Việt Nam đã nhân nhượng về chính trị đối với quân đội Tưởng và tay sai như thế nào

Sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù trong giai đoạn (1945 - 1946) - Một chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược, quyết định của cách mạng Việt Nam

Phạm Minh Triều
2021-09-14T05:14:44-04:00 2021-09-14T05:14:44-04:00 https://truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-nghien-cuu-trao-doi/sach-luoc-hoa-hoan-nhan-nhuong-voi-ke-thu-trong-giai-doan-1945-1946-mot-chu-truong-lon-co-y-nghia-chien-luoc-quyet-dinh-cua-cach-mang-viet-nam-1330.html https://cdn.giaibainhanh.com/viet-nam-da-nhan-nhuong-ve-chinh-tri-doi-voi-quan-doi-tuong-va-tay-sai-nhu-the-nao--3a865958173be3dc66cca0747567d61a.wepb
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước https://truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png
Thứ hai - 30/08/2021 06:11 40.074 0
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, một nhà nước non trẻ vừa mới ra đời đã phải đương đầu với nhiều khó khăn và kẻ thù hơn bao giờ hết. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một số chính sách hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù là xuất phát từ đường lối ngoại giao hòa bình, đồng thời cũng xuất phát từ hoàn cảnh thực tế lúc đó, hoàn cảnh cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”, hòa thì còn và đánh thì rất có thể mất. Chính vì những biện pháp hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù được thực hiện mà chúng ta đã giữ được chính quyền, thế và lực của cách mạng phát triển, tạo tiền đề cơ sở để giành thắng lợi các thời kỳ cách mạng sau này.
Việt Nam đã nhân nhượng về chính trị đối với quân đội Tưởng và tay sai như thế nào
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình,
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòangày 2-9-1945. (Ảnh tư liệu). Nguồn: ( tapchiqptd.vn)
Lênin đã từng dạy những người cách mạng rằng: “Thấy cuộc chiến đấu rõ ràng có lợi cho kẻ thù chứ không có lợi cho ta mà cứ nghênh chiến, đó là một tội ác; và những nhà chính trị nào của giai cấp cách mạng, không biết “lựa chiêu, liên minh và thỏa hiệp” để tránh một cuộc chiến đấu bất lợi rõ rệt thì đó là những người vô dụng”(1). Sau Cách mạng Tháng Támlà thời kỳ cách mạng nước ta gặp rất nhiều khó khăn và thách thức với nhiều kẻ thù nguy hiểm, thù trong giặc ngoài. Để giữ vững nền độc lập vừa giành được, biểu hiện tập trung ở việc giữ chính quyền cách mạng và bước đầu xây dựng một xã hội mới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải thực hiện sách lược hòa hoãn với kẻ thù, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, thôn tính nước ta của hai tên đế quốc Tàu Tưởng và Pháp. Mục tiêu chính sách đối ngoại nhất quán của Đảng và Chính phủ ta là độc lập, hòa bình và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Đứng trước nhiều kẻ thù mạnh, chúng ta lại vô cùng khó khăn, sức mạnh vật chất còn hạn chế, nhưng Đảng ta đã phát huy được sức mạnh vật chất, sức mạnh chính trị tinh thần vào công cuộc kháng chiến kiến quốc cũng như trong đấu tranh ngoại giao. Đến cuối năm 1946, chỉ mới hơn một năm xây dựng lực lượng trong bối cảnh đầy rẫy khó khăn, vừa xây dựng vừa chiến đấu, nhưng chúng ta đã có được lực lượng chính trị hùng hậu của toàn dân, có một chính quyền hợp pháp được cũng cố từ Trung ương đến làng xã, có một cơ sở kinh tế văn hóa nhất định, có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân đông đảo rộng khắp, với một Đảng Cộng sản được cũng cố và phát triển ngày càng trưởng thành lãnh đạo. Chúng ta lại có được sự ủng hộ quốc tế ngày càng rộng rãi. Đó là sức mạnh tổng hợp của đất nước ta, của dân tộc ta và của cả thời đại.
Khi bước vào cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược, đồng thời phải thường xuyên phải đối phó với sự chống trả điên cuồng của quân Tưởng cùng bọn tay sai, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì cuộc đấu tranh để đạt tới hòa hoãn. Ta hoà hoãn với Tưởng và bọn tay sai ở phía Bắc, đồng thời đẩy mạnh kháng chiến chống Pháp ở phía Nam. Để đạt được hòa hoãn với quân Tưởng, ta phải nhân nhượng nhiều điều, trong đó có điều quan trọng như Đảng phải tuyên bố tự giải tán, phải cho bọn Việt quốc, Việt cách tham gia chính quyền cách mạng…Những nhân nhượng đó đã gây ra những khó khăn, phức tạp mới và là những điều ta không muốn. Nhưng trước tình thế sốngcòn của độc lập dân tộc, của chính quyền cách mạng, thì sự nhân nhượng cùng những biện pháp đấu tranh khác để đạt tới hòa hoãn là điều cần thiết, là sự đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hòa với Tưởng, ta phá được âm mưu của chúng định dùng vũ lực lật đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền của bọn tay sai. Việc cho bọn tay sai Tưởng tham gia chính quyền nhà nước vừa phá được luận điệu tuyên truyền “Việt Minh, cộng sản độc quyền”, phá được sức ép đòi Chính phủ ta phải từ chức, chúng cũng không thực hiện được ý đồ phá hoại, tiến tới giành chính quyền bằng biện pháp chính trị, ngoại giao. Trái lại, bọn phản động hoàn toàn bất lực, tự lột mặt nạ trước nhân dân và trốn chạy theo đế quốc. Chính quyền cách mạng không hề thay đổi về tính chất và ngày càng được cũng cố. Đảng Cộng sản Đông Dương ra thông báo tự ý giải tán là vì yêu cầu của tình thế và là một sách lược nhân nhượng để đạt tới hòa hoãn. Thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật, vẫn tiếp tục phát triển củng cố, vẫn lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo chính quyền.
Việc Hòa với Tưởng ta có điều kiện để tập trung lực lượng chống Pháp, cuộc hòa hoãn này đối với Pháp là một bất lợi. Pháp coi Tưởng và ta như đồng mình với nhau để ngăn chặn mưu đồ của Pháp, hơn một năm quân Tưởng đóng quân trên đất nước ta, chúng ta đã thực hiện được hòa hoãn với chúng. Kết quả cuối cùng kẻ địch không thực hiện được dã tâm của chúng, trái lại, ta thực hiện được mục tiêu chiến lược là giữ vững độc lập, giữ vững chính quyền. Việc hòa với Tưởng là hòa với một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm, nhưng không phải kẻ thù chính để phân hóa, cô lập, tập trung lực lượng đấu tranh bằng biện pháp quân sự chống kẻ thù chính. Còn hòa với Pháp là hòa ngay với kẻ thù chính để loại bớt một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm và tranh thủ trạng thái không có chiến tranh để xây dựng đất nước, chuẩn bị lực lượng đối phó với một cuộc chiến tranh lớn nếu kẻ thù cố tình gây ra. Đó là một điều khá đặc biệt được đặt ra và giải quyết trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
Nhờ sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với thực dân Pháp, mà gần một năm tạm hòa bình, đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng căn bản, đặc biệt việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9 là được xem là những phương thuốc hồi sinh cho Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói nói “Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình”(2). Trong hoàn cảnh đó hòa hoãn, nhân nhượng tuy là vấn đề sách lược, nhưng lại là một chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược.
