Múi giờ của việt nam là gì năm 2024

Múi giờ là giờ địa phương, là một khu vực trên Trái Đất được người dân quy ước tiêu chuẩn về thời gian.

Theo lý thuyết, tất cả đồng hồ trong khu vực đó được đặt cùng một giờ.

Theo hiệp định quốc tế, các múi giờ được phân chia theo kinh độ của đất nước. Trong đó, thống nhất Đài Thiên văn Hoàng gia Anh (Greenwich – London) - nơi có kinh tuyến 0 chạy qua sẽ được gọi là Giờ Chuẩn hay Giờ Quốc tế. Từ đó sẽ chia thành chia thành 24 đường kinh tuyến, tương ứng với 24 múi giờ.

Múi giờ hiện nay đang sử dụng là múi giờ UTC.

Múi giờ UTC là từ viết tắt của Giờ phối hợp quốc tế, hay còn gọi là Giờ phối hợp quốc tế, được Cục Cân đo Quốc tế (BIPM) khuyến nghị làm cơ sở pháp lý để xác định mốc thời gian. Nó được coi là chuẩn quốc tế về ngày giờ thực hiện bởi phương pháp nguyên tử.

UTC được xác định bởi Giờ quốc tế (UT) và Giờ nguyên tử quốc tế (TA).

- TAI (International Atomic Time – Giờ nguyên tử quốc tế) là sự kết hợp của hơn 200 đồng hồ nguyên tử quốc tế nên độ chính xác gần như tuyệt đối.

- UT (Universal Time) được xác định bằng số vòng quay của Trái đất. Giờ thế giới không phải lúc nào cũng bằng nhau vì Trái đất quay quanh trục của nó với tốc độ không ổn định.

Công thức tính múi giờ quốc tế hiện nay

Vì Trái Đất hình cầu và tự quay từ Đông sang Tây nên có sự chênh lệch múi giờ.

Hiện nay, việc tính múi giờ quốc tế sẽ thực hiện theo công thức như sau:

Tm = To + M

Trong đó:

- Tm là múi giờ

- To là giờ GMT

- M là ký hiệu số theo múi giờ kinh tuyến

Dựa vào kinh độ múi giờ sẽ tính được đúng giờ địa phương. Ngược lại, biết múi giờ địa phương là múi giờ nơi ta đang sống.

Ta có công thức:

TM = Tm ± Dt.

Trong đó: Dt là khoảng chênh lệch múi giờ giữa múi giờ và kinh độ cần xác định

(i) -Dt là Tây bán cầu

(ii) +Dt là Đông bán cầu

Từ đó, công thức tính giờ tại hai bán cầu thành sẽ là:

Giờ ở bán cầu Đông = Giờ GMT + giờ tại khu vực địa phương.

Giờ ở bán cầu Tây = Giờ tại khu vực địa phương – giờ GMT.

Tuy nhiên, khi tính toán, lưu ý rằng điểm của cùng một bán cầu không thay đổi theo ngày. Mặt khác, bán cầu không chỉ thay đổi giờ mà còn thay đổi cả ngày. Quy tắc thay đổi ngày được tính từ 180 độ kinh độ. Nếu tính thêm 1 ngày từ đông sang tây, ngược lại tính ngược lại 1 ngày từ tây sang đông.

Múi giờ Việt Nam là múi giờ nào?

Việt Nam nằm ở kinh tuyến số 7 nên sẽ có múi giờ số 7, ký hiệu là GMT +7. Múi giờ này trùng với múi giờ của các quốc lân cận gồm Thái Lan, Lào, Campuchia và Indonesia.

Trước khi thống nhất sử dụng múi giờ số 7 (GMT +7) thì Việt Nam đã từng sử dụng tổng cộng 4 múi giờ. Đó là giờ Pháp UTC+7, UTC+8, UTC+9.

