Nhà đinh tồn tại bao lâu

Dẹp loạn 12 sứ quân lập ra nhà Đinh

Đinh Bộ Lĩnh (924-979) quê ở Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Cha là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với đám mục đồng, hay bắt đám trẻ khoanh tay làm kiệu và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. 

Vào độ tuổi trưởng thành, Bộ Lĩnh là người có khí phách phi thường, lại có tài thao lược và nung nấu ước mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông. Khi vị vua cuối cùng của triều Ngô (Ngô Xương Văn) mất năm 966, thừa lúc đó đất nước không chủ, hào trưởng khắp nơi nổi dậy chiếm giữ các ấp, lập ra 12 sứ quân. Sử cũ gọi là loạn 12 sứ quân.

Bộ Lĩnh vốn là con quan đứng đầu một châu, có uy lớn lại được nhiều người theo nên chiếm giữ được vùng rộng lớn. Một trong 12 sứ quân là Trần Lãm là sứ quân mạnh nhất về kinh tế, lại chiếm giữ được vùng Thái Bình quan trọng. Vốn người giỏi thao lược nhưng vì bất hòa với chú  nên Bộ Lĩnh cùng con là Đinh Liễn sang ở với sứ quân của Trần Lãm.

Thấy Bộ Lĩnh khôi ngô lại có chí lớn, Trần Lãm giao cho Đinh Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Lãm qua đời, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương. Địa bàn hoạt động của Đinh Bộ Lĩnh được mở rộng, quân số, binh lương ngày càng lớn mạnh. Lại được sự ủng hộ của nhân dân, quân Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu thắng đó, được gọi là Vạn Thắng Vương. 

Bấy giờ hai sứ quân Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (nay thuộc Ba Vì, Hà Tây) và Ngô Xương Xí chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa) là con cháu Ngô Vương. Bộ Lĩnh dùng mưu hàng phục được Ngô Nhật Khánh và cả Ngô Xương Xí.

Đinh Bộ Lĩnh đi tới đâu được nhân dân góp sức ủng hộ tới đó. Với những sứ quân mạnh như Đỗ Cảnh Thạc, Nguyên Siêu, ông dùng cung kiếm tiến công kết hợp với mưu lược. Sử chép, Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ vùng Thanh Oai, Hà Tây ngày nay có cung thành chắc chắn và hào sâu bao quanh.

Theo thần phả Độc Nhĩ Đại Vương, Cảnh Thạc trí dũng mưu lược nên phải bàn mưu tính kế mà đánh. Bộ Lĩnh dùng mưu, ban đêm Bộ Lĩnh cho quân bao vây tứ phía tấn công bất ngờ. Cảnh Thạc không có quân lính ứng cứu ngay bèn bỏ thành mà chạy. Hai bên giao tranh hơn 1 năm, Cảnh Thạc bị thua.

Còn Nguyễn Siêu chiếm vùng Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội), Đinh Bộ Lĩnh bày binh giao chiến, Nguyễn Siêu thua trận phải bí mật cầu viện sứ quân khác. Bộ Lĩnh biết tin bèn sai quân nửa đêm đốt doanh trại, quân Nguyễn Siêu tan trận. Các sứ quân Kiều Công Hãn, Kiều Thuận, Nguyễn Thủ Tiệp, Phạm Bạch Hổ,... đã thất bại ngay từ trận đánh đầu tiên với quân Đinh Bộ Lĩnh. Đất nước thống nhất, loạn 12 sứ quân đã dẹp xong.

Năm Mậu Thìn 968, Vạn Thắng Vương lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc Công, Đinh Điền làm Ngoại giáp và phong cho con là Đinh Liễn làm Nam Việt Vương. 

Về ngoại giao, để tránh đụng độ với nhà Tống năm 972, Tiên Hoàng sai con Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận vương. Và phong cho Nam Việt Vương làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó nước ta giữ lệ sang cống phương Bắc. Đinh Tiên Hoàng đã dẹp xong loạn 12 sứ quân nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa theo luật lệ triều đình.  

Bởi vậy, để răn đe kẻ phản loạn, Tiên Hoàng đặt vạc dầu trước Điện, nuôi hổ báo trong vườn, tuyên cáo rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải dùng hành hình ấy nhưng mọi người sợ phép nước và tuân thủ. Với việc quân binh, Bộ Lĩnh ra đạo, tổ chức thành 10 đạo quân, lên tới 1 triệu quân. 

Bi kịch huynh đệ tương tàn

Oanh liệt, mưu lược trên chiến trường, lập lại trật tự xã tắc vẹn tròn. Thế nhưng, Đinh Tiên Hoàng đã làm một việc là đến bây giờ sử sách gọi là sai lầm lịch sử. Đinh Tiên Hoàng có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang. Trong đó, con cả Đinh Liễn là người cùng vua cha đánh dẹp 12 sứ quân, lập nên nhà Đinh. Năm Mậu Thìn 968, khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi thì Đinh Liễn được phong làm Nam Việt Vương.

Năm Nhâm Thân (972), Nam Việt Vương Liễn được cử đi sứ sang nhà Tống. Năm ấy, nhà Tống phong cho Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận vương, còn Nam Việt Vương Liễn thì được nhà Tống phong làm Kiểm hiệu Thái sư, Tĩnh hải quân Tiết độ sứ, An Nam đô hộ. Đến năm Ất Hợi (975), nhà Tống lại sai sứ sang gia phong cho Đinh Liễn làm Khai phủ nghi đồng Tam ti, Kiểm hiệu Thái sư, Giao Chỉ quận vương.

Đền thờ Vua Đinh ở Ninh Bình.

Kể từ đó, mọi việc giao tiếp với sứ giả Trung Quốc, Đinh Tiên Hoàng đều ủy thác hết cho Đinh Liễn. Tóm lại, Đinh Liễn là người từng trải, có công lao, có năng lực và cũng có cả uy tín. Quyền kế vị ngôi Hoàng đế của Đinh Liễn kể như đã rất rõ ràng. 

Tuy nhiên, mọi chuyện đang bình thường bỗng trở nên rắc rối bởi sự kiện xảy ra vào đầu mùa xuân năm Mậu Dần (978), Đinh Tiên Hoàng bỗng dưng quyết định lập người con trai còn nhỏ là Hạng Lang làm Thái tử và Đinh Toàn làm Vệ Vương. Điều này cũng có nghĩa là quyền kế vị ngôi vua của Đinh Liễn không còn nữa. Cơn thịnh nộ của Liễn bắt đầu. 

Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép: “Mùa xuân năm Kỷ Mão (979), Nam Việt Vương Đinh Liễn giết chết Hoàng Thái tử Hạng Lang. Đinh Liễn là con trưởng của Nhà Vua, thuở hàn vi từng chịu đựng gian khổ, khi thiên hạ được thái bình, ý Vua cũng muốn truyền ngôi cho, bèn phong làm Nam Việt Vương.

Liễn lại cũng từng chịu mệnh và nhận tước vị của nhà Tống ban cho. Nhưng về sau, vua sinh được người con trai nhỏ là Hạng Lang, rất mực yêu quý, bèn lập Hạng Lang làm Thái tử. Đinh Liễn bất bình, liền sai người lập mưu giết đi”.

Cũng theo sử sách, sau tội ác tày trời này, Đinh Liễn được vua cha khoan hồng, nhưng để chuộc lại phần nào lỗi lầm, Nam Việt Vương đã dựng nhiều cột viết những bài tụng kinh Phật ở kinh đô Hoa Lư tỏ ý ân hận. Phần lạc khoản trên các cột kinh là những lời sám hối của ông.

Lạc khoản có đoạn: “... Cơ sự đã đến nông nỗi chém giết nhau này, thật hối hận, bèn xin dựng một trăm tòa kinh báu dâng Phật cầu cho vong hồn em trai đã mất và các vong linh gia tiên được giải thoát khỏi sự bắt bớ tra hỏi nơi địa ngục...”.