Ta chủ trương hòa hoãn là nhằm giành thắng lợi cho cách mạng. Nhưng việc thực hiện chủ trương này cũng còn tùy thuộc cả phản ứng của kẻ thù. Để đạt được hòa hoãn cũng là một cuộc đấu tranh. Ta khoét sâu những chổ yếu của địch, những mâu thuẫn trong nội bộ chúng, vừa mềm dẻo nhân nhượng, vừa kiến quyết đấu tranh giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng. Cuộc đấu tranh để đạt được hòa hoãn và đấu tranh trong quá trình hòa hoãn là cuộc đấu tranh cách mạng gay go, phức tạp, tinh vi và đầy bất trắc. Nhiều lần kẻ thù nói chung, hoặc một thế lực nào đó của kẻ thù tạo cớ và kiếm cớ để lật đổ chính quyền cách mạng. Nhưng chúng ta luôn cảnh giác, chuẩn bị sẵn nhiều phương án, dùng đấu tranh chính trị, ngoại giao với lực lượng đông đảo quần chúng làm hậu thuẫn, nên đã không để kẻ thù biến việc nhỏ thành việc lớn, việc đơn giản thành nghiêm trọng. Thậm chí ta phải nín nhịn trong một số trường hợp để giữ được hòa bình. Cuộc đấu tranh trong hòa hoãn không hoặc ít đổ máu, nhưng lại rất phức tạp, phải vận dụng nhiều cách linh hoạt, đòi hỏi những người thực thi phải hết sức vững vàng, khôn khéo.
Việc thực hiện hòa hoãn, không cách nào khách là chúng ta phải nhân nhượng. Nhân nhượng nhiều hay ít phụ thuộc trước hết vào so sánh lực lưỡng giữa ta và địch, đồng thời cũng do kết quả tài năng đấu tranh của ta. Mỗi cuộc hòa hoãn có hoàn cảnh khác nhau nên sự nhân nhượng cũng khác nhau. Vấn đề là phải xem xét nhân nhượng như vậy có phản ánh đúng tương quan lực lượng đôi bên không? Những nhân nhượng đó có vi phạm nguyên tắc cách mạng hay không? Có nhầm đạt tới mục tiêu cuối cùng của cách mạng hay không? Và thực tiễn lịch sử đã phán xét ra sao?. Những nhân nhượng của ta với quân Tưởng và bọn tay sai là những nhân nhượng lớn, trên những vấn đề quan trọng của cách mạng. Nhưng những nhân nhượng đó không vi phạm nguyên tắc của cách mạng lúc này là giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc mà biểu hiện tập trung là giữ vững chính quyền cách mạng.
Việc hòa hoãn với Pháp đặt ra cho chúng ta những vấn đề phức tạp hơn, điều kiện hòa hoãn cũng nặng nề hơn. Cuộc đấu tranh giữa ta và Pháp gay go kéo dài. Hai vấn đề trọng yếu đấu tranh gay go trong quá trình đàm phán là vấn đề Pháp công nhận nền độc lập thống nhất của Việt nam và vấn đề Việt Nam đồng ý để quân đội Pháp vào Bắc kỳ thay thế quân độ Trung Hoa. Cuối cùng Chính phủ Pháp phải công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng, việc thống nhất ba kỳ do nhân dân Việt Nam quyết định. Phía ta phải chấp nhận quyền đóng quân tạm thời với số quân hạn chế của Pháp trên đất Bắc Kỳ. Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với Xanh-tơ-ny: “Các ông thừa hiểu rằng nguyện vọng của tôi còn muốn hơn thế nhiều. Nhưng tôi biết rõ rằng không thể nào một lúc mà có tất cả”(3).
Nguyện vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn dân ta là độc lập thống nhất hoàn toàn, nhưng hoàn cảnh lịch sử chưa cho phép chúng ta đạt tới mục tiêu đó. Tương quan lực lượng buộc ta phải nhân nhượng. Đó là những nhân nhượng cần thiết, đúng đắn và mưu lược. Chúng ta dừng lại để tiến lên, chứ không phiêu lưu lao vào một cuộc chiến một cách vô dụng. Lê nin đã dạy “Đối với chính đảng vô sản, không có sai lầm nào nguy hiểm hơn là định sách lược của mình theo ý muốn chủ quan…Định ra một sách lược vô sản theo ý muốn chủ quan là giết sách lược đó” (4).
Sự nhân nhượng có thể ít, có thể nhiều. Có khi đã nhân nhượng lần này, lại phải tiếp tục nhân nhượng lần khác. Nhưng nhất thiết phải có điểm dừng. Vượt quá điểm dừng ấy là phạm vào nguyên tắc cách mạng. Bao giờ cũng vậy, trạng thái hòa bình là điều kiện thuận lợi nhất để xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước, nhưng không phải hòa bình với bất cứ giá nào. Hòa với Tưởng, chúng ta đã nhân nhượng về kinh tế, chính trị…, nhưng những yêu sách ngỗ ngược quá đáng của chúng như đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chức, đòi loại các bộ trưởng cộng sản ra khỏi Chính phủ, đòi để bọn tay sai lãnh đạo chính quyền…thì chúng ta kiên quyết cự tuyệt. Bởi chấp nhận những điều đó là mất chính quyền, mất độc lập tự do, là phạm vào nguyên tắc cách mạng. Ngay nhân nhượng về kinh tế, nhân nhượng này không phạm vào chủ quyền quốc gia dân tộc, nhưng cũng có giới hạn. Có lần Lư Hán đòi ta phải cung cấp thêm nhiều gạo nữa cho quân Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết cự tuyệt.
Việc ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 là một nhân nhượng của ta. Tạm ước 14/9 lại là một bước nhân nhượng nữa để cố cứu vãn nền hòa bình mỏng manh. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng ta không thể chấp nhận tối hậu thư như đòi giải giáp Quân đội Quốc gia, đòi trao toàn bộ quyền lực cai quản đất nước ta cho Pháp. Toàn dân ta đã đứng lên kháng chiến. Đó là quan điểm, cách thức giải quyết mối quan hệ giữa mềm dẻo linh hoạt về sách lược với giữ vững nguyên tắc chiến lược, đó cũng là sự khác biệt hoàn toàn với tư tưởng hữu khuynh đầu hàng thủ tiêu đấu tranh, “hòa giải”, “hợp tác” với kẻ thù bất cứ giá nào. C.Mác từng dạy “Trong chính trị - vì một mục đích nào đó có thể liên minh thậm chí ngay với quỷ - chỉ cần biết chắc là anh sẽ xỏ mũi con quỷ chứ không phải là con quỷ xỏ mũi anh”(5). Lênincũng chỉ rõ mối quan hệ này “Nhiệm vụ của một đảng thật sự cách mạng không phải là tuyên bố rằng không thể cự tuyệt mọi sự thỏa hiệp trong trường hợp không thể tránh được thỏa hiệp, giữ thái độ trung thành với những nguyên tắc cả mình, với gia cấp mình, với nhiệm vụ cách mạng của mình, với sự nghiệp của mình là chuẩn bị cuộc cách mạng và giáo dục quần chúng để đi đến cách mạng thành công”.
Đánh giá sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù thời kỳ 1945 – 1946, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẫn khẳng định “Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lê-nin-nít về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ địch và về nhân nhượng có nguyên tắc”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ rằng “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”, nghĩa là phải “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Người luôn nêu cao ngọn cờ đại nghĩa là độc lập và thống nhất Tổ quốc, đó là nguyên tắc bất biến để ứng phó với mọi tình huống. Khi mà thực dân Pháp gây ra cuộc chiến tranh ở Nam Bộ, Người đã khẳng định: nếu cần phải hy sinh, nếu cần phải kháng chiến “để giữ gìn chủ quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến”(7).
Độc lập, thống nhất cũng chính là ngọn cờ để tập hợp lực lượng toàn dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, chống kẻ thù xâm lược. Chính nhờ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sách lược linh hoạt hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù, giữ vững nguyên tắc chiến lược mà cách mạng đã vượt qua những thử thách hiểm nghèo, giành thắng lợi từng bước, đưa cách mạng cả nước tiến lên, vững chắc đi tới thắng lợi hoàn toàn./.
Tài liệu tham khảo:
(1). V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr.77.
(2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.62.
(3). J.Xanh-tơ-ny: Đối diện Hồ Chí Minh, Pa-ri, 1970, Bản dịch, Tư liệu Viện Hồ Chí Minh, tr.58.
(4). V.I.Lênin: Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, tr.435.
(5). C. Mác, Tiểu sử, Nxb Khoa học xã hội, H.1975, tr.570.
(6). Lê Duẫn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, In lần thứ ba, Nxb Sự thật, H.1975, tr.33.
(7). Lê Duẫn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, In lần thứ ba, Nxb Sự thật, H.1975, tr.33.

Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946, bài học về nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.

12 May 2021

V.I.Lênin từng chỉ dẫn kế sách: “Chỉ có thể thắng một kẻ thù mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn và với một điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách hết sức tỷ mỉ..., hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt bé nhỏ giữa các kẻ thù... cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh mạnh về số lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, ít chắc chắn và ít tin cậy”(1).

Thấm nhuần những chỉ dẫn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phát triển thêm những phương cách mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam để rồi tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” của Người đi vào thực tiễn cách mạng với những chủ trương hết sức linh hoạt và phong phú như lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù; nhân nhượng có nguyên tắc để lôi kéo đồng minh; phân biệt chính phủ hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hòa bình của nước đối phương; độ lượng, khoan dung, lôi kéo những người con của dân tộc đã lầm lạc đi theo đế quốc... Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, “thêm bạn, bớt thù” vừa là tư tưởng trong dạng thức các luận điểm lý luận, vừa là phương pháp với tư cách là “là hợp điểm giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành động”(2).

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công đánh dấu một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - thời đại nhân dân đứng lên làm chủ vận mệnh đất nước, tự lựa chọn, quyết định con đường đi cho dân tộc. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam đã thành hiện thực. Sự kiện Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên được thành lập ở Việt Nam là bước khởi đầu, song đặc biệt quan trọng đột phá vào hệ thống dinh lũy của chủ nghĩa đế quốc, báo hiệu thời kỳ tan rã không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ. Với tầm vóc lớn lao, ý nghĩa to lớn mang tầm quốc gia và quốc tế, thành quả Cách mạng Tháng Tám - thành quả xương máu của dân tộc Việt Nam trở thành đối tượng đánh phá, tiêu diệt của các thế lực đế quốc, thực dân.

Ngày 17/7/1945, Hội nghị Pôtxđam họp và ra quyết định đưa quân đội Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật. Quyết định của Hội nghị Pôtxđam đã dẫn tới sự có mặt của một lực lượng lớn quân đội nước ngoài thuộc các thế lực thù địch, luôn nuôi dã tâm chống phá, lật đổ chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ, vừa mới ra đời. Ở miền Bắc Việt Nam, 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân quốc) hiện diện với danh nghĩa giải giáp quân đội phát xít Nhật. Quân đội Tưởng khi sang Việt Nam còn kéo theo đám phản động người Việt là các đảng Việt Quốc và Việt Cách. Mục đích của quân Tưởng và đám tay sai rất rõ ràng: “Tiêu diệt cộng sản và bắt giữ Hồ Chí Minh”. Tham vọng của lực lượng Tưởng Giới Thạch là bành trướng sang Việt Nam hoặc chí ít tạo ra một chế độ phục tùng Trung Hoa Dân quốc ở đây. Trong khi đó, ở miền Nam Việt Nam, quân viễn chinh Pháp núp bóng quân Anh (giải giáp quân Nhật) để gây hấn, khủng bố, lấn chiếm, mưu toan phá bỏ thành quả cách mạng, thiết lập trở lại chế độ thực dân cũ trên toàn đất nước ta.

Trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", trên nguyên tắc giữ vững chủ quyền và độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những bước đi sách lược khôn khéo, phân hoá cao độ kẻ thù, tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính quyền, tạo điều kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm mưu “diệt Cộng cầm Hồ”, “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch; đồng thời, không ngừng củng cố khối đoàn kết toàn dân, làm thất bại mọi mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, trừng trị bọn phản cách mạng và động viên toàn thể nhân dân đoàn kết một lòng, dốc sức xây dựng thực lực đất nước.

Sau cuộc gây hấn ở Sài Gòn ngày 23/9/1945, quân Pháp dựa vào sức mạnh binh lực và hỏa lực đánh chiếm rộng ra cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ và phần lớn Campuchia; đồng thời khống chế vùng nông thôn rộng lớn ở Lào,... từng bước thực hiện dã tâm xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Tuy nhiên, để đưa quân ra miền Bắc, thì trở ngại lớn nhất của chúng là vấp phải một lực lượng kháng chiến mạnh của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời chúng phải đối mặt với 20 vạn quân Tưởng đang giải giáp quân đội Nhật tại đây.

Sang đầu năm 1946, ván cờ Việt-Pháp-Hoa diễn biến mau lẹ.

Ngày 28/2/1946, chính phủ Pháp và chính phủ Tưởng Giới Thạch đã thỏa hiệp với nhau bằng việc ký kết một Hiệp định tại Trùng Khánh, Trung Quốc. Theo Hiệp ước, Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị, như hủy bỏ cai trị của Pháp trên đất Trung Quốc, nhượng cho Tưởng một “khu đặc biệt” để tự do buôn bán và có quyền kiểm soát thuế quan ở cảng Hải Phòng, bán cho Tưởng một đoạn đường sắt từ Hồ Kiều đến Côn Minh (thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam), những kiều dân Trung Quốc ở Đông Dương được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt. Tưởng cho quân đội Pháp thay thế quân đội Tưởng chiếm đóng ở phía Bắc Đông Dương, từ vĩ tuyến 16 trở ra, làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật (từ ngày 1-31/3/1946). Ngoài lợi ích kinh tế, chính trị như trên còn có 2 yếu tố khác khiến Tưởng chịu rút khỏi Việt Nam, đó là (1) nhu cầu dồn quân chống lại lực lượng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc khi đó và (2) sức ép từ phía Mỹ muốn Tưởng nhượng bộ Pháp (mà Mỹ là nhà tài trợ chính của chính quyền Tưởng). Việc thực dân Pháp và chính quyền Tưởng mặc cả, mua bán với nhau về quyền lợi đã chà đạp lên chủ quyền dân tộc Việt Nam, đi ngược lại tinh thần của công ước Liên Hiệp Quốc đã được hơn 50 quốc gia ký kết trước đó. Với Hiệp ước đó, Pháp đã đạt được mục đích thay thế quân Tưởng một cách hòa bình.

Nhận định về Hiệp ước Trùng Khánh, Đảng ta chỉ rõ: Hiệp ước Hoa - Pháp chứng tỏ "vì muốn cứuvãnquyềnlợi chung của đế quốc, chống phong trào cách mạngvôsảnvà cách mạng thuộc địa, Anh, Pháp và Mỹ - Tàu đã dẹp tạm mâu thuẫn bộ phận ở Đông Dương"(3) và "dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn, nhất định chúng cũng thi hành Hiệp ước ấy"(4).

Thế nhưng một sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Sáng 6/3/1946, quân Tưởng đã chủ động nổ súng vào tàu chiến Pháp tiến vào cảng Hải Phòng ở miền Bắc. Quân Pháp phản pháo ngay lập tức. Giao tranh kéo dài đến trưa hôm đó, với thương vong và thiệt hại cho cả hai bên.

Sự kiện đấu súng này rõ ràng không có lợi cho phe Trung Hoa Dân quốc xét về mặt toàn cục. Nó cũng cho thấy nhiều tầng mâu thuẫn đang tồn tại trong phe Tưởng.Thứ nhấtlà mâu thuẫn giữa Bộ tư lệnh quân Tưởng ở Việt Nam với Bộ Tổng tham mưu quân Tưởng ở Trùng Khánh (trong chiến dịch “Hoa quân nhập Việt”, Tưởng Giới Thạch đã cố tình điều nhiều tướng lĩnh không ăn cánh sang Việt Nam).Thứ hailà mâu thuẫn trong nội bộ quân Tưởng ở Việt Nam, gồm phe muốn rút về nước theo lệnh của Trung ương Trung Hoa Dân quốc, và phe muốn ở lại để ủng hộ nhóm phản động Việt và “kiếm chác” thêm về mặt kinh tế. Chính phe muốn rút đã hối thúc Việt Nam sớm đạt thỏa thuận với Pháp.

