Từ khi thành lập đến nay, đảng cộng sản việt nam đã đề ra bao nhiêu cương lĩnh chính trị?

Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm (Thái Lan) đang tìm đường về nước thì nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân liệt, những người Cộng sản chia thành nhiều phái, Người lập tức trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam) và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 06-01-1930. Sau nhiều ngày thảo luận, đến ngày 03-02-1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Cụ thể: Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công-nông-binh và tổ chức quân đội công nông. Về kinh tế, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ mới; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ. Về văn hóa, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng sản. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Về mối quan hệ quốc tế, Luận cương xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc. Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để giành chính quyền về tay nhân dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.

Tuy rằng, nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau, song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hoàn thiện hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường”[1].

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam-Những chặng đường lịch sử (1930-2012)

 Từ khóa: lịch sử, chí minh, cách mạng, xu thế, yêu cầu, phát triển, khách quan, tinh thần, quan điểm, sáng tạo, phù hợp, giai cấp, thấm nhuần, thời đại, cương lĩnh

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Từ khi thành lập đến nay, đảng cộng sản việt nam đã đề ra bao nhiêu cương lĩnh chính trị?

Từ khi thành lập đến nay, đảng cộng sản việt nam đã đề ra bao nhiêu cương lĩnh chính trị?
Từ khi thành lập đến nay, đảng cộng sản việt nam đã đề ra bao nhiêu cương lĩnh chính trị?

Từ khi thành lập đến nay, đảng cộng sản việt nam đã đề ra bao nhiêu cương lĩnh chính trị?

Từ khi thành lập đến nay, đảng cộng sản việt nam đã đề ra bao nhiêu cương lĩnh chính trị?

Từ khi thành lập đến nay, đảng cộng sản việt nam đã đề ra bao nhiêu cương lĩnh chính trị?

  • Đang truy cập66
  • Máy chủ tìm kiếm8
  • Khách viếng thăm58
  • Hôm nay10,527
  • Tháng hiện tại42,252
  • Tổng lượt truy cập14,938,282

     Trang thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum
   
 - Giấy phép số 01/GP-TTĐT, ngày 28 tháng 8 năm 2020

     - Cơ quan chủ quản: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum, số 236 Bà Triệu, Tp Kon Tum, tỉnh Kon Tum
     - Người chịu trách nhiệm chính: Ông Huỳnh Quốc Huy, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
     - Điện thoại: 0260.3862301. Fax: 0260. 3865464. Email:
      Ghi rõ nguồn tuyengiaokontum.org.vn khi sử dụng lại thông tin từ website này

Trang chủ / Tin tức- Sự kiện

Th.s Nguyễn Thị Thủy - Khoa: LLCT - TLGD

Hơn 90 năm kể từ khi thành lập đến nay (1930 - 2021), Đảng ta đã trải qua 12 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trước thềm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta cùng điểm lại các sự kiện lịch sử và các kỳ Đại hội Đảng đã diễn ra trong chặng đường hơn 90 năm ấy.

Từ ngày 03/02/1930 đến 07/02/1930 tại Cửu Long (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đã diễn ra dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc - đại biểu Quốc tế Cộng sản cùng với 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị nhất trí với 5 điểm lớn theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã đề ra Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội lần thứ nhất của Đảng: Khôi phục tổ chức, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp từ ngày 28/3/1935 đến 31/3/1935, tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt gần 6.000 đảng viên đang hoạt động ở trong nước và ngoài nước.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Căn cứ tình hình cụ thể và dự báo tình hình trong nước, thế giới, Đại hội đề ra ba nhiệm vụ chủ yếu: Củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi; đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc; thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ Đảng, các Nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ...  

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 đồng chí, do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư. Gần hai năm sau, tháng 3/1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 5/1941, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư.

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh giữ gìn và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở, từ trong nước đến nước ngoài.

Đại hội lần thứ II của Đảng: Đảng lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11/2/1951 đến 19/2/1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 760 nghìn đảng viên.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Đại hội đã tổng kết 21 năm Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, 5 năm lãnh đạo chính quyền non trẻ và công cuộc kháng chiến kiến quốc; Đại hội đã phát triển đường lối kháng chiến và đề ra những chính sách cụ thể để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn và chuẩn bị những tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi kháng chiến thành công.

Do sự phát triển và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội quyết định xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 Ủy viên chính thức và 10 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Đặc biệt ở Đại hội II của Đảng, Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II đánh dấu sự trưởng thành của Đảng ta về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội lần thứ III của Đảng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp từ ngày 5/9/1960 đến 10/9/1960 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 500 nghìn đảng viên.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Đại hội được tiến hành với chủ đề: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà.

Đại hội chỉ rõ Đảng lãnh đạo đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền khác nhau: Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, là hậu phương lớn của cả nước, có vai trò quyết định nhất đối với cách mạng cả nước; Miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, là tiền tuyến lớn, có vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp chống Mỹ thống nhất nước nhà.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 78 đồng chí, trong đó 47 Ủy viên chính thức và 31 Ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được bầu làm Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Đảng; đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội lần thứ IV của Đảng: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Ðại hội lần thứ IV của Ðảng họp từ ngày 14/12/1976 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.008 đảng viên thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước. Dự Ðại hội có 29 đoàn đại biểu quốc tế.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Đại hội lần thứ IV của Đảng là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội quyết định: Đổi tên Đảng từ Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam; Đổi tên Nhà nước từ nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sang nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đại hội đã vạch ra đường lối, chủ trương xuyên suốt giai đoạn này là thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 101 Ủy viên chính thức, 32 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 Ủy viên chính thức và ba Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.

Ðại hội lần thứ V của Ðảng: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân

Ðại hội lần thứ V của Ðảng họp từ ngày 27/3/1982 đến 31/3/1982 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Ðại hội có 1.033 đại biểu đại diện cho hơn 1,72 triệu đảng viên trong cả nước.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Đại hội đánh giá toàn diện những thắng lợi mà Đảng và nhân dân ta giành được trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc từ sau năm 1975. Đại hội khẳng định toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai gây ra, khôi phục và phát triển sản xuất, phân bố lại lao động xã hội, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở miền Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được những kết quả bước đầu. Trong tư duy về Công nghiệp hóa, lần đầu tiên Nghị quyết của Đảng đưa nông nghiệp lên mặt trận hàng đầu.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 116 đồng chí Ủy viên chính thức, 36 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành bầu Bộ Chính trị gồm 13 Ủy viên chính thức và hai Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu tiếp tục làm Tổng Bí thư của Đảng. Ngày 10.7.1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn từ trần.  Ngày 14/7/1986, Ban chấp hành trung ương họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng bí thư thay đồng chí Lê Duẩn.

Đại hội lần thứ VI của Đảng: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước

Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15/12/1986 đến 18/12/1986 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Chủ đề của Đại hội: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học.

Đại hội đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện đất nước: lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới chính trị làm then chốt. Xác định 3 chương trình kinh tế lớn: Lương thực, thực phẩm – hàng tiêu dùng – hàng xuất khẩu.

Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XHCN nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lê-nin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo XHCN, phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất XHCN.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 124 Ủy viên chính thức và 49 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 Ủy viên chính thức và một Ủy viên dự khuyết, bầu Ban Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ VII của Đảng: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường XHCN

Đại hội lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24/6/1991 đến 27/6/1991 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 2 triệu 155 nghìn đảng viên trong toàn Đảng.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Chủ đề Đại hội: “Đại hội trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - Đoàn kết”.  

Đại hội lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng (Điều lệ Đảng sửa đổi).

Đại hội bầu BCH Trung ương gồm 146 Ủy viên. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 13 Ủy viên, Ban Bí thư gồm chín Ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trách nhiệm làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ VIII của Đảng: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Đại hội lần thứ VIII của Đảng diễn ra từ ngày 28/6/1996 đến 1/7/1996 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong toàn Đảng.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Chủ đề Đại hội: “Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Đại hội khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, đại hội rút ra 6 bài học chủ yếu.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII gồm 170 Ủy viên. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 19 Ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu tiếp tục làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao nhiệm vụ làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VIII (họp từ ngày 22 đến 29/12/1997), Ban Chấp hành Trung ương Đảng chấp nhận đề nghị của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười về việc chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư; bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt được giao nhiệm vụ làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ IX của Đảng: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 19/4/2001  đến 22/4/2001 với sự tham gia của 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.719 đảng viên trong toàn Đảng.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Chủ đề Đại hội: Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược, 15 năm đổi mới, rút ra những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.

Đại hội chỉ rõ mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 150 đồng chí; Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 15 đồng chí; Ban Bí thư 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội lần thứ X của Đảng: Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển

Đại hội lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18/4/2006 đến ngày 25/4/2006 tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Đại hội được tiến hành với tinh thần trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững. Đại hội kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, tổng kết 20 năm đổi mới, xác định mục tiêu phương hướng phát triển đất nước 5 năm tới. Đánh giá sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn.

Đại hội đề ra mục tiêu: Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội chỉ rõ mô hình kinh tế của nước ta hiện nay là kinh tế thị trường định hướng XHCN – đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa X gồm 160 Ủy viên chính thức và 21 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương họp phiên thứ nhất bầu 14 đồng chí vào Bộ Chính trị và 8 đồng chí vào Ban Bí thư. Đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị Trung ương 9 họp từ ngày 5 đến 14.1.2009 bầu bổ sung một đồng chí vào Bộ Chính trị, hai đồng chí vào Ban Bí thư.

Đại hội lần thứ XI của Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước

Đại hội lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12/1/2011 đến 19/1/2011 tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.377 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,6 triệu đảng viên trong toàn Đảng.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Đại hội thảo luận, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 2011 trên cơ sở tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát triển “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991 được thông qua tại Đại hội VII); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi) và nhiều văn kiện quan trọng khác.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI gồm 175 đồng chí Ủy viên chính thức và 25 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; Ban Bí thư gồm bốn đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội lần thứ XII của Đảng: Bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển

Đại hội lần thứ XII của Đảng họp từ ngày 20/1/2016 đến 28/1/2016 tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.510 đại biểu được tổ chức thành 68 đoàn. Đây là Đại hội có số lượng đại biểu đông nhất trong 12 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.

Nội dung cơ bản của Đại hội:

Chủ đề Đại hội: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng  hiện đại”. Đại hội đã đánh giá thành tựu 30 năm đổi mới đất nước (1986 – 2016), nêu lên 8 thành tựu đạt được và 8 hạn chế cần khắc phục trong những năm tới.

Đại hội thống nhất đánh giá: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững”.

Đại hội lần thứ XII là Đại hội đầu tiên Đảng ta thực hiện Đề án: “Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo”.

Với tinh thần trách nhiệm cao, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá mới gồm 200 đồng chí, trong đó 180 đồng chí Uỷ viên chính thức, 20 đồng chí Uỷ viên dự khuyết.Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã họp để bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tín nhiệm bầu tiếp tục giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.