30 49 KB 15 464 Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên 2. Giao tiếp sư phạm
Khái niệm
- Theo nghĩa rộng:
Giao tiếp sư phạm là quá trình tiếp xúc tâm lý đa chiều trong đó diễn ra sự trao
đổi thông tin, cảm xúc, nhận thức và tác động qua lại lẫn nhau nhằm thiết lập nên mối
quan hệ đa chiều giữa nhà giáo dục với đối tượng giáo dục, giữa các nhà giáo dục với
các lực lượng giáo dục, giữa các nhà giáo dục với nhau để cùng thực hiện mục đích giáo
dục.
- Theo nghĩa hẹp:
Giao tiếp sư phạm là sự tiếp xúc tâm lý đa chiều giữa giáo viên và học sinh nhằm
truyền đạt và lĩnh hội tri thức khoa học, vốn kinh nghiệm sống, kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp, xây dựng và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.
2.1. Đặc trưng cơ bản của giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm có một số đặc trưng sau:
Đặc trưng thứ nhất, trong giao tiếp sư phạm, giáo viên (chủ thể gián tiếp) không
chỉ giao tiếp với học sinh qua nội dung bài giảng, tri thức khoa học, mà còn là tấm gương
sáng mẫu mực về nhân cách cho học sinh noi theo theo yêu cầu của xã hội quy định
Tấm gương của người thầy giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh
Đặc trưng thứ hai của giao tiếp sư phạm là thầy giáo dùng các biện pháp giáo
dục tình cảm, thuyết phục vận động đối với học sinh, không được dùng biện pháp đánh
đập, hành hạ, trù dập học sinh. Giáo viên thời trước có thể dùng roi vọt xâm phạm thân
thể học sinh, nay nhà nước ta nghiêm cấm bằng luật
Đặc trưng thứ ba của giao tiếp sư phạm là sự tôn trọng của nhà nước và xã hội
với giáo viên
Với truyền thống tôn sư trọng đạo của nhân dân ta nay cũng được nhà nước quy
định bằng luật
Tóm lại, chúng ta thấy rằng để giao tiếp sư phạm đạt được hiệu quả phải tạo được
bầu không khí tâm lý giao tiếp thân tình, cởi mở giữa giáo viên và học sinh. Bầu không khí giao tiếp chính là những yếu tố tâm lý của cả hai phía giáo viên và học sinh, nảy sinh
trong quá trình tiếp xúc. Để cho bầu không khí giao tiếp sư phạm góp phần tích cực vào
quá trình dạy học và giáo dục, người giáo viên phải là chủ thể có ý thức tổ chức, xây
dựng mối quan hệ này
2.2. Vai trò của giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giáo dục nói chung và
trong việc hình thành nhân cách người thầy giáo nói riêng.
Trong hoạt động sư phạm, hoạt động giao tiếp không những là điều kiện cơ bản và
tất yếu của hoạt động sư phạm mà còn là công cụ, là phương tiện để thực hiện mục đích
sư phạm, bởi tất cả những nội dung giáo dục từ việc giảng dạy thú vị, sáng tạo đến các
phương pháp tích cực, tiến bộ chỉ phát huy tác dụng khi và chỉ khi được đảm bảo bằng
giao tiếp sư phạm phù hợp, đúng đắn. Từ đó cho thấy giao tiếp sư phạm gắn bó chặt chẽ
với hoạt động sư phạm và bản chất của quá trình sư phạm
Nếu coi hoạt động sư phạm phục vụ 3 mục đích: giảng dạy, giáo dục và phát triển
thì giao tiếp sư phạm có vai trò:
- Là phương tiện để giải quyết nhiệm vụ giảng dạy vì giao tiếp sư phạm đảm bảo
sự tiếp xúc tâm lý với học sinh, hình thành động cơ tích cực học tập, tạo bầu không khí
tâm lý trong nhận thức, tìm tòi
- Là sự bảo đảm tâm lý – xã hội cho quá trình giao tiếp vì nhờ giao tiếp sư phạm
mà hình thành được mối quan hệ giáo dục, tạo nên khuôn mẫu của lối sống, ảnh hưởng
tới sự hình thành các định hướng, các chuẩn mực, các kiểu sống của cá nhân và có sự tiếp
xúc tâm lý giữa thầy và trò. Điều đó đảm bảo kết quả của hoạt động học tập, khắc phục
những trở ngại tâm lý, hình thành các mối quan hệ liên nhân cách trong tập thể học sinh.
- Là phương pháp tổ chức mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò, bảo đảm cho việc
dạy và giáo dục có hiệu quả bởi vì giao tiếp sư phạm đã tạo ra hoàn cảnh, tình huống tâm
lý kích thích việc tự học và tự giáo dục của học sinh, khắc phục các yếu tố tâm lý kìm
hãm sự phát triển nhân cách trong quá trình giao tiếp: thiếu tự tin, lúng túng khi giao tiếp,
… Tạo điều kiện để phát hiện việc điều chỉnh tâm lý – xã hội trong quá trình phát triển và
hình thành các phẩm chất, nhân cách Như vậy, giao tiếp sư phạm không chỉ là phương tiện, là công cụ để thực hiện mục
đích sư phạm mà còn là bộ phận cấu thành hoạt động sư phạm, là một thành phần chủ
đạo trong cấu trúc năng lực của người thầy giáo, góp phần tạo nên nhân cách của họ
Nhờ có giao tiếp sư phạm nhà giáo dục mới tổ chức được hoạt động của mình,
đồng thời giao tiếp sư phạm là công cụ thiết lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ
giao tiếp giữa các thầy cô giáo trong nhà trường.
- Giao tiếp sư phạm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhân cách
của học sinh. Thông qua giao tiếp sư phạm mà nhà giáo dục truyển đạt những tri thức
khoa học, kinh nghiệm, trải nghiệm… còn người được giáo dục thì lĩnh hội tiếp thu tri
thức, kinh nghiệm chuẩn mực đạo đức để hình thành, phát triển tâm lý nhân cách cho
chính mình. Qua sự trao đổi thông tin giữa nhà giáo dục và người học sinh đã giúp cho
nhiều học sinh hình thành được một số phẩm chất và nhân cách như: ý thức trách nhiệm,
tôn trọng tập thể, lòng tự trọng….
- Nhờ có giao tiếp sư phạm, nhà giáo dục đã đi sâu vào thế giới tinh thần của học
sinh, thiết lập được mối quan hệ gắn bó đối với học sinh, kích thích học sinh tính tích cực
chủ động, sáng tạo trong mọi hoạt động giao tiếp để trở thành những nhân cách có ích
cho xã hội và tự hoàn thiện bản thân.
2.3. Chức năng của giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm có nhiều chức năng khác nhau phục vụ cho nhóm người hay
từng thành viên trong môi trường sư phạm. Có thể nêu lên những chức năng sau:
- Chức năng trao đổi thông tin (nội dung) đa chiều giữa các thành viên trong
giao tiếp sư phạm. Thông qua giao tiếp sư phạm nhà giáo dục trao đổi truyền đạt tri thức,
kinh nghiệm với nhau. Mỗi cá nhân vừa là nguồn phát thông tin vừa là nơi tiếp nhận
thông tin trong hoạt động giao tiếp sư phạm. Thu nhận và xử lý thông tin là con đường
quan trọng để phát triển nhân cách cho học sinh. - Chức năng tri giác lẫn nhau trong giao tiếp sư phạm: Các thành viên có sự tác
động qua lại với nhau, qua đó làm bộc lộ cảm xúc, tạo ra những ấn tượng, những cảm xúc
mới giữa các chủ thể tham gia giao tiếp trong môi trường sư phạm.
- Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau trong giao tiếp sư phạm: Khi giao
tiếp sư phạm mỗi chủ thể tự bộc lộ quan điểm, thái độ, thói quen.. của bản thân, do đó các
chủ thể có thể nhận thức được về nhau, qua đó tự đánh giá được về bản thân mình và
đánh giá được người giao tiếp với mình.
- Chức năng ảnh hưởng lẫn nhau trong giao tiếp sư phạm: Trên cơ sở nhận thức
và đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá được bản thân, trong giao tiếp sư phạm mỗi chủ thể
còn có khả năng ảnh hưởng tác động lẫn nhau như tác động đến nhận thức, thái độ, hành
vi…
- Chức năng phối hợp hoạt động sư phạm: Nhờ có quá trình giao tiếp sư phạm,
các nhà giáo dục có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ nào đó
nhằm đạt tới mục tiêu chung của nhóm.
- Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách: Người học không thể tách mình
khỏi môi trường nhà trường, bạn bè, thầy cô giáo, những người làm quản lý giáo dục...
phạm vi giao tiếp sư phạm ngày càng được mở rộng. Qua đó cùng với hoạt động của mỗi
cá nhân người học thì giao tiếp sư phạm giúp con người lĩnh hội được các tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, năng lực…. để từ đó hình thành nên nhân cách cho mình.