Trong nội bộ giới cầm quyền Pháp cũng có ít nhất 2 phe là chủ chiến và chủ trương thương lượng. Ta nắm rõ nhóm chủ trương thương lượng này của Pháp và đã chuẩn bị kỹ cho một kịch bản ký kết thỏa thuận hòa hoãn.

Trước đó vào ngày 25/2/1946, chính phủ Pháp do Giăng Xanhtơni làm đại diện đã xúc tiến việc đàm phán với chính phủ Việt Nam để được đưa quân ra Bắc an toàn, tránh tình trạng bị kháng cự mãnh liệt như ở miền Nam. Tuy nhiên đàm phán bế tắc quanh vấn đề độc lập của Việt Nam. Phía ta không chấp nhận “tự trị” còn phía Pháp không chấp nhận “độc lập”.

Trong bối cảnh xảy ra vụ bắn nhau Pháp - Hoa, vào sáng ngày 6/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra công thức mới để phá vỡ thế bế tắc, đó là thay từ “độc lập” bằng từ “tự do” đi kèm với việc “Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do…”. Trong thời gian và tình thế rất khẩn trương, cuối cùng thì giữa hai bên đã thống nhất được những điều khoản quan trọng và đi đến ký kết. Vào lúc 16 giờ ngày 6/3/1946, tại ngôi nhà số 38 Lý Thái Tổ, đại diện của chính phủ ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh đã ký với chính phủ Pháp do Giăng Xanhtơni bản Hiệp định Sơ bộ dưới sự chứng kiến của nhiều quốc gia khác như Mĩ, Anh, Trung Hoa..

Việt Nam đã nhân nhượng về chính trị đối với quân đội Tưởng và tay sai như thế nào

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện nước Pháp ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 (Ảnh tư liệu)

Việt Nam đã nhân nhượng về chính trị đối với quân đội Tưởng và tay sai như thế nào

Hồ Chủ tịch và Jean Sainteny cùng các vị dự lễ ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 tại 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội. (Ảnh tư liệu)

Như vậy ở đây Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã nhân nhượng vào đúng thời điểm Pháp chịu sức ép từ quân Tưởng nổ súng. Đảng ta không thể nhân nhượng sớm hơn (khi Pháp còn chưa sứt đầu mẻ trán vì quân Tưởng), cũng không thể muộn hơn vì có nguy cơ lớn Pháp và Tưởng sau vụ “choảng nhau” sẽ bình tĩnh lại và cấu kết với nhau cùng chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - khi đó tình hình sẽ vô cùng khó khăn cho ta. Tất nhiên sự nhân nhượng ở đây là có nguyên tắc. Bản Hiệp định Sơ bộ về cơ bản là có lợi cho ta (tất nhiên nếu có lợi 100% cho ta thì sẽ không thể ký kết được một hiệp định nào với Pháp). Cụ thể, Hiệp định gồm 5 nội dung chính:

1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính của mình, nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp.

2. Chính phủ Pháp cam đoan sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.

3. Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa giải giáp quân Nhật. Số quân Pháp này sẽ phải rút hết trong thời hạn 5 năm, mỗi năm sẽ rút 1/5.

4. Hai bên sẽ đình chiến ngay để mở một cuộc đàm phán chính thức. Trong khi đàm phán, quân hai bên ở đâu vẫn cứ đóng ở đấy.

5. Cuộc đàm phán chính thức sẽ tiến hành tại Hà Nội, Sài Gòn hoặc Pari với nội dung quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài, quy chế của Đông Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của nước Pháp ở Việt Nam.

Như vậy với việc quyết đoán ký nhanh với Pháp Bản Hiệp định Sơ bộ thì ta đã nhanh chóng và không tốn sức lực gạt được 20 quân Tưởng ra khỏi miền Bắc (dù trên thực tế, lính Tưởng phải đến tháng 6/1946 mới rút hết về nước). Với việc ký kết này, ta đã biến điều khoản thay quân trong Hiệp định song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng thành thỏa thuận 3 bên.

Thực tế đã chứng minh việc ký kết Hiệp định Sơ bộ này là một thắng lợi lớn của Đảng ta và ngành ngoại giao Việt Nam. Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp nhưng là một sự kiện quốc tế vượt xa khuôn khổ quan hệ Việt - Pháp. Trong bối cảnh Việt Nam khi đó chưa được cường quốc nào công nhận, thì việc thương lượng với Pháp rồi ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, như Hồ Chủ tịch nhận định, đã “mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta, sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế”(5). Bản Hiệp định quan trọng này đã góp phần khẳng định sự tồn tại và vai trò của Chính phủ Hồ Chí Minh trong thực tế, mở ra những cơ hội, mở rộng khuôn khổ của những cuộc tiếp xúc Việt - Pháp: chuyến đi thăm nước Pháp của đoàn đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa đến Hội nghị trù bị Đà Lạt và lời mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm chính thức nước Pháp với vị thế “thượng khách” của Chính phủ Pháp. Qua những hoạt động này, mặt trận đấu tranh ngoại giao được mở rộng, dư luận Pháp hiểu biết hơn về tình hình Việt Nam và quan hệ Pháp - Việt, chúng ta cũng tranh thủ thêm được thời gian để chuẩn bị lực lượng, đối phó với những âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Sơ bộ của giới cầm quyền hiếu chiến Pháp.

Bài học rút ra từ Hiệp định này không chỉ là nhân nhượng có nguyên tắc mà còn là nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù (cụ thể là trong nội bộ thực dân Pháp, trong nội bộ quân Tưởng Giới Thạch, và giữa Pháp và Tưởng), cũng như nghệ thuật đón lõng và tận dụng đúng thời cơ. Việc chủ động ký Hiệp ước Sơ bộ đã tỏ rõ tầm nhìn, tư duy chiến lược sắc bén của Đảng ta về vận dụng điều kiện thực tiễn khách quan để chuyển hóa tình thế cách mạng. Trước mắt, với bản Hiệp định này, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chỗ bị gạt ra ngoài thỏa thuận Pháp - Hoa, trở thành một bên chủ thể quyết định đến việc thực hiện các điều khoản thay quân trong Hiệp ước Trùng Khánh, để kết thúc về mặt pháp lý vai trò của quân Tưởng tại Việt Nam, theo quy định của Hội nghị Pôtxđam. Đây là quyết định “nhất cử lưỡng tiện”, vừa tránh phải đối đầu với Pháp trong điều kiện bất lợi cả về thế và lực, vừa mượn tay Pháp đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi bờ cõi. Đó là đòn tiến công ngoại giao hết sức chủ động, sáng tạo, nhằm phân hóa kẻ thù, thúc đẩy chúng tự loại trừ lẫn nhau, tạo thuận lợi để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Nhân nhượng để cho 15.000 quân Pháp kéo ra miền Bắc là sự chia lửa với đồng bào miền Nam, tận dụng thời gian hòa hoãn để tập trung sức lực chuẩn bị thế trận cho cả nước bước vào kháng chiến với tinh thần: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào và ở đâu, mà hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta” (6). Tận dụng thời cơ đó, chúng ta đã có thời gian để xây dựng bộ máy chính quyền từ xã đến huyện, tỉnh trong toàn quốc, xây dựng nền kinh tế - tài chính độc lập, đặc biệt là việc xây dựng Quân đội quốc gia, nâng tổng quân số lên khoảng 80.000 người và gần 01 triệu du kích, tự vệ vào giữa năm 1946 để vững bước tiến vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược Pháp.

Như vậy, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn trên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để đổi lấy thời gian, biến thời gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp khi chúng không có lực lượng Đồng minh tại chỗ hỗ trợ. Đánh giá về sự kiện trên, đồng chí Lê Duẩn viết: “Tạm thời hòa hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lênin-nít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch về sự nhân nhượng có nguyên tắc” (6).

