CMM và CMMi là chuẩn quản lý quy trình chất lượng của các sản phẩm phần mềm được áp dụng cho từng loại hình công ty khác nhau. Hay nói cách khác đây là các phương pháp phát triển hay sản xuất ra các sản phẩm phầm mềm. Tháng 8/ 2006, SEI (Software Engineering Institute – Viện Công Nghệ Phần Mềm Mỹ) - tổ chức phát triển mô hình CMM/CMMI đã chính thức thông báo về phiên bản mới CMMI 1.2. Như vậy là sau gần 6 năm ban hành và sử dụng thay thế cho CMM (từ tháng 12/2001), CMMI phiên bản 1.1 (CMMI 1.1) đã được chính thức thông báo với lộ trình thời gian chuyển tiếp lên phiên bản mới CMMI 1.2. Show Mặc dù số lượng các công ty phần mềm tại Việt Nam đạt được CMM/CMMI đến nay vẫn chưa nhiều, nhưng với sự khởi sắc trong lĩnh vực gia công và sản xuất phần mềm vài năm trở lại đây, sự cạnh tranh cũng như yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, đã thúc đẩy các công ty xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo các mô hình quốc tế. Có những khác biệt đáng kể giữa CMMI 1.1 và CMMI 1.2, trong khuôn khổ một bài viết chúng tôi cố gắng nêu những nét cơ bản nhất, nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quát, từ đó dễ dàng định hướng cho việc nghiên cứu chi tiết hơn về CMMI 1.2. CMM và CMMi là một bộ khung (framework)những chuẩn đề ra cho một tiến trình sản xuất phần mềm hiệu quả, mà nếu như các tổ chức áp dụng nó sẽ mang lại sự khả dụng về mặt chi phí, thời gian biểu, chức năng và chất lượng sản phẩm phần mềm. Mô hình CMM và mô tả các nguyên tắc và các thực tiễn nằm bên trong tính “thành thục ” quá trình phần mềm và chủ ý giúp đỡ các công ty phần mềm hoàn thiện khả năng thuần thục quá trình sản xuất phần mềm, đi từ tự phát, hỗn độn tới các quá trình phần mềm thành thục, có kỷ luật. Bằng việc thưc hiện CMM các công ty thu được những lợi ích xác thực, giảm được rủi ro trong phát triển phần mềm và tăng được tính khả báo - do đó trở thành đối tác hay một nhà cung ứng hấp dẫn hơn đối với các khách hàng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, CMM không phải không đòi hỏi chi phí. Những nguồn lực đáng kể của công ty phải được dành cho việc hướng tới các vùng tiến trình then chốt, cần thiết để lên từng bậc thang của chứng nhận CMM. CMM đưa ra một loạt các mức độ để biểu thị mức độ thành thục đã đạt được. Mức 1 ứng với mức độ thành thục thấp nhất và mức 5 ứng với mức độ thành thục cao nhất. Gần đây, SEI đã xúc tiến CMMi, một mô hình kế thừa CMM và CMMi hiện nay các công ty cũng đang bắt đầu triển khai việc sử dụng mô hình này Cấu trúc của CMM
Nói cách khác mỗi một level đều tuân theo một chuẩn ở mức độ cao hơn. Muốn đạt được chuẩn cao hơn thì các chuẩn của các level trước phải thoả mãn. Mỗi level đều có đặc điểm chú ý quan trọng của nó cần các doanh nghiệp phải đáp ứng được
18 KPAs của CMM được đều có 5 thuộc tính(chức năng) chung trong đó có các qui định về key pratice là những hướng dẫn về các thủ tục(procedure), qui tắc(polities), và hoạt động (activites)của từng KPA. Đầu tiên ta có cấu trúc của một KPA với 5 điểm đặc chưng(common feature). Trong đó để thực hiện KPA này ta cần phải thực hiện theo những qui tắc sau để bảo đảm đạt được KPA đó:
So sánh giữa CMM và CMMiHẵn những ai quan tâm tới CMM, cũng đã từng nghe hoặc biết qua CMMI . Và khi đã nghe qua, tôi đoán không ít người thầm thắc mắc, hoặc tự hỏi rằng không biết CMM với CMMI nó khác nhau ra sao nhỉ ??? Nếu đặc tả một các trực quan thì ta thấy CMM và CMMI chỉ khác nhau có một chữ “I” (Integration). Nhưng một chữ “I” đó thôi cũng tạo ra sự khác biệt đáng kể giữa CMM và CMMI rồi. Trước tiên hãy xem qua nguồn gốc của hai thứ này một tí . Nếu nói rằng CMM ra đời trước CMMI thì cũng đúng nhưng mà nói CMMI có trước từ khi CMM ra đời cũng chẳng sai. Thật ra khi CMM được chính thức công bố vào cuối năm 1990 thì CMMI đã được manh múng được nhắc đến từ nhiều năm trước đó (chính xác hơn là từ 1979- Crosby’s maturity grid (Quality is Free)) thông qua cấu trúc Continuous & Staged. Có thể nói CMMI là một phiên bản cải thiện tất yếu của CMM. Trong khi CMM được hoàn thiện và phát triển bởi viện SEI của Mỹ, thì CMMI là sản phẩm của sự cộng tác giữa viện này và chính phủ Mỹ. Từ khi CMM được công nhận và áp dụng trên thế giới thì tầm quan trọng của nó đã vượt qua giới hạn của một viện khoa học. Với tốc độ phát triển không ngừng và đòi hỏi sự cải thiện liên tục trong ngành công nghệ thông tin, việc chính phủ Mỹ cùng với viện SEI kết hợp để hoàn thiện CMM và cho ra đời phiên CMMI là một hệ quả tất yếu. Mô hình CMM trước đây gồm có 5 mức: khởi đầu, lặp lại được, được định nghĩa, được quản lý và tối ưu. Một điểm đặc biệt là mỗi doanh nghiệp có thể áp dụng mô hình CMM ở bất kỳ mức nào mà không cần tuân theo bất kỳ một qui định nào, không cần phải đạt mức thấp trước rồi mới có thể đạt mức cao (có thể đi thẳng lên mức cao, hoặc cũng có thể tự hạ xuống mức thấp hơn). Về nguyên tắc, SEI không chính thức đứng ra công nhận CMM mà thông qua các tổ chức tư vấn, các đánh giá trưởng được SEI ủy quyền và thừa nhận. Từ cuối 2005, SEI không tổ chức huấn luyện SW-CMM và chỉ thừa nhận các đánh giá theo mô hình CMMi mới từ tháng 12/2005. CMMi được tích hợp từ nhiều mô hình khác nhau, phù hợp cho cả những doanh nghiệp phần cứng và tích hợp hệ thống, chứ không chỉ đơn thuần áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất phần mềm như CMM trước đây. Có 4 mô hình áp dụng CMMi là CMMi-SW (dành cho công nghệ phần mềm), CMMi-SE/SW (dành cho công nghệ hệ thống và phần mềm), CMMiSE/SW/IPPD (dành cho công nghệ hệ thống + công nghệ phần mềm với việc phát triển sản phẩm và quy trình tích hợp), CMMi-SE/SW/IPPD/SS (dành cho công nghệhệ thống + công nghệ phần mềm với việc phát triển sản phẩm và quy trình tích hợp có sử dụng thầu phụ). Có 2 cách diễn đạt và sử dụng CMMi: Staged (phù hợp cho tổ chức có trên 100 người) và Continuos (phù hợp cho tổ chức dưới 40 người). CMMi cũng bao gồm 5 mức như CMM: khởi đầu, lặp lại được, được định nghĩa, được quản lý và tối ưu. Lợi ích của CMM đem lại cho doanh nghiệp
Tài liệu tham khảo:http://www.pcworld.com.vn/articles/kinh-doanh/quan-tri/2006/03/1188744/cmmi-voi-doanh-nghiep-phan-mem-giay-thong-hanh-thoi-hoi-nhap/ http://text.123doc.org/document/1350603-cac-chuan-cho-phat-trien-phan-mem-cmmi.htm http://text.123doc.org/document/2980302-tim-hieu-ve-chuan-cmm-cmmi.htm Tiêu chuẩn CMM là gì?CMM là chuẩn quản lý quy trình chất lượng của các sản phẩm phần mềm được áp dụng cho từng loại hình công ty khác nhau. Nói cách khác đây là phương pháp phát triển hay sản xuất ra các sản phẩm phần mềm. CMM là viết tắt của từ gì?Máy đo CMM là từ viết tắt của từ “Coordinates Measuring Machine“. Đây là thiết bị được sử dụng phổ biến trong phòng thí nghiệm đo lường. Chức năng chính của CMM là đo tọa độ 3 chiều X, Y, Z với độ chính xác cao. Sử dụng máy đo toạ độ 3 chiều, người dùng có thể đo được kích thước sản phẩm chính xác hơn. Đơn vị đo CMM là gì?CMM (Cubic Meter Per Minute) là m3/phút. CFM (Cubic Feet Per Minute) là m3/feet. 3D Measuring Machine là máy gì?Máy đo 3D còn được gọi là máy đo tọa độ 3 chiều – Chức năng chính là đo những vật thể theo cấu trúc 3 chiều. Loại máy này còn được gọi là máy đo CMM (viết tắt từ tiếng Anh Coordinate Measuring Machine). Máy đo 3D hoạt động theo nguyên lý dịch chuyển đầu dò để xác định tọa độ các điểm trên bề mặt vật thể. |