Trang phục trong giao tiếp sư phạm
Từ lâu trang phục, y phục đã được con người sử dụng trong giao tiếp, đặc biệt với
người lạ (chưa quen biết). Tục ngữ có câu: “ Quen nhau tin dạ, lạ tin quần áo”. Trang
phục bao gồm quần, áo, mũ, nón, thắt lưng (da,…), giày dép và đồ trang sức
- Trang phục trong giao tiếp sư phạm được thể hiện qua các đặc trưng:
+ Kiểu (mô – đen): giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, vị trí xã hội, dân tộc,…
+ Sắc mầu: thay đổi theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, vị trí xã hội, dân tộc, cá
nhân.
* Với thầy cô giáo
- Trong giao tiếp sư phạm, trang phục của thầy cô giáo cần đạt các yêu cầu sau: + Đúng kiểu cách ( mặc sơ-mi thì phải cho đuôi áo vào trong quần âu, có thắt lưng
da và được giặt, là sạch sữ, phẳng phiu. Chân đi giày da, đầu tóc sạch sẽ chải gọn gàng,
…), mặc không đúng kiểu dễ tạo cho đối tượng giao tiếp một nhận xét không thiện cảm
(nhất là lần gặp mặt đầu tiên) như kệch cỡm, lập dị,… Không đúng kiểu cách còn gây ra
sự chú ý không chủ định ở đối tượng giao tiếp, dễ ảnh hưởng đến mục đích và nội dụng
giao tiếp (kiểu cách của viên chức nhà nước đã được chính phủ quy định)
+ Sắc màu: Cần trang nhã, hài hòa (không lòe loẹt, sặc sỡ), tạo cảm giác an toàn,
yên tĩnh nơi học sinh
+ Kiểu cách cùng với sắc màu trang phục của thầy cô đạt yêu cầu chuẩn mực lịch
sự, văn minh để học sinh học tập và noi theo
- Trang phục, bản thân nó không có ý nghĩa tâm lý, nhưng khi được thầy cô sử
dụng thì nó phản ánh các nội dung tâm lý:
+ Tính chu đáo, cẩn thận hay cẩu thả, luộm thuộm
+ Ngăn nắp, gọn gàng hay tùy tiện
+ Cầu kỳ hay đơn giản
+ Tế nhị, kín đáo hay phô trương, hình thức, khêu gợi,…
+ Đứng đắn, nghiêm chỉnh, lịch sự, tôn trọng mọi người
Tóm lại, trang phục của thầy cô giáo cần đúng kiểu cách, sắc màu trang nhã, thể
hiện được chuẩn mực trang phục của giáo viên được xã hội thừa nhận để các em noi theo
và học tập. Trang phục là một phần định hướng giao tiếp, góp phần thành công trong giao
tiếp sư phạm.
* Về phía học sinh:
Gần đây, một số trường phổ thông các cấp THCS, THPT ở các thành phố lớn tổ
chức cho học sinh mặc đồng phục. Khi cơ sở vật chất khang trang, môi trường sư phạm
chuẩn mực thì đồng phục tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện tốt quyền hạn,
trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của người học sinh (hạn chế bớt những hành vi xấu, tiêu
cực) trong học tập và giao tiếp với mọi người. Nhưng nếu cơ sở vật chất thiếu thốn: nhà
tranh, sân trường lầy lội, mái ngói dột nát, bàn ghế hỏng gẫy,… mà mặc đồng phục thì
thật không nên chút nào Học sinh nên mặc trang phục sạch sẽ, gọn gàng, đúng kiểu cách, sắc màu hài hòa,
trang nhã khi đến trường.
4. Trở ngại tâm lý trong giao tiếp sư phạm
Khi nói đến trở ngại tâm lý trong giao tiếp thông thường người ta cho rằng đó là
các khó khăn tâm lý trong giao tiếp và thường dùng các thuật ngữ khác nhau như: ngăn
cản, cản trở, hàng rào tâm lý.... để miêu tả nó. Trở ngại tâm lý trong giao tiếp là những
cản trở tâm lý kìm hãm giao tiếp đạt hiệu quả.
Tác giả B. D Parưghin cho rằng: hàng rào tâm lý được hiểu ngầm như các quá
trình, các thuộc tính, các trạng thái của con người nói chung bao bọc tiềm năng trí tuệ,
tình cảm của con người.
Khi định nghĩa nội hàm khái niệm “trở ngại tâm lý trong giao tiếp sư phạm”
người ta thường dựa vào một trong những thông số của “hàng rào tâm lý”, do vậy có
thể hiểu khó khăn tâm lý trong giao tiếp là những trở ngại, rào cản, cản trở tâm lý,
đòi hỏi con người phải nỗ lực để vượt qua trong quá trình tiếp xúc trao đổi thông
tin.
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp sư phạm thường biểu hiện ở ba mặt: nhận thức thái độ - hành vi.
- Nhận thức: là một trong những thành tố quan trọng của đời sống tâm lý con
người. Nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự vật, hiện tượng, từ đó bày tỏ thái độ,
tình cảm và có hành vi tương ứng. Hoạt động giao tiếp sư phạm là hoạt động đa dạng,
phức tạp. Do đó, trong quá trình giao tiếp sư phạm không phải lúc nào chủ thể giao tiếp
cũng có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nó. Chính những nhận thức chưa đúng, chưa phù
hợp là rào cản tâm lý gây nên những sai lầm trong giao tiếp sư phạm của cá nhân khi
nhận thức về bản thân, nhận thức đối tượng giao tiếp.
- Thái độ: Họ thường thiếu khả năng kiềm chế cảm xúc – tình cảm của bản thân
khi giao tiếp với người khác.
- Hành vi: là bộ mặt đời sống tâm lý của con người. Đây là rào cản tâm lý biểu
hiện cụ thể, dễ nhận thức nhất trong giao tiếp sư phạm như hành vi ứng xử thiếu tự tin, gò
bó… Ba mặt trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là một thể thống nhất trong đời
sống tâm lý của con người và trong giao tiếp sư phạm.
Tuy nhiên có nhiều nguyên nhân khác nhau đã gây ra các trở ngại tâm lý trong
giao tiếp sư phạm như
- Hoàn cảnh giao tiếp mới lạ;
- Tình huống giao tiếp bất ngờ, phức tạp;
- Tập quán, thói quen trong giao tiếp khác nhau;
- Hiểu biết chưa đầy đủ về đối tượng giao tiếp;
- Làm tổn thương đối tượng giao tiếp;
- Thiếu sự tôn trọng và cầu thị trong giao tiếp;
Khái niệm nguyên tắc giao tiếp
- Là hệ thống các quan điểm chỉ đạo, định hướng thái độ và hành vi ứng xử, đồng
thời chỉ đạo việc lựa chọn các phương pháp, phương tiện giao tiếp của cá nhân.
- Qua khái niệm trên ta thấy:
- Nguyên tắc giao tiếp mang tính chất bền vững và tương đối ổn định.
- Đó là những luật lệ cơ bản và bao hàm cách thức ứng xử của con người trong
cuộc sống. Chúng định hướng cho hành vi của họ, kết hợp chặt chẽ với quan điểm của
mỗi người về cuộc sống. Các nguyên tắc giao tiếp hợp lại định hướng hành động, điều
chỉnh thái độ và phản ứng hành vi của mỗi người trong giao tiếp.
- Nguyên tắc giao tiếp là kim chỉ nam cho quan hệ giao tiếp ứng xử giữa người với
người, nó được hình thành từ thói quen vốn sống kinh nghiệm của cá nhân và được rèn
luyện trong hoạt động. Nền tảng của nguyên tắc giao tiếp giữa người với người là “mình
vì mọi người, mọi người vì mình”.
Khái niệm nguyên tắc giao tiếp sư phạm - Là hệ thống những quan điểm chỉ đạo, định hướng thái độ và hành vi ứng xử,
đồng thời chỉ đạo việc lựa chọn các phương pháp, phương tiện giao tiếp của giáo viên với
học sinh, với đồng nghiệp và các lực lượng giáo dục khác.
- Qua khái niệm trên ta thấy:
+ Nguyên tắc giao tiếp sư phạm là kim chỉ nam cho quan hệ giao tiếp ứng xử sư
phạm giữa giáo viên với học sinh, giáo viên với giáo viên, giáo viên với các lực lượng
giáo dục khác. Nó được hình thành từ vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp và được rèn
luyện trong quá trình tham gia vào hoạt động sư phạm.
+ Nguyên tắc giao tiếp sư phạm mang tính chất tương đối ổn định và bền vững, có
tác dụng chỉ đạo, định hướng, điều chỉnh thái độ và các phản ứng hành vi của giáo viên
trong quan hệ giao tiếp với học sinh, đồng nghiệp…
Các nguyên tắc sư phạm
Trong quá trình giao tiếp sư phạm, người giáo viên cần phải tuân thủ các nguyên
tắc giao tiếp sư phạm sau:
- Tính mô phạm
Thực chất của nguyên tắc này là sự mẫu mực trong nhân cách của người giáo viên.
Đây cũng chính là “ điều kiện tiên quyết” quyết định sự thành công trong giao tiếp sư
phạm của người giáo viên. Tại sao lại như vậy?
