Thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước trong 5 năm gần đây

Đây là đánh giá được đưa ra tại hội nghị tổng kết công tác tài chính - ngân sách nhà nước năm 2021 và triển khai nhiệm vụ năm 2022 tổ chức sáng nay 6/1. Hội nghị được tổ chức dưới hình thức trực tuyến tại 63 điểm cầu trên cả nước.

Thu ngân sách nhà nước vượt gần 220.000 tỷ đồng

Báo cáo tại hội nghị, đại diện Bộ Tài chính cho biết, ngay từ đầu năm 2021, Bộ Tài chính đã kiên định thực hiện quản lý, điều hành thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) chặt chẽ, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; chủ động xây dựng và triển khai các phương án điều hành đảm bảo cân đối NSNN các cấp, tập trung ưu tiên nguồn lực cho phòng, chống dịch Covid-19, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Đồng thời, chủ động đề xuất cấp có thẩm quyền kịp thời có những điều chỉnh về chính sách tài khóa nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho doanh nghiệp, hộ gia đình và người dân.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Bí thư Thành ủy TP Hà Nội Đinh Tiến Dũng; Phó Thủ tướng Lê Minh Khái và đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương tham dự hội nghị

Thu NSNN năm 2021 ước đạt 1.563,3 nghìn tỷ đồng, bằng 116,4% (vượt 219.900 tỷ đồng) dự toán, tăng 3,7% so với thực hiện năm 2020. Trong đó, chủ yếu tăng thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và thu tiền sử dụng đất; thu thuế, phí nội địa từ hoạt động sản xuất – kinh doanh (vượt 14,5% dự toán, tăng 11,3% so với thực hiện năm 2020); tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 18,6% GDP (vượt mục tiêu 15,5% GDP).

Thu ngân sách Trung ương (NSTƯ) ước đạt 106,7% dự toán; thu ngân sách địa phương (NSĐP), ước đạt 128,2% dự toán.

Cùng với kết quả nổi bật trong thu NSNN, công tác điều hành chi NSNN chủ động, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, tập trung ưu tiên nguồn lực cho phòng, chống dịch Covid-19, kiểm soát dịch bệnh và đảm bảo an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Nhờ đó, các nhiệm vụ chi NSNN năm 2021 đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu đề ra: Chi NSNN năm 2021 ước đạt 1.879 nghìn tỷ đồng, bằng 111,4% dự toán; đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi phát sinh theo tiến độ thực hiện của đơn vị sử dụng ngân sách; ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến hạn.

Đến ngày 31/12/2021, NSNN đã quyết định chi 45.100 tỷ đồng cho phòng chống dịch Covid-19 và 28.900 tỷ đồng để hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, tổng cộng là 74.000 tỷ đồng (trong đó, Trung ương đã chi 26.300 tỷ đồng, các địa phương đã chi từ NSĐP 47.700 tỷ đồng).

Hội nghị tổng kết công tác tài chính - ngân sách nhà nước năm 2021 và triển khai nhiệm vụ năm 2022

Riêng tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển chậm hơn năm trước, ước đến hết 31/12/2021 đạt 74,7% dự toán Quốc hội quyết định, đạt 77,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (năm 2020 đạt 82,66%).

Năm 2021, cân đối NSTƯ và NSĐP được đảm bảo. Ước tính năm 2021, bội chi NSNN thực hiện dưới 4% GDP.

Trong năm 2021, Bộ Tài chính cũng đã kiểm soát chặt chẽ nợ công, tiếp tục tái cơ cấu nợ công theo hướng bền vững. Đến cuối năm 2021, nợ công khoảng 43,7% GDP, nợ Chính phủ khoảng 39,5% GDP, dư nợ vay nước ngoài quốc gia khoảng 39% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ dưới 23% tổng thu NSNN, trong phạm vi giới hạn an toàn cho phép.

Cùng với đó, năm 2021, Bộ Tài chính tăng cường quản lý giá cả, thị trường phù hợp với tình hình thực tế, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, kiểm soát lạm phát; giá cả thị trường được giữ ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm 2021 chỉ tăng 1,84%, góp phần kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra năm 2021.

Về phát triển thị trường chứng khoán, mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị trường tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm 2021. Đến hết ngày 31/12/2021, chỉ số VN-Index đạt 1.498,28 điểm, tăng 35,7% so với cuối năm 2020, quy mô vốn hóa cổ phiếu trên thị trường đạt khoảng 7.729 nghìn tỷ đồng (trên 92% GDP ước thực hiện năm 2021), tăng 46% so với cuối năm 2020.

Thị trường bảo hiểm tiếp tục tăng trưởng tốt, tổng doanh thu phí bảo hiểm năm 2021 ước đạt 214,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,59% so với cùng kỳ năm 2020; tổng tài sản đạt 710 nghìn tỷ đồng, tăng 23,86%; đầu tư trở lại nền kinh tế đạt 577,1 nghìn tỷ đồng, tăng 22,24%.

