Tư duy trực quan là gì

các tư duy trực quan nó là một loại kiến ​​thức mà chúng ta có được mà không cần phải đưa ra bất kỳ loại lý luận nào. Nó được coi là được tạo ra bởi hành động của tiềm thức, một phần trong tâm trí của chúng ta mà chúng ta không thể truy cập theo ý muốn nhưng điều đó xử lý một lượng thông tin khổng lồ.

Nói chung, chúng ta không thể chọn khi nào chúng ta sẽ sử dụng tư duy trực quan. Thay vào đó, trong một số tình huống nhất định, chúng ta cảm thấy một trực giác: một cảm giác chỉ ra quá trình hành động mà chúng ta tin rằng chúng ta nên tuân theo hoặc câu trả lời cho một câu hỏi. Chúng ta có xu hướng coi những cảm giác này là "linh cảm" hoặc "linh cảm".

Tư duy trực quan là gì

Nghiên cứu về trực giác là một trong những chủ đề cơ bản cho các ngành học như tâm lý học tư tưởng. Trong bài viết này, bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho một số câu hỏi lớn nhất về kỹ năng này.

Chỉ số

  • 1 Đặc điểm
    • 1.1 Đây là một quá trình rất phức tạp.
    • 1.2 Cải thiện với thực tiễn
    • 1.3 Thuộc về não limbic
  • 2 Nó phát triển như thế nào?
    • 2.1 Bất tài vô thức
    • 2.2 Bất tài có ý thức
    • 2.3 Năng lực ý thức
    • 2.4 Năng lực vô thức
  • 3 ví dụ
  • 4 tài liệu tham khảo

Tính năng

Đây là một quá trình rất phức tạp

Mặc dù có vẻ tự nhiên đối với chúng tôi để sử dụng trực giác của chúng tôi, nghiên cứu mới nhất đã phát hiện ra rằng nó cực kỳ khó khăn. Trên thực tế, đó là thứ mà không có trí tuệ nhân tạo nào có thể tái tạo cho đến bây giờ.

Để có một số loại suy nghĩ trực quan, bộ não của chúng ta phải có khả năng xử lý hàng tỷ dữ liệu mỗi giây. Tuy nhiên, vì người chịu trách nhiệm thực hiện việc này là tâm trí vô thức của chúng tôi, chúng tôi không nhận ra nỗ lực mà việc này đòi hỏi.

Ngược lại, dữ liệu của chúng tôi chỉ đạt đến dữ liệu đã được xử lý, do đó, cảm giác của chúng tôi là trực giác chỉ "phát sinh". Điều này trái ngược với kinh nghiệm của chúng tôi trong việc cố gắng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp một cách có ý thức, chẳng hạn như giải quyết các vấn đề toán học.

Tuy nhiên, số lượng xử lý cần thiết để thực hiện loại hoạt động này là hoàn toàn có thể đạt được bởi ngay cả máy tính lâu đời nhất, trong khi không có máy nào có thể mô phỏng trực giác của con người cho đến bây giờ. Điều này cho chúng ta ý tưởng về lượng dữ liệu mà vô thức của chúng ta thực sự xử lý.

Cải thiện với thực tiễn

Một trong những nghiên cứu thú vị nhất liên quan đến tư duy trực quan là một nghiên cứu đã xem xét sự khác biệt giống nhau tùy thuộc vào thực tiễn của mọi người trong một chuyên ngành cụ thể. Kết quả cho thấy, khác xa với một thứ gì đó bẩm sinh, trực giác tăng lên với sự thành thạo.

Ví dụ, một người chơi tennis mới làm quen sẽ có một chút trực giác về quỹ đạo của quả bóng hoặc cách anh ta phải đánh.

Ngược lại, ai đó đã chơi trong nhiều năm sẽ tích lũy đủ dữ liệu để tạo ra tất cả các loại suy nghĩ trực quan về các khía cạnh này.

Thuộc về não limbic

Theo truyền thống, các cấu trúc não bộ được chia thành ba nhóm: những nhóm liên quan đến bản năng và sinh tồn cơ bản nhất, những cấu trúc liên quan đến cảm xúc và những nhóm liên quan đến logic và suy nghĩ có ý thức.

Trực giác sẽ nằm trong một số cấu trúc nhất định thuộc hệ limbic, chịu trách nhiệm cho cảm xúc. Bởi vì các phần cũ của não có xu hướng kiểm soát những phần gần đây hơn, nên suy nghĩ trực quan có xu hướng chi phối phân tích logic của chúng ta.