Bởi thầy giáo là nhân vật trung tâm của giáo dục. Toàn bộ kết quả của công tác
giáo dục đều phụ thuộc vào nhân cách của người thầy giáo. Hàng ngày học sinh đều nhìn
vào người thầy giáo để học tập, đánh giá. Không một quyển sách, không một lời giáo
huấn, một sự khen thưởng hay trừng phạt nào lại có thể thay thế được ảnh hưởng trực tiếp
của nhân cách người thầy giáo đến học sinh. Tại sao đối với cùng một đối tượng giáo
dục, giáo viên này dùng mọi lời trách mắng, răn đe, thậm chí doạ nạt mà học sinh cũng
chẳng nghe lời, còn giáo viên khác chỉ cần có mặt là mọi việc đâu vào đấy. Tại sao cùng
một biện pháp sư phạm mà giáo viên sử dụng thì đem lại thành công tốt đẹp, còn giáo
viên khác sử dụng lại không có kết quả … Tất cả đều do nhân cách của người giáo viên
quyết định. Bởi thế người ta mới khẳng định rằng, nghề thầy giáo là nghề “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”, tức là dùng nhân cách của ông thầy là công cụ, phương
tiện… để giáo dục nhân cách của học trò.
Vì vậy muốn thành công trong hoạt động sư phạm thì trước tiên mỗi người giáo
viên cần không ngừng rèn luyện mình để có một nhân cách mẫu mực.
Sự mẫu mực trong nhân cách của người thầy giáo được thể hiện như sau:
+ Có đạo đức, tư thế, tác phong mẫu mực trước học sinh. Đạo đức, tư thế, tác
phong mẫu mực cần thiết đối với tất cả mọi người, xong đặc biệt quan trọng đối với
người giáo viên khi đứng trước học sinh bởi mọi hành vi, cử chỉ, điệu bộ… của giáo viên
đều không thể lọt qua cặp mắt quan sát tinh tường của hàng chục, hàng trăm… học sinh.
Những điều tốt của thầy, cô giáo được học sinh bắt chước và học tập. Còn những điều
xấu của giáo viên thì sẽ bị các học trò phê phán, bình luận. Điều đó chứng tỏ đạo đức, tư
thế, tác phong của người giáo viên là hết sức quan trọng. Do vậy, thầy, cô giáo phải là
tấm gương sáng để học sinh noi theo. Chính vì thế mà khi sinh thời Bác Hồ đã luôn căn
dặn: “Các thầy giáo, cô giáo phải luôn luôn kiểu mẫu cho học sinh noi theo”.
+ Người giáo viên cần có một cuộc sống mẫu mực, có cử chỉ đẹp, dáng điệu khoan
thai, đàng hoàng, đĩnh đạc. Quần áo, cách ăn mặc bao giờ cũng giản dị, sạch sẽ, phù hợp
với nghề nghiệp. Nơi ở cũng như chỗ làm việc phải luôn gọn gàng, ngăn nắp. Nói năng
nhẹ nhàng, từ tốn, không có những lời lẽ cục cằn, thô lỗ.
+ Những nét cá tính, đạo đức, tư thế tác phong nói trên không chỉ chứng tỏ thái độ
lịch sự, có văn hoá của người thầy giáo đối với học sinh, đồng nghiệp, phụ huynh… mà
còn lại sự tự trọng đối với bản thân của người giáo viên.
+ Sự mẫu mực trong nhân cách của người thầy giáo còn thể hiện ở cách đối với,
giao thiệp với học sinh, đồng nghiệp, phụ huynh… bao giờ cũng tỏ ra nhã nhặn, tế nhị,
thận trọng, từ tốn và ý tứ trong các mối quan hệ.
+ Sự mẫu mực trong nhân cách của người thầy giáo là một trong những cơ sở đảm
bảo uy tín cao của người giáo viên và có tác dụng quyết định đến việc hình thành nhân
cách của học sinh, đồng thời phản ánh trình độ văn hoá của người giáo viên. Vì vậy mỗi
thầy cô giáo phải không ngừng rèn luyện mình trở thành con người mẫu mực, có lương tâm trong sáng, có lí tưởng cao đẹp… để gây được ấn tượng tốt đẹp trong lòng học sinh,
phụ huynh, đồng nghiệp…
- Tôn trọng nhân cách của đối tượng giao tiếp
Tôn trọng nhân cách của đối tượng giao tiếp tức là tôn trọng nhân cách của nhau.
Điều đó có nghĩa là trong giao tiếp sư phạm, thầy và trò đều phải tôn trọng nhân cách của
nhau. Tôn trọng nhân cách của nhau là tôn trọng phẩm giá, tâm tư, nguyện vọng… của
nhau, không ép buộc nhau bằng cường quyền, uy lực.
Trong giao tiếp sư phạm, người thầy giáo tôn trọng nhân cách của học sinh được
biểu hiện ở chỗ:
+ Coi học sinh (dù nhỏ hay lớn) đều là một con người. Vì thế họ có đầy đủ các
quyền con người như quyền được học tập, được vui chơi, được lao động…, được bình
đẳng với các học sinh khác, với mọi người trong các mối quan hệ xã hội.
+ Để tôn trọng nhân cách của học sinh, người giáo viên không nên kiêu căng, tự
phụ, tự cho mình giỏi hơn, có nhiều quyền lực hơn… bởi nếu kiêu căng, tự phụ dễ làm
nảy sinh tư tưởng, hành vi ứng xử coi thường học sinh, khinh bỉ họ và đi đến vi phạm
nhân quyền của họ.
+ Biết lắng nghe ý kiến của học sinh, gợi lên những nhu cầu chính đáng của các
em. Không cắt ngang lời các em bằng các cử chỉ, điệu bộ như xem đồng hồ, phẩy tay,
nhìn đi chỗ khác… khi học sinh nói, giáo viên hãy nghe cho hết ý với thái độ trân trọng,
đừng ngắt lời, đừng tranh nói. Điều gì học sinh nói chưa rõ thì đề nghị các em nói lại,
giáo viên chớ tự phụ cho rằng mọi cái mình đều biết rồi mà gạt đi không nghe hết.
+ Tôn trọng nhân cách của học sinh còn thể hiện rõ nét ở hành vi giao tiếp có văn
hoá của người giáo viên. Bất luận trong trường hợp nào dù học sinh có phạm sai lầm đến
đâu thì giáo viên cũng không nên dùng những lời lẽ để sỉ vả, nhục mạ, xúc phạm đến
nhân cách của các em, nhất là ở nơi công cộng, chỗ đông người
+ Có thái độ ân cần, niềm nở, thể hiện các phản ứng biểu cảm của mình một cách
chân thành, trung thực.
+ Tôn trọng nhân cách của học sinh còn thể hiện ở trang phục, đầu tóc của giáo
viên gọn gàng, sạch sẽ, phù hợp với nghề nghiệp. Nếu trang phục của giáo viên luộm thuộm, nhàu nát, bẩn thỉu, đầu tóc quá cầu kỳ, kiểu cách chạy theo mốt… đều là biểu
hiện thiếu tôn trọng học sinh và thiếu tôn trọng bản thân.
+ Tôn trọng học sinh trước hết là phải trong ý thức thường trực của mỗi giáo viên
đối với học sinh bởi tôn trọng học sinh chính là tôn trọng mình, tôn trọng nghề nghiệp
của mình.
+ Còn học sinh, trong giao tiếp với các thầy, cô giáo cũng phải ý thức được rằng,
cần phải tôn trọng thầy, cô giáo bởi thầy, cô giáo là người thay mặt gia đình, xã hội để
dạy dỗ mình nên người. Cổ nhân có câu: “Không thầy đố mày làm nên” hoặc “Nhất tự vi
sư, bán tự vi sư” ; “Một ngày làm thầy, cả đời làm cha”…
Từ những phân tích ở trên ta thấy, trong giao tiếp sư phạm cả thầy và trò đều phải
tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng nhân cách của nhau cũng chính là tôn trọng nhân cách của
chính mình. Tuy nhiên người thầy giáo cần thể hiện trước để học sinh noi theo.
- Có thiện chí trong giao tiếp với học sinh
Thiện chí trong giao tiếp sư phạm là thể hiện đạo đức của người giáo viên khi
tham gia vào quá trình giao tiếp. Đây chính là “cái tâm”, là lòng nhân hậu của người thầy
giáo. Đó cũng chính là phẩm chất đạo đức của người giáo viên trong quan hệ với học
sinh, đồng nghiệp…
Bản chất của cái thiện trong giao tiếp sư phạm của người giáo viên được thể hiện ở
sự tin tưởng học sinh, đồng nghiệp… luôn nghĩ tốt về họ, giành những tình cảm tốt đẹp
và đem lại niềm vui cho họ, luôn động viên, khuyến khích họ làm việc tốt.
