Đàn nguyệt còn gọi là đàn gì

NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN CẦN BIẾT VỀ ĐÀN NGUYỆT (phần 1 )

Đàn Nguyệt là nhạc khí dây gảy của dân tộc Việt còn gọi là đàn Kìm, đàn Vọng nguyệt cầm hoặc Quân tử cầm  vì mặt đàn hình tròn như mặt trăng rằm nên gọi là đàn Nguyệt. Đàn Nguyệt với nhiều ngón kỹ thuật độc đáo như nhấn, luyến, vê…có nhiều khả năng độc tấu và hòa tấu. Đàn Nguyệt rất phổ biến từ Bắc đến Nam, dễ dàng sử dụng và hợp với tiếng nói của dân tộc.

Đàn Nguyệt là nhạc khí dây gảy loại có dọc (cần đàn) khác với đàn Nguyệt của Trung Quốc, đàn Nguyệt Việt Nam có dọc đàn dài hơn và hàng phím cao. Đàn Nguyệt có 8 phím, sau này gắn thêm 2 phím là 10 phím theo hệ thống âm nhạc ngũ cung.

HÌNH THỨC CẤU TẠO

Thùng đàn: hình tròn dẹt, có đáy kín, mặt đàn không có lỗ thoát âm như đa số các loại đàn gảy khác, đường kính 36cm đến 66,7 cm (đàn Nguyệt Bắc) và 35cm (đàn Nguyệt Nam).

Đáy đàn và mặt đàn được làm bằng gỗ ngô đồng nhẹ, xốp, để mộc, trên mặt đàn có một bộ phận để mắc dây đàn gọi là ngựa đàn hoặc yếm đàn. Bộ phận này được làm bằng gỗ trắc.

Đàn nguyệt còn gọi là đàn gì

Đàn Nguyệt ( Nhạc Cụ Truyền Thống Thăng Long )

 Thành đàn (hay còn gọi là hông đàn) được làm bằng gỗ trắc, có chiều cao khoảng 6,4 cm đến 7,7 cm (đàn Nguyệt Bắc) và 6,1 cm đến 6,3 cm (đàn Nguyệt Nam). Chiều dài đàn (được tính từ đầu đàn đến cuối đàn): đàn Nguyệt Bắc có chiều dài khoảng 104 cm đến 106 cm; còn chiều dài của đàn Nguyệt Nam khoảng từ 101cm đến 103 cm.

Phím đàn: Lúc đầu đàn có 8 phím (6 phím gắn trên cần đàn, 2 phím trên mặt đàn). Sau có mở rộng thêm đến 12 phím với số phím gắn trên cần đàn giữ nguyên (6 phím), số phím còn lại tùy theo ít nhiều sẽ được gắn trên mặt đàn (Hai cây đàn dẫn trên thuộc loại 9 phím và 11 phím). Các phím cao làm bằng tre già, được gắn cách xa nhau với khoảng cách không đều nhau để phù hợp với hệ thống thang ngũ cung, đầu đàn ngả về phía sau.

Đàn nguyệt còn gọi là đàn gì
Trục đàn: Có 4 lỗ trên trục đàn nhưng ngày nay chỉ dùng 2 trục gỗ để xuyên ngang qua 2 bên thành đàn của đầu đàn để mắc 2 dây. Sự hiện diện của một số cây đàn có 4 trục chứng tỏ khởi thủy đàn Nguyệt có mắc 2 dây kép (đàn song vận), sau này do nhấn không thuận tiện nên người ta bỏ lối mắc dây kép thành dây đơn.

Bộ phận lên dây được cải tiến để dây không bị trùng xuống.

Dây đàn: Trước đây, dây đàn được làm bằng tơ se, một to, một nhỏ nay thay bằng nilon. Dây to (dây trầm còn gọi là dây trong hay dây tồn); Dây nhỏ (dây cao gọi là dây ngoài hay dây tang). Tuy nhiên, để phù hợp với từng loại phong cách âm nhạc, đàn Nguyệt sẽ có 3 loại dây thường dùng là: dây to, dây nhỡ và dây nhỏ. Cụ thể là: bộ dây to dùng cho Hát văn có 2 loại với chỉ số 10 zem và 0,8 zem; 0.9 zem và 0,7 zem. Bộ dây nhỡ thường dùng trong Chèo và Ca Huế có chỉ số 0.8 zem và 0,6 zem. Bộ dây nhỏ dùng trong nhạc Tài tử-Cải lương có chỉ số 0,7 zem và 0,5 zem. Chiều dài của dây đàn tính từ đầu đàn đến ngựa đàn là 74,8 cm với đàn Bắc và 73,2cm với đàn Nam. Lối mắc dây thường 28 cách nhau một quãng 5 đúng hoặc quãng 4 đúng tùy theo giọng của từng bài, từng thể loại cho phù hợp. Ngoài ra còn có lối mắc dây theo quãng 8 đúng hoặc quãng 7 thứ.