Đó là lý do tại sao người ta thường thấy rằng một người loại bỏ thứ gì đó dường như hiển nhiên trong phân tích hợp lý để làm theo những gì linh cảm nói với anh ta. Trong trường hợp này, hệ thống limbic của bạn sẽ gửi cho bạn một tín hiệu mà bộ não logic của bạn không thể vượt qua.

Nó phát triển như thế nào?

Nghiên cứu về trực giác đã chỉ ra rằng, trong hầu hết các trường hợp, chúng ta không được sinh ra với khả năng này. Ngược lại, phát triển tư duy trực quan là một quá trình đòi hỏi phải thu thập rất nhiều dữ liệu và điều đó sẽ cải thiện hơn một tên miền cụ thể được làm chủ.

Vậy tại sao chúng ta có trực giác vào những thời điểm nhất định? Câu trả lời là chúng ta đã tích lũy được một lượng thông tin khổng lồ về một số vấn đề nhất định trong suốt cuộc đời, vì vậy bây giờ bộ não của chúng ta có thể hình thành những loại suy nghĩ này mà không cần chúng ta phải nỗ lực.

Một ví dụ sẽ là khả năng nhận ra trạng thái cảm xúc của một người. Mặc dù thật dễ dàng để chúng ta biết ai đó buồn hay vui chỉ bằng cách nhìn vào anh ta, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo đã phát hiện ra rằng làm như vậy thực sự phức tạp.

Tuy nhiên, vì chúng ta được sinh ra nên chúng ta đang quan sát người khác và phân tích cảm giác của họ, đến khi chúng ta đạt đến cuộc sống trưởng thành, chúng ta đã là chuyên gia đọc các trạng thái cảm xúc. Quá trình nội địa hóa này tuân theo bốn giai đoạn, bất kể khu vực chúng ta đang nói đến:

Bất tài vô thức

Trước khi chúng ta bắt đầu học một cái gì đó, chúng ta rất thờ ơ về chủ đề mà chúng ta thậm chí không nhận thức được những gì chúng ta không biết.

Tại thời điểm này, chúng ta không thể có bất kỳ loại trực giác nào trong khía cạnh đặc biệt này của cuộc sống của chúng ta và những người mà chúng ta có sẽ sai.

Bất tài có ý thức

Khi chúng ta bắt đầu thực hiện một nỗ lực có ý thức để tìm hiểu về điều gì đó, trước tiên chúng ta nhận ra tất cả những điều chúng ta chưa biết.

Ở đây chúng ta không thể có trực giác chính xác, nhưng ít nhất chúng ta nhận ra rằng những cái chúng ta có trước đây là sai.

Năng lực ý thức

Khi chúng ta đã thực hành đủ, chúng ta có thể phân tích các tình huống một cách chính xác và biết những gì chúng ta phải làm mọi lúc.

Tuy nhiên, trong giai đoạn thứ ba này, chúng tôi chưa tiếp thu được kiến ​​thức, vì vậy những phân tích này luôn đòi hỏi một nỗ lực. Tư duy trực quan chưa phát triển.

Năng lực vô thức

Cuối cùng, với đủ thời gian và thực hành đúng đắn, bộ não của chúng ta đã có thể nội tâm hóa mọi thứ chúng ta đã học về chủ đề này.

Đây là nơi trực giác thực sự sẽ phát sinh. Thật ra những thứ này sẽ không hơn tất cả những kiến ​​thức mà chúng ta đã tích lũy, được lọc bởi tâm trí vô thức của chúng ta.

Ví dụ

Dưới đây bạn sẽ tìm thấy một số ví dụ về trực giác và suy nghĩ trực quan.

- Nói chung, chúng tôi có thể biết khi ai đó nói dối chúng tôi. Điều này xảy ra bởi vì bộ não của chúng ta có thể phân tích hàng triệu dữ liệu biểu hiện trên khuôn mặt khác, được gọi là "microestos".

- Nhiều lần chúng ta cảm thấy liệu một quá trình hành động có phù hợp hay không. Cảm xúc cảnh báo chúng ta về nó được sinh ra từ những trải nghiệm tương tự mà chúng ta đã trải nghiệm trước đó.

- Khi chúng ta thành thạo một môn học, chẳng hạn như âm nhạc hoặc thể thao, chúng ta có thể thực hiện những chiến công tuyệt vời một cách trực quan. Điều này xảy ra bởi vì chúng ta có hàng trăm giờ luyện tập sau lưng, bộ não của chúng ta xử lý để cho chúng ta một câu trả lời.