+ Thiện chí còn có nghĩa là giành những điều kiện thuận lợi cho học sinh thể hiện
được ứng thú, cá tính của mình trong học tập, trong quan hệ với mọi người. Không nghĩ
xấu về các em ngay cả khi các em vô tình vi phạm nội quy, quy định của trường, lớp…
đồng thời giành những thuận lợi cho cả đồng nghiệp, phụ huynh trong công việc, hoạt
động…
+ Thiện chí của người giáo viên trong giao tiếp sư phạm còn thể hiện ở sự công
bằng trong nhận xét, đánh giá đồng thời đánh giá mang tính chất động viên, khuyến khích
học sinh. Đây chính là cách “tạm ứng niềm tin” cho học sinh, khích lệ các em cố gắng
vươn lên để xứng đáng với lòng tin mà giáo viên đã gửi gắm vào các em. Đây cũng chính là cách thức giáo dục theo phương châm “Giáo dục đi trước sự phát triển” trong giới hạn
cho phép. Chính sự đánh giá công bằng, có tính chất khuyến khích đó đã nâng học sinh
lên cao hơn cái hiện có một chút để tạo cho các em có một sức bật vươn lên phía trước,
vươn tới sự hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn. Điều đó được thể hiện qua cách đánh giá của
giáo viên với học sinh: “Em còn có thể đạt được kết quả tốt hơn…” hoặc “Nếu em cố
gắng hơn một chút thì kết quả sẽ tốt hơn thế”...
- Đồng cảm trong giao tiếp sư phạm
Nguyên tắc này được hiểu là thầy, cô giáo biết đặt vị trí của mình vào vị trí của
học sinh, biết sống trong niềm vui, nỗi buồn của các em để cùng rung cảm, cùng suy nghĩ
với các em.
Chính nhờ sự đồng cảm với học sinh mà thầy, cô giáo mới hiểu được suy nghĩ và
hành của học sinh, từ đó có những phương pháp ứng xử phù hợp với đặc điểm tâm – sinh
lí của các em nhằm đạt được mục đích đề ra.
Sự đồng cảm trong giao tiếp sư phạm có một vai trò quan trọng giúp cho thầy và
trò hiểu biết lẫn nhau để từ đó ảnh hưởng tới nhau, rung cảm lẫn nhau, gắn bó với nhau…
khiến cho giao tiếp sư phạm của họ thành công hơn.
Ngược lại với sự đồng cảm là cách giải quyết cứng nhắc, duy ý chí gây nên sự bực
bội, cáu gắt, làm tổn thương tình cảm của nhau khiến cho khoảng cách giữa thầy và trò
ngày càng xa và đương nhiên quá trình giao tiếp giữa họ bị gián đoạn, ngắt quãng để lại
“dấu ấn” không tốt trong quan hệ thầy trò.
- Có niềm tin trong giao tiếp sư phạm
Một điều kiện tiên quyết của mọi sự tiếp xúc giữa con người với con người là tin
tưởng ở đối tượng giao tiếp của mình. Trong giao tiếp sư phạm cũng vậy, thầy và trò chỉ
đạt được mục đích khi cả hai bên đều có sự tin tưởng lẫn nhau. Trò tin vào thầy thì mới
bộc bạch hết suy nghĩ và cảm nhận của mình về vấn đề này hay vấn đề khác, về những
điều thầm kín, riêng tư của mình. Lúc đó các em coi thầy cô là những người bạn lớn tin
cậy của mình, sẵn sàng giúp đỡ mình trong lúc khó khăn. Nếu mình chẳng may vấp ngã
thì thầy cô là người nâng đỡ, vực mình dậy, chỉ rõ những lỗi lầm mà mình mắc phải và
cách thức để vượt qua. Còn thầy cô cũng cần có niềm tin đối với học trò của mình rằng các em có lớn mà chưa có khôn, cần phải dạy dỗ, khuyên nhủ các em nhận thức rõ cái
đúng, cái sai, cái cần học và cái không nên học để hình thành cho các em thói quen ứng
xử có văn hoá với mọi người trong xã hội, với thầy cô, bạn bè.
* Khái niệm phong cách giao tiếp
- Là toàn bộ hệ thống các phương pháp, thủ thuật tiếp nhận, phản ứng hành động
tương đối ổn định và bền vững của mỗi chủ thể và đối tượng trong giao tiếp, tạo nên sự
khác biệt cá nhân.
Từ khái niệm trên ta thấy trong phong cách giao tiếp có hai phần rõ rệt:
- Phần tương đối ổn định: Là do sự ổn định tương đối của hệ thống các phương
pháp, thủ thuật tiếp nhận, phản ứng hành động… được quy định bởi chính cấu tạo cơ thể,
cấu tạo tay, chân, đầu, cổ…, hoạt động của hệ thần kinh và các giác quan, bởi nghề
nghiệp, môi trường sống và các quan hệ xã hội … tương đối ổn định.
- Phần linh hoạt mềm dẻo: Sự linh hoạt mềm dẻo trong phong cách giao tiếp
được quy định bởi những thay đổi về các quan hệ xã hội, vị trí xã hội mà cá nhân đảm
nhiệm, nghề nghiệp, môi trường sống… nhằm đảm bảo sự thích ứng với những đổi thay
của môi trường nhất là môi trường xã hội.
Như vậy phong cách giao tiếp là phong cách cá nhân được sử dụng trong quá trình
tiếp xúc với mọi người xung quanh.
* Khái niệm phong cách giao tiếp sư phạm
- Là toàn bộ hệ thống các phương pháp, thủ thuật tiếp nhận, phản ứng hành động
tương đối ổn định và bền vững của giáo viên và học sinh trong quá trình tiếp xúc nhằm
truyền đạt và lĩnh hội các tri thức khoa học, vốn kinh nghiệm, kĩ năng, kĩ xảo nghề
nghiệp, xây dựng và phát triển toàn diện nhân cách của học sinh.
- Phong cách giao tiếp sư phạm cũng bao hàm hai phần như trên:
+ Phần ổn định tương đối: Bao gồm những tác phong, hành vi… tương đối ổn
định và bền vững do tính chất của hệ thần kinh và giác quan, do các phản xạ có điều kiện
đã được củng cố khá bền vững… quy định nên.
Điều đó có nghĩa là những tác phong, những hành vi tập nhiễm lâu ngày đã được
củng cố trở thành thói quen hành vi rất khó xoá bỏ. Chẳng hạn, hành vi khoanh tay trước ngực, cúi đầu chào người lớn của trẻ nhỏ. Hành vi này của trẻ được cha mẹ, người lớn
dạy cho trẻ từ lúc còn nhỏ. Trong suốt quá trình lớn lên của trẻ, các hành vi này thường
xuyên được lặp đi lặp lại trong cuộc sống trở thành thói quen của trẻ. Vì vậy, dù ở bất kì
nơi đâu, trong hoàn cảnh nào hễ cứ gặp người lớn hơn là trẻ đều có thói quen chào hỏi lễ
phép như vậy. Giờ đây khi đã trưởng thành, nhiều sinh viên vẫn có thói quen chào hỏi lễ
phép như thế.
Mặt khác, quan hệ xã hội được củng cố lâu ngày sẽ tạo nên thói quen giao tiếp.
Chẳng hạn, làm thầy giáo lâu năm thường có tác phong mô phạm như: Lúc nào cũng ung
dung thư thái, nói năng rõ ràng, rành mạch, cư xử tế nhị, quần áo gọn gàng, nơi làm việc
ngăn nắp… những thói quen giao tiếp này là một bộ phận của phong cách giao tiếp sư
phạm của người giáo viên.
+ Phần linh hoạt mềm dẻo: Đó là những hành vi cử chỉ rất linh hoạt và cơ động,
xuất hiện nhanh chóng, bất thường để giúp người giáo viên mau chóng thích ứng với sự
biến động, hay thay đổi của môi trường làm việc (học sinh ở các lớp học khác nhau, khoá
học khác nhau, trong các tình huống khác nhau, có độ tuổi khác nhau, trình độ phát triển
trí tụê khác nhau, đặc điểm tâm sinh lí khác nhau…), môi trường sống. Sự thay đổi của
môi trường sống và môi trường làm việc là nguyên nhân trực tiếp làm thay đổi phong
cách giao tiếp sư phạm của người giáo viên.
Môi trường sống ở đây bao gồm: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chính
môi trường xã hội đã quyết định sự linh hoạt và cơ động của cá nhân người thầy giáo và
được thể hiện trong phong cách giao tiếp sư phạm của họ.
Bên cạnh đó, sự thay đổi của các mối quan hệ xã hội cũng làm cho phong cách
giao tiếp sư phạm của người thầy giáo biến đổi theo bởi vì, sự thay đổi các quan hệ xã
hội, vị thế xã hội buộc người giáo viên phải có cách ứng xử cho phù hợp. Cụ thể một
người trước đây chỉ là giáo viên bộ môn thì quan hệ giữa anh ta với các giáo viên khác
chỉ đơn thuần là quan hệ đồng nghiệp, nay anh ta được bổ nhiệm làm phó hiệu trưởng của
trường vì thế quan hệ của anh ta với các giáo viên khác đã có sự thay đổi, đó là quan hệ
giữa người lãnh đạo với cấp dưới. Như vậy, quan hệ xã hội giữa họ đã có sự thay đổi,
buộc anh ta phải thay đổi phong cách ứng xử của mình, bởi nếu không có phong cách ứng xử mới thì hoạt động quản lí lãnh đạo của anh ta sẽ không có hiệu quả hoặc có hiệu
quả rất kém. Ứng xử là biểu hiện cụ thể của giao tiếp. Vì vậy khi phong cách ứng xử thay
đổi thì cũng có nghĩa là phong cách giao tiếp sư phạm của người thầy giáo đó cũng có sự
biến đổi theo.