Hiện nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp trước sự vận động, biến đổi nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới, của các mối quan hệ quốc tế. Mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta là đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc - xây dựng đất nước phát triển bền vững, xây dựng thành công CNXH; độc lập, tự do của Tổ quốc, an ninh và phát triển là lợi ích tối cao của dân tộc. Để đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, cần nhận thức rằng, bối cảnh tình hình mới đang làm cho hình thức tập hợp lực lượng, diễn biến các mối quan hệ quốc tế, các phương thức hợp tác cũng đa dạng và phong phú hơn. Trước những biến động đó, một mặt, chúng ta phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - mục tiêu bất biến;mặt khác, cần ý thức đầy đủ mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh; nhân nhượng và đấu tranh trong hợp tác quốc tế. Trong một thế giới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn và hài hòa quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng và nước lớn, biết mình, biết người là điều kiện quan trọng để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc. Đó cũng chính là sự vận dụng sâu sắc bài học kinh nghiệm từ ký kết Hiệp định Sơ bộ của 75 năm về trước.

-------------------------

(1) V.I.Lênin Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 68-69

(2) Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - hành chính, H 2011, tr.82

(3), (4) Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng Toàn tập,Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, tr. 41-44

(5) Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 228

(6) Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, H. 1979, tr. 31

ThS. Nguyễn Thanh Xuân

Khoa Xây dựng Đảng

Cách mạng thánh Tám năm 1945 và cuộc đấu tranh chống quân Tưởng, tay sai (8/1945-8/1946)

Cách mạng nước ta đang ở thời kỳ cao trào thì chiến tranh thế giới thứ 2 bước sang giai đoạn kết thúc. Ngày 9/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Trong vòng một tuần lễ, quân đội Liên Xô đã tiêu diệt hoàn toàn 1 triệu quân Quan Đông thiện chiến của Nhật, giải phóng Đông Bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, buộc phát xít Nhật phải đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô đối với phát xít Nhật đã tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở Châu Á phát triển mạnh. Chính phủ Nhật đầu hàng, bọn chỉ huy và binh lính Nhật ở Đông Dương chia rẽ, mất tinh thần. Chính quyền bù nhìn từ Trung ương đến địa phương bị tê liệt, các đảng phái phản động và bọn Việt gian hốt hoảng. Từ giữa tháng 8/1945, quân đội Tưởng Giới Thạch và quân đội Anh gấp rút chuẩn bị kéo vào nước ta để tước khí giới quân Nhật theo quy định của Hội nghị đồng minh tại Potxđam (7/1945).

Tình thế cách mạng trực tiếp đã đến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm chắc thời cơ, kịp thời lãnh đạo toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Vĩnh Yên, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự tỉnh, các đoàn thể cứu quốc và quần chúng trong thị xã đã tham gia cuộc biểu tình liên huyện Kim Anh-Yên Lãng- thị xã Vĩnh Yên. Tháng 7/1945, các thanh niên cứu quốc thị xã đã phá cuộc mít tinh do bọn Đại Việt tổ chức ở rạp hát, biến cuộc mít tinh của chúng thành nơi tuyên truyền cách mạng, vạch mặt bọn Đại Việt hại dân, hại nước. Phong trào ở thị trấn Tam Đảo cũng diễn ra sôi nổi, hầu hết các gia đình đều được tuyên truyền và họ tự nguyện đứng trong hàng ngũ cứu quốc, bởi vậy việc tổ chức tiêu diệt đồn binh Nhật giải phóng trị trấn Tam Đảo gặp nhiều thuận lợi.

Trước ngày tấn công, ta đã có cơ sở vững chắc ở trong nhân dân, anh em binh lính người Việt ở đơn vị Bảo an đã được ta tuyên truyền giác ngộ, trong đó có cả cấp chỉ huy cũng theo Việt Minh. Những anh em tù hăng hái đều được huấn luyện quân sự bằng súng của anh em binh lính. Trong hàng ngũ địch, ta còn tranh thủ được sự đồng tình của một số tù binh người Pháp. Trong khi đó, quân giải phóng Phạm Hồng Thái trước đây là đội du kích đã bắt liên lạc chặt chẽ với Việt Minh ở thị trấn Tam Đảo theo dõi tình hình phong trào cách mạng và mọi diễn biến của đồn binh Nhật. Đơn vị do đồng chí Thạch Sơn chỉ huy, đồng chí Vũ Tuân làm chính trị viên. Đây là đơn vị đã lập được nhiều chiến công trong trận đánh Nhật ở khu nghỉ mát Tam Đảo (7/1945). Trước khí thế cách mạng đang dâng lên đã làm cho bọn giặc trong đồn nao núng. Nhận rõ thời cơ đó, đồng chí Trung Đình là người lãnh đạo trực tiếp đơn vị giải phóng Phạm Hồng Thái lúc đó, sau khi nhận được chủ trương của trên đã cùng đội trưởng Thạch Sơn đến đồn Nhật ở thị trấn để điều tra cụ thể tình hình và thống nhất phương án hạ đồn binh Nhật ở thị trấn Tam Đảo.

Trận đánh đã được chuẩn bị chu đáo từ trước, nhân dân thị trấn được thông báo đã bí mật chặt cây dựng chướng ngại vật từ km thứ 13 trở lên thị trấn, cắt đường dây điện thoại để chặn viện binh của Nhật. Nhưng bất ngờ, chiều ngày 15/7/1945 một tên lính Bảo an cơ sở của ta cho biết Nhật sẽ tước súng của Bảo an binh trước dự kiến trận đánh. Ngay lập tức, các đồng chí được phân công bám sát cơ sở đã hành động trước bọn Nhật. Một mặt, cho người về cấp báo đơn vị Thạch Sơn, một mặt tổ chức lực lượng chiến đấu gồm anh em Bảo an binh và anh em tù. Đêm 15 rạng sáng ngày 16/7, ta chủ động tiến công trước, tiếng súng vang dội của quân ta từ trên đỉnh núi đã thôi thúc chiến sỹ giải phóng quân Phạm Hồng Thái bất chấp trời mưa, đường trơn, dốc cùng phối hợp với anh em.

Trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra ác liệt. Đêm ngày 16, ta chuyển cách đánh, bộ đội đã lấy mìn đánh thẳng vào đồn Nhật làm hiệu lệnh cho quân ta ồ ạt xung phong. Tiếng mìn, tiếng lựu đạn ném qua các ô cửa sổ, tiếng súng và tiến hò reo của quân ta đã đè bẹp sự chống cự của quân Nhật. Đa số bọn Nhật bị tiêu diệt, còn lại một số ít tên chạy trốn.

Ngày 17 được nhân dân chỉ đường, ta quét sạch bọn giặc Nhật, chỉ có 2 tên chạy thoát (lúc ta đánh có 11 tên đóng ở đồn). Kết quả ta đã tiêu diệt được 9 tên, thu toàn bộ vũ khí, trong đó có 1 trung liên và 1 số trang bị khác như máy chữ, máy điện thoại, đã giải phóng được 100 tù nhân của ta và của Pháp, số tù nhân của Pháp được ta giúp đỡ chu đáo và đưa về chiến khu.

Sau trận đánh, ta vừa rút xong thì địch ở thị xã Vĩnh Yên kéo lên Tam Đảo. Đến nơi thấy cảnh đồn tan hoang, xác đồng bọn bị tiêu diệt, chúng đã tiến hành khủng bố một số bà con chưa kịp lánh nạn, sau đó chúng rút quân, thị trấn Tam Đảo được giải phóng. Trong phong trào cách mạng sôi sục tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, trận đánh ở Tam Đảo là một trận thắng lớn, có ý nghĩa nhiều mặt đối với việc thực hiện nghị quyết hội nghị quân sự Bắc Kỳ của Đảng ta.