Tài liệu tham khảo

  1. "Suy nghĩ trực quan trong con người" trong: Nói về mặt tâm lý. Truy cập ngày: 04 tháng 6 năm 2018 từ Nói về tâm lý: psicologicamentehablando.com.
  2. "Kiến thức trực quan là gì? Đặc điểm và ví dụ "trong: Tài nguyên tự trợ giúp. Truy cập vào: 04 tháng 6 năm 2018 từ Tài nguyên Tự trợ giúp: recursosdeautoayuda.com.
  3. "4 loại tư duy trực quan" trong: Tâm trí thật tuyệt vời. Truy cập ngày: 04 tháng 6 năm 2018 từ La Mente es Maravillosa: lamenteesmaravillosa.com.
  4. "10 đặc điểm của trực giác" trong: Đặc điểm. Truy cập vào: 04 tháng 6 năm 2018 của Tính năng: caracteristicas.co.
  5. "Tư duy trực quan" trong: Wikipedia. Truy cập ngày: 04 tháng 6 năm 2018 từ Wikipedia: en.wikipedia.org.

Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ Phát triển tư duy là một mức độ cao của phát triển nhận thức, nhận thức là một mặt quan trọng trong 5 mặt phát triển nên phát triển tư duy tốt dẫn đến nhận thức tốt. Muốn giúp trẻ phát triển tư duy tốt thì giáo viên phải nắm được đặc điểm tư duy của từng độ tuổi để từ đó xây dựng mục đích, nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp cho trẻ. Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ ấu nhi ( 15- 36 tháng); Tư duy trực quan hành động; là loại tư duy được thực hiện bằng hành động bên ngoài theo phương pháp thử và sai. Việc xác lập mối quan hệ giữa các sự vật- hiện tượng với nhau là nhiệm vụ hoạt động của tư duy. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này, việc xác lập mối quan hệ đó chỉ mang tính ngẫu nhiên. Ví dụ: Trẻ muốn lấy đồ chơi trên bàn, vô tình kéo khăn trải bàn làm đồ chơi rơi xuống, nhiều lần thì trẻ xác lập được mối quan hệ giữa tấm khăn trải bàn với đồ vật trên bàn, nhiều lần sau thì trẻ hoạt động sáng tạo hơn. Ví dụ không kéo khăn trải bàn nữa mà dùng cây khều=> ngẫu nhiên nắm được kĩ năng=> sáng tạo=> các quá trình xuất hiện tư duy. Việc chuyển từ biết sử dụng mối quan hệ có sẵn hay mối quan hệ do người lớn chỉ ra sang biết xác lập mối quan hệ giữa các đối tượng là mức độ rất quan trọng đối với sự phát triển tư duy của trẻ em. Ví dụ , bé một lần thấy ba bật nút radio thì bé cũng tới bật, bật ngược lại thì radio tắt. Bé cứ bật đi bật lại khi thì radio tắt khi thì radio bật => bé đã thực hiện bài toán là nhờ phép thử và sai và trẻ đã xác lập được mối quan hệ giữa âm thanh và nút của radio. Do cuối tuổi hài nhi, tư duy trực quan hành động xuất hiện, nhưng đến tuổi ấu nhi thì loại tư duy này mới thực sự phát triển và chiếm ưu thế. Sự giúp đỡ của người lớn khi hành động với đồ vật, hành lớn đưa ra các mẫu hành động với đồ vật cho trẻ bắt chước. Mặt khác, vốn kinh nghiệm của trẻ còn nghèo nàn, nên giải quyết các vấn đề bằng hoạt động thử và sai của trẻ. Chính vì thế, giáo viên cần phát triển tư duy trực quan hành động cho trẻ; bằng các biện pháp: - Tổ chức nhiều hoạt động phong phú cho trẻ thử và sai với đồ vật để trẻ hiểu được mối quan hệ giữa các sự vật muôn màu muôn vẻ. - Tổ chức môi trường chơi, học tập phong phú; nguyên vật liệu đa dạng, kết hợp nhiều cách chơi khác nhau để giúp trẻ xác lập mối quan hệ dễ dàng hơn, tư duy nhạy bén hơn. Ngược lại tổ chức hoạt động nghèo nàn thì tư duy của trẻ phát triển kém. - Tạo tình huống có vấn đề để trẻ sáng tạo trong việc xác lập mối quan hệ. Ví dụ: cho trẻ xếp những khối gỗ chồng lên nhau, cô cho trẻ khối vuông và tam giác để trẻ hoạt động thử và sai => trẻ biết được khối vuông để ở dưới còn khối tam giác