Thuốc kháng sinh nhỏ mắt cho trẻ em

ThS. BS. Nguyễn Văn Huy (Bệnh viện Mắt TW)

Viêm kết mạc ở trẻ em là một trong những tình trạng bệnh lý gây đỏ mắt do nhiều nguyên nhân gây nên, bao gồm: vi khuẩn, virut, Chlamydia và viêm dị ứng. Cần phân biệt viêm kết mạc ở trẻ em với tắc lệ đạo, chấn thương mắt, viêm loét giác mạc và viêm mống mắt. Các bệnh này cũng gây đỏ mắt nhưng kèm theo giảm thị lực.

Thuốc kháng sinh nhỏ mắt cho trẻ em

Trẻ bị viêm kết mạc.

Viêm kết mạc do vi khuẩn

Viêm kết mạc do các loại vi khuẩn thông thường: Hay gặp nhất là các loại vi khuẩn như tụ cầu, liên cầu, phế cầu, bạch hầu; Haemophilus influenzae, trực khuẩn Weeks, Moraxella... Bệnh thường xuất hiện đột ngột, lúc đầu ở một mắt, sau lan sang mắt kia. Bệnh diễn biến cấp tính, trẻ kêu cộm mắt như có dị vật, bỏng rát mắt, chảy nước mắt nhiều, trẻ hay dụi mắt. Mắt có nhiều dử kèm nhèm rất khó mở mắt vào buổi sáng. Mi mắt sưng nề, đóng vảy khô do dử mắt, dử mắt dạng mủ nhày. Kết mạc đỏ, có thể có những chấm xuất huyết ở kết mạc. Trường hợp nặng có thể có màng giả (màng màu trắng xám) bám trên kết mạc (cần đưa trẻ đến các cơ sở y tế để bóc màng giả, khi bóc màng giả có thể gây chảy máu). Thị lực của trẻ có thể bình thường nếu bệnh không ảnh hưởng đến giác mạc.

Điều trị:

- Dội, rửa mắt thường xuyên bằng dung dịch NaCl 0,9% để loại bỏ tối đa dử mắt và vi khuẩn.

- Đưa trẻ đến các cơ sở y tế chuyên khoa khám và làm xét nghiệm để xác định tác nhân gây bệnh.

- Bóc màng giả hằng ngày hoặc cách ngày (nếu có màng giả).

- Thuốc: chủ yếu là dùng kháng sinh tra tại mắt, tra thuốc nước ban ngày, tra nhiều lần trong ngày (10 đến trên 15 lần/ngày), thuốc mỡ tra buổi tối trước khi ngủ, thời gian điều trị thường kéo dài 10 - 15 ngày.

Các loại kháng sinh tra mắt: tobramicin, tobrex, neomycin, cebemyxin, erythromycin, polymyxin B... Nếu nguyên nhân do bạch hầu cần dùng huyết thanh kháng bạch hầu. Cho trẻ dùng thêm các vitamin nâng cao thể trạng.

Viêm kết mạc do lậu cầu: Do lậu cầu gây nên, hay gặp ở trẻ sơ sinh, tiến triển nặng, đặc biệt nguy hiểm với giác mạc. Bệnh cấp tính, xuất hiện vào ngày thứ 2-3 sau sinh do bị nhiễm từ đường sinh dục của mẹ khi sinh qua đường dưới. Mắt trẻ bị sưng húp, mi và kết mạc phù nề đỏ mọng, dử mắt dạng mủ vàng bẩn dính chặt hai mi, mủ nhiều trào qua khe mi, càng lau mủ càng chảy nếu không có biện pháp điều trị kịp thời bệnh sẽ lan vào giác mạc gây viêm giác mạc dẫn đến mù lòa.

Điều trị: Cần tra dung dịch argyrol 3% cho trẻ ngay sau khi sinh để phòng bệnh; cần lấy mủ làm xét nghiệm để xác định chính xác bệnh.