“Năm 2021, trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, toàn ngành Tài chính đã chủ động đề xuất, triển khai đồng bộ các giải pháp tài chính - NSNN; hoàn thành xuất sắc, toàn diện các nhiệm vụ tài chính - NSNN; góp phần quan trọng thực hiện “nhiệm vụ kép” - vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới”, đại diện Bộ Tài chính đánh giá.

Năm 2022 tiếp tục chính sách tài khóa linh hoạt, thận trọng

Năm 2022, Bộ Tài chính dự toán thu là 1.411,7 nghìn tỷ đồng; trong đó: thu nội địa chiếm 83,35%; thu dầu thô chiếm 2%; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 14,1%; thu viện trợ chiếm 0,55%. Chi NSNN dự toán năm 2022 là 1.784,6 nghìn tỷ đồng. Bội chi NSNN 4% GDP.

Hội nghị được tổ chức dưới hình thức trực tuyến tại 63 điểm cầu trên cả nước.

Theo đại diện Bộ Tài chính, năm 2022, ngành Tài chính tiếp tục điều hành chính sách tài khóa linh hoạt, thận trọng, bám sát diễn biến của dịch Covid-19, phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, nhằm thực hiện mục tiêu vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách tài chính - NSNN; đẩy mạnh cải cách hành chính; đẩy nhanh xây dựng chính phủ số.

Bên cạnh đó, phát triển bền vững, vận hành an toàn, thông suốt thị trường tài chính và dịch vụ tài chính, thực hiện quản lý giá theo nguyên tắc thị trường, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, ổn định các cân đối lớn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

“Năm 2022, Bộ Tài chính tiếp tục đẩy mạnh tái cấu trúc, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; bảo đảm dự toán thu NSNN. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính, ngân sách trong thực thi công vụ; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và công khai, minh bạch trong quản lý thu, chi NSNN, tài sản công, đất đai, tài nguyên”, đại diện Bộ Tài chính cho hay./.

THẠC SĨ ĐỖ THỊ THANH HUYỀN - TS. NGUYỄN THỊ THU H (Bộ môn Kinh tế học, Trường Đại học Thương mại)

TÓM TẮT:

Chi tiêu ngân sách nhà nước (NSNN) là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò chức năng quản lý và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Trong bối cảnh thu ngân sách ngày càng khó khăn, bội chi ngân sách và nợ công của Việt Nam ngày càng tăng, thì chi ngân sách cần được cơ cấu lại để Chính phủ vừa có nguồn lực để thực hiện tốt vai trò của mình, vừa đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. Bài viết phân tích thực trạng chi tiêu NSNN của Việt Nam trong thời kì 2005-2020, chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân trong chi tiêu NSNN, từ đó đề xuất một số biện pháp hoàn thiện chi NSNN.

Từ khóa: chi ngân sách nhà nước, chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vai trò của NSNN là rất quan trọng, không chỉ là quỹ tài chính để duy trì bộ máy quản lý nhà nước, là công cụ để Nhà nước khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trường mà còn là nguồn lực tài chính quan trọng cho đầu tư phát triển.

Các hoạt động chi NSNN đang có xu hướng ngày càng mở rộng cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta. Bảng 1 thể hiện mức độ chi tiêu NSNN theo năm từ 2005 – 2020. Quy mô chi từ NSNN của giai đoạn 2011 - 2015 đạt 6.324,5 nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 2005 - 2010. Thời kì 2016 - 2020, chi ngân sách tăng gấp 3 lần quy mô chi của giai đoạn 2005 - 2010. Chi tiêu NSNN của Chính phủ tăng phù hợp với quy luật Wagner khi cho rằng tỷ trọng của khu vực công (đo lường bằng tỷ lệ chi tiêu chính phủ so với GDP) có xu hướng tăng lên khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Riêng năm 2020, lo ngại ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 tới nguồn thu ngân sách và an toàn tài chính quốc gia, các hoạt động chi thường xuyên đã được điều chỉnh giảm thông qua cắt giảm những hoạt động chi không cấp thiết (hội nghị, công tác, …). Tổng chi NSNN từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2020 ước tính đạt 1.432,5 nghìn tỷ đồng, giảm so với các năm trước, trong đó chi thường xuyên đạt 966,7 nghìn tỷ đồng; chi đầu tư phát triển 356 nghìn tỷ đồng; chi trả nợ lãi 98,8 nghìn tỷ đồng[1].    

Mặc dù quy mô chi tiêu ngân sách tăng nhưng tốc độ tăng chi NSNN đã có cải thiện theo chiều hướng giảm, cụ thể giai đoạn 2014 - 2019 đạt 8,5%, giảm mạnh so với tỷ lệ tăng bình quân 18,3% của giai đoạn 2008 - 2013. Sự chênh lệch tốc độ tăng chi NSNN giữa hai thời kì này có nguyên nhân một phần là do giai đoạn 2009 - 2012, Chính phủ mở rộng chi tiêu hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh hậu khủng hoảng tài chính thế giới 2008. Bước sang giai đoạn 2014 - 2019, Chính phủ đẩy mạnh tái cơ cấu chi tiêu công để giảm bội chi ngân sách và nợ công quốc gia, dẫn đến tốc độ tăng chi NSNN giảm khá nhiều, cho thấy chính sách tái cơ cấu chi tiêu và đầu tư công đã có những thành công bước đầu.

