Tại sao đặt nhà máy lọc dầu ở dung quất

Xuất khẩu dầu thô rồi lại nhập về để lọc, vì sao?

Việt Nam có hai nhà máy lọc dầu lớn là Dung Quất và Nghi Sơn. Mỗi nhà máy này hiện cung ứng khoảng 30-35% thị phần xăng dầu tại Việt Nam.

Tuy nhiên, Việt Nam đang nhập khẩu lượng lớn dầu thô phục vụ cho hai nhà máy này mà không sử dụng hoàn toàn dầu thô trong nước.

Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn (NSRP) do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nắm giữ 25,1% vốn, Công ty Dầu hỏa Kuwait Quốc tế (KPI) nắm 35,1%, Công ty Idemitsu Kosan (IKC) nắm 35,1% vốn và Công ty Hóa chất Mitsui (MCI) nắm 4,7% vốn.

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2021 Việt Nam xuất khẩu hơn 3,1 triệu tấn dầu thô, với giá trị xuất khẩu là trên 1,76 tỷ USD. Nhưng nhập khẩu hơn 9,9 triệu tấn dầu thô với giá trị nhập khẩu là trên 5,15 tỷ USD.

Đặt vấn đề về tình trạng phải nhập khẩu dầu thô để lọc hóa trong khi chúng ta lại xuất khẩu dầu thô, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành đề nghị các bộ, ngành có biện pháp tháo gỡ vướng mắc này, "dứt khoát phải đổi mới, nếu vướng ở cơ chế, chính sách thì sửa cơ chế, chính sách".

Theo TS Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế: “Điều khiến tôi kinh ngạc nhất là toàn bộ dầu thô ở Việt Nam không dùng được cho Nhà máy Nghi Sơn mà phải dùng dầu thô nhập khẩu từ Trung Đông. Nhà máy lọc dầu Dung Quất ít nhất còn sử dụng được dầu thô, dầu bạch hổ của Việt Nam”.

Trao đổi với PV Báo Giao thông, một cán bộ của PVN giải thích, việc nhập và xuất khẩu dầu thô là bài toán kinh tế làm sao cho có lợi nhất, hơn nữa, cũng là vấn đề kỹ thuật của các nhà máy lọc dầu.

Bởi, mỗi nhà máy lọc dầu được thiết kế để lọc một loại dầu nhất định, hoặc một hỗn hợp dầu có tính chất nhất định.

Một khi nhà máy đã thiết kế cho loại dầu thô nào thì chỉ lọc được loại dầu thô đó, hoặc hỗn hợp dầu thô có tính chất tương tự.

Việc chuyển đổi sang dầu có tính chất tương tự cũng phải qua thử nghiệm công phu mới có thể tiến hành.

Còn chuyển đổi sang loại dầu có tính chất khác không thực hiện được, hay phải đầu tư thêm công nghệ, các phân xưởng để phù hợp…

Theo vị này, thực tế, ngay từ đầu, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất (Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn) do PVN đầu tư, được thiết kế để lọc dầu từ mỏ Bạch Hổ (năm 1997).

Tuy nhiên, những năm gần đây, lượng dầu thô khai thác tại mỏ này giảm đi và một số mỏ có dầu thô nhưng khác với công nghệ của lọc dầu Dung Quất.

"Vì thế, mới có việc phải bán các loại dầu thô đó đi để nhập về những loại dầu thô phù hợp với thiết kế của nhà máy này.

Còn nhà máy lọc dầu Nghi Sơn không dùng dầu thô trong nước để lọc là bởi lẽ, ngay từ đầu nhà máy này được thiết kế cho hỗn hợp dầu Kuwait, có tỷ trọng API khoảng 31 và hàm lượng lưu huỳnh 2,52 - tức là dầu chua nặng trung bình.

"Vì sao lọc dầu Nghi Sơn không thiết kế để lọc dầu trong nước?", PV đặt câu hỏi.

Cán bộ PVN lý giải: "Do thỏa thuận ban đầu. Và sản lượng dầu thô trong nước cũng không đủ đảm bảo hoạt động cho nhà máy này”.

Báo cáo từ PVN cho thấy, trữ lượng khai thác dầu thô của Việt Nam năm 2021 đạt 10,97 triệu tấn.

Trong khi đó, mỗi năm, nhà máy lọc dầu Dung Quất cần 6,5 triệu tấn dầu thô. Như vậy, sản lượng còn lại không đủ để đảm bảo cho lọc dầu Nghi Sơn hoạt động, khi việc tìm mỏ mới phải mất thời gian dài.

“Vậy vì sao nhà máy lọc dầu Dung Quất vẫn nhập khẩu khoảng 20% nhu cầu dầu thô về để lọc”, PV đặt câu hỏi.

Đại diện PVN lý giải: “Do Dung Quất là công ty cổ phần, nên việc mua dầu thô cũng phải tham gia đấu thầu quốc tế, khi các mỏ của PVN có sự tham gia của đối tác nước ngoài.

Tức là, nếu trả giá thấp hơn các đơn vị khác thì không mua được dầu thô. Chưa kể, có những thời điểm mua dầu ở nước ngoài rẻ hơn so với dầu trong nước mà vẫn xử lý được theo công nghệ của Dung Quất”.

Nghi Sơn vẫn chưa có kế hoạch giao hàng trong tháng 4

Vấn đề giá cả thả nổi theo giá thế giới cũng được các chuyên gia cho rằng, chưa thể hiện được mục tiêu khi xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi Sơn.

Ông Nguyễn Tiến Thỏa, Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam cho rằng, đến thời điểm hiện tại, những mong muốn từ việc xây dựng nhà máy này vẫn chưa đạt được kết quả.

Nguyên nhân chính đến từ cam kết của chúng ta khi triển khai dự án. Đó là, cam kết cho bán theo giá thế giới. Tức là, thành phẩm chế biến tại Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn và Dung Quất đều đang được bán theo giá thế giới.

Theo ông Thỏa, hiện nay công thức tính giá cơ sở đã có sự hòa đồng giữa giá trong nước và thế giới. Tuy nhiên, giá bán của Nghi Sơn được bán theo giá thế giới cộng thêm thuế nhập khẩu 7%.

Bởi, theo thỏa thuận giữa Chính phủ do PVN thay mặt ký với liên doanh nhà đầu tư, PVN sẽ là đơn vị bao tiêu sản phẩm của Nghi Sơn, với giá bán buôn tại cổng nhà máy bằng với giá xăng dầu nhập khẩu, cộng thêm thuế nhập khẩu 7% với các sản phẩm xăng dầu, 3% đối với các sản phẩm hóa dầu (polypropylen, benzen...).

"Như vậy, thì không thể có giá trong nước rẻ được”, ông Thỏa nói và đặt vấn đề: “Chúng ta có 75% nguồn trong nước, 25% nhập khẩu, tại sao không hòa đồng giá giữa trong nước và thế giới để có mức giá ổn định hơn?”.

Bộ Công thương cho biết, đã làm việc với PVN để đánh giá thực trạng khả năng sản xuất, cung ứng xăng dầu của Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn và thống nhất trước mắt, kịch bản điều hành nguồn cung xăng dầu Quý II/2022 cho thị trường trong nước không bao gồm nguồn cung từ Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn.

Báo cáo của Bộ Công thương vừa gửi các Đại biểu Quốc hội cũng khẳng định, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn gặp khó khăn về tài chính và một số vấn đề nội tại nên không có kinh phí nhập dầu thô để sản xuất xăng dầu thành phẩm.

Hiện nay, Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn chưa có kế hoạch giao hàng cho các thương nhân đầu mối kinh doanh vào tháng 4 và tháng 5, đặc biệt sau tháng 5 cũng chưa rõ về khả năng duy trì sản xuất của Nhà máy.

Ông Nguyễn Tiến Thoả cũng băn khoăn vấn đề bao tiêu sản phẩm cho nhà máy này. "Về cơ chế thị trường, đáng lẽ phải cho phép doanh nghiệp được chọn nơi mua - bán theo nhu cầu. Nhưng Nghi Sơn lại được bao tiêu hết sản phẩm, dẫn đến tình trạng sản xuất ra đã có chỗ tiêu thụ rồi nên không có áp lực cạnh tranh.

Thị trường cũng bị động về nguồn cung khi vấn đề bao tiêu thêm gánh nặng tài chính lên PVN vì phải bù giá chênh lệch do thuế nhập khẩu đã xuống thấp hơn ưu đãi. Trường hợp xấu nhất, thiếu tài chính, nhà máy dừng lại, đứt nguồn cung sẽ dẫn đến khủng hoảng thiếu là đương nhiên”.

Cụ thể Phó thủ tướng Lê Văn Thành đánh giá, nguyên do thị trường xăng dầu trong nước khan hiếm nguồn cung như thời gian vừa qua là do chúng ta chưa chủ động được nguồn cung trong nước. Hiện nay, chúng ta mới có 2 nhà máy lọc dầu gồm Dung Quất hoạt động từ 2009, công suất 6,5 triệu tấn/năm, mỗi năm cung cấp gần 7 triệu tấn, chiếm khoảng 35% thị phần và Nhà máy Nghi Sơn, đưa vào năm 2018, công suất 10 triệu tấn, nhưng mỗi năm cung cấp khoảng 6,5 - 7 triệu tấn.

Giá xăng dầu thế giới tiếp tục "lao dốc"

Cần xem xét xem xu hướng thế giới có đầu tư vào lọc dầu nữa không. Hiện có nhiều quốc gia quan điểm không đầu tư vào trung nguồn là nhà máy lọc dầu, có thể họ tính toán nhập về rẻ hơn đầu tư cả nhà máy lớn hoặc trên thế giới, số lượng nhà máy lọc dầu đã dư thừa hay chưa, nếu đổ tiền đầu tư vào có hiệu quả kinh tế không

TS Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

Như vậy, cả hai nhà máy sản xuất khoảng 13 triệu tấn xăng dầu một năm, trong khi đó nhu cầu của cả nước khoảng 20 - 21 triệu tấn nên phải bù phần còn lại bằng nhập khẩu. “Hiện nay Chính phủ cũng đã làm việc trực tiếp với Tập đoàn dầu khí (PVN) là khẩn trương triển khai xây dựng một nhà máy lọc dầu (thứ 3) tại Vũng Tàu và PVN đã triển khai để làm sao trong phạm vi khoảng 10 tháng thì xong thủ tục đầu tư”, Phó thủ tướng cho biết và nhấn mạnh, nếu chúng ta tự sản xuất được 10 triệu tấn xăng dầu nữa thì sẽ chủ động được nguồn cung xăng dầu.

Tại sao đặt nhà máy lọc dầu ở dung quất

Nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Ngãi)

Từ chối nói về kế hoạch, tiến độ của dự án nhà máy thứ 3 tại Vũng Tàu, song một cán bộ ngành dầu khí dẫn chứng, tính từ khi chính thức khởi công vào tháng 11.2005, Nhà máy lọc dầu Dung Quất mất chưa đầy 4 năm để hoàn thành, cho ra sản phẩm vào tháng 2.2009. “Theo hợp đồng EPC thì 48 tháng. Thế nhưng tính trọn từ khi đi đền bù, giải phóng mặt bằng đến khi vận hành thì mất 12 năm. Nhưng trong đó gần một nửa thời gian là đi tìm nhà đầu tư, tìm vốn”, vị này nhớ lại.

Tại sao đặt nhà máy lọc dầu ở dung quất

Nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Ngãi) hiện đang cung ứng khoảng 35% thị phần xăng dầu

Một chuyên gia năng lượng nhiều năm gắn bó với ngành dầu khí cho biết, nhà máy thứ 2 - Nghi Sơn cũng mất gần 10 năm, tính từ khi đàm phán với đối tác. “Giả sử như bây giờ làm một nhà máy ở Vũng Tàu, giải phóng khoảng 400 ha đất như Dung Quất, công suất 10 triệu tấn/năm, mà có đủ tiền, thì nhanh cũng phải 7 - 8 năm”, ông tính toán.

Ở một góc nhìn khác, TS Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, băn khoăn chưa tính đến việc chủ trương xây dựng nhà máy là phải trình Quốc hội vì dự án quan trọng quốc gia thì việc có nên xây dựng hay không cần phải bàn bạc kỹ, mà đầu tiên là phải đánh giá thật kỹ xem tính hiệu quả, ưu nhược điểm của hai dự án trước cũng như phân tích để chọn ra “mô hình” của dự án mới.

“Ví dụ, nếu làm thì nguồn dầu ở đâu để lọc. Nhập toàn bộ như Nghi Sơn hay thiết kế dùng dầu trong nước như Dung Quất? Nên nhớ, thời gian xây dựng cũng kéo dài, có khi tới lúc hoàn thành thì lượng dầu thô trong nước đã không còn để khai thác. Khi đó, lại tiếp tục phải nhập dầu thô về để sản xuất mà Nhà máy Dung Quất là một điển hình”, ông Phúc đặt vấn đề và cho biết thêm, thiết kế ban đầu của Dung Quất phù hợp để lọc dầu tại mỏ Bạch Hổ nhưng khi làm xong thì trữ lượng dầu tại Bạch Hổ đã gần cạn. Do đó, chủ đầu tư phải nhập thêm dầu cũng như tiếp tục đầu tư, mở rộng thêm nhà máy để lọc được các loại dầu khác.