* Các loại phong cách giao tiếp sư phạm
- Phong cách dân chủ trong giao tiếp sư phạm
+ Thực chất của phong cách dân chủ trong giao tiếp sư phạm là luôn luôn có sự tôn trọng
lẫn nhau giữa thầy giáo và học sinh. Nhờ đó tạo ra bầu không khí tâm lí thân mật, gần
gũi, cởi mở và quý trọng nhau, giải phóng được tư tưởng làm cho cả thầy và trò đều thoải
mái, đồng thời phát huy được tính độc lập, sáng tạo của cả thầy giáo và học sinh.
+ Phong cách dân chủ trong giao tiếp sư phạm của người thầy giáo được biểu hiện
như sau: Giáo viên coi trọng các đặc điểm tâm lí cá nhân, vốn kinh nghiệm sống,
trình độ nhận thức, nhu cầu, hứng thú, động cơ… của học sinh. Giáo viên ý thức được
điều đó và hành động, ứng xử phù hợp với các nội dung trên. Nhờ đó dự đoán trước được
mức độ phản ứng cũng như hành động của học sinh trong và sau quá trình giao tiếp sư
phạm. Lắng nghe các ý kiến, nguyện vọng… của học sinh, tôn trọng nhân cách
của các em, đáp ứng kịp thời và có lời giải thích rõ ràng những nguyện vọng, những ý
kiến của họ, luôn gần gũi các em, giải quyết nhanh chóng những vướng mắc trong quan
hệ, sinh hoạt, trong học tập, trong công việc… của các em, tạo ra sự tin tưởng của học
sinh đối với giáo viên. Người giáo viên có phong cách dân chủ trong giao tiếp với học sinh là
người luôn luôn tôn trọng học sinh, tạo cho học sinh có tính độc lập, sáng tạo, ham hiểu
biết, kích thích hoạt động nhận thức, tìm tòi của học sinh, giúp học sinh xác định được vị
trí, vai trò của mình trong nhóm bạn bè, trong học tập. Ý thức được trách nhiệm và bổn
phận của người học sinh, người con… đó chính là nguồn gốc của tự ý thức, tự giáo dục
và tự rèn luyện bản thân tạo điều kiện để nhân cách của mình ngày càng phát triển, đáp
ứng yêu cầu của xã hội. + Bên cạnh những ưu điểm trên, phong cách dân chủ trong giao tiếp sư phạm của
người giáo viên cũng bộc lộ những hạn chế sau:
Dân chủ trong giao tiếp sư phạm không có nghĩa là “đề cao cá nhân” hoặc “theo đuôi” những đòi hỏi không xuất phát tự lợi ích chung của mọi học sinh. Dân chủ
không có nghĩa là “nuông chiều thả mặc” học sinh mà không tính đến những yêu cầu
ngày càng cao của nhiệm vụ học tập và rèn luyện đạo đức cho học sinh. Dân chủ không
phải là xoá đi ranh giới giữa thầy và trò để trở thành “cá mè một lứa” với nhau.
Nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng, phong cách dân chủ trong giao tiếp sư phạm đã mang lại hiệu quả cao trong dạy học và giáo dục học sinh.
- Phong cách độc đoán trong giao tiếp sư phạm
Đặc trưng của loại phong cách giao tiếp sư phạm này là thiếu sự tôn trọng lẫn
nhau. Vì thế luôn tạo ra khoảng cách giao tiếp ngày càng xa giữa thầy và trò. Nội dung
của phong cách giao tiếp sư phạm này thường xuất phát tự nội dung công việc, học tập
hoặc hoạt động xã hội.
Phong cách độc đoán trong giao tiếp sư phạm của người giáo viên được biểu hiện
ở chỗ:
+ Giáo viên luôn coi thường và xem nhẹ các đặc điểm riêng về cá tính, nhận thức,
nhu cầu, hứng thú… của học sinh do xác định mục đích giao tiếp thường xuyên phát tự
công việc và giới hạn thời gian thực hiện một cách cứng nhắc, luôn có những yêu cầu và
đòi hỏi xa lạ không thể thực hiện được trong thực tế. Ở đây không phải giáo viên không
hiểu được rằng, mỗi học sinh đều có một cá tính, nhận thức, hứng thú riêng… ngược lại,
giáo viên ý thức được điều đó rõ ràng nhưng do quá chú trọng vào công việc, đặt công
việc lên trên hết, hơn nữa do thiếu tôn trọng nhau nên dẫn đến hiện tượng xem thường
các đặc điểm tâm lí cá nhân, nhận thức… của học sinh. Hơn nữa, ở giáo viên có loại
phong cách giao tiếp này thường tồn tại quan điểm phải “trị” cho các học sinh này đến
nơi đến chốn. Còn học sinh lại luôn có tâm thế “chống đối ngầm” hoặc “chống đối ra
mặt” mọi hành vi độc đoán của giáo viên. Giáo viên có loại phong cách giao tiếp này
cũng thường đánh giá học sinh một cách chủ quan, quan hệ giữa giáo viên và học sinh
thuần tuý là quan hệ công việc. + Người giáo viên có phong cách độc đoán trong giao tiếp sư phạm thì khi giao
tiếp với học sinh thường rất cứng nhắc, máy móc, không khoan nhượng. Trong giao tiếp
công việc, họ thường không cho phép và rất hạn chế học sinh được đóng góp ý kiến vào
các quyết định của mình, giao tiếp với học sinh chủ yếu bằng sử dụng quy chế hoặc mệnh
lệnh, ít giành cho học sinh có điều kiện sáng tạo… làm cho khoảng cách giữa thày và trò
ngày càng xa, quan hệ giữa họ chỉ là quan hệ công việc một cách cứng nhắc, máy móc.
+ Phong cách độc đoán trong giao tiếp sư phạm của người thầy giáo đã làm mất đi
sự tự do, kiềm chế sức sáng tạo và khả năng suy nghĩ của học sinh, làm cho tính thuyết
phục và giáo dục nhau bằng tình cảm kém hiệu quả.
+ Tuy nhiên phong cách độc đoán trong giao tiếp giữa thầy và trò cũng có những
tác dụng nhất định đối với những công việc đòi hỏi phải hoàn thành trong một thời gian
ngắn, gấp rút, có hạn định, đồng thời có tác dụng đối với học sinh có kiểu khí chất linh
hoạt, nóng nẩy thường có thói quen khi thực hiện công việc muốn dứt điểm nhanh chóng
và muốn nhìn thấy kết quả công việc ngay.
- Phong cách tự do trong giao tiếp sư phạm
Phong cách này thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo, cơ động, dễ thay đổi theo đối
tượng và hoàn cảnh giao tiếp, đôi khi có sự pha lẫn “khéo léo ứng xử sư phạm” của người
giáo viên.
Phong cách tự do trong giao tiếp sư phạm có ưu điểm là phát huy được tính tích
cực của học sinh, kích thích các em tư duy độc lập, sáng tạo, làm cho học sinh luôn cảm
thấy thoải mái trong học tập, hoạt động…
Biểu hiện của loại phong cách này:
+ Giáo viên dễ dàng thay đổi mục đích, nội dung và đối tượng giao tiếp. Chẳng
hạn giáo viên đang nói chuyện dở về chủ đề này lại chuyển ngay sang chủ đề khác, hoặc
đang nói với học sinh A thấy học sinh B đi qua lập tức kéo lại và nói chuyện ngay với em
đó, bỏ mặc A đứng đấy.
+ Giáo viên không làm chủ được cảm xúc và diễn biến tâm lí của bản thân, thường
hay phụ hoạ, bắt chước hoặc tỏ ra thông cảm quá mức với những khó khăn của học sinh.
Giáo viên xác định mục đích giao tiếp không rõ ràng, nội dung giao tiếp không phân định, phạm vi giao tiếp rộng rãi nhưng mức độ nông cạn, hời hợt, ấn tượng không sâu
sắc.
+ Người giáo viên có kiểu phong cách này dễ dàng gần gũi với học sinh nhưng
nếu cứ tiếp diễn mãi kiểu phong cách giao tiếp này thì sẽ bị học sinh coi thường, dễ dẫn
đến tình trạng “cá mè một lứa”, do vậy các em dễ có hành vi ứng xử vô lễ với giáo viên,
phong cách giao tiếp này tạo ra sự đơn điệu, nhàm chán.
Tóm lại, ba loại phong cách giao tiếp trên đều có những ưu điểm và nhược điểm
nhất định. Tuỳ thuộc vào từng loại công việc, mục đích giao tiếp, tính cấp thiết của nội
dung giao tiếp và phương tiện giao tiếp… mà lựa chọn loại phong cách giao tiếp cho phù
hợp nhằm đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp sư phạm.