Việc một đơn vị nhỏ quân giải phóng được sự ủng hộ và tham gia chiến đấu của các tầng lớp quần chúng, ngoan cường và mưu trí đánh tập kích tiêu diệt hoàn toàn một đội quân Nhật trong một thị trấn đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào vũ trang giết giặc cứu nước của nhân dân ta.

Được cách mạng giác ngộ lòng yêu nước, binh lính Việt Nam ở đồn Tam Đảo không chỉ tạo điều kiện cho anh em tù nhân tham gia cách mạng mà còn cùng nhau hợp thành một lực lượng không chịu để bọn Nhật tước vũ khí. Hơn nữa còn lấy súng đạn của địch theo quân giải phóng tiêu diệt địch. Việc này đã góp phần thức tỉnh những người đang còn cầm súng cho giặc lập công quay về với nhân dân.

Đối với người Pháp và đồng minh, trận Tam Đảo cho họ thấy rõ Việt Minh có lực lượng vũ trang và được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, quyết tâm đánh phát xít Nhật, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do cho đất nước. Sau trận Tam Đảo, báo Quân giải phóng số 1 do cơ quan của Việt Nam giải phóng quân xuất bản, tác giả Trí Dũng viết: “Tam Đảo! Hai chữ Tam Đảo sẽ lưu truyền đời đời trong lịch sử cách mạng giải phóng của ta”.

Được tin Nhật đầu hàng ngày 12/8/1945, Ủy ban kháng chiến khu giải phóng hạ lệnh cho quân giải phóng phối hợp với du kích và tự vệ khởi nghĩa ở các tỉnh trong khu. Đêm 13/8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.

Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào chủ trương lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Chủ trương khởi nghĩa của Đảng được Quốc dân Đại hội nhất trí tán thành. Quốc dân Đại hội đã cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và quy định quốc kỳ là nền đỏ sao vàng 5 cánh ở giữa, quốc ca là bài Tiến quân ca.

Sau hội nghị, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có lời kêu gọi đồng bào toàn quốc nổi dậy Tổng khởi nghĩa. Trong “Lời hiệu triệu của Đảng Cộng sản Đông Dương”, Trung ương kêu gọi các đảng viên toàn Đảng “Các đồng chí phải sáng suốt trong việc lãnh đạo và cương quyết hy sinh trong cuộc chiến đấu để giành quyền độc lập cho Tổ quốc, để xứng đáng là một đội quân tiên phong của dân tộc”.

Trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào toàn quốc, Người viết: “Hỡi đồng bào yêu quí!

Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vòng nửa tháng, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi. Những sự kiện đặc biệt quan trọng trên đây cùng với tin tức khởi nghĩa thắng lợi ở các tỉnh trong khu giải phóng, đã dồn dập dội về Vĩnh Yên, cổ vũ mạnh mẽ mọi tầng lớp nhân dân sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa. Thị xã Vĩnh Yên lúc này là tỉnh lỵ Vĩnh Yên; vì vậy, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã có vị trí là khởi nghĩa giành chính quyền cấp tỉnh.

Thực hiện lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, ngày 22/8/1945 Tỉnh ủy Vĩnh Yên họp thông qua kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh. Qua phân tích tình hình, hội nghị quyết định huy động lực lượng toàn tỉnh khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 25/8.

Ở thị xã Vĩnh Yên, Nhật đóng quân ở Đình Ấm. Bọn Quốc dân đảng đã tổ chức lực lượng bảo an ở Thổ Tang 40 tên được Nhật trang bị vũ khí nên cuộc khởi nghĩa ở thị xã gặp nhiều khó khăn. Từ ngày 17/8, cấp trên đã giao cho các tổ Việt Minh ở Tam Dương, Vĩnh Yên về thị xã chuẩn bị một số vũ khí để khởi nghĩa.

Trước tình hình khởi nghĩa nổ ra khắp mọi nơi, bọn Đại Việt do Đỗ Đình Đạo cầm đầu mặc dù được Nhật giúp đỡ nhưng vẫn hoang mang, dao động. Cùng lúc đó, Quốc dân đảng ở Hà Nội đã có âm mưu với quân Tưởng cử tên Đinh Viết Sinh (tức Lê Khang) là đặc phái viên của chúng cùng một số tên tay sai lên trấn an Đỗ Đình Đạo. Cuộc đấu tranh ở thị xã gặp nhiều khó khăn, phát xít Nhật đóng ở Bảo Sơn thường xuyên cung cấp vũ khí cho bọn phản động. Quốc dân đảng do Lê Khang cầm đầu cùng với bọn Đại Việt, Bảo an binh cấu kết với nhau tổ chức cướp chính quyền trước Việt Minh.

Ngày 19/8, chúng ép tỉnh trưởng bù nhìn Nguyễn Trọng Tấn phải trao chính quyền. Đồng thời, chúng ra sức xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang để chống lại cách mạng. Chúng lùng bắt cán bộ Việt Minh, bắt lính tống tiền và tăng quân ở Tam Lộng về. Cho đến trước khởi nghĩa, cán bộ, đảng viên và cơ sở Việt Minh phần lớn đều đã bị bắt hoặc rút khỏi thị xã, trong khi quần chúng không có người lãnh đạo, một bộ phận dân chủ đảng giao động đã lôi kéo một số quần chúng cách mạng chạy khỏi thị xã.

Ngày 22/8, Quốc dân đảng, Đại Việt tổ chức mít tinh ở dốc Láp tuyên bố chính quyền Vĩnh Yên đã thuộc về chúng. Cũng trong thời gian này, do vỡ đê gây ngập lụt, việc giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn nên dự kiến khởi nghĩa vào ngày 25/8 ở Vĩnh Yên phải hoãn lại.

Ngày 28/8/1945, Tỉnh ủy họp ở ấp Vân Hội (Tam Dương) quyết định huy động lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang của tỉnh biểu tình, khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 31/8/1945. Trước thời gian khởi nghĩa, số cơ sở còn lại của ta trong thị xã đã bắt liên lạc với bên ngoài và nhận lệnh khởi nghĩa. Do đó, việc chuẩn bị cho khởi nghĩa rất gấp rút như: Vận động quần chúng sắm sửa vũ khí, may cờ… tổ chức sẵn sàng lực lượng bên trong. Đúng ngày 31/8/1945, hàng vạn quần chúng trong đó có hàng nghìn tự vệ và du kích trong tỉnh giương cao cờ đỏ sao vàng từ nhiều hướng tiến về thị xã. Nhân dân trong thị xã đã cắm cờ vào các bè chuối thả xuống Đầm Vạc, mặt nước Đầm Vạc rực màu đỏ của cờ cách mạng. Do ngập lụt nên chỉ có một con đường độc đạo duy nhất vào thị xã ở phía dốc Láp men theo đường sắt.

Trước khi kéo vào thị xã, một phái đoàn Việt Minh gồm 5 người là: Lý Quảng Thịnh, Trần Minh Thưởng, Đặng Việt Thanh, Tô Tạc và đồng chí Kim Ngọc do Lý Quảng Thịnh làm trưởng đoàn được cử vào thị xã trước gặp bọn chỉ huy Quốc dân đảng yêu cầu chúng để đoàn biểu tình vào thị xã lập chính quyền cách mạng. Bọn phản động với âm mưu quyết chiếm giữ bằng được thị xã để chờ quân Tưởng vào, nên chúng đã bố trí mai phục chĩa súng vào hướng quần chúng tập trung. Mặt khác, chúng cầu cứu quân Nhật đóng ở Bảo Sơn, không cho quần chúng biểu tình vào thị xã với lý do chính quyền Vĩnh Yên đã thuộc về tay chúng và bắt giam phái đoàn Việt Minh. Thấy bọn Quốc dân đảng trở mặt, Lý Quang Thịnh và Trần Minh Thưởng tìm cách trốn thoát, 3 đồng chí còn lại bị chúng bắt giam. Hành động của bọn Quốc dân đảng làm cho quần chúng biểu tình vô cùng căm phẫn, anh em tự vệ cùng đoàn biểu tình tiến vào thị xã. Lập tức, bọn phản động nổ súng vào đoàn biểu tình làm hàng trăm người chết và bị thương. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã không thành công.

