thờ tại đây chủ yếu được làm bằng đất phủ sơn, niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vài tượng có niên đại thế kỷ XX.

3. Tam bảo mới: được xây dựng năm 2012, trên nền nhà tam bảo cũ, hình thức kiến trúc mang phong cách thiền viện. Mặt bằng hình chữ nhật kích thước 13,85m x 22,85m, không gian lớn và trống trải. Kết cấu công trình toàn bộ bằng bê tông cốt thép. Mái được làm thành nhiều lớp chia công trình thành dạng chồng diêm, mái dán ngói ống.

4. Giếng Mực: tương truyền vị trí này xưa kia là đế của một ngôi tháp cổ màu xanh, khi tháp cổ này biến mất để lại một hố sâu hình giếng tròn. Trải qua biến cố của thời gian, hiện nay giếng đã bị biến dạng, không tròn như xưa.

5. Nhà khách: mới được xây dựng năm 2012, diện tích 283,5m2 có mặt bằng chữ nhất, kiến trúc đao mái, phù hợp với kiến trúc cổ truyền thống.

6. Hồ sen: nằm ở vườn trước tháp Bình Sơn, hiện đang trồng sen, nhưng chưa kè bờ nên bị sạt lở nghiêm trọng.

7. Cổng vào khu di tích:  gồm 4 cột trụ xây gạch, gắn 2 cánh cổng sắt ở lối chính giữa, hai lối bên rào tạm bằng cây, tre mang tính chất là cổng bảo vệ.

 8. Một số trang trí của Tháp Bình Sơn

Sư tử hý cầu: một trong những đồ án gây thắc mắc cho các nhà nghiên cứu là "sư tử hý cầu”, vì nó khác xa những con "sấu đớp ngọc" đội toà sen ở các bệ Phật thời Lý. Đồ án này phổ biến từ thế kỷ XVII và càng về sau nó càng đa dạng.

Rồng: có sừng, uốn trong “ổ”, đầu quay vào giữa vòng tròn, thân không cuộn khúc mà lượn thành hình sin, do đó không "thắt túi", chân đạp ra ngoài, hoặc vắt qua thân để đạp ra ngoài, sống lưng hình “răng cưa” một chân trước đưa lên nắm "tóc"...  Một số chi tiết vừa nêu phảng phất bóng dáng những con rồng cuối Trần, nhưng các chi tiết khác lại không cho phép quy con rồng trên tháp Bình Sơn vào một kiểu thức nhất định nào cả. Điều quan trọng hơn là rồng Bình Sơn thường đưa chân trước lên nắm tóc, trong một tư thế ngộ nghĩnh, rất nghịch ngợm, do đó khá "dân gian": trong trường hợp này, nó đã mang phong cách của mô - típ rồng vuốt râu thời hậu Lê. Qua so sánh kiểu thức, chưa có lý do gì để xếp Rồng Bình Sơn vào cùng một thời với những con rồng tiêu biểu mà chúng ta đã biết chắc chắn là ra đời dưới triều Trần.

Lá đề: là một loại hình tương đối phổ biến, với những hoạ tiết hàm nhiều ý nghĩa. "Lá đề” Bình Sơn thuộc nhiều kiểu thức, nhưng kiểu nào cũng đơn giản, không thực trau chuốt như "lá đề" thời Lý. Trong một số trường hợp, các hình là những bông hoa nhỏ, hoạt và mềm mại, mang tinh thần trang trí kế thừa từ gốm Lý. Nhưng khá nhiều "lá đề" lại được trang trí bằng "sừng nhọn" và "u tròn" là những họa tiết đáng lưu ý. Trên thực địa, chúng ta đã gặp khá nhiều "sừng nhọn" và "u tròn" trang trí cho những di tích và di vật có niên đại khá chính xác, ví như Chùa Ngo (thế kỷ XVI) và chùa Bút Tháp có niên đại cụ thể (1647).

Hoa cúc dây: đã có từ thời Lý dưới dạng uốn thành khung tròn, lòng khung chứa gọn các đồ án trang trí khác. Thời Trần kế thừa bố cục ô tròn đó. Ở Bình Sơn, mô - típ này đã bị ước lược đi: đường sống chính của “cúc dây" chỉ là một hình "sin" lượn nhẹ, và hình hoạ cũng không còn nữa. Nó không khác mấy so với "cúc dây” trên các bia thế kỷ XVI ở Văn Miếu (Hà Nội) và "cúc đây" trên bia chùa Bút Tháp (thế kỷ XVII).

Đấu ba chạc (con sơn): một điểm đáng quan tâm là đấu này đã thấy xuất hiện từ thời Lý (Tháp Chương Sơn, Nam Định) chúng càng phổ biến hơn ở dưới thời Mạc (Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội).

Tháp Bình Sơn có nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Tháp Bình Sơn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, mà còn có giá trị mỹ thuật cao được gọi là “Hòn ngọc báu của kho tàng dân tộc”, trên các hòn gạch có rất nhiều loại hoa văn trang trí, chỗ hình tròn, chỗ lượn vòng tròn, chỗ sâu, nông, chỗ đậm… chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện. Tháp Bình Sơn là một công trình có kiến trúc độc đáo, theo đánh giá của người Pháp đây là một cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ.

Hiện nay, Lễ hội tại Khu di tích Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh được địa phương tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm, gọi là “Lễ hội chùa tháp”, bao gồm những nghi thức: rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và những chương trình văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian (cờ tướng, cờ người, chọi gà...)

Với giá trị tiêu biểu, di tích di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23/12/2015 )./.

Khắc Đoài

Theo Hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa