Tùng tâm sở dục nghĩa là gì

Nhân sinh thất thập : “cổ lai hi” hay “nhi tòng tâm bất du củ” ?

Phan Văn Thạnh

Nhiều người thuộc, nhưng có lẽ thỉnh thoảng mới dùng nên khi đụng tới, nhớ láng máng nhầm lẫn, cài cắm thơ cụ này vào ý cụ kia, rồi bỏ mặc cho thế nhân, ai muốn hiểu thì xin “làm ơn” tra tìm giùm. Riêng tôi rất cám ơn vì có dịp “đào bới” ôn lại chút vốn liếng thời theo học C/c Văn chương Việt Hán – Văn Khoa Saigon(1971). Vậy thì: nhân sinh thất thập cổ lai hi hay thất thập nhi tòng tâm khi “tụng kinh” nhà họ Khổng ?

1- Thực ra câu “Nhân sinh thất thập cổ lai hi” trích xuất từ bài “Khúc Giang Nhị Thủ – Kỳ Nhị” của Đỗ Phủ (712-770). Câu thơ thường được hiểu là “Người thọ 70, xưa nay hiếm” và dừng lại ở cách hiểu đó như trích dẫn trong Di chúc của Cụ Hồ – nhưng đặt trong ngữ cảnh bài thơ (Khúc Giang Nhị Thủ) thì đó là một lời than của Đỗ Phủ về tuổi đời (70) rất hiếm, khó đạt tới, nên chăng phải tranh thủ vui đi chớ có hành xử trái với đời.

 Nguyên tác chữ Hán (nguồn thivien.net):

曲江其二 

朝回日日典春衣,

每日江頭盡醉歸。

酒債尋常行處有,

人生七十古來稀。

穿花蛺蝶深深見,

點水蜻蜓款款飛。

傳語風光共流轉,

暫時相賞莫相違。

Phiên âm:

Khúc Giang – kỳ nhị

Triều hồi nhật nhật điển xuân y,

Mỗi nhật giang đầu tận túy quy.

Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,

Nhân sinh thất thập cổ lai hi.

Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,

Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi.

Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,

Tạm thời tương thưởng mạc tương vy.

Dịch nghĩa  :

Sông Khúc (bài 2)

Ngày ngày khi tan triều, áo đẹp đem đi cầm ngay,

Ngày nào cũng ở đầu sông uống thật say mới về.

Nợ tiền uống rượu vốn chuyện thường nơi nào cũng có,

Xưa nay đời người sống tới bảy chục là hiếm hoi.

Bươm bướm luồn hoa thấp thoáng hiện ra,

Chuồn chuồn giỡn nước chập chờn bay.

Nhắc người rằng phong cảnh thường hay thay đổi,

Hãy cùng nhau hưởng đi, chớ nên bỏ qua.

Bản dịch thơ của Tản Đà

Bến Sông II

Khỏi bệ vua ra, cố áo hoài

Bến sông say khướt, tối lần mai

Nợ tiền mua rượu đâu không thế?

Sống bảy mươi năm đã mấy người?

Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn

Chuồn chuồn giỡn nước lững lờ chơi

Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi

Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.

Tùng tâm sở dục nghĩa là gì

2- Trái lại câu “Thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ” trích từ sách Luận Ngữ     (論語) – một trong bốn cuốn sách gọi là Tứ Thư (Luận Ngữ, Đại Học, Mạnh tử và Trung Dung) do Khổng Tử (551 TCN – 479 TCN) và những đệ tử của mình biên soạn. Ngài đúc kết kinh nghiệm bản thân truyền lại cho đời sau – tạm gọi“hệ quy chiếu” Khổng Mạnh:

 “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ”.

Ý rằng: “Ta 15 tuổi chí ở học hành, 30 tuổi có thể tự lập, 40 tuổi không còn nghi hoặc, 50 tuổi biết được mệnh Trời, 60 tuổi ta biết điều phải trái, 70 tuổi tâm theo ý mình, có thể làm một cách tùy ý nhưng lại không vượt ra ngoài quy tắc khuôn khổ”. Diễn giải thêm:

* Tam thập nhi lập: 30 tuổi có thể tự lập. Con người ở độ tuổi này về cơ bản đã có thể  làm chủ bản thân, xác lập được phương hướng phát triển cuộc đời mình – gánh vác những trách nhiệm mình cần đảm đương. “Nhi lập” ở đây bao gồm các khái niệm: lập thân, lập nghiệp, lập gia: – tuổi 30 định hình nhân cách và sự tu dưỡng bản thân – xác lập công danh, sự nghiệp mà mình muốn theo đuổi – chín chắn, hiểu rõ về hôn nhân và trách nhiệm xây dựng gia đình.