Rửa mắt liên tục bằng nước muối sinh lý 0,9%. Tra dung dịch kháng sinh nhạy cảm với lậu cầu như các kháng sinh nhóm quinolone, cephalosporin... tra liên tục 10-15 phút/lần, sau đó giảm liều dần.

- Toàn thân: cần thận trọng khi chỉ định dùng thuốc và liều lượng thuốc sử dụng. Phối hợp điều trị lậu cho bố và mẹ trẻ.

Viêm kết mạc do virut

Hay gặp là Adenovirus, Herpesvirus, ít gặp hơn là Enterovirus, Coxsakievirus, Molluscum contagiosum, Varicella zoster...

Viêm kết mạc do Adenovirus: Biểu hiện bệnh theo hai hình thái:

- Hình thái viêm kết mạc kèm theo sốt, viêm họng và nổi hạch trước tai: mi sưng, cộm mắt, dử trong dính, kết mạc đỏ, phù, xuất huyết, màng giả và hột trên kết mạc. Trẻ sốt nhẹ, đau họng, người mệt mỏi, hạch trước tai.

- Hình thái viêm kết mạc - giác mạc dịch: bệnh không kèm các triệu chứng toàn thân, kèm theo tổn thương giác mạc gây nhìn mờ.

Điều trị: Chưa có thuốc chống Adenovirus đặc hiệu, điều trị triệu chứng và nâng cao thể trạng là chủ yếu, bệnh có thể thoái lui trong khoảng 2 tuần, dùng thuốc kháng sinh tránh bội nhiễm. Khi dùng các chế phẩm corticoid cần thận trọng và dùng liều thấp.

Viêm kết mạc do Herpes virus: Da mi và vùng da quanh mi xuất hiện những nốt mụn phỏng kèm theo phù đỏ. Dử mắt loãng như nước. Kết mạc đỏ, có hột trên kết mạc.

Điều trị: Dùng thuốc chống virus Herpes, kháng sinh chống bội nhiễm, uống thêm vitamin nâng cao thể trạng.

Viêm kết mạc do Chlamydia

Do một loại vi sinh vật có tên là Chlamydia trachomatis gây nên. Hay gặp ở trẻ sơ sinh. Sự lây nhiễm xảy ra khi trẻ sinh qua đường dưới của mẹ bị bệnh nên cần kiểm tra cả bố và mẹ trẻ. Xuất hiện nhú gai trên kết mạc. Dử mắt dạng mủ nhày.

Điều trị: Dùng thuốc tra tetracyclin 1%. Toàn thân có thể uống erythromycin.

Viêm kết mạc do dị ứng

Viêm kết mạc - mũi dị ứng: Bệnh khá phổ biến, tác nhân gây dị ứng có thể gặp như phấn hoa, bụi nhà, nấm mốc, lông côn trùng, súc vật... Bệnh cấp tính, trẻ ngứa mắt nhiều, chảy nước mắt, đỏ mắt phối hợp ngứa mũi, hắt hơi sổ mũi, chảy nước mũi trong. Mi mắt phù nề, kết mạc phù, nhợt màu, nhú viêm trên kết mạc.

Điều trị: dùng các thuốc dị ứng không có corticoid (cromoglycat, lodoxamin, levocabasfin, patanol...), phối hợp với các thuốc tra có corticoid.

Viêm kết mạc mùa xuân: Là một thể bệnh dị ứng theo mùa với biểu hiện lâm sàng và tiến triển riêng biệt. Thường khởi phát bệnh ở độ 5 tuổi, hay gặp ở nam giới. Ngoài các triệu chứng của viêm dị ứng, trên kết mạc xuất hiện nhú viêm điển hình có hình dạng như đá lá đường (hình đa giác) xếp cạnh nhau. Trường hợp nặng các nhú phì đại dạng nhú khổng lồ. Bệnh có thể gây ảnh hưởng giác mạc dẫn đến nhìn mờ.