*Chênh lệch múi giờ của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới

- Mùi giờ Việt Nam so với múi giờ Mỹ: Múi giờ tại Mỹ lấy trung bình là GMT -5. So với múi giờ Việt Nam GMT + 7 thì sự chênh lệch giữa giờ Việt Nam và giờ Mỹ là 12 tiếng.

- Múi giờ Việt Nam so với múi giờ các nước tại Châu Á:

+ So với múi giờ Thái Lan, Campuchia, Lào: Việt Nam có cùng múi giờ với các nước trên là UTC + 7

+ So với múi giờ Nhật Bản: Múi giờ của Tokyo là GMT + 9, so với Việt Nam, giờ tại Nhật Bản nhanh hơn 2 tiếng.

+ So với múi giờ Hàn Quốc: Tương tự như Nhật Bản, múi giờ Hàn Quốc là GMT + 9, sự chênh lệch thời gian giữa Việt Nam và Hàn Quốc là 2 tiếng.

+ So với với múi giờ Trung Quốc: Mặc dù có diện tích rộng lớn nhưng thực tế, múi giờ Trung Quốc chỉ sử dụng GMT + 8, tức nhanh hơn giờ tại Việt Nam 1 tiếng.

+ So với múi giờ Nga: Nga sử dụng múi giờ GMT + 3, nên giờ Nga và giờ Việt nam chênh nhau 4 tiếng, giờ tại Nga chậm hơn giờ Việt Nam.

- Múi giờ Việt Nam so với các nước tại Châu Âu:

+ So với Anh: Giờ Anh được xem là giờ chuẩn theo thang đo Greenwich, tức GMT + 00. Như vậy, giờ Việt Nam sẽ nhanh hơn giờ Anh 7 tiếng. Tức tại Anh đang là 10 giờ khuya thì tại Việt Nam đang là 5 giờ sáng ngày tiếp theo.

Một múi giờ là 1 vùng trên Trái Đất mà người ta quy ước sử dụng cùng 1 thời gian tiêu chuẩn, thông thường được nói đến như là giờ địa phương. Về lý thuyết, các đồng hồ tại vùng này luôn chỉ cùng 1 thời gian.

Trên Trái Đất, thời gian biến đổi dần từ Đông sang Tây. Tại 1 thời điểm xác định, có vùng đang là buổi sáng, có vùng khác lại đang là buổi tối. Trong lịch sử, người ta dùng vị trí Mặt Trời để xác định thời gian trong ngày (gọi là giờ Mặt Trời), và các thành phố nằm ở các kinh tuyến khác nhau có thời gian trên đồng hồ khác nhau. Khi ngành đường sắt và viễn thông phát triển, sự biến đổi liên tục về giờ giấc giữa các kinh tuyến gây trở ngại đáng kể. Các múi giờ được sinh ra để giải quyết phần nào vấn đề này. Các đồng hồ của từng vùng được lấy đồng bộ bằng thời gian tại kinh tuyến trung bình đi qua vùng. Mỗi vùng như vậy là 1 múi giờ.

Có thể dùng 24 đường kinh tuyến chia bề mặt Trái Đất ra làm 24 phần bằng nhau, giúp cho chênh lệch giờ giữa các múi giờ là 1 giờ, một con số thuận tiện. Tuy nhiên, việc phân chia trên chỉ là cơ sở chung; các múi giờ cụ thể được xây dựng dựa trên các thỏa ước địa phương, có yếu tố quan trọng của việc thống nhất lãnh thổ quốc gia. Do vậy trên bản đồ thế giới, có thể thấy rất nhiều ngoại lệ, và chênh lệch giờ giữa một số múi giờ có thể không bằng 1 giờ.

Mọi múi giờ trên Trái Đất đều lấy tương đối so với Giờ Phối hợp Quốc tế (UTC) (xấp xỉ bằng giờ GMT trong lịch sử) là giờ tại kinh tuyến số 0, đi qua Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich, Greenwich, Luân Đôn, Anh.