Tuy thị xã bị bọn phản động chiếm đóng, nhưng các huyện trong tỉnh đã khởi nghĩa thành công. Đầu tháng 9/1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập do đồng chí Đặng Việt Châu làm Chủ tịch. Ở thị xã, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời một số xã cũng lần lượt được thành lập như ở thị trấn Tam Đảo, Định Trung, Khai Quang…

Trong thời gian này, bộ đội giải phóng quân phối hợp với lực lượng vũ trang của tỉnh tiêu diệt bọn phản động ở Tam Lộng và bao vây chúng ở thị xã. Cuộc đấu tranh đang diễn ra thì quân Tưởng kéo đến, quần chúng nhân dân đã tạm dừng cuộc tấn công bọn phản động để thực hiện sách lược hòa hoãn với Tưởng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến tháng 8/1946 khi quân Tưởng rút, bọn Quốc dân đảng ở thành phố hoang mang, dao động ta mới có điều kiện giải phóng thị xã.

Cuộc biểu tình khởi nghĩa giành chính quyền ở Vĩnh Yên mặc dù có quyết tâm rất cao nhưng không thành công. Điều này chứng tỏ tính chất gay go của cuộc khởi nghĩa mà trước đó Đảng ta đã dự kiến: Không phải Nhật bại mà nước ta tự nhiên độc lập. Nhiều sự gay go trở ngại sẽ xảy ra. Cuộc khởi nghĩa đã để lại cho Đảng bộ bài học về chọn thời cơ. Đến ngày 31/8, khi quân Tưởng kéo vào các tỉnh biên giới phía Bắc, khi bọn phản động do tên Đỗ Đình Đạo cầm đầu từ chỗ hoang mang khi Nhật đầu hàng đã củng cố được lực lượng, cướp chính quyền trước ta.

Sự kiện ngày 31/8 cũng cho thấy ta còn chủ quan, chưa đánh giá đúng bản chất phản động của kẻ thù. Đến ngày khởi nghĩa mới cử đoàn đại biểu Việt Minh vào thuyết phục là quá muộn. Hơn nữa, khởi nghĩa không chỉ dựa vào lực lượng bên ngoài mà còn phải dựa vào lực lượng tự nổi dậy rất quan trọng ở bên trong mới giành được thắng lợi.

Cách mạng tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vừa ra đời đã đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Nạn đói chưa chấm dứt, nạn lụt chưa được khắc phục, các ngành sản xuất đình trệ, tài chính trống rỗng, hơn 90% nhân dân mù chữ do chính sách ngu dân của thực dân Pháp để lại, nhiều tập tục hủ bại, mê tín dị đoan tồn tại khá nhiều trong tỉnh.

Giữa lúc đó được quân Anh giúp sức, quân đội viễn chinh Pháp đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ. Đầu tháng 9/1945, 20 vạn quân Tưởng vào miền Bắc với danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp vũ khí Nhật bại trận, nhưng thực tế là thực hiện âm mưu thâm độc của Mỹ là tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh và lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ bù nhìn làm tay sai cho chúng.

Bám theo quân Tưởng là cả một lũ đảng phái phản động Việt Nam quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách). Đám tay sai này ra sức khiêu khích, chia rẽ lực lượng cách mạng và xúi giục tổ chức những cuộc bạo loạn. Trước tình hình đó, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách, sau này Người khái quát thành 3 nhiệm vụ lớn: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”.

Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”. Chỉ thị vạch rõ: “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng, nhiệm vụ cần kíp của toàn Đảng, toàn dân ta lúc này là: Củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân” ([1]).

Ở Vĩnh Yên, quân Tưởng kéo vào thị xã với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ của ta. Do đó khi vào thị xã bọn Tưởng đã cử tên Lê Khang là tên việt gian Quốc dân đảng ở Trung Quốc theo chân Tưởng về bắt liên lạc trước với bọn Quốc dân đảng Đại Việt ở trong thị xã chuẩn bị đón quân Tưởng vào để cùng nhau chống phá cách mạng. Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, tỉnh Vĩnh Yên cũng đứng trước những khó khăn hết sức trầm trọng về kinh tế-xã hội: Nạn đói là hiểm họa trực tiếp đe dọa nhân dân thành phố, quân Tưởng và tay sai ra sức cướp bóc, vơ vét làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải gia tăng sản xuất “Không bỏ đất hoang”, “Nhường cơm sẻ áo”, nhân dân trong toàn tỉnh đã hăng hái hưởng ứng phong trào tăng gia sản xuất. Đất hoang, ruộng lầy được nhân dân phục hồi trồng ngô, khoai, sắn và lương thực ngắn ngày để kịp thời giải quyết nạn đói. Trong các gia đình đều có “Hũ gạo cứu đói”, thực hiện tiết kiệm, không nấu rượu và tổ chức cứu giúp những người đói hơn mình. Ruộng công điền, công thổ, đình chùa được chia cho những người nghèo đói để sản xuất. Nhờ những biện pháp tích cực đó nên nạn đói từng bước được đẩy lùi, đời sống nhân dân được ổn định. Cùng với phong trào chống đói, phong trào chống nạn mù chữ cũng được phát động trong nhân dân. Chính quyền các xã và thị trấn tổ chức các lớp học chung ở xã. Ở các xóm cũng tổ chức lớp học. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Hồ Chủ Tịch, thị xã đã vận động nhân dân đẩy mạng phong trào “Qũy độc lập”, “Qũy Nam Bộ kháng chiến”, “Tuần lễ vàng”. Nhân dân thành phố đã ủng hộ Chính phủ 130 chỉ vàng, 3.420 kg gạo, 220 bộ quần áo… Nhân dân những vùng chưa được giải phóng trong thị xã cũng tích cực tham gia góp tiền của, tập trung lại gửi ra vùng giải phóng ở huyện Tam Dương.

Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động và củng cố chính quyền Trung ương. Nhân dân thị xã Vĩnh Yên (trừ khu vực nội thị) còn ở phường Khai Quang và xã Định Trung, thị trấn Tam Đảo đã tiến hành bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên giành thắng lợi vào ngày 23/12/1945.

Sau cuộc tổng tuyển cử Quốc hội, nhân dân đã tiến hành bầu cử HĐND và Ủy ban hành chính từ cấp tỉnh đến cấp xã. Ở thành phố, các đơn vị Định Trung, Khai Quang và thị trấn Tam Đảo đã bầu cử HĐND và Ủy ban hành chính vào tháng 4/1946.

Cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền, thị xã đã củng cố và phát triển lực lượng vũ trang một cách nhanh chóng. Thành đội tự vệ có 1 tiểu đoàn gồm du kích các xã và 1 trung đội tự vệ thoát ly. Ở các xã, thị trấn đều có 1 tiểu đoàn hoặc trung đội tự vệ. Đặc biệt ở xã Định Trung có 1 trung đội du kích tập trung bán chuyên gồm 30 người vừa làm nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và nhân dân, vừa tự túc tham gia sản xuất, đồng thời phối hợp chặt chẽ với bộ đội bao vây và trừng trị bọn phản động lấn chiếm, bảo vệ nhân dân góp phần giải phóng thành phố.

Ở thị trấn Tam Đảo, du kích làm nhiệm vụ vừa bảo vệ chính quyền và nhân dân, vừa bảo vệ con đường giao thông quan trọng của ta từ Vĩnh Yên sang Thái Nguyên. Trong phong trào hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, dưới sự lãnh đạo của chính quyền các cấp, trong phong trào ủng hộ “Nam Bộ kháng chiến” diễn ra sôi nổi ở thị xã. Thanh niên hăng hái ghi tên tình nguyện tòng quân như xã Định Trung có 3 thanh niên, nội thành có 2 thanh niên tình nguyện nhập ngũ. Các đoàn thể đều lập “Qũy Nam Bộ” tại xã.