3.1.2. Khái niệm kĩ năng giao tiếp sư phạm
Kĩ năng giao tiếp sư phạm là khả năng vận dụng các kiến thức, các kinh nghiệm
hoạt động sư phạm … của người giáo viên để thực hiện có kết quả quá trình tiếp xúc
với học sinh làm cho hoạt động dạy học và giáo dục đạt được mục đích đề ra.
Kĩ năng giao tiếp sư phạm là một dạng kĩ năng nghề nghiệp và được thể hiện trong
lao động sư phạm của người thầy giáo. Kĩ năng giao tiếp sư phạm vừa thể hiện kĩ năng
giao tiếp nói chung, vừa thể hiện các đặc trưng của hoạt động sư phạm (dạy học và giáo
dục). Nó thực chất là sự phối hợp hài hoà giữa các chuẩn mực xã hội với những chuẩn
mực của người thầy giáo. Có thể coi kĩ năng giao tiếp sư phạm là kĩ năng giao tiếp có văn
hoá trong hoạt động sư phạm. Nói khác đi, người thầy giáo có kĩ năng giao tiếp sư phạm
là người nắm được các chuẩn mực giao tiếp nói chung, chuẩn mực giao tiếp sư phạm nói
riêng và vận dụng có kết quả trong tình huống giao tiếp cụ thể - đó là giao tiếp với học
sinh để dạy học và giáo dục.
Kĩ năng giao tiếp sư phạm là loại kĩ năng giao tiếp tổng hợp, trong đó bao gồm
nhiều kĩ năng thành phần. Đây cũng là loại kĩ năng giao tiếp bậc cao mà đỉnh của nó
chính là sự khéo léo ứng xử sư phạm đến mức trở thành “nghệ thuật giao tiếp ứng xử sư
phạm”.
3.3. Một số kĩ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên trong tiếp xúc với học sinh
3.3.1. Kĩ năng định hướng giao tiếp sư phạm Là khả năng dựa vào sự biểu lộ bên ngoài (cử chỉ, điệu bộ, ngữ điệu, thanh
điệu…) mà phán đoán về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.
Định hướng giao tiếp gồm: Định hướng trước khi giao tiếp, định hướng lúc bắt
đầu tiếp xúc và định hướng trong quá trình giao tiếp.
Kĩ năng định hướng trước khi giao tiếp là những thao tác tư duy, trí tuệ (bao gồm
các thao tác phân tích, tổng hợp, các thủ thuật ghi nhớ…) nhằm xây dựng mô hình tâm lí
giả định về một học sinh hay một giáo viên nào đó… và các phương án ứng xử mà giáo
viên tạo ra trên cơ sở vốn sống, vốn kinh nghiệm nghề nghiệp của bản thân để phán đoán
trước, lường trước những phản ứng có thể xảy ra của học sinh, đồng nghiệp… trong quá
trình giao tiếp. Khi xây dựng mô hình tâm lí giả định về đối tượng giao tiếp (học sinh,
đồng nghiệp…) giáo viên không nên định kiến với họ cho dù là quen thuộc.
Muốn xây dựng mô hình tâm lí về người sẽ tiếp xúc với mình (học sinh, đồng
nghiệp…) thì giáo viên cần có những thông tin cần thiết về người đó như: tên học sinh,
học lớp nào, học giỏi hay kém bộ môn nào, ngoan hay hư, phụ huynh làm nghề gì…
Trong giao tiếp sư phạm, để định hướng có kết quả tốt thì mỗi giáo viên cần tạo
cho mình một thói quen xây dựng mô hình tâm lí giả định trong nhận thức trước khi tiếp
xúc với học sinh, phụ huynh…
Chỉ khi giáo viên tiếp xúc trực tiếp với học sinh (hoặc phụ huynh, đồng nghiệp…)
thì giá
o viên mới biết được mô hình tâm lí giả định mà mình đã xây dựng đúng hay sai
so với con người thực. Lúc đó trong đầu óc của giáo viên diễn ra quá trình điều chỉnh các
chi tiết sai so với người thực, đồng thời tiếp tục điều chỉnh, điều khiển hành vi ứng xử
của mình đối với học sinh. Các thao tác trí tuệ điều chỉnh xảy ra rất nhanh nhiều khi giáo
viên không kịp nhận thức được sự điều chỉnh đó.
Trong quá trình giao tiếp trực tiếp với học sinh đòi hỏi người giáo viên phải có kĩ
năng định hướng trong quá trình giao tiếp. Thực chất đó là sự thành lập các thao tác trí
tụê cơ động, linh hoạt của giáo viên phù hợp với những thay đổi liên tục của thái độ, hành
vi, cử chỉ… mà học sinh phản ứng trong quá trình giao tiếp. Ở đây giáo viên cần nhớ, học
sinh cũng là một chủ thể giao tiếp. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các em có thể thay đổi thái độ, quan điểm, nhu cầu… của mình. Vậy ngay thời điểm đó giáo viên cũng phải
kịp thời thay đổi hướng tiếp xúc và có những phương án ứng xử mới cho phù hợp thì mới
đạt được mục đích. Kĩ năng này rất cần thiết trong quá trình giao tiếp sư phạm để tạo ra
niềm tin và sự thiện cảm của học sinh đối với giáo viên bởi nó không làm cho học sinh bị
hụt hẫng, bị bất ngờ do giáo viên quá cứng nhắc tạo ra.
3.2.2. Kĩ năng gây ấn tượng ban đầu trong giao tiếp sư phạm
Trong một cuộc giao tiếp bất kỳ cũng như trong giao tiếp sư phạm, khi lần đầu
tiên tiếp xúc với một người, một học sinh… thì ngay từ cái nhìn đầu tiên đã cho ta một ấn
tượng về vẻ bề ngoài của họ, từ diện mạo bên ngoài (tướng mạo, trang phục, cách cư xử)
đến cử chỉ, điệu bộ, phong cách… ấn tượng này được gọi là ấn tượng ban đầu. Vậy ấn
tượng ban đầu là gì?
Ấn tượng ban đầu là hình ảnh tâm lí tổng thể về diện mạo bên ngoài, cử chỉ điệu
bộ, phong cách và một số nét tính cách nhất định… mà giáo viên -chủ thể giao tiếp thu
nhận được về học sinh – đối tượng giao tiếp trong lần gặp gỡ đầu tiên.
Ấn tượng ban đầu không chỉ được hình thành ở giây phút đầu tiên của cuộc tiếp
xúc. Bởi trong những giây phút đầu tiên ấy ấn tượng mà người giáo viên có được chỉ đơn
thuần là những hình ảnh bề ngoài của học sinh mà giáo viên cảm nhận được qua việc
nhìn thấy, nghe thấy bằng các giác quan trong giây phút gặp gỡ ban đầu. Sau đó họ cứ
tiếp tục tiếp xúc với nhau thì sẽ để lại ấn tượng về phong cách ứng xử, cách thức hành
động, trình đô nhận thức cũng như một số nét tính cách ban đầu… được bộc lộ ra nhiều
trong giao tiếp cùng nhau. Vì thế ấn tượng ban đầu được hiểu là ấn tượng về đối tượng
giao tiếp trong lần gặp gỡ đầu tiên.
Ấn tượng ban đầu được tạo nên bởi 3 thành phần:
- Thành phần cảm tính: Gồm trang phục, cử chỉ, điệu bộ, cách cư xử…
- Thành phần lôgic: Tính cách, phong cách giao tiếp…
- Thành phần cảm xúc: Hài lòng hay không hài lòng, thích hay không thích…
Trong đó thành phần cảm tính chiếm ưu thế. Mặc dù thành phần chủ yếu của ấn
tượng ban đầu là thành phần cảm tính nhưng nó vẫn giữ một vai trò quan trọng ở chỗ: - Là điều kiện để phát triển mối quan hệ giao tiếp giữa thầy giáo với học sinh, giữa
người với người bởi nó là “cửa ngõ” của mọi quá trình giao tiếp, giao tiếp sư phạm… nếu
gây được ấn tượng ban đầu tốt đẹp thì giao tiếp sẽ thành công, góp phần thiết lập và duy
trì mối quan hệ bền vững giữa người với người, giữa thầy với trò… ngược lại, nếu ấn
tượng ban đầu không tốt đẹp thì sẽ làm giảm hiệu quả của giao tiếp và đương nhiên mối
quan hệ giữa những người cùng tham gia giao tiếp, giao tiếp sư phạm sẽ lỏng lẻo.
- Ấn tượng ban đầu thể hiện sự đánh giá và thái độ của chủ thể, của thầy giáo đối
với đối tượng giao tiếp và đối với học sinh.
- Là “hướng dẫn viên” của quá trình giao tiếp sư phạm bởi sau khi hình thành ấn
tượng ban đầu về nhau rồi thì cả giáo viên và học sinh sẽ tiếp tục thu nhận thêm các
thông tin mới về nhau để tăng cường sự đánh giá ban đầu. Vì thế những thông tin mâu
thuẫn với ấn tượng ban đầu thường khó được các cá nhân chấp nhận, bởi vì cá nhân chịu
ảnh hưởng của hiệu ứng hào quang (khi chủ thể giao tiếp có ấn tượng tốt và đánh giá tốt
về đối tượng giao tiếp thì những đặc điểm tiêu cực của họ bị lu mờ đi), hiệu ứng liên tục
(khi chủ thể giao tiếp đã nhìn thấy một lần một hành vi nào đó của đối tượng giao tiếp thì
lần sau cũng có xu hướng nhìn thấy hành vi đó ở họ).
