Ví dụ về quản lý nhà nước về xã hội

Theo một số từ điển, quản được hiểu ... tổ chức, điều khiển của một đơn vị, một quan..., “.. làm cho hoạt động duy của từng người riêng lẻ, hoạt động của các tổ chức với những chế khoa học, tiến hành phù hợp với mục đích, lợi ích chung nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất, nhiều nhất, ít chi phí nhất trong thời gian nhanh nhất, sự tác động ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình hội hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục đích, đúng ý chí phù hợp với quy luật khách quan

Như vậy, mặc ít nhiều khác nhau, khái niệm quản điểm chung đó sự tác động kế hoạch, có tổ chức của chủ thể quản để điều khiển đối tượng quản nhằm đạt được những mục đích đã đề ra

Quản nhà nước về hội cũng một dạng quản đó quản về hội. những điểm khác với một số dạng quản về kỹ thuật, hay về thiên nhiên, môi trường... xét về chủ thể, đặc biệt đối tượng quản . Trong quản nhà nước về hội thì đối tượng quản chính các tổ chức hội, còn chủ thể quản chủ yếu bộ máy nhà nước

Từ những phân tích trên, trong phạm vi luận văn này, tác giả xác định khái niệm quản nhà nước về hội tổ chức phi chính phủ... các phương thức Nhà nước tác động vào hội và tổ chức phi chính phủ để định hướng tổ chức, hoạt động của hội tổ chức phi chính phủ theo mục đích nhà nước đặt ra

2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về hội:

Quản nhà nước về hội cũng những đặc điểm giống như quản nhà nước nói chung, đó tính quyền lực phục tùng, tính tổ chức điều hành, tính khoa học, tính kế hoạch, tính chủ động sáng tạo..., song những đặc điểm riêng, xuất phát từ đặc trưng của đối tượng quản các tổ chức hội, cụ thể như sau

Thứ nhất, do đối tượng quản không phải một quan nhà nước, nên quản lý nhà nước về hội cần phải đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đối tượng quản trong tổ chức hoạt động. Nhà nước không nên can thiệp sâu vào công việc nội bộ của các hội, chỉ tạo điều kiện mọi mặt cho các hội hoạt động. Nếu Nhà nước can thiệp sâu vào tổ chức hoạt động của các hội thì hình chung đã làm mất đi tính chất tự nguyện, tự quản cùng tác dụng sự thu hút của hội đối với quần chúng

Thứ hai, do đối tượng quản những pháp nhân hình thành từ sự tự nguyện của những nhóm công dân cùng chung mục đích, ý nguyện nên quản nhà nước về hội phải dựa trên sở tôn trọng bảo đảm lợi ích chính đáng của đối tượng quản . Hội đều cách một tổ chức của công dân, hoạt động hợp pháp, lợi ích tập thể, lợi ích của cộng đồng của hội nên cần được Nhà nước tôn trọng, tạo điều kiện thực hiện hoạt động của mình. Sự tôn trọng của Nhà nước về hội còn xuất phát từ nguồn gốc, bản chất của nhà nước thiết chế quyền lực công do người dân lập ra, nên phải tôn trọng các thiết chế khác cũng do nhân dân lập ra đó hội

Thứ ba, nội dung quản nhà nước về hội rất đa dạng. Điều này xuất phát từ tính chất rộng lớn, phong phú trong tổ chức hoạt động của hội. Xét tổng quát, những nội dung chính của quản nhà nước về hội Việt Nam bao trùm các vấn đề như

(i) Quy định về quyền lập hội của công dân

(ii) Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, hoạt động, quyền nghĩa vụ của hội

Xem thêm: Phân tích 3 tình huống để làm rõ tác động của quy luật giá trị

(iii) Quy định về xử các vi phạm pháp luật về quản nhà nước về hội

(iv) Quy định về các quan trách nhiệm quản nhà nước về hội

3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về hội:

Như đã đề cập trên, quản nhà nước về hội một hoạt động chủ đích mang tính quyền lực của quan nhà nước. vậy, cũng như bất kỳ hoạt động nào của nhà nước, quản nhà nước về hội chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Việt Nam, những yếu tố bản tác động đến cách thức hiệu quả quản nhà nước về hội bao gồm

Thứ nhất, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản 

Đặc thù chính trị hội Việt nam một đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo toàn diện nhà nước và hội. vậy, mọi đường lối, chính sách của Đảng đều trở thành nguồn cho hệ thống pháp luật quản nhà nước, trong đó quản nhà nước về hội