Tuy nhiên, ở nội thành Vĩnh Yên lúc này bọn Đại Việt quốc dân đảng nổi dậy lập chính quyền phản động. Do đó, thị xã Vĩnh Yên chưa có chính quyền cách mạng. Bọn Đại Việt quốc dân đảng tiến hành liên tiếp các cuộc lùng bắt và giam cầm những người theo Việt Minh. Tăng cường bắt lính, tuyên truyền xuyên tạc cách mạng; dung túng bọn phản động, bọn tư sản, địa chủ, việt gian chỉ điểm nổi dậy chống phá cách mạng làm cho tình hình thị xã sau khởi nghĩa rất nghiêm trọng. Trong khi đó, nhân dân thị xã ảnh hưởng của nạn đói, ngập lụt, kinh tế đình đốn, tệ nạn xã hội tăng nhanh. Đây cũng chính là thời kỳ khó khăn nhất của nhân dân Vĩnh Yên. Quân Tưởng đóng ở thị xã sách nhiễu đủ điều, tiếp tay cho bọn phản động quyết liệt chống phá cách mạng. Bộ phận dân chủ Đảng lúc này bộc lộ rõ tính chất 2 mặt. Họ ra sức tổ chức củng cố đảng, lôi kéo quần chúng mưu tính thành lập chính phủ riêng. Trong lúc này, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Như vậy, chúng ta đứng trước tình thế: Nạn đói, thù trong giặc ngoài. Trong khi đó, chính quyền lại chưa được thành lập. Đó chính là hoàn cảnh đặc biệt của Vĩnh Yên so với các huyện khác trong tỉnh sau khởi nghĩa.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, ta đã cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng và bố trí nơi đóng quân cho chúng để không mắc mưu địch. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Yên đã tiến hành giáo dục đảng viên và nhân dân giữ nghiêm kỷ luật, bình tĩnh, tỉnh táo tránh xung đột không cần thiết. Công việc giao thiệp giữa ta và quân Tưởng hàng ngày được thông qua 1 ban liên kiểm (gồm đại diện của ta, quân Tưởng và Quốc dân đảng).

Những việc làm trên đã thể hiện rõ thiện trí của ta nhưng quân Tưởng vẫn luôn kiếm cớ để gây hấn. Chúng ra sức giúp bọn tay sai xây dựng chính quyền phản động và lực lượng Quốc dân đảng. Ở những nơi chúng chiếm đóng, chúng tạo điều kiện cho bọn phản động tấn công lực lượng cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Vĩnh Yên, Đảng bộ và nhân dân thị xã đã kiên trì chống lại chúng bằng nhiều hình thức thích hợp. Trên mặt trận ngoại giao, ta kiên trì và khôn khéo đấu tranh tố cáo sự cấu kết giữa quân Tưởng và bọn tay sai, vạch rõ những hoạt động phá hoại của chúng. Đòi chúng phải tôn trọng chủ quyền, trật tự an ninh của ta và tìm cách thoái thác những đòi hỏi vô lý của chúng. Để làm áp lực cho cuộc đấu tranh chính trị, ta đã tổ chức bao vây chúng về mọi mặt như: Cắt điện thoại, thực hiện vườn không nhà trống…

Đầu năm 1946, theo hiệp ước “Hoa-Pháp”, quân Tưởng đã thỏa thuận cho Pháp vào thay quân Tưởng ở miền Bắc. Trước âm mưu của bọn đế quốc, ta đã tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng về nước, tạo thời gian để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thực hiện chủ trương trên, ngày 6/3/1946 Chính phủ ta ký với Pháp Hiệp định sơ bộ. Theo hiệp định, quân Tưởng phải rút về nước. Nhưng quân Tưởng đã cố tình trì hoãn thời gian rút quân, nhằm gây thêm khó khăn cho ta, nên đến tháng 6/1946 chúng mới rút khỏi thị xã Vĩnh Yên.

Sau khi quân Tưởng rút khỏi thị xã, ta bắt tay ngay vào việc quét sạch những lực lượng phản động do chúng nuôi dưỡng như bọn Quốc dân đảng phản động. Đối với lực lượng này, trong thời gian có quân Tưởng, chủ trương của ta là đấu tranh kiên quyết nhưng phải hết sức linh hoạt, khôn khéo. Tuy vậy, ta vẫn chủ động và kiên quyết đấu tranh chống lại chúng bằng nhiều biện pháp tích cực; kiểm soát chặt chẽ các đường giao thông, bắt những tên lợi dụng danh nghĩa quân Tưởng đi cướp chợ, cướp tàu. Riêng ở thành phố bắt được 41 tên và cho lực lượng vũ trang chặn đánh các cuộc hành quân càn quét của chúng. Hoảng sợ trước những đòn tấn công của ta, bọn phản động ở ấp Tam Lộng vội vã rút quân về thành phố. Đến cuối tháng 6 khi quân Tưởng rút khỏi Vĩnh Yên, bộ đội vệ quốc đoàn xiết chặt vòng vây bọn phản động trong thị xã, rồi dùng áp lực buộc chúng phải thống nhất hành chính, thống nhất quân đội, thực chất là buộc chúng phải đầu hàng.

Khi thực dân Pháp gây hấn ở Hà Nội, bọn đầu sỏ Quốc dân đảng ở Vĩnh Yên họp kín, bàn mưu tính kế theo Pháp chống lại cuộc kháng chiến của ta. Đến tháng 8/1946, quân Tưởng và bọn phản động tay sai đã bị quét sạch khỏi thị xã.

Sau ngày giải phóng, theo chủ trương của Tỉnh ủy, thị xã thành lập Thị ủy (BCH gồm 5 đồng chí) do đồng chí Nguyễn Kim Bảng làm Bí thư. Năm 1946, Thị ủy gồm 3 chi bộ Đảng: Phường Đồng Tâm, Hợp Thịnh 1 chi bộ; xã Định Trung, phường Khai Quang 1 chi bộ; nội thành có 1 chi bộ gồm 15 đồng chí. Để đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, các chi bộ Đảng dưới sự lãnh đạo của Thị ủy đã cử nhiều đảng viên đi học tập ở các lớp bồi dưỡng về Đảng, chính quyền, quân sự do tỉnh mở. Công tác tuyên truyền phát triển Đảng được chú trọng với các thành phần công nhân, dân nghèo, nông dân đã trải qua rèn luyện đấu tranh cách mạng. Do đó, số lượng đảng viên của Thị ủy được tăng lên.

Như vậy, công tác Đảng từ năm 1945-1946 đã xây dựng được một hệ thống tổ chức Đảng từ thành phố đến cơ sở với số lượng đông đảo, chất lượng đảm bảo cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng của thành phố trước yêu cầu nhiệm vụ mới.

Sau 1 năm, từ tháng 8/1945 nhân dân thị xã Vĩnh Yên đã tiến hành cuộc đấu tranh gian khổ, khó khăn, nhưng được sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Hồ Chủ Tịch và được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, UBHC tỉnh, được sự giúp đỡ của nhân dân các huyện xung quanh và với ý chí quyết tâm cao, với niềm tin vững chắc vào Đảng, Hồ Chủ Tịch, nhân dân thị xã đã đoàn kết chặt chẽ, thống nhất hành động vững bước vượt qua thử thách giành thắng lợi vẻ vang. Chẳng những ta đã chiến thắng được giặc đói, giặc dốt mà còn đuổi được giặc Tưởng, quét sạch bọn tay sai phản động, đập tan âm mưu của kẻ thù, thành lập chính quyền nhân dân đầu tiên của thị xã. Đó chính là điều kiện cơ bản giúp cho chính quyền cách mạng và nhân dân thị xã chuẩn bị bước vào thời kỳ mới, thời kỳ củng cố và xây dựng lực lượng vững mạnh về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.

Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố


([1]) Văn kiện Đảng 1945-1954, tập I, tr 27-28.