Tàu cá Khánh Hòa nằm bờ hàng loạt do giá xăng dầu nhảy vọt

Khai thác dầu thô liên tục giảm

Chính Phó thủ tướng Lê Văn Thành trước Quốc hội cũng thừa nhận, hiện nay chúng ta mới đáp ứng được khoảng 50% dầu thô phục vụ cho sản xuất xăng dầu và “vẫn còn một số bất cập trong điều hành về hợp đồng khoan thăm dò”. Vì thế, bản thân nguồn dầu thô cho các nhà máy Dung Quất và Nghi Sơn vẫn phải nhập khẩu. Khai thác dầu thô của chúng ta cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. “Hiện đã trực tiếp với Tập đoàn dầu khí để điều chỉnh cơ chế, chính sách theo hướng khi chúng ta khoan được dầu thì phục vụ cho sản xuất, chứ không xuất khẩu”, Phó thủ tướng cho biết.

Dù vậy, theo số liệu từ Tập đoàn dầu khí, sản lượng khai thác dầu thô nhiều năm liền sụt giảm. Hoặc nếu có tăng cũng chỉ trong một thời gian ngắn nhất định và không cho thấy dấu hiệu ổn định. Cụ thể, từ 2015 đến 2020 sản lượng chỉ một chiều sụt giảm. Nếu 2015 khai thác 16,9 triệu tấn thì 2016 còn 15,2 triệu tấn. Đến 2019 còn 11 triệu tấn và 2020 lần đầu xuống dưới 10 triệu tấn sau nhiều năm. Đến năm ngoái, sản lượng tăng lên 10,7 triệu tấn.

Trong suốt 3 - 4 năm trở lại đây, không ít lần các lãnh đạo cao cấp nhất của PVN đều kêu than vì việc khai thác khó mà duy trì bởi mấu chốt là việc gia tăng trữ lượng rớt một cách đáng báo động. Ví dụ, năm 2015 gia tăng trữ lượng đạt tới 40,5 triệu tấn quy dầu thì 2018 còn 12 triệu và 2021 là 4,6 triệu tấn.

Mới đây nhất, báo cáo tổng kết năm 2021 của PVN đánh giá, việc gia tăng trữ lượng dầu khí, bù đắp vào sản lượng khai thác hằng năm, đảm bảo sự phát triển bền vững của tập đoàn là thách thức vô cùng lớn. Các khu vực truyền thống có tiềm năng dầu khí đã được thăm dò khá chi tiết (Bể Cửu Long, Nam Côn Sơn), các phát hiện dầu khí phần lớn đều nhỏ, nên đòi hỏi phải mở rộng hoạt động tìm kiếm, thăm dò các khu vực nước sâu, xa bờ. Tiềm năng dầu khí chưa phát hiện còn lại tập trung chủ yếu ở vùng nước sâu, xa bờ, rủi ro cao.

TS Nguyễn Văn Phúc cho rằng, cần một cuộc thăm dò tổng thể xem trữ lượng và chất lượng dầu của VN hiện nay có đủ để đặt ra bài toán xây dựng nhà máy lọc dầu thứ 3 không? Trữ lượng là một chuyện, khai thác được hay không - tính thương mại - lại là câu chuyện khác nữa, chưa nói đến các yếu tố địa chính trị. Từ đó, theo ông Phúc, nói chủ động nguồn nhiên liệu cũng phải phân biệt rõ là không lệ thuộc nước ngoài vào xăng hay dầu thô. Bởi gần như chắc chắn xảy ra trường hợp làm xong nhà máy nhưng lượng dầu trong nước không đủ thì vẫn phải nhập dầu về, lệ thuộc nguồn cung nước ngoài. “Nhập mà để lỗ như Nghi Sơn, bù lỗ mãi thì cũng không được, vừa hao tốn tiền của đất nước, vừa đe dọa an ninh năng lượng quốc gia. Đây là một chính sách lớn, cần tính toán cụ thể, so sánh bài toán kinh tế giữa việc nhập dầu về lọc có lợi hay đầu tư khai thác có lợi…”, ông Phúc lưu ý.