Nhiều nhà sử học sau này nhận định cái sai của Đinh Tiên Hoàng là gốc của mọi sự sai, nhưng chẳng phải vì thế mà có ai đồng tình với hành động tàn bạo của Đinh Liễn. Công một thời chẳng thể bù cho tội một lúc...

Trước đó, sử thần Ngô Sĩ Liên từng nhận xét: “Truyền ngôi cho con trưởng là đạo thường của muôn đời, bỏ đạo ấy mà không có biến loạn thì quả là chưa bao giờ nghe vậy. Cũng có khi nhân thời loạn mà lập Thái tử, nhưng trước hết phải chọn người có công, nếu con trưởng ác đức thì phải phế bỏ đi rồi sau mới lập con thứ.

Thế là xử việc lúc biến mà vẫn được đúng, người xưa cũng từng làm. Nam Việt Vương Đinh Liễn là con trưởng, từng có công lao, chưa thấy có lỗi. Đinh Tiên Hoàng vì yêu con thứ mà quên con trưởng, tưởng thế là thỏa tình yêu quý, nào có biết đâu như thế là làm hại con...”.

Năm Kỷ Mão 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Đến bây giờ vẫn còn nhiều tư liệu khác nhau nói về lý do Đỗ Thích giết cha con họ Đinh. Quan thần sau đó bắt và giết Đỗ Thích, tôn Đinh Toàn lên làm vua. 

Đinh Toàn lên ngôi, lấy hiệu là Đinh Phế Đế. Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế nằm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh.

Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng Vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão chết.

Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức Vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).

Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng Vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn vùng Cầm Thuỷ Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên chết.

Hiện, Vua Đinh Tiên Hoàng cùng các con Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang được thờ ở đền Vua Đinh Tiên Hoàng, thuộc quần thể di tích Cố đô Hoa Lư, huyện Hoa Lư, Ninh Bình.

(còn tiếp)

Đinh Tiên Hoàng (968-979)

Niên hiệu: Thái Bình

Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, Châu Đại Hương (Hoa Lư, Ninh Bình), con Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẻ chǎn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông.Nǎm Tân Hợi (951) đời hậu Ngô vương, Nam Tấn vương cùng Thiền Sách vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều đại bại phải rút quân về. Đến khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương Xí, phá được Đỗ Động của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Chỉ trong một nǎm, Đinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế.

Nǎm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện chế triều nghi, định phẩm hàm quan vǎn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân (tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt Vương. Nǎm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm vua bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm Đỗ Thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ vương Đinh toàn lên làm vua.

 Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 nǎm, thọ 56 tuổi.

Phế Đế (979-980)

Đinh Tiên Hoàng có 3 người con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (có sách gọi là Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn và Đinh Hạng Lang đã chết, mặc nhiên Đinh Toàn kế nghiệp ngôi vua.

Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy vua còn nhỏ quyền bính nằm cả trong tay Thập đạo tướng quân lê Hoàn, lại nghi Lê Hoàn tư thông với Dương Thái Hậu (Dương Vân Nga), nên cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết sạch.

Dương Vân Nga thay con cầm quyền trị nước cũng thấy rõ chỉ có Tập đạo tướng quân lê Hoàn là người có khả nǎng gỡ rối được tình hình nghiêm trọng cần kíp lúc này. Huống chi ý chí quân đội cũng muốn tôn người chỉ huy của họ lên ngôi tối thượng, thay cho vị vua 6 tuổi là con Dương Vân Nga. Bởi vậy, Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng hò reo dậy trời của quân sỹ.

Đinh Toàn chỉ làm vua được 8 tháng, sử gọi là Phế Đế rồi tồn tại với tước vương (Vệ Vương) có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 nǎm. Nǎm Tân Sửu (1001) trong dịp cùng vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên hy sinh trên chiến thuyền vào tuổi 27.

Như vậy triều Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy 14 nǎm. Lê Hoàn lên làm vua, Dương Vân Nga trở thành Hoàng hậu.

Nhà Đinh (chữ Hán: 丁朝, Đinh Triều) là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước và kết thúc năm 980 khi con của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Phế Đế nhường ngôi cho Lê Hoàn.