Que đàn (móng gảy): được làm bằng sừng hoặc đồi mồi hoặc bằng nhựa. Ngày xưa các nghệ nhân gảy đàn bằng móng tay dài của mình. Ngoài ra là bộ phận được gọi là Cóc đàn (gắn ở đầu đàn) và Nhạn đàn (gắn trên mặt đàn) dùng để mắc dây. Như vậy, kích thước của cây đàn Nguyệt chỉ là tương đối, trong đó cây đàn Nguyệt Bắc bộ có hình dạng lớn hơn cây đàn Nguyệt Nam bộ (kể cả độ dài và độ dày của đàn). Điều này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đến âm sắc của mỗi cây đàn.

Các Lớp dậy Đàn nguyệt và Hát văn tại trung tâm âm nhạc truyền thống Thăng Long

← TRƯỚC Tình Quê Hương- Độc Tấu Đàn Nhị SAU → CÙNG TRUNG TÂM ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG THĂNG LONG CHUNG TAY VÌ ĐỒNG BÀO LŨ LỤT

Đàn nguyệt (chữ Hán:月琴: nguyệt cầm;Bính âm:Yùeqín) - là nhạc cụ dây gẩy xuất xứ từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam, trong Nam còn gọi là đờn kìm. Loại đàn này có hộp đàn hình tròn như mặt trăng nên mới có tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa, đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây. Nó là một nhạc cụ quan trọng trong dàn nhạc kinh kịch Bắc Kinh, thường đảm nhận vai trò là nhạc cụ giai điệu chính thay cho phần dây cung.

Đàn nguyệt là cây đàn rất phổ biến dùng để độc tấu, hòa tấu với nhiều ngón chơi độc đáo như ngón nhấn, ngón vê, ngón luyến… Màu âm đàn nguyệt tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong diễn tả các trạng thái cảm xúc âm nhạc.

Lịch sử ra đời

Theo truyền thống, nhạc cụ được phát minh ở Trung Quốc trong triều đại Tần thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 5. Tổ tiên của đàn nguyệt là đàn nguyễn.

Đàn nguyễn có thể có lịch sử hơn 2.000 năm, hình thức sớm nhất có thể là tần tỳ bà, sau đó được phát triển thành ruanxian (được đặt tên theo Nguyễn Hàm), rút ​​ngắn thành ruan.

Cũng trong thời nhà Đường, một ruãnian đã được đưa đến Nhật Bản từ Trung Quốc. Bây giờ ruanxian này vẫn được lưu trữ trong Shosoin của Bảo tàng Quốc gia Nara ở Nhật Bản. Các ruanxian được làm bằng gỗ đàn hương đỏ và trang trí với khảm xà cừ. Các ruanxian cổ đại cho thấy rằng diện mạo của ruan ngày nay đã không thay đổi nhiều kể từ thế kỷ thứ 8.

Ngày nay, mặc dù đàn nguyễn chưa bao giờ phổ biến như pipa, ruan đã được chia thành nhiều nhạc cụ nhỏ hơn và được biết đến nhiều hơn trong vài thế kỷ gần đây, như nguyệt cầm và tần cầm, nguyệt cầm, không có lỗ âm thanh, hiện được sử dụng chủ yếu trong nhạc đệm Bắc Kinh. Tần cầm và đàn nguyệt lúc bấy giờ là hai loại nhạc cụ trong nhóm đàn nguyễn thịnh hành ở Quảng Đông (廣東) và Triều Châu (潮州).