Một số địa phương có thể thay đổi múi giờ theo mùa. Ví dụ như, vào mùa hè, một số nước ôn đới hoặc gần vùng cực thực hiện quy ước giờ mùa hè (DST), chỉnh giờ sớm lên 1 giờ. Điều này khiến chênh lệch giờ giữa các địa phương thêm phức tạp.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Múi giờ đầu tiên trong lịch sử được ngành đường sắt Anh đặt ra vào ngày 1 tháng 12 năm 1847, gọi là múi giờ GMT. Các đồng hồ trong vùng này đều chỉ cùng giờ với đồng hồ đặt tại đường kinh tuyến đi qua Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich. Ngày 23 tháng 8 năm 1852, tín hiệu thời gian được truyền lần đầu bằng điện tín từ Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich. Đến năm 1855, 98% các đồng hồ công cộng tại nước Anh có cùng giờ GMT, tuy nhiên phải đến ngày 2 tháng 8 năm 1880 thì giờ này mới được chính thức đưa vào luật.

Đến năm 1929, đa số các nước áp dụng các múi giờ chênh nhau 1 giờ. Năm 1950, các múi giờ được ghi kèm thêm chữ cái viết hoa: Z cho múi giờ số 0, A đến M (trừ J) cho các múi giờ phía Đông, N đến Y cho các múi giờ phía Tây.

Trước năm 1967, Việt Nam lấy giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ UTC+07:00 làm chuẩn. Vì thế 2 miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân 2 ngày khác nhau (miền bắc ngày 29 tháng 1 trong khi miền nam thì ngày 30 tháng 1).

Ngày 1 tháng 1 năm 1972, 1 hội nghị quốc tế về thời gian đã thay GMT bằng Giờ Phối hợp Quốc tế (UTC), được giữ bởi nhiều đồng hồ nguyên tử quanh thế giới. UTC+01:00 được dùng, thay GMT, để tượng trưng cho "thời gian Trái Đất quay". Giây nhuận được thêm hay bớt vào UTC để giữ nó không khác UT1 nhiều quá 0,9 giây.

Việt Nam thuộc múi giờ thứ mấy vì sao?

Theo điều 1 của quyết định số 121/CP thì Việt Nam "nằm hoàn toàn trong múi giờ thứ 7, theo hệ thống múi giờ quốc tế", giờ chính thức của Việt Nam là "giờ của múi giờ thứ 7". Việt Nam sử dụng cách viết giờ là 24 giờ.

Bây giờ là mấy giờ tại Việt Nam?

Việt Nam nằm ở kinh tuyến số 7 nên sẽ có múi giờ số 7, ký hiệu là GMT +7. Múi giờ này trùng với múi giờ của các quốc lân cận gồm Thái Lan, Lào, Campuchia và Indonesia. Trước khi thống nhất sử dụng múi giờ số 7 (GMT +7) thì Việt Nam đã từng sử dụng tổng cộng 4 múi giờ. Đó là giờ Pháp UTC+7, UTC+8, UTC+9.

Múi giờ GMT 7 là mấy giờ Việt Nam?

Bước 2: Xác định múi giờ của Việt Nam Múi giờ của Việt Nam là GMT+7, điều này có nghĩa là nếu giờ UTC là 12:00, thì giờ tại Việt Nam sẽ là 19:00 (12 + 7). Việt Nam không thực hiện điều chỉnh giờ mùa hè, vì vậy không cần phải thêm hoặc trừ giờ cho giờ mùa hè.

Việt Nam nằm ở múi giờ số 7 muộn hơn Nhật Bản nằm ở múi giờ số 9 là bao nhiêu?

Múi giờ việt nam so với múi giờ Nhật Bản Do vậy, múi giờ của thủ đô Hà Nội Việt Nam là +7, múi giờ của thủ đô Tokyo Nhật Bản là +9. Như vậy chênh lệch múi giờ giữa Việt Nam và Nhật Bản là 2 tiếng, do vậy giờ Nhật Bản sẽ nhanh hơn Việt Nam 2 tiếng.