Điều trị: Dùng các thuốc tra corticoid như dexamethason 0,1%, hoặc các chế phẩm kháng sinh phối hợp corticoid như dung dịch maxitrol, tobradex, decodex... Cần chú ý, nếu dùng thuốc kéo dài có thể gây các biến chứng nguy hiểm như: tăng nhãn áp, đục thể thủy tinh do vậy chỉ nên sử dụng thời gian ngắn, trong đợt cấp. Các thuốc này chỉ dùng khi có chỉ định và sự theo dõi của thầy thuốc. Ngoài ra có thể dùng các thuốc làm ổn định dưỡng bào: cromal, cromolyn, alomid... Những thuốc này có thể dùng kéo dài. Đối với nhú phì đại dùng tia beta để điều trị.


Phần lớn các thuốc nhỏ mắt là kháng sinh. Cũng như khi uống hay bôi kháng sinh nhỏ mắt có thể gây ra các tai biến, đặc biệt là khi dùng không đúng chỉ định hoặc không đúng cách.

Nhóm thuốc nhỏ mắt chỉ chứa kháng sinh

Nhóm này gồm các biệt dược chứa kháng sinh thông thường như chloramphenicol, tetracyclin đến các biệt dược chứa kháng sinh mạnh như cyprofloxacin, moxifloxacin…

Các bệnh về mắt đôi khi có biểu hiện bề ngoài rất giống nhau, nhưng lại do những tác nhân gây bệnh khác nhau, cần phải dùng kháng sinh đặc hiệu, nếu không sẽ không khỏi mà còn tạo ra các chủng vi khuẩn kháng thuốc. Ví dụ, viêm kết mạc đều làm cho mắt bị cộm, đỏ nhưng nếu do vi khuẩn phải dùng thuốc nhỏ mắt chloramphenicol, nếu do virut phải dùng thuốc mỡ mắt tetracyclin, nếu do lậu cầu phải dùng mỡ mắt tetracyclin kèm theo tiêm penicilin. Một số thuốc kháng sinh nhỏ mắt có thể gây ra một số tác dụng phụ tại chỗ làm khó chịu ở mắt.

Ví dụ, thuốc nhỏ mắt moxifloxacin (vigamox) làm giảm thị lực, khô mắt, viêm giác mạc, cương tụ, đau mắt ngứa mắt, xuất huyết dưới kết mạc. Thông thường, những tác dụng phụ này ít xuất hiện (khi dùng liều thấp), xuất hiện nhiều hơn (khi cần phải dùng liều cao) sẽ hết khi ngừng thuốc. Để đỡ khó chịu ở mắt, đôi khi cần dùng xen kẽ thuốc rửa mắt có tác dụng bôi trơn, giảm kích ứng, tạo cho mắt cảm giác dễ chịu.

Khi dùng nhỏ mắt, có một phần kháng sinh theo các mạch máu ở mắt vào trong cơ thể, tạo ra nồng độ trong huyết tương tuy không cao bằng khi uống với liều điều trị thông thường, nhưng nếu nhỏ quá liều và (hoặc) dùng lâu dài (trên hai tuần) thì thuốc vẫn có thể gây ra một số tác dụng phụ như khi uống.   Điều này càng dễ xảy ra hơn với những thuốc có tốc độ thải trừ chậm. Vì lý do này mà chỉ được dùng đúng thuốc, đúng liều (số lần, số giọt phải nhỏ) và không dùng kéo dài (quá 2 tuần).

Một vài thuốc dễ gây ra tác dụng phụ toàn thân thường có ghi rõ các chống chỉ định như: không dùng thuốc nhỏ mắt chloramphenicol cho trẻ sơ sinh, người suy tuỷ. Không dùng thuốc nhỏ mắt cyprofloxacin cho phụ nữ có thai, cho con bú, trẻ dưới 12 tuổi. Một số thuốc nhỏ có gây ra tác dụng toàn thân như khi uống nhưng chưa có thông tin đầy đủ. Tuy nhiên khi dùng loại nhỏ mắt này thường được khuyến cáo thận trọng.