Cấu tạo

Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau:

  • Bầu vang: Bộ phận hình tròn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30 cm, thành bầu 6 cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm.
  • Cần đàn (hay dọc đàn): làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn 8-11 phím đàn, trước đây chỉ gắn 8 phím (nay những người chơi nhạc tài tử Nam bộ vẫn thường dùng đàn 8 phím). Những phím này khá cao, nằm xa nhau với khoảng cách không đều nhau.
  • Đầu đàn: hình lá đề, gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.
  • Dây đàn: có 2 dây, trước đây làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm bằng dây nylon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc khác.

Đàn nguyệt ở Trung Quốc có bốn dây, điều chỉnh trong hai tone D và A (thấp đến cao). Yueqin được sử dụng cho opera Bắc Kinh, tuy nhiên, có hai dây duy nhất, chỉ một trong số đó là thực sự được sử dụng, dây dưới đây là có hoàn toàn cho sự cộng hưởng cảm thông. Trong vở opera Bắc Kinh (kinh kịch), người chơi sử dụng một cái chốt gỗ nhỏ thay vì một tấm lót để biểu diễn, và chỉ chơi ở vị trí đầu; Điều này đòi hỏi người biểu diễn phải sử dụng quãng tám oát để chơi tất cả các âm thanh trong một giai điệu nhất định.

Các dây trên mẫu truyền thống của nhạc cụ được làm bằng lụa (mặc dù nylon thường được sử dụng ngày nay) và được nhét bằng một cái lọ dài khá dài, đôi khi gắn với dụng cụ bằng một miếng dây.

Không có lỗ âm thanh, nhưng bên trong hộp âm thanh là một hoặc nhiều sợi dây chỉ được gắn ở một đầu, để chúng rung, tạo cho nhạc cụ một sắc thái và cộng hưởng đặc biệt.

Không có cây cầu hoặc ngựa đàn; Các dây chỉ đơn giản là gắn liền với neo tại cơ sở của nhạc cụ.

Khả năng trình diễn.

Nhìn chung đàn nguyệt có âm sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Nó có thể diễn đạt nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng.

Ngày xưa người biểu diễn nuôi móng tay dài để khảy đàn nguyệt, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật sử dụng tay phải trong đàn nguyệt như sau:

  • Ngón phi: lối đánh cổ truyền, không dùng miếng khảy mà sử dụng những ngón tay vẩy liên tiếp nhanh trên dây đàn, hiện quả âm thanh gần giống như ngón vê. Ngón phi có hai cách diễn:
  • Phi lên: thường sử dụng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi lần lượt những ngón khác hất vào dây đàn.
  • Phi xuống: sử dụng trên cả 1 dây đàn hoặc trên cả hai dây. Phi xuống là vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn.

Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (không sử dụng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ sử dụng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ phải giữ miếng khảy.

  • Ngón vê: khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong nhạc hát văn. Cách vê có thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê 1 dây hoặc 2 dây đều được.
  • Ngón gõ: dùng những ngón tay phải gõ vào mặt đàn, mục đích để báo hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hòa tấu hoặc điểm giữa những nhạc cụ, đoạn nhạc hay những lúc các nhạc cụ khác ngưng hoạt động.
  • Bịt: làm âm thanh vừa vang lên liền tắt đột ngột. Kỹ thuật sử dụng tay trái trong đàn nguyệt gồm có 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng ngày nay có thể xem nó là kỹ thuật số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm (hợp âm).

Nguyệt cầm của Trung Quốc thường dùng trong kinh kịch, hòa âm trong dàn nhạc bát âm cung đình, các bài hát dân ca, nhạc cổ phong Trung Quốc, C-pop, EDM,...

Vai trò của đàn nguyệt trong dân ca Việt Nam

Đàn nguyệt được dùng để biểu diễn các thể loại nhạc dân ca của Việt Nam. Trong ban nhạc "Ngũ tuyệt" của nhạc thính phòng cổ truyền thì đàn nguyệt đóng vai trò điều khiển. Bốn nhạc cụ kia trong dàn nhạc gồm có đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam và ống sáo.

Đàn nguyệt cũng giữ vai trò tối trọng yếu trong nhạc chầu văn-một thể loại hát đặc sắc của đồng bào Bắc Bộ

Bài thơ “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;

Lung linh bóng sáng bỗng rung mình

Vì nghe nương tử trong câu hát

Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,

Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

Nguồn: wikipedia