Từ ngày thành lập (1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ trương dân chủ hóa hội, qua đó tạo lập sự đoàn kết phát huy mọi nguồn lực hội để xây dựng phát triển đất nước theo phương châm cách mạng sự nghiệp của quần chúng. Đặc biệt từ sau khi khi đổi mới hội nhập, nhận thức của Đảng về tính chất, đặc điểm, vai trò của các hội càng được củng cố, phù hợp hơn với xu thế chung của thời đại

Ngày 28/5/2013, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã ban hành Kết luận số 64KL/TW một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến sở, trong đó nhấn mạnh: ...Quy định chặt chẽ về tổ chức hoạt động của các hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự đảm bảo kinh phí hoạt động tuân thủ pháp luật. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước về quản tổ chức hoạt động hội phù hợp với tình hình mới.... Quy định này đã làm quan điểm chỉ đạo về tính chất, tổ chức hoạt động cũng như sự lãnh đạo của Đảng, quản của Nhà nước đối với các hội Việt Nam trong thời kỳ hiện nay

Bên cạnh đó, nhận thức vai trò, tầm quan trọng của các hội trong điều kiện mới của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều đường lối, chủ trương chỉ đạo đổi mới tổ chức hoạt động của các hội, nhất đối với các hội tính chất chính trị hội chính trị hội nghề nghiệp, hội đảng đoàn hội tính chất đặc thù khác

Xem thêm: Thất nghiệp là gì? Phân loại và tác động của thất nghiệp đến kinh tế?

Nhưng mặt khác cũng thể thấy rằng, nhận thức chính trị của Đảng vẫn còn e cảnh giác với quyền tự do hiệp hội, xuất phát từ duy bao cấp về tưởng, duy nhà nước hóatrong hoạt động của hội. Điều đó thể hiện chỗ trong những năm gần đây, vấn đề hội dân sựkhông được khuyến khích thảo luận, trao đổi, cho thấy tinh thần quá cảnh giác với âm mưu lợi dụng hội dân sự để thực hiện diễn biến hòa bình, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong khi đó, theo quan điểm của Mác Ăng ghen, cũng như theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, hội dân sự một xu thế phát triển tất yếu, tạo ra vốn hội để nhân dân mưu cầu hạnh phúc và phát triển thịnh vượng. Đặc biệt, trong thể chế kinh tế thị trường Việt Nam đang nỗ lực xây dựng, hội dân sự chính một bộ phận cấu thành của thể chế đó, vậy nếu chúng ta quá cảnh giác đến mức cấm đoán sự phát triển của hội dân sự thì cũng đồng nghĩa với sự bỏ lỡ một hội phát triển của đất nước

Khi nói tới hội quyền tự do hiệp hội, không thể không bàn đến hội dân sự, bởi lẽ hạt nhân của hội dân sự chính các hội, ngược lại, hội dân sự là không gian môi trường cho hội phát triển lành mạnh

Việc những thế lực lợi dụng diễn đàn hội dân sự quyền tự do lập hội để chống phá Đảng Nhà nước trên thực tế vẫn diễn ra, nhưng đó những hành vi vi phạm pháp luật, không nên vì những vi phạm đó để cấm đoán hội dân sự. Việc thừa nhận hội dân sự xử những vi phạm lợi dụng hội dân sự chính biện pháp thúc đẩy hội dân sự phát triển lành mạnh

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương tôn trọng các hội quyền tự do hiệp hội đó yếu tố quyết định mang tính xuất phát điểm cho quản nhà nước về hội. Tuy nhiên, những ghi nhận đó cần thiết nhưng chưa đủ để thành quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Quan điểm về hội tự do hiệp hội của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện vẫn còn e dè, thế khi thể chế hoá vào pháp luật, việc quản nhà nước về hội hiện mới được tiếp cận dưới góc độ quản “cai trị, quản hơn thúc đẩy, hợp tác.Cách tiếp cận này chưa đáp ứng được với đòi hỏi của cuộc sống hiện nay gây trở ngại với việc phát huy vốn hộinước ta

Thứ hai, pháp luật của Nhà nước 

Nhà nước hội hai chủ thể khác nhau nhưng xét tổng quát lại cùng một mục đích phát triển hội, mục tiêu phát triển toàn diện con người. Với tư cách chủ thể của quyền lực công, Nhà nước nghĩa vụ đảm bảo quyền tự do hiệp hội của công dân thực hiện việc quản lý các hội bằng pháp luật. Với ý nghĩa đó, pháp luật vai trò đặc biệt quan trọng với sự phát triển của các hội mỗi quốc gia

Trong thực tế , pháp luật phương tiện để Nhà nước quản hội, ngăn ngừa xử các vi phạm pháp luật của tất các các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện các hoạt động hội. Mặt khác, pháp luật công cụ đảm bảo quyền tự do bình đẳng của mọi tổ chức, nhân tham gia vào các hoạt động đó. Đối với quản nhà nước về hội Việt Nam, pháp luật cần phải đáp ứng các yêu cầu bản sau

Pháp luật về hội phải bảo đảm sự thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng với sự quản của Nhà nước

Xem thêm: Hội đồng kỷ luật công chức là gì? Quy định về Hội đồng kỷ luật công chức?

