Câu hỏi:Nêu tập tính thích nghi với lối sống của nhện Show Lời giải: Nhện có tập tính chăng tơ bắt mồi, một số loài nhện cũng dùng tơ để đi chuyến và trói mồi. Nhện có nhiều tập tính thích nghi với bẫy, bắt các mồi sống (sâu bọ). Sau khi trói được con mồi, nhện tiết dịch tiêu hóa vào cơ thể con mồi, làm biến đổi phần thịt của con mồi thành chất lỏng rồi hút dịch lỏng đó để sinh sống (còn gọi là tiêu hóa ngoài). Cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về loài Nhện nhé! 1.Tập tính của nhệna. Chăng lưới Nhện chăng lưới theo các bước theo thứ tự dưới đây: + Chăng bộ khung lưới (các dây tơ khung) + Chăng tơ phóng xạ + Chăng các tơ vòng + Nhện nằm ở trung tâm lưới để chờ mồi Đầu tiên, nhện đứng ở một chỗ rồi thả tơ vào trong gió, sợi tơ bay kéo dãn và bám vào một điểm tạo thành dây tơ khung, đóng vai trò giữ an toàn. Nhện bám vào sợi tơ này để chăng các sợi tơ đường thẳng xếp xung quanh, gọi là tơ phóng xạ. Tiếp theo, nhện chăng các sợi tơ vòng quanh tạo các hình tròn lớn dần từ tâm mạng nhện ra phía ngoài. Dệt xong, nhện nằm ở trung tâm lưới để chờ mồi. b. Bắt mồi Khi rình mồi, nếu có sâu bọ sa lưới, lập tức nhện hành động như sau: - Nhện ngoạm chặt mồi, chích nọc độc - Tiết dịch tiêu hóa vào cơ thể mồi - Trói chặt mồi rồi treo vào lưới để một thời gian - Nhện hút dịch lỏng ở con mồi - Nhện tiêu dịch tiêu hóa vào con mồi -Trói con mồi một thời gian 2. Nhện có ích như thế nào?Chúng là một phần rất thanh tao của hệ sinh thái, chúng ăn những con vật gây hại mà có thể truyền bệnh cho con người, đặc biệt đối với những người yếu. Cho nên chúng giảm thiểu những bệnh truyền nhiễm bằng cách xơi ruồi, gián, muỗi, bọ chét, vật chủ của những bệnh khác và những con vật hay cắn hoặc chích. Nhện rất hiếm khi tấn công chúng ta, nếu chúng không cảm thấy bị đe doạ. Chúng ta không phải là thức ăn của chúng và chúng thì không biết hút máu người. Tơ nhện cực kì đàn hồi và dai. Hầu hết các loài nhện có các loại tơ khác nhau, loại dùng cho mạng nhện thì rất đàn hồi, loại tơ để trói con mồi kém đàn hồi, khiến con mồi không còn khả năng cử động. Tuy nhên, chúng vẫn chưa được dùng trong ngành kỹ thuật vì tơ nhện vẫn chưa có thể sản xuất đủ nhanh để có thể phát triển. Một số mạng nhện dường như có vẻ giống một mớ dây hỗn độn được sắp xếp vội vàng, nhưng đừng để bị đánh lừa, vì mỗi mạng nhện là một công trình kỹ thuật phức tạp với độ hiệu quả được tối ưu hoá.Những nghiên cứu về thiết kế và độ bền của tơ nhện đã dẫn lối cho sản phẩm đến từ tơ nhân tạo siêu bền, mà được các nhà khoa học tin rằng có thể được ứng dụng vào dù và áo chống đạn. 3.Nhện cắn có sao không?Trên thực tế, có hơn 50 loài nhện có thể cắn người, nhưng đa số chúng chỉ chứa chất độc rất nhẹ hoặc không có độc. Vết nhện cắn thường đau đớn và sưng trong vòng 1 – 2 ngày, hệt như khi tabị ong đốt. - Khi bị nhện nhà tấn công, bạn cần nhanh chóng: + Rửa vết cắn bằng nước sạch và xà phòng dịu nhẹ + Bôi thuốc mỡ kháng sinh lên vùng bị thương trong vòng 10 phút, ngoại trừ trường hợp vết cắn nằm gần mắt. + Chườm lạnh lên vết thương để giúp giảm đau và sưng. - Hãy gọi cho bác sĩ nếu: + Khu vực bị cắn xảy ra hiện tượng co thắt cơ bắp + Vùng bị cắn bỏng rộp hoặc chuyển sang màu tím + Cơn đau nhức kéo dài không dứt + Xuất hiện thêm các triệu chứng mới + Bạn nghĩ người bị cắn cần khám bác sĩ.