Nhà đinh tồn tại bao lâu

Cố đô Hoa Lư, dấu tích kinh đô nhà Đinh

Lịch sử[sửa]

Thống nhất giang sơn[sửa]

Bài chi tiết: Loạn 12 sứ quân

Năm 944, Ngô Quyền mất, anh/em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.

Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền - làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.

Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.

Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Cha là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.

Thời kỳ đó Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở Hoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết [1], Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.

Trong hơn 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất nước.

Đinh Tiên Hoàng[sửa]

Bài chi tiết: Đinh Tiên Hoàng

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979.

Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, chủ mưu là Lê Hoàn và Dương hậu.

Đinh Phế Đế[sửa]

Bài chi tiết: Đinh Phế Đế

Năm 979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, là Đinh Phế Đế.

Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế năm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.

Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).

Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên chết.

Nội trị[sửa]

Bộ máy chính quyền[sửa]

Nhà đinh tồn tại bao lâu

Đồng tiền Thái Bình hưng bảo, tiền đầu tiên ở Việt Nam

Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ trong triều đình. Trong triều có sự tham gia của các nhà sư vì những đóng góp của họ trong quá trình dẹp loạn 12 sứ quân[2]. Vua Đinh phong cho các quan văn võ:

  • Nguyễn Bặc làm Định quốc công
  • Đinh Điền làm ngoại giáp
  • Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư (chức vụ coi việc hình án)
  • Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân,
  • Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư
  • Trương Ma Ni làm Tăng lục
  • Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.

Năm 975 vua Đinh ban quy định áo mũ cho các quan văn võ[3]. Bộ máy chính quyền nhà Đinh vẫn được xem là đơn sơ[4].

Quân đội[sửa]

Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số theo lý thuyết là 1 triệu người.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nông" như nhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần[5]; còn Trần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người[6].

Pháp luật[sửa]

Do ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hoàng dùng pháp luật nghiêm ngặt để trừng trị.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:

Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm[3].

Trần Trọng Kim cho rằng "hình uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được yên"[6].

Đối ngoại[sửa]

Nhà Tống đang trên đường thống nhất Trung Quốc sau hơn 50 năm loạn lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nước Nam Hán ở cạnh nước Đại Cồ Việt. Năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với Tống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương bắc từ đó được duy trì khá đều đặn và hòa bình.

Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làmKiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ[3].

Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống[3].

Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là phò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới là Tống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.

Nhận định[sửa]

Thời kỳ phục quốc của Việt Nam thế kỷ 10, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau hai vua nhà Tiền Lý xưng đế vào thế kỷ 6, 400 năm sau người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập. Trong hoạt động ngoại giao, nhà Đinh được nhà Tống thừa nhận và coi trọng.

Việc vua Đinh khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân (968) là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán (971), áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất phương Nam.

Kế tục nhà Ngô, nhà Đinh tiếp tục xây dựng bộ máy cai trị trên lãnh thổ, dù chưa được đàng hoàn bị như nhà Lý sau này nhưng bước đầu đã đi vào nề nếp.

Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực chất chỉ có 1 đời vua Tiên Hoàng.

Di tích thời nhà Đinh[sửa]

Nhà đinh tồn tại bao lâu

Tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế ởthành phố Ninh Bình

Ninh Bình là vùng đất có kinh đô Hoa Lư, ở đây có nhiều di tích liên quan đến triều đại nhà Đinh, đặc biệt nằm ở các huyện Hoa Lư, Nho Quan và Gia Viễnnhư: Cố đô Hoa Lư với Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, Đền thờ Công chúa Phất Kim, sông Sào Khê, Động Thiên Tôn, Tràng An... Các di tích quê hương nhà Đinh với đền thờ Đinh Bộ Lĩnh, động Hoa Lư, các đền thờ Đinh Điền và Nguyễn Bặc...