Pháp luật về hội phải phản ánh một cách khách quan những yêu cầu sự phát triển của đời sống hội nói chung, của các hội nói riêng. Những quy phạm pháp luật quy định về hội phải mang tính khách quan

Pháp luật về hội phải đảm bảo tính hệ thống đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật quốc gia

Pháp luật về hội phải bảo đảm quyền tự do hiệp hội của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, bảo đảm mọi hoạt động của hội trong khuôn khổ pháp luật, qua đó góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ hóa hội

Pháp luật về hội phải phù hợp với các tiêu chuẩn về tự do hiệp hội trong pháp luật quốc tế

Với cách chủ thể quản , để quản hội, Nhà nước phải thực hiện hàng loạt nhiệm vụ: từ việc xây dựng, ban hành pháp luật đến việc tổ chức thực hiện pháp luật, đồng thời còn phải thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát tiến hành xử những vi phạm pháp luật về hội. Với vai trò đó, nhiệm vụ của Nhà nước định hướng cho các tổ chức hội hình thành, vận động phát triển theo một trật tự nhất định

Với cách đối tượng quản , các hội được định hướng hoạt động trên sở các quy định của pháp luật và điều lệ hội chịu sự kiểm tra, giám sát của các quan nhà nước thẩm quyền

Với cách công cụ để Nhà nước thực hiện sự quản về hội, pháp luật về hội phải được xây dựng trên sở đảm bảo sự chính xác, đầy đủ, thống nhất, những chuẩn mực để đối tượng quản dựa vào đó vận động, phát triển để chủ thể quản thực hiện sự kiểm tra, giám sát đối tượng quản

Pháp luật không chỉ công cụ quản lý nhà nước về hội, còn phương tiện hữu hiệu công bằng bảo vệ quyền tự do hiệp hội của công dân. Nếu yếu tố pháp luật không được đề cao sẽ lúng túng trong quản nhà nước, quyền tự do hiệp hội của công dân dễ bị xâm phạm. Pháp luật về hội cần phải tôn trọng tính chất đặc điểm dân sự của hiệp hội, không thể can thiệp quá sâu vào tổ chức hoạt động của hội, hội theo mẫu hình của quan nhà nước, nếu làm như thế, pháp luật về hội sẽ trở thành pháp luật hạn chế quyền tự do hiệp hội

Xem thêm: Các yếu tố xã hội tác động đến việc thực hiện pháp luật

Thứ ba, bối cảnh chính trị, kinh tế, hội, văn hoá của quốc gia 

Quản nhà nước về hội phải phù hợp với đặc thù chính trị, đặc điểm, điều kiện kinh tế, hội, văn hoá của quốc gia. mỗi quốc gia những đặc thù chính trị, hội, văn hoá điều kiện kinh tế khác nhau, thế cách thức quản nhà nước về hội thể ít nhiều khác nhau, mặc vẫn phải dựa trên những nguyên tắc chung về bảo đảm tự do hiệp hội

Về mặt chính trị, Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, Đảng Cộng sản Nhà nước cũng đã xác định việc quản nhà nước về hội cần được xây dựng hoàn thiện phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế hội đặc thù chính trị của đất nước, đó một chế độ hội chủ nghĩa dựa trên sự lãnh đạo tập trung duy nhất của Đảng Cộng sản, đang trong tiến trình hội nhập quốc tế xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, tuân thủ các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa.

Như vậy, việc mở rộng phát triển khu vực hội dân sự nói chung các tổ chức hội nói riêng đến mức độ nào, trong thời điểm nào sẽ cần được xem xét trong tổng thể mối quan hệ với các yếu tố đặc thù đã nêu. Về nguyên tắc, quản nhà nước về hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh việc tạo môi trường cho sự phát triển của hội, định hướng cho hội hoạt động đúng mục đích, hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi của hội của hội viên, góp phần phát triển kinh tế hội của đất nước, thì cần phải tính đến các yêu cầu về giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn hội, tránh việc lợi dụng quyền tự do lập hội để gây mất ổn định hội