Chăng lưới: Chăng dây tơ khung, chăng dây tơ phóng xạ, chăng các sợi tơ vòng, chờ mồi (thường ở trung tâm lưới) Bắt mồi: Khi rình bắt mồi, nếu có sâu bọ sa lưới, nhện lấp tức hành động ngay: - Nhện ngoạm chặt mồi, chích nọc độc. - Tiết dịch tiêu hóa vào cơ thể mồi - Trói chặt mồi rồi treo vào lưới để một thời gian - Nhện hút dịch lỏng ở con mồi Nhện hay nhền nhện (phương ngữ Nam Bộ), danh pháp khoa học là Araneae, là một bộ động vật săn mồi, không xương sống thuộc ngành chân khớp, lớp hình nhện. Cơ thể của chúng chỉ có hai phần: phần đầu ngực và phần bụng, chúng có tám chân, đôi kìm có tuyến độc, miệng không hàm nhai, không cánh. Các bộ khác trong lớp hình nhện bao gồm bọ cạp, ve bét,...
TiềnЄ Є O S D C P T J K Pg N Một con nhện đang giăng màng Phân loại khoa họcGiới (regnum)AnimaliaNgành (phylum)ArthropodaLớp (class)ArachnidaBộ (ordo)AraneaeClerck, 1757Phân bộ
Mesothelae Tất cả các loài nhện đều có khả năng làm màng nhện, một thứ sợi mỏng nhưng bền như tơ bằng chất đạm, tiết ra từ phần sau cùng của bụng. Màng nhện được dùng làm nhiều việc như tạo dây để leo trèo trên vách, làm tổ trong hốc đá, tạo nơi giữ và gói mồi, giữ trứng và giữ tinh trùng. Nhiều loài nhện dùng tính chất dính của màng nhện để bẫy mồi, trong khi một số loài khác săn mồi bằng cách rình, và tấn công phục kích. Ngoài 150 loài nhện thuộc họ Uloboridae, Holarchaeidae và Mesothelae, tất cả các loài khác đều có khả năng tiêm nọc độc khi cắn - hoặc do tự vệ hoặc để giết mồi. Tuy nhiên, chỉ có 200 loài có nọc độc gây hại cho con người[1]. Nhiều loài nhện to, cắn đau nhưng không làm độc hay tử vong. Cơ thể nhện: (1) bốn cặp chân (2) đầu-ngực nhập chung một phần (3) bụng Phần lớn các loài côn trùng thân mình có ba phần: đầu, ngực và bụng. Nhện khác biệt ở chỗ chỉ có hai phần: đầu-ngực vào một phần, phần kia là bụng. Ngoại lệ là giống nhện sát thủ (Eriauchenius gracilicollis)- đặc biệt vì là loài duy nhất có cổ (thực ra là phần đầu ngực được chia làm hai phần riêng biệt). Bên ngoài phần bụng của nhện không ngăn ra nhiều đoạn - trừ loài của họ Liphistiidae. Cuối phần đầu-ngực là một đoạn nối để nhện có khả năng chuyển phần bụng khắp hướng. Những loài côn trùng trong lớp Arachnida thường không có phần này. Phần đầu ngựcNhện có bốn cặp chân hai bên phần đầu ngực. Trên mình và chân có lông lưa thưa để cảm giác sự rung động, âm thanh và mùi hương. Mỗi bên miệng có hai ngàm dùng để kẹp mồi và bám vào bạn tình khi giao hợp. Nhện không nhai mà chỉ thò ống