Có kĩ năng này thì người thầy giáo sẽ biết cách gây ấn tượng ban đầu phù hợp,
giúp cho họ nhận biết, đánh giá các biểu hiện bề ngoài và cả một số nét tính cách của học
sinh một cách chính xác trong lần gặp gỡ đầu tiên, không ngộ nhận về các em, để từ đó
hình thành ấn tượng ban đầu về học sinh một cách khách quan.
Tâm lí người có tính chủ thể, do đó hình ảnh mà giáo viên xây dựng về học sinh
thường mang tính chủ quan, không đầy đủ do lượng thông tin thiếu lại chưa có tính xác
thực. Ngoài ra, tâm thế và các hiệu ứng tri giác (hiệu ứng ban đầu, hiệu ứng tích cực và
hiệu ứng bối cảnh) cũng có ảnh hưởng nhiều tới việc hình thành ấn tượng ban đầu trong
tri giác con người bởi con người. Tác động của chúng nhiều khi mạnh đến mức làm sai
lệch độ chính xác của ấn tượng ban đầu.
Người thầy giáo có kĩ năng gây ấn tượng ban đầu thường có những biểu hiện sau: - Xây dựng được ấn tượng ban đầu tốt đẹp với học sinh, phụ huynh… hình thành ở
họ sự quý mến, sự ngưỡng mộ, sự tin tưởng, tôn trọng đối với người thầy giáo… và
không ít thầy cô giáo đó say này đã trở thành “thần tượng” của học sinh.
- Bước đầu thiết lập được các mối quan hệ tốt đẹp với học sinh, phụ huynh…, tạo
cảm giác tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau giữa thầy và trò, giữa thầy giáo với phụ
huynh…, rút ngắn được khoảng cách tâm lí trong giao tiếp sư phạm.
- Biết lựa chọn và sử dụng trang phục, cách cư xử, các phương tiện ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ… phù hợp với đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp.
Trong thực tiễn hoạt động giao tiếp, có những trường hợp giáo viên được chuẩn bị
trước cho lần gặp gỡ đầu tiên với học sinh, phụ huynh… chẳng hạn ra mắt lớp chủ nhiệm,
lớp giảng dạy, gặp gỡ phụ huynh theo lịch hẹn trước…. cũng có những trường hợp ấn
tượng ban đầu được hình thành một cách tình cờ, không có sự sắp đặt hoặc chuẩn bị
trước. Do đó người giáo viên cần chủ động có những cách thức riêng để xây dựng ấn
tượng ban đầu cho mình. Tuy nhiên dù trong trường hợp nào đi nữa để hình thành ấn
tượng tốt trong lần gặp gỡ đầu tiên thì người giáo viên không chỉ chú ý tới dáng vẻ bề
ngoài mà còn phải quan tâm đến những nét đẹp trong cách ứng xử, thái độ, vẻ đẹp tâm
hồn… Cụ thể:
- Trang phục gọn gàng, sạch sẽ, lịch sự và phù hợp với thân hình thể hiện sự tự
trọng, thái độ nghiêm túc, trang điểm nhẹ nhàng để tôn thêm nét hoàn mĩ, khắc phục
những hạn chế trên khuôn mặt, cũng như vóc dáng… theo phương chấm: đẹp, đứng đắn,
hợp lứa tuổi, môi trường… Trang phục và trang điểm phải phù hợp với dáng vẻ của bản
thân, phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp.
- Thái độ trong lần gặp gỡ đầu tiên cần thể hiện sự cởi mở, thân thiện, lịch sự và
khiêm tốn, bình tĩnh, tự tin.
- Ánh mắt ấm áp, thân thiện. Nét mặt vui tươi, luôn sẵn sàng nở nụ cười thể hiện
sự thích thú. Điều đó sẽ tạo được không khí thân thiện, cởi mở, hoà đồng và tự tin hơn.
- Giọng nói của giáo viên phải vừa đủ nghe, rành mạch, khiến học sinh dễ tiếp thu,
không nói quá nhanh hoặc quá chậm, lên giọng và xuống giọng khi cần thiết cũng giúp
cho việc tiếp thu của học sinh nâng lên rõ rệt. - Các nghi thức giao tiếp như: Chào hỏi, bắt tay, xưng hô… cần đúng chuẩn mực,
phù hợp với vai trò xã hội và trong nghề nghiệp của mình.
- Mở đầu cuộc trò chuyện với học sinh, phụ huynh một cách tự nhiên. Hãy khen
ngợi họ bất cứ khi nào có thể nhưng tránh lạm dụng. Giáo viên hãy đưa ra những lời khen
đúng lúc và chân thực.
- Cần có sự hiểu biết nhất định về học sinh (tên, lớp, sở trường…) thông qua việc
thu thập thông tin nếu được chuẩn bị trước. Nếu là cuộc gặp gỡ tình cờ thì cần khai thác
một số thông tin cá nhân của học sinh trong quá trình giao tiếp với họ.
Ngoài ra, trong lần đầu gặp gỡ, giáo viên luôn đúng giờ sẽ tạo ấn tượng tốt cho
học sinh. Thậm chí nên đến sớm hơn để có thời gian chuẩn bị. Trong giao tiếp sư phạm,
thầy giáo hãy cố nhớ tên học sinh thường xuyên sử dụng chúng bởi gọi tên học sinh khi
giao tiếp với mình tức là thể hiện sự tôn trọng, quan tâm tới em đó. Chắc chắn sẽ để lại
trong đầu óc học sinh những thiện cảm đặc biệt.
3.3.3. Kĩ năng lắng nghe
Là khả năng vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của giáo viên vào việc quan sát
và tập trung chú ý lắng nghe học sinh nói để hiểu nội dung ngôn ngữ nói và những suy
nghĩ của các em. Đồng thời giúp các em nhận biết được rằng họ đang được quan tâm và
chia sẻ.
Kĩ năng lắng nghe có ý nghĩa rất quan trọng trong giao tiếp nói chung và giao tiếp
sư phạm nói rêing. Bởi vì nhờ có kĩ năng lắng nghe mà cả sinh viên và học sinh tiếp nhận
được nội dung giao tiếp và hiểu thông tin một cách chính xác để tương tác với nhau có
hiệu quả nhằm đạt được mục đích giao tiếp.
Có kĩ năng này thì giáo viên có thể nâng cao được khả năng nắm bắt thông tin,
đánh giá và giải quyết các tình huống giao tiếp sư phạm một cách đầy đủ, chính xác hơn.
Từ đó tạo dựng được niềm tin và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên và học
sinh, giữ giáo viên với phụ huynh… trên cơ sở hiểu, cảm thông và chia sẻ. Người giáo
viên biết lắng nghe học sinh nói thì bao giờ cũng được học sinh yêu quý bởi vì sự lắng
nghe chân thành của giáo viên khiến học sinh, phụ huynh… có cảm giác được “trút bầu
tâm sự” một cách thoải mái với người mà họ rất tin tưởng, đồng thời giúp ho họ nhận biết được rằng họ đang được quan tâm và chia sẻ. Nhờ có kĩ năng lắng nghe mà giáo viên thể
hiện được sự tôn trọng đối với học sinh, phụ huynh… và tôn trọng chính mình. Chính
điều này có tác dụng giáo dục, nhắc nhở cả học sinh, phụ huynh… thể hiện sự lắng nghe
trở lại với thông tin của người giáo viên.
Ngược lại, nếu cả giáo viên và học sinh… đều không biết lắng nghe thì mối quan
hệ giữa họ sẽ dễ bị đổ vỡ, cả hai bên sẽ không hiểu biết nhau, đương nhiêu giao tiếp với
nhau sẽ không thành công. Vì vậy, tác giả Bentley đã nói: “Cách tốt nhất để hiểu người
khác là lắng nghe anh ta”. Do đó việc biết lắng nghe và có kĩ năng lắng nghe có thể thoả
mãn một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người.
Người giáo viên có kĩ năng lắng nghe thường có những biểu hiện sau:
- Nhìn vào mặt người nói.
- Im lặng nhiều hơn nói, không ngắt lời người khác (học sinh, phụ huynh…) khi
họ đang nói, không nói chen ngang lời nói của họ.
- Không làm vệic khác trong khi đang nghe.
- Tập trung chú ý để quan sát hành vi, cử chỉ… của học sinh…
- Có cử chỉ “gật đầu” hoặc bật thành tiếng “đúng rồi”, “vâng”…, “cái đầu ngẫm
nghĩ”, hoặc thốt lên “có thế chứ”, hoặc khen ngợi…
- Biết lắng nghe còn thể hiện ở sự phân biệt nhanh, đúng những thay đổi của âm
tiết, ngữ điệu, nhịp điệu ở lời nói, cách dùng từ lặp đi lặp lại, dùng từ đồng nghĩa, trái
nghĩa.