* Tứ thập nhi bất hoặc: 40 tuổi không còn mê lầm – Chữ “hoặc” – bộ tâm[惑]là ngờ, hoài nghi/mờ tối, lầm lẫn – là độ tuổi trưởng thành nhận thức tỉnh táo, minh bạch với bản thân, với người khác, biết vận dụng điều bất biến để ứng vạn biến, có thể nhìn thấu vạn vật trên thế gian.

* Ngũ thập nhi tri thiên mệnh: 50 tuổi biết mệnh Trời – hình dung khá rõ số phận – đây là giai đoạn chín muồi trong cuộc đời – nhiều dự tính dường như đã thành hình – hiểu biết nhiều về xã hội và do vậy càng thấu hiểu bản thân mình hơn. Họ xác lập được bản lĩnh ứng phó với mọi việc.

* Lục thập nhi nhĩ thuận: 60 tuổi tai nghe nhận biết điều phải trái. Dẫu ai nói ngả nói nghiêng, dù gặp phải cảnh ngộ trắc trở, khó khăn đều không quá dao động. Họ rất điềm tĩnh và thuận theo quy luật của sự vật – thản nhiên trước vinh nhục, ngộ ra ý nghĩa đời người, nhìn thấu kiếp nhân sinh,coi nhẹ danh lợi.

* Thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ: 70 tuổi tâm theo ý mình không ra ngoài khuôn phép. Họ có thể muốn gì làm nấy theo cách nghĩ của mình – biết cách sống thuận theo tự nhiên, thích ứng với mọi hoàn cảnh, không vượt ngoài khuôn khổ. Sống đạm bạc, biết đủ, biết nhàn (tri túc, tri nhàn) – an nhiên thích thản – không oán người, trách trời, trách đất, không để tâm lo nghĩ quá mức. Sức khỏe suy giảm từng ngày cũng không hoảng hốt, thấy cái chết cận kề mỗi ngày cũng không khiếp sợ. Mọi thứ cứ thuận theo quy luật,tùy cảnh an nhiên – Và, nói như Thiền sư Trần Nhân Tông: “đối cảnh vô tâm; mạc vấn thiền”.(*)

Tóm lại chữ “thất thập” của Đỗ Phủ là lời than tuổi già 70 rất hiếm, hãy vui thú với đời chớ nên bỏ qua – “thất thập” của Khổng Tử là bài học nhân sinh, chỉ cách sống thọ theo lòng mong muốn, không vượt quá qui tắc, khuôn khổ đạo lý. Chữ “củ” – bộ mộc [榘] là cái khuôn – khuôn phép.

Ngày nay trong điều kiện khoa học tiến bộ,kinh tế toàn cầu phát triển như vũ bão, nền y học thế giới đạt nhiều thành tựu phi thường – có thể chấn chỉnh dung nhan con người – “đập ra xây lại”, cãi lão hoàn đồng, ghép tạng kéo thêm sự sống cho con người như hóa phép. Cuộc sống được cãi thiện tác động tuổi thọ cũng được nâng lên – Tuổi 70 rất phổ biến – có cụ trèo lên 80, hái luôn 90… thậm chí cán mốc 100 mới chịu buông ! Ở đây lời dạy của cổ nhân mang tính tham khảo, ứng với từng chặng tuổi biết hành xử cuộc đời – “thời hành tắc hành, thời chỉ tắc chỉ”- biết tiến, biết thoái không mù quáng, mê lầm.

Riêng với ông “Thánh thơ” Đỗ Phủ – chiều hướng tư duy có phần hóm hỉnh – tuổi 70 (khi xưa) không dễ đạt đâu – hiếm lắm vậy! – Nên chi ta cứ vui hưởng, chớ hoài phí – tất nhiên với điều kiện lực phải tòng tâm… !

Phan Văn Thạnh

(Saigon,17/8/2020)

(*) Trích bài kệ “Cư Trần Lạc Đạo Phú” của Thiền sư Trần Nhân Tông(1258-1308) – Thơ Thiền Lý-Trần, tr 268, Tập I – NXB Văn Nghệ TP HCM,1998. Tạm diễn nghĩa: Đối với cảnh bên ngoài, dù đẹp hay xấu, trái hay phải, thuận hay nghịch, tiếng khen hay tiếng chê, mà tâm không hề xao xuyến, không hề dấy động, tâm như như bất động – không cần hỏi Thiền nữa.