Thuốc kháng sinh nhỏ mắt cho trẻ em

Trong khi dùng thuốc nhỏ mắt có kháng sinh, nếu có bệnh khác cần dùng một loại kháng sinh bằng đường uống hay đường tiêm phải rất thận trọng nhằm tránh những tương tác bất lợi. Ví dụ, khi dùng thuốc nhỏ mắt chứa chloramphenicol thì không uống hay tiêm gentamycin, tetracyclin, cephalosporin, polymycin; khi dùng thuốc nhỏ mắt tetracyclin thì không uống hay tiêm penicilin. Một số thuốc nhỏ mắt chứa kháng sinh có phổ kháng khuẩn trong phòng thí nghiệm rất rộng, nhưng trong thực tế lâm sàng lại chưa hẳn đã có hiệu lực với toàn thể các chủng vi khuẩn đó.

Những kháng sinh này nếu dùng lâu dài có thể dẫn đến tăng quá sản những chủng không nhạy cảm, tạo nên sự nhiễm khuẩn khác. Ví dụ, thuốc nhỏ mắt moxifloxacin được chỉ định cho viêm kết mạc do rất nhiều loại vi khuẩn, nhưng nếu dùng kéo dài thì chính nó cũng gây ra bội nhiễm, kể cả bội nhiễm nấm. Một trong những tác dụng phụ hay gặp ở thuốc này lại là gây viêm kết mạc. Các kháng sinh thế hệ mới có phổ kháng khuẩn rộng, nếu cứ coi là loại thuốc đa năng, cứ dùng kéo dài, dễ dẫn đến tác dụng phụ này.

Nhóm phối hợp kháng sinh và corticoid

Nhóm này bao gồm loại kết hợp corticoid với kháng sinh (như chlorocid-H chứa hydrocortison, chloramphenicol) hoặc với hai hay ba kháng sinh (như maxitrol chứa dexamethason, neomycin, polymycin)… Thuốc tiện dùng vì vừa chống nhiễm khuẩn (do kháng sinh), vừa giảm viêm (do corticoid).

Tuy nhiên, thành phần corticoid trong thuốc làm giảm sức đề kháng của cơ thể nên làm giảm hiệu lực của kháng sinh hiện có, làm nặng thêm bệnh và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhiễm khuẩn thứ phát (bao gồm cả virut và nấm)… Corticoid cũng làm chậm quá trình liền vết thương, làm tăng áp lực nội nhãn có khả năng tiến triển thành glaucom, tổn thương thị giác, khiếm khuyết thị lực không thường xuyên, hình thành đục thuỷ tinh thể (cataract) dưới bao phía sau, làm mỏng củng mạc dẫn đến thủng nhãn cầu. Tùy theo thành phần và tỷ lệ phối hợp, mỗi biệt dược có hiệu quả và tác dụng phụ ở mức khác nhau.

Vì vậy chỉ dùng loại thuốc này khi mà sự phối hợp với liều lượng tương thích trong sản phẩm đem lại hiệu quả đủ chống nhiễm khuẩn, tác dụng phụ của corticoid chỉ ở mức hạn chế (ví dụ dùng trong nhiễm khuẩn bán phần trước của mắt) chứ không dùng rộng rãi cho mọi nhiễm khuẩn hoặc tổn thương khác (như không thể dùng trong trường hợp nhiễm khuẩn nặng, viêm kết mạc do nhiễm siêu vi, nhiễm nấm, tổn thương nhãn cầu do lao, loét giác mạc củng mạc).

Kháng sinh nhỏ mắt cần phải dùng theo chỉ định của thầy thuốc. Do không thấy ý nghĩa quan trọng của thuốc nhỏ mắt, lại chưa hiểu hết các tác dụng phụ, nhiều người dùng kháng sinh nhỏ mắt tuỳ tiện rất dễ gây tai biến.  

Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Theo dõi fanpage của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc để biết thêm thông tin bổ ích khác: https://www.facebook.com/BenhvienHongNgoc/