- Nở nụ cười lúc cần thiết, nét mặt lúc rạng rỡ, lúc lạnh lùng hoà theo dòng biểu
cảm của đối tượng giao tiếp. Có lúc thể hiện thái độ nghi ngờ hoặc phản bác.
3.3.4. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc của bản thân
Là khả năng làm chủ cảm xúc của mình, biết điều khiển, điều chỉnh các cảm xúc
của bản thân cho phù hợp với đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp.
Kĩ năng này rất quan trọng đối với giáo viên bởi vì:
- Giúp cho giáo viên kiểm soát được hành động, hành vi, lời nói… của mình, tránh
nói hoặc làm những việc gây tổn thương cho học sinh, phụ huyh… và cho chính mình. - Là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành, duy trì hay
ngắt quãng mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh, phụ huynh…
- Giúp giáo viên không bị lôi cuốn một cách thụ động theo tình huống giao tiếp, có
khả năng xử lý các tình huống giao tiếp sư phạm bất ngờ xảy ra một cách điềm tĩnh,
thuyết phục, có ý nghĩa giáo dục.
- Cải thiện được sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tinh thần cho giáo viên, khi họ
buộc phải đối mặt với nhiều áp lực của cuộc sống, của việc dạy học và giáo dục học sinh.
Người giáo viên có kĩ năng kiểm soát cảm xúc của bản thân tốt là người:
- Biết tự kiềm chế, che dấu được tâm trạng khi cần thiết.
- Có khả năng theo dõi được các biểu hiện và các mức độ cảm xúc của mình trong
quá trình giao tiếp sư phạm.
- Bộc lộ cảm xúc của bản thân với học sinh, phụ huynh… bằng lời nói, hành vi, cử
chỉ… phù hợp.
- Chế ngự và điều chỉnh các cảm xúc của bản thân một cách phù hợp.
- Người giáo viên có kĩ năng kiểm soát cảm xúc của bản thân là người luôn chủ
động trong quá trình giao tiếp sư phạm, không có hiện tượng “vui, buồn quá trớn”. Muốn
kiểm soát các cảm xúc tiêu cực (tức giận, cáu kỉnh, tự ti…) thì người giáo viên cần sử
dụng một số cách sau đây: thay đổi ý nghĩa của vấn đề, thay đổi giải pháp, thay đổi thể
chất, thay đổi chú ý….
3.3.5. Kĩ năng điều khiển, điều chỉnh quá trình giao tiếp sư phạm
Là khả năng vận dụng các tri thức và các kĩ thuật giao tiếp để thu hút học sinh, tìm
ra đề tài giao tiếp, duy trì nó, xác định được nguyện vọng, hứng thú của các em, từ đó
điều khiển, điều chỉnh bản thân và học sinh nhằm đạt được mục đích giao tiếp.
Việc điều khiển, điều chỉnh diễn ra rất phức tạp và sinh động trong quá trình giao
tiếp sư phạm bởi lẽ có rất nhiều thành phần tâm lí tham gia vào đó, trước hết là hoạt động
nhận thức, tiếp đến là thái độ và hành vi ứng xử. Sự phối hợp giữa nhận thức, thái độ và
hành vi không phải lúc nào cũng đồng nhất, có lúc rất nhịp nhàng hợp lí, nhưng cũng có
lúc tưởng chừng như ngẫu nhiên. Nhiều lúc hành vi như là phép thử của nhận thức, có khi
nhận thức và hành vi ứng xử trái ngược nhau. Chẳng hạn một giáo viên đã công tác lâu năm, có nhiều kinh nghiệm nhưng vẫn có những cử chỉ vụng về, hành vi lúng túng khi
gặp lại học sinh cũ bây giờ là một lãnh đạo cấp cao.
Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên và học sinh đều là các chủ thể và đối tượng
giao tiếp. Họ trao đổi thông tin, cảm xúc… với nhau, đồng thời có ảnh hưởng và tác động
qua lại lẫn nhau. Vì vậy, sự điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp sư phạm bao gồm cả sự
điều khiển, điều chỉnh bản thân chủ thể và sự điều khiển, điều chỉnh đối tượng giao tiếp.
Kĩ năng điều khiển, điều chỉnh bản thân của giáo viên – chủ thể giao tiếp được
biểu hiện như sau:
- Giáo viên ý thức rõ ràng mục đích giao tiếp, hướng hành vi và lời nói của mình
theo nội dung và mục đích giao tiếp đặt ra trước đó.
- Đưa ra các chủ đề (đề tài), dẫn dắt, duy trì và chuyển đề tài tiếp xúc đồng thời
kiểm soát được tốc độ giao tiếp và chủ động kết thúc giao tiếp khi thấy mục đích giao
tiếp đã đạt được.
- Điều chỉnh được mục đích giao tiếp sư phạm tuỳ thuộc vào diễn biến của quá
trình này. Có phản ứng phù hợp với hoàn cảnh và tình huống giao tiếp cũng như sự phản
hồi của học sinh.
- Nhận biết và điều chỉnh được các diễn biến tâm lí của bản thân, kiềm chế hoặc
bộc lộ cảm xúc của bản thân phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Có các hành
vi, cử chỉ phi ngôn ngữ phù hợp.
Ngoài việc điều khiển, điều chỉnh bản thân, người giáo viên còn có kĩ năng điều
khiển, điều chỉnh học sinh – đối tượng giao tiếp của mình. Điều đó được biểu hiện như
sau:
- Biết thu hút học sinh hướng vào nội dung giao tiếp đồng thời dẫn dắt họ theo
mục đích giao tiếp đề ra.
- Biết tạo ra cảm xúc tích cực cho học sinh trong quá trình giao tiếp sư phạm đồng
thời có thể thúc đẩy, kìm hãm hoặc dẫn dắt học sinh chuyển hướng quá trình giao tiếp sư
phạm.
- Có khả năng thuyết phục học sinh, phụ huynh, đồng nghiệp … tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của họ đồng thời biết cách động viên, an ủi, chia sẻ khó khăn với họ. Từ những biểu hiện trên cho thấy, muốn điều khiển, điều chỉnh được bản thân và
học sinh thì người giáo viên phải gây được ấn tượng ban đầu tốt đẹp với học sinh, phụ
huynh … kiểm soát được cảm xúc của bản thân, biết sử dụng hợp lí các phương tiện giao
tiếp… nói khác đi, kĩ năng điều khiển, điều chỉnh bản thân trong giao tiếp sư phạm là loại
kĩ năng giao tiếp tổng hợp, trong nó bao gồm nhiều kĩ năng thành phần. Chúng phối hợp
và hỗ trợ nhau để cùng thực hiện mục đích của hoạt động sư phạm.
Vì thế muốn thực hiện tốt kĩ năng này thì người giáo viên phải hiểu rõ mục đích
giao tiếp, nắm vững các nguyên tắc giao tiếp sư phạm, hiểu được đặc điểm tâm lí và đặc
điểm cá nhân của học sinh để có thể phác thảo được chân dung tâm lí của các em, sử
dụng các phương tiện giao tiếp khác nhau để tác động đến học sinh, tập trung chú ý để
quan sát các diễn biến tâm lí của học sinh, chuẩn bị tâm thế cho quá trình giao tiếp sư
phạm…
3.4. Mối quan hệ giữa các kĩ năng giao tiếp sư phạm
Để quá trình giao tiếp sư phạm thành công, nhanh chóng đạt được mục đích đề ra
thì trong quá trình giao tiếp, người giáo viên cần sử dụng phối hợp nhiều kĩ năng giao
tiếp sư phạm chứ không sử dụng thuần tuý một kĩ năng nào. Bởi vì mỗi kĩ năng giao tiếp
sư phạm chỉ có một vai trò nhất định chứ không thay thế nhau được. Mặt khác, các kĩ
năng này có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau, là
điều kiện và kết quả của nhau. Chẳng hạn, phải chuẩn bị tốt thì mới chủ động gây được
ấn tượng ban đầu tốt đẹp với học sinh, phụ huynh... mới điều khiển, điều chỉnh được họ,
hướng họ và chủ đề giao tiếp. Muốn hiểu học sinh, phụ huynh… thì phải lắng nghe họ,
phải kiểm soát được cảm xúc của bản thân…
Trong các kĩ năng giao tiếp sư phạm nói trên có những kĩ năng chỉ vận dụng được
trong một số hoàn cảnh cụ thể (ví dụ: kĩ năng gây ấn tượng ban đầu) nhưng cũng có
những kĩ năng phải thực hiện thường xuyên suốt quá trình giao tiếp sư phạm (kĩ năng
lắng nghe, kĩ năng kiểm soát cảm xúc của bản thân, kĩ năng điều khiển, điều chỉnh quá
trình giao tiếp sư phạm…). Vì vậy muốn thành công trong hoạt động sư phạm, muốn trở
thành người giáo viên giỏi thì cần phải thường xuyên rèn luyện các kĩ năng giao tiếp sư
phạm cùng với việc trau dồi các tri thức chuyên môn và tri thức nghiệp vụ sư phạm… bởi đó là những điều kiện quan trọng không thể thiếu trong hoạt động sư phạm của người
thầy giáo. This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
|