Nhân dân vùng Kỳ Bố Hải Khẩu nói riêng và tỉnh Thái Bình nói chung đã có công lao rất lớn để tạo tiền đề cho sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng. Các di tích lịch sử phản ánh về thời kỳ này có: Từ đường thờ Bùi Quang Dũng (xã Tân Bình, huyện Vũ Thư) một vị tướng có công khai quốc thời kỳ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, hiện còn từ đường thờ ông (Xã Tân Bình, Vũ Thư); Đình Trần Lãm (phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) lưu niệm sự kiện của sứ quân Trần Lãm; Miếu Ba Thôn, chùa Hưng Quốc (Thuỵ Hải, Thái Thụy) và miếu Bắc (Đông Sơn, Đông Hưng) thờ các tướng lĩnh giúp Đinh Bộ Lĩnh trong sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân; Đình Khả (Duyên Hải, Hưng Hà) lưu niệm tướng quân của nhà Đinh là Nguyễn Phúc Thời.[7]

Ở Hải Dương[8] có rất nhiều di tích thời Đinh, thờ các tướng lĩnh và quan trung thần của Đinh Tiên Hoàng như: ở huyện Bình Giang có Đình Bình An, xã Tân Việt thờ Hùng Lĩnh Tráng Trần; Đình Chanh Trong, xã Thúc Kháng thờ Khanh Công; Đình Băng Trai, xã Vĩnh Hồng thờ Trình An Tể; Đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng thờ trung thần Đinh Điền. Ở Thanh Miện có Đình Đỗ Hạ, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; Đền Từ Ô, xã Tân Trào; Đình Đỗ Thượng, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng. Ở Thanh Hà có Chùa Liên Minh và đình Thiệu Mỹ, xã Vĩnh Lập thờ Đặng Danh Trí, Trịnh Thị Khang, Đặng Công Trân; Miếu Thánh Cả, xã Thanh Bình thờ Đặng Châm, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí; đền Từ Hạ hay đền Thánh Cả, thuộc thôn Phúc Giới, xã Thanh Bính thờ cha con tướng quân Đặng Chân, Đặng Trí. Ngoài ra có Đình Kim Đôi, xã Cẩm Hoàng (Cẩm Giàng) thờ vua Đinh Tiên Hoàng; Đình Đông Quan, xã Tân Hưng (Gia Lộc); Miếu Phú Nội, xã Bình Dân (Kim Thành) thờ tướng giúp vua Đinh; Đình Ngọc Uyên, phường Ngọc Châu (tp Hải Dương) thờ Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang; Đình Thụy Trà, chùa Thụy Trà, miếu Thụy Trà xã Thượng Đạt (Nam Sách) thờ danh tướng Phạm Công Hòa; Đình Dậu Trì, xã Hồng Thái (Ninh Giang) thờ Trần Minh Công.

Nam Định có những di tích tiêu biểu sau: Đình Xám: thôn Lạc Đạo, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, thờ Trần Minh Công tức Trần Lãm. Đình Thượng Đồng: xã Yên Tiến, huyện Ý Yên. Đình thờ Đinh Tiên Hoàng làm thành hoàng. Đền Vua Đinh (Yên Thắng), Ý Yên thờ vua Đinh Tiên Hoàng, Đền Gin: thông Chiền, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, một trong 12 sứ quân; Đền An Lá: xã Nghĩa An, huyện Nam Trực thờ Nguyễn Tấn, một vị tướng của nhà Đinh (thế kỷ thứ X); Đền Hưng Lộc: xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, thờ Phạm Cự Lượng tướng thời Đinh.

Hưng Yên có Đình Phù Liệt, xã Thắng Lợi, huyện Văn Giang thờ ngũ vị đại vương âm phù Đinh Bộ Lĩnh thắng trận. Đền Kim Đằng ở thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên thờĐinh Điền.

Ở xã Hưng Long, Hưng Nguyên, Nghệ An có đền Xuân Hòa thờ thần Cao Các. Theo Ngọc phả, Đại vương là vị tướng mưu lược, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, đánh đuổi quân Chiêm Thành. Sau khi ông mất, nhà Đinh thương tiếc cho lập đền thờ. Các triều vua về sau đã phong sắc cho ông là "Thượng thượng đẳng tối linh Tôn Thần."