thì để ở trên. - Theo chương trình đổi mới thì lồng ghép vào đó các chủ đề chủ điểm Ví dụ: chủ đề động vật thì cho trẻ ráp hình con vật, ráp mào gà hay cho các bạn về đúng chuồng. - Đưa trẻ vào vùng phát triển gần, theo quan điểm của Vưgotxki, vì như thế tư duy của trẻ mới phát triển được. Ví dụ khi dạy về hình tròn mà trẻ đã biết thì cô cho trẻ dùng hình tròn để tạo ra những sản phẩm luôn=> dạy học đón đầu sự phát triển. Đây là giai đoạn trẻ lấy mình làm trung tâm nên cô cần có phương pháp, biện pháp thích hợp, không nên quá cứng nhắc Ngoài tư duy trực quan hànhd9ong65 thì cuối tuổi ấu nhi xuất hiện tư duy trực quan hình ảnh nhưng còn yếu vì vốn kinh nghiệm còn nghèo nàn, các thao tác tư duy chưa phát triển. Đây là loại tư duy dựa vào hình ảnh trong đầu để xác lập mối quan hệ. Trẻ ấu nhi sử dụng loại tư duy này để giải quyết các bài toán đơn giản nhất Ví dụ qua trò chơi đục lỗ, qua nhiều lần thử và sai trẻ đã có hình ảnh hình tròn trong đầu và hình ảnh hình tròn trong khuôn thủng thì trẻ dùng mắt nhìn các hình rời để so với hình tròn trong đầu thấy đúng là hình cần tìm thì trẻ lấy hình tròn rời ráp vào hình tròn trong khuôn thủng không cần phải thử và sai nữa. Khiểu tư duy này là một trình độ phát triển cao hơn kiểu tư duy trực quan hành động. Nhờ có tư duy trực quan hành động mà trẻ tích lũy được vốn kinh nghiệm là cho việc tư duy trực quan hình ảnh được dễ dàng hơn Chính vì thế, cần phát triển tư duy trực quan hình ảnh cho trẻ và loại tư duy này sẽ phát triển mạnh cho những lứa tuổi tiếp theo. Và giáo viên cần có những biện pháp phù hợp như sau: - Cô dựa trên vốn kiến thức mà trẻ đã có trong đầu , từ đó tổ chức các hoạt động thích hợp. - Tạo tình huống có vấn đề để khuyến khích trẻ giải quyết. _ Phát triển ở các góc chơi giả bộ như: trẻ nhập vai làm bố , mẹ để tái hiện lại những gì trong đầu của trẻ. - Giao nhiệm vụ giải quyết các bài tập đơn giản. - Tạo môi trường chơi phong phú để vốn kinh nghiệm được dồi dào hơn. Bên cạnh hai loại tư duy đó thì trẻ ấu nhi còn xuất hiện loại tư duy biểu trưng là loại tư duy mà trẻ tìm ra mối quan hệ giữa vật thật và vật biểu trưng thay thế. Loại tư duy này chỉ thực sự phát triển khi trẻ đã vững các biểu tượng trong đầu, nắm được công dụng, cách sử dụng các biểu tượng. Ví dụ trẻ biết được dùng muỗng để múc cơm, múc canh thì trẻ có thể dùng que để thay thế và đúc bột cho bé ăn. Vì thế, giáo viên cần phát triển tư duy biểu trưng thì khả năng phát triển trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ được tốt hơn. Như vậy, các loại tư duy trên là biểu hiện của sự phát triển trí tuệ. Bên cạnh đó, khái quát hóa là thao tác trí tuệ biểu hiện của nămg lục tư duy. Khái quát hóa ở tuổi ấu nhi là những khái quát bên ngoài là những gì đập vào mắt trẻ. Ví dụ bé gọi chó, mèo đều là mèo vì chúng có lông giống nhau, thâm chí gọi tóc bố là mèo Và giáo viên cần phát triển khả năng khái quát hóa cho trẻ. Do trẻ khái quát chủ yếu là những thao tác bên ngoài vì tư duy trực quan hành động phát triển rất mạnh và chiếm ưu thế. Trẻ mắt nhìn, tay xếp để đưa về nhóm, kinh nghiệm còn nghèo nàn nên khái quát hóa ở bình diện bên ngoài. Giáo viêm cần: - Cho trẻ làm quen với nhóm đồ chơi, giúp trẻ tìm re đặc điểm giống và khác nhau của các đối tượng trong nhóm rồi cho trẻ so sánh đối chiếu, nhằm phá vỡ cái cũ hình thành sơ đồ nhận thức mới - Cung cấp vốn từ cho trẻ để dễ dàng trong việc xếp nhóm, đặc tên cho nhóm. - Cho trẻ tích cực