17:22, 02/09/2018 (GMT+7)

* Khổng Tử chia cuộc đời con người thành mấy giai đoạn, trong đó “thất thập cổ lai hy” có phải là một trong các giai đoạn này? (Hoàng Mỹ, Sơn Trà, Đà Nẵng)

- Sách Luận ngữ có chép câu nói của Khổng Tử (551-479 Trước CN): “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ”. Nghĩa là: Ta 15 tuổi mới có chí học hành. 30 tuổi thì (tự) đứng vững được (tự lập), 40 tuổi chẳng nghi hoặc (vì trí tuệ đã mở mang), 50 tuổi biết mệnh trời, 60 tuổi biết phán đoán mọi sự, 70 tuổi theo lòng mình muốn mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý.

Tùng tâm sở dục nghĩa là gì
Khổng Tử (551-479 Trước CN).

Từ đó, người đời sau cho rằng Khổng Tử chia cuộc đời con người thành 6 giai đoạn như sau:

1. “Thập hữu ngũ nhi chí vu học”: 15 tuổi thì để hết tâm trí vào việc học. [Chữ “hữu” ở đây có nghĩa là “thêm” (thập hữu ngũ: mười thêm năm, tức là 15)]. Nói cách khác, thiếu thời cần tập trung vào việc tu dưỡng, xác định chí hướng và tích lũy kiến thức.

2. “Tam thập nhi lập”: 30 tuổi thì tự lập, gây dựng sự nghiệp cho mình, có khả năng nuôi sống bản thân và xác lập một vị trí nhất định của mình trong xã hội.

3. “Tứ thập nhi bất hoặc”: 40 tuổi có thể hiểu thấu mọi sự lý trong thiên hạ, có kiến thức và kinh nghiệm phong phú, nên đối với những việc diễn ra trong xã hội có chính kiến rõ ràng, kiên định, không còn nghi ngờ (bất hoặc).

4. “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: 50 tuổi mới có thể thông suốt chân lý của tạo hóa, tức là hiểu được mệnh của trời. Ở tuổi này đã nắm vững quy luật tự nhiên và xã hội, biết được xu thế của thời cuộc, nên công việc thường thuận lợi và dễ dàng đi đến thành công.

5. “Lục thập nhi nhĩ thuận”: 60 tuổi thì không còn chướng tai gai mắt; do lý giải đúng căn nguyên của mọi việc diễn ra xung quanh và thấu hiểu nhân tình thế thái, nên dễ thông cảm và có thái độ khoan dung hơn – nhìn sự việc không còn thấy chướng tai gai mắt (thuận nhĩ); không như tuổi trẻ hiểu biết còn nông cạn, nên trước nhiều sự việc thường cảm thấy khó chịu, bực mình.

Tuy sách giải thích “Lục thập nhi nhĩ thuận” là “Sáu mươi tuổi ưa nghe (nói) những điều thuận tai”, nhưng nhiều người nghiêng về cách giải thích của học giả Nguyễn Hiến Lê: “Lục thập nhi nhĩ thuận”, chữ “nhĩ” ở đây được xem như chữ “dĩ”, nghĩa là “Sáu mươi tuổi thì thuận theo mệnh trời”.
6. “Thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ”: 70 tuổi sẽ đạt đến tình trạng hoàn hảo về cách xử thế ở đời, nói hay làm điều gì cũng thể hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao được vậy và không bao giờ vượt ra khỏi khuôn khổ (bất du củ = không vượt ra ngoài quy tắc).

“Thất thập cổ lai hy” không phải lời Khổng Tử mà được trích từ một câu thơ của thi hào Đỗ Phủ (712 – 770) thời nhà Đường, Trung Quốc. Nguyên văn hai câu 3 và 4 trong bài “Khúc giang” (bài thứ hai) của họ Đỗ là: “Tửu trái tầm thường hành xử hữu/ Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Tản Đà dịch thơ: “Nợ tiền mua rượu đâu không thế? Sống bảy mươi năm đã mấy người?”. Họ Đỗ viết như thế, bởi thời đó, rất hiếm có người thọ đến 70 tuổi (bản thân ông cũng chỉ sống chưa đến tuổi 59).

So với “thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ” thì “thất thập cổ lai hy” phổ biến hơn (Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói đến cụm từ này trong Di chúc). Vì thế, không ít người cứ theo cái đà tam thập, tứ thập, ngũ thập, lục thập… mà phóng luôn “thất thập cổ lai hy”, không hề biết rằng mình đã làm cái việc mà người ta gọi là “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”.

ĐNCT