hút vào mồi để hút chất lỏng ra. Nhện thường có mắt đơn, thị giác nhện có nhiều dạng - có loài chỉ phân biệt sáng tối, có loài có khả năng thấy chi tiết gần bằng mắt chim bồ Mắt của một con nhện nhảy (cái) - tên khoa học là Phidippus regius Đa số nhện có 8 mắt. Loài Haplogynae có 6 mắt, Tetrablemma có 4 mắt và Caponiidae có 2 mắt. Một số nhện có hai mắt phát triển to hơn những mắt kia (Ví dụ họ Salticidae). Một số khác không có mắt. Nhện thường có tám mắt, bố trí theo nhiều hình thức khác nhau và hiện tượng này thường được sử dụng trong ngành phân loại các nòi giống khác nhau. Loài nhện Haplogynae có 6 mắt, một số có tám mắt (Ví dụ loài Plectreuridae), hoặc bốn mắt (Ví dụ Tetrablemma) và có loài chỉ có hai mắt (loài Caponiidae). Ở một số nhện, chỉ có hai mắt phát triển, còn các mắt khác rất yếu. Một số khác, như loài nhện sống trong hang tối, không có mắt. Giống nhện săn mồi, như loài nhện nhảy hay nhện sói thì mắt rất tinh tường, có loài còn thấy được màu sắc. các cách chăng lưới khác nhau như chăng dây tơ khung, chăng dây tơ phóng xạ, chăng các sợi tơ vòng, chờ mồi (thường ở trung tâm lưới),... Bắt mồiMột số loài tích cực nhử mồi và có thể bắt con mồi với một quả bóng tơ dính; Những loài khác,hay là chờ ở khu vực hay qua lại của con mồi và trực tiếp tấn công chúng từ nơi phục kích. Khi rình bắt mồi, nếu có sâu bọ sa lưới, nhện lập tức hành động ngay:
Nhện trong hổ phách. Dù có ít hóa thạch của nhện được quan sát,[2] nhưng có khoảng 1000 loài nhện đã được miêu tả từ các hóa thạch.[3] Do cơ thể nhện khá mềm, phần lớn hóa thạch nhện được tìm thấy trong hổ phách.[3] Hổ phách cổ nhất chứa các động vật chân khớp có tuổi khoảng 130 triệu năm vào đầu kỷ Creta. Ngoài việc hổ phách lưu trữ chuẩn xác hình dáng và giải phẫu cơ thể, các mảnh hổ phách còn lưu trữ cả tập tính sinh sản, săn mồi, nuôi con. Thậm chí, trong một số ít hổ phách lưu giữ cả trứng và mạng nhện, đôi khi cả con mồi;[4] mạng nhện hóa thạch cổ nhất có tuổi khoảng 100 triệu năm.[5] Các hóa thạch nhện đầu tiên từ một vài lagerstätte, nơi mà các điều kiện môi trường thích hợp để bảo tồn các tế bào khá mềm của nhện.[4] Các loài thuộc lớp Hình nhện cổ nhất là trigonotarbid Palaeotarbus jerami, có tuổi khoảng 420 triệu năm trong kỷ Silua, và phần bụng và ngực có hình tam giác, cũng như 8 chân và các cặp râu phát triển mạnh.[6] Attercopus fimbriunguis có tuổi 386 triệu năm trong kỷ Devon có bộ phận sản xuất tơ, và được xem là một loài nhện.[7] Phân nhánh
|