Để đáp ứng được một cách hài hoà các yếu tố nêu trên đang một thách thức lớn với việc hoàn thiện pháp luật quản nhà nước về hội Việt Nam. Điều đó thể hiện qua những khó khăn của việc soạn thảo Luật về Hội. Sau hơn ba thập kỷ (từ giữa thập kỷ 1990) biên soạn nhưng cho đến nay dự thảo luật về hội vẫn chưa nhận được sự thống nhất ý kiến, vậy vẫn chưa được đưa ra Quốc Hội xem xét thông qua

Đi sâu hơn về mặt kinh tế, văn hoá, hội, quản nhà nước về hội Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi nhiều đặc thù truyền thống, tiêu biểu như

Về kinh tế: Kinh tế hội Việt Nam truyền thống một nền kinh tế tiểu nông khép kín, tự cung tự cấp, thương mại công nghiệp kém phát triển. Các tổ chức phường, hội, nghề nghiệp, thế mang tính nhỏ lẻ, ít tác động đến đời sống chính trị Nhà nước, thiếu sự liên kết. Sau cách mạng tháng 8, chúng ta trải qua một thời gian dài trong nền kinh tế tập trung bao cấp. đó, Nhà nước nắm quyền quản đến từng nhân, cả dân tộc tập trung vào việc giải phóng đất nước khỏi giặc ngoại xâm; thời này hiệp hội không những không phát triển còn mất đi nhiều thiết chế hội truyền thống. Chính vậy, sự phát triển của các hội Việt Nam chậm hơn cấu tổ chức, cách thức hoạt động của các hội không hoàn toàn giống như các nước khác trên thế giới. Điều này khiến cho quản nhà nước về hội gặp những khó khăn nhất định, đặc biệt trong việc xây dựng, phát triển, tạo lập sự liên kết trong tổ chức hoạt động của các hội

Vvăn hoá: Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc chế độ quân chủ phong kiến bản địa. hội kiểu thần dân đối lập với hội công dân dân sự đã ngự trị suốt chiều dài lịch sử. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chúng ta lại trải qua chiến tranh ác liệt, đường lối chiến tranh nhân dân đã huy động cả dân tộc vào duy quân sự (đối lập với dân sự).

Xem thêm: Thuế quan là gì? Vai trò, mục đích và tác động của thuế quan đến đất nước?

Truyền thống coi trọng bậc quân vương như cha mẹ, sau này sùng bái kính yêu các vị lãnh tụ trong bối cảnh một đảng cầm quyền đã tạo ra tính thụ động, lại vào Nhà nước của đại đa số người dân, họ quen với việc người nghĩ thay làm thay, tổ chức thay và nuôi sống mình. Trong bối cảnh như vậy, các đoàn thể hội, các tổ chức nghiệp đoàn phục vụNhà nước nhiều hơn phục vụ hội trở thành những thiết chế lưỡng tính, tính dân sự không được thể hiện ràng. Điều này cũng tạo ra những trở ngại cho quản nhà nước về hội, đặc biệt trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của các hội

Về hội: Xã hội Việt Nam truyền thống chủ yếu diễn ra trong các làng quê công nông thôn. Trong môi trường như vậy, ý thức cộng đồng nổi trội hơn ý thức nhân, con người nhân không hội được tự do thể hiện. Điều này trái ngược với các hội đô thị, nơi tập hợp của những nhân tự do, tự nguyện khẳng định cái tôi nhân trước các vấn đề hội. Một bộ phận ít dân sống trong đô thị ở Việt Nam về bản vẫn sản xuất nhỏ lẻ, chưa hoàn toàn thoát khỏi văn hóa làng , tầng lớp trí thức chưa đủ mạnh để thể dẫn dắt ảnh hưởng tưởng vào hội.

Thời sau cách mạng, nông dân sống làm ăn tập thể trong các hợp tác , các bộ làm việc trong các cơ quan Nhà nước chỉ định về tiêu chuẩn hưởng thụ lương bổng thu nhập, con người nhân càng mất vị thế. Các tổ chức hội do Nhà nước lập ra hoạt động theo sự điều hành cánh tay nối dài của Nhà nước, các tổ chức hội mang tính dân sự bị mai một. Không gian môi trường hội như vậy gây khó khăn cho việc quản nhà nước về hội, đặc biệt trong việc bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các hội

Từ những phân tích trên, thể kết luận rằng, với những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, hội như trên, hội Việt Nam thiếu một không gian cần và đủ cho sự phát triển mạnh mẽ lành mạnh của hội dân sự. Mặc nhiều yếu tố nêu trên đã được cải thiện trong những năm gần đây, song vẫn còn tác động lâu dài đến sự phát triển của hội quản nhà nước về hội Việt Nam trong những năm tới.