Nhập hay lọc, phải tính kỹ

Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh thẳng thắn cho rằng không nên xây thêm nhà máy lọc dầu mới. Ông phân tích: Theo tính toán của các nhà quản lý, các nhà máy lọc dầu của VN hiện đã cung cấp 70% nguồn dầu cho cả nước. Xây thêm nhà máy lọc dầu, phải chăng chúng ta muốn cung cấp 100%? Điều này chắc chắn không thể bởi nguồn dầu trong nước chưa chắc còn đủ để tự chủ. Xây thêm loại nhà máy lọc dầu như Nghi Sơn thì càng không nên vì VN đã bỏ rất nhiều tiền của, đất đai, hy vọng cả 1 thập kỷ nhưng thực tế hiện nay cho thấy hiệu quả không cao.

“Trong bối cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay, tốn kém xây thêm nhà máy lọc dầu không kỳ vọng giải quyết được vấn đề mà chỉ khiến tình hình tồi tệ thêm. Thà để tiền đó, đất đó xây dựng cơ sở dự trữ xăng dầu, nhập về kho để khi thiếu mang ra dùng còn hợp lý hơn rất nhiều”, ông Ánh nói.

Cũng theo vị này, các cơ quan nhà nước đang loay hoay đi giải từng vấn đề lắt nhắt như chuyện xuất/nhập dầu, thuế bảo vệ môi trường… mà quên mất rằng câu chuyện xăng dầu là cả hệ phương trình gồm rất nhiều biến số. Từ câu chuyện kinh doanh, nhập khẩu, hệ thống phân phối, chuyện giá cơ sở, cho tới dự trữ xăng dầu, tỷ giá hối đoái, hệ thống các khoản thu ngân sách từ xăng dầu… tất cả đều đang có vấn đề cần sắp xếp lại.

“Giống như xoay rubic, giải được 1 mặt thì quá đơn giản nhưng cứ chăm chăm giải mặt này thì sẽ hỏng mặt kia. Phải nhìn từ tổng quát, cùng lúc bày hết giải cả 6 mặt thì mới giải quyết được bài toàn giá xăng dầu ở VN”, TS Vũ Đình Ánh nhấn mạnh.

Ông Phúc lưu ý, chúng ta cũng không nên cực tả hay cực hữu với chính sách nhập dầu hay xuất khẩu dầu hay khai thác dầu thô rồi tự sản xuất. Thay vào đó, VN cần nghiên cứu thêm xu thế thế giới bởi trong ngành dầu khí có chuỗi thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn. “Thượng nguồn là khai thác, trung nguồn là lọc dầu và hạ nguồn là khâu phân phối, bán dầu thành phẩm. Cần xem xét xem xu hướng thế giới có đầu tư vào lọc dầu nữa không. Hiện có nhiều quốc gia quan điểm không đầu tư vào trung nguồn là nhà máy lọc dầu, có thể họ tính toán nhập về rẻ hơn đầu tư cả nhà máy lớn hoặc trên thế giới, số lượng nhà máy lọc dầu đã dư thừa hay chưa, nếu đổ tiền đầu tư vào có hiệu quả kinh tế không”, ông nói và ví dụ, ở Mỹ hiện nay có mỏ dầu nhưng có những chỗ họ cũng không khai thác, nhập dầu thô về lọc.

Song song đó, phải nghiên cứu lại khung pháp luật, chính sách để đầu tư vào dầu khí. Luật Dầu khí hiện nay mới chỉ nói đến đầu tư về thượng nguồn, chưa đề cập đến trung nguồn và hạ nguồn. Trong khi các nước đề cập đầy đủ từ thượng nguồn là thăm dò, khai thác như thế nào, trung nguồn là lọc dầu ra sao rồi đến hạ nguồn phân phối như thế nào, cơ cấu trong nước, nước ngoài…

TS Nguyễn Văn Phúc bình luận: “Phát triển theo hướng nhập dầu hay khai thác liên quan chặt đến khung chính sách pháp luật. Giả sử, VN xây thêm nhà máy lọc dầu thì phải tính toán lại chính sách như thế nào để khuyến khích đầu tư trong nước hay vẫn chia sản phẩm cho đối tác nước ngoài như các hợp đồng hợp tác kinh doanh hiện nay…”.

Tin liên quan