hoạt động với đồ vật với sự giúp đỡ của người lớn để trẻ nắm được chức năng, phương thức sử dụng các vật => giúp trẻ khái quát theo công dụng chức năng của đồ vật. - Phải tương tác với trẻ để đưa vào vùng phát triển gần. Ví dụ: Khi dạy về nhóm quả cà chua thì cô phải cung cấp thật nhiều quả có hình dạng, kích thước khác nhau, nhiều hạt,ít hạt=> tạo điều kiện cho trẻ khái quát bằng nhiều cách Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo ( 3-6 tuổi) Đến tuổi mẫu giáo tư duy của trẻ có một bước ngoặc rất cơ bản, đó là sự chuyển tư duy từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong, mà thực chất là chuyển từ hoạt động bên ngoài vào hoạt động bên trong treo cơ chế nhập tâm. Đặc điểm phát triển tư duy của mẫu giáo bé Đang chuyển từ tư duy trực quan hành động sang tư duy trực quan hình ảnh nhưng còn mờ nhạt. Do hoạt động với đồ vật lâu dần thành hình ảnh biểu tượng trong đầu, là cơ sở của hoạt động tư duy ở bình diện bên trong, nhưng biểu tượng vẫn còn nghèo nàn. Trẻ biết sử dụng các biểu tượng trong đầu nhưg phải sử dụng nhiều lần hoạt động để giải quyết vấn đề. Ví dụ: cô cắt hình các con vật rời yêu cầu trẻ ráp lại thì trẻ phải hoạt động nhiều lần mới làm được, trong khi ráp trẻ vẫn phải thử và sai. Ở tuổi này đang tồn tại hai loại tư duy: tư duy trực quan hành động phát triển và lấn áp sự phát triển của tư duy trực quan hình ảnh. Cuối tuồi thì tư duy trực quan hình ảnh phát triển. Nguyên nhân: vì đầu tuổi vốn kinh nghiệm còn nghèo nàn nên khó khăn khi giải quyết vấn đề bằng việc sử dụng các biểu tượng trong đầu, đến cuối tuổi thì kinh nghiêm nhiều hơn nên khả năng sử dụng các biểu tượng trong đầu để giải quyết các bài toán dễ dàng hơn. Tư duy trẻ bao giờ cũng bị chi phối mạnh bởi những suy nghĩ chủ quan, trẻ chỉ suy nghĩ những điều mà trẻ thích và bị cuốn hút vào ý thích riêng của mình bất chấp các tác động khách quan. Ví dụ như khi người lớn hỏi con dùng hình vuông hay hình tam giác nhưng trẻ lại trả lời là xây cầu Hoặc trẻ sợ con mèo và nghĩ ai cũng sợ con mèo cả. Bên cạnh đó, trẻ luôn lấy mình làm trung tâm, chưa phân biệt được suy nghĩ của mình và suy nghĩ của người khác. Tư duy trẻ mang tính trực giác toàn bộ. Trẻ chưa biết phân biệt được các vật về đặc điểm mà còn nhìn theo kiểu chụp ảnh. Ví dụ: có rất nhiều băng đĩa nhưng trẻ thích băng nào là lấy ngay băng đó khi hỏi trẻ tại sao thì trẻ không giải thích được. Qua đó, giáo viên cần: - Đưa trẻ vào vùng phát triển gần bằng cách cho trẻ giải quyết các bài tập cao hơn. - Tích lũy vốn kinh nghiêm biểu tượng để trẻ so sánh biểu tượng trong đầu với hình ảnh bên ngoài. - Tạo môi trường phong phú cho trẻ hoạt động. - Cô khuyến khích trẻ giải quyết các tình huống khi cô đưa ra. - Các nguyên vật liệu phong phú. - Giáo viên khơi gợi tình cảm cho trẻ chứ không đơn thuần là giài thích. - Chơi trò chơi trước để tích lũy vốn kinh nghiêm cho trò chơi sau. Bên cạnh đó loại tư duy biểu trưng xuất hiện. Và khái quát hóa được xem là tiêu chí đánh giá trình độ phát triển tư duy của trẻ, khái quát còn ở mức độ thấp, theo kinh nghiệm chỉ dựa vào những biểu tượng hình ảnh cụ thể ở trong đầu để phân tích so sánh tổng hợp tìm ra đặc điểm giống và khác nhau để đưa vào nhóm. Vì vậy cần: - Tổ chức trò chơi phù hợp với trẻ. - Cung cấp vốn biểu tượng phong phú về sự vật hiện tượng. - khái quát hóa bằng nhiều cách dựa vào nhiều đặc điểm. - Yêu cầu trẻ đặt tên cho nhóm. - Gợi ý để trẻ lập nhóm bằng nhiều cách.