Bảng 1: Chi tiêu ngân sách nhà nước 2005-2020

2005

2010

2015

2016

2017

Sơ bộ 2018

Ước tính 2019

ước tính 15/12/2020

TỔNG CHI (*)

(Nghìn tỷ đồng)

262,7

657,6

1276,4

1298,3

1355

1616,4

1754,5

1432,5

CƠ CẤU CHI NSNN (%)

Tổng chi

100

100

100

100

100

100

100

100

Chi đầu tư phát triển (**)

30,15

38,44

31,47

28,18

27,51

25,44

24,99

24.85

Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội (***)

50,37

57,27

61,77

63,34

65,07

61,24

59,79

Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo

10,89

11,89

13,9

13,71

15,09

14,29

13,98

Chi sự nghiệp y tế, dân số và gia đình

2,9

3,87

3,91

5,6

5,83

..

..

Chi sự nghiệp khoa học, công nghệ

0,98

0,63

0,74

0,73

0,68

0,76

0,74

Chi văn hoá thông tin; phát thanh truyền hình, thông tấn; thể dục thể thao

0,8

1,36

1,23

0,95

1,02

..

..

Chi đảm bảo xã hội

6,76

9,9

8,32

9,04

8,96

..

..

Chi sự nghiệp kinh tế, bảo vệ môi trường

4,49

5,8

6,28

6,73

7,47

..

..

Chi hoạt động của các cơ quan Quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể

7,14

8,65

10,5

8,69

8,75

..

..

Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính

0,03

0,04

0,02

0,04

0,01

0,01

0,01

(*) Số liệu được điều chỉnh theo Luật Ngân sách Nhà nước 2015, bao gồm chi từ nguồn trái phiếu Chính phủ, không bao gồm chi trả nợ gốc. (**) Không bao gồm chi dự trữ quốc gia.  (***) Bao gồm cả chi tạo nguồn thực hiện cải cách tiền lương và tinh giản biên chế.

Nguồn: Dữ liệu năm 2020 tổng hợp từ Báo cáo tình kinh tế xã hội quý IV và năm 2020

2. Một số vấn đề bất cập trong chi NSNN

Về tỷ lệ chi NSNN trên GDP: Hoạt động chi NSNN thời gian gần đây đã có sự giảm tốc, phù hợp với xu hướng giảm thu NSNN. Tuy nhiên, tỷ lệ chi NSNN trên GDP vẫn duy trì ở mức cao từ 25-29% GDP và có xu hướng cao hơn so với nhiều quốc gia có cùng trình độ phát triển (Bảng 2). Tình trạng bội chi NSNN vẫn chưa được cải thiện nhiều dù tính toán theo thông lệ quốc tế (IMF) hay tính toán theo cách của Tổng cục Thống kê[2]. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam từ 2012 đến 2017 dao động ở mức 5,3 - 6,6% GDP, cao hơn mức 4,4-5,6% GDP của giai đoạn 2006-2011. Năm 2017, thâm hụt ngân sách ở mức 3,48% GDP[3] - do bắt đầu không tính chi trả nợ gốc khi cân đối ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách có hiệu lực từ 2017.Tuy nhiên, nếu tính theo cách cũ thì con số thâm hụt tiếp tục tăng đến 6,43% GDP.

Số liệu từ Bộ Tài chính cho thấy, mức thâm hụt ngân sách của năm 2018 khoảng 3,46% GDP, còn năm 2019 là khoảng 3,4% GDP. Mức thâm hụt đã giảm đôi chút, nhưng nhìn chung cấu trúc ngân sách nhà nước chưa có cải thiện nhiều so với những năm trước. Phần lớn sự thay đổi thâm hụt ngân sách kể từ 2017 so với giai đoạn trước đó là do việc thay đổi cách hạch toán (không tính chi trả nợ gốc). Thực tế cơ cấu chi tiêu và kỷ luật tài khóa không được cải thiện, nhu cầu chi tiêu vượt xa so với khả năng thu, làm tăng nợ công quốc gia và đe dọa an ninh tài chính quốc gia.

Bảng 2: Chi tiêu NSNN của một số nước trong khu vực ASEAN (% GDP)

Nước

2005

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Viet Nam

25.1

27.2

25.4

28.2

28.8

26.4

28.2

26.8

27.1

29.2

29.1

...

Thailand

18.4

21.3

21.9

21.2

21.6

22.0

22.0

21.0

21.2

21.1

20.5

...

Singapore

11.8

9.3

7.9

9.0

9.2

10.9

13.8

13.4

12.7

13.5

...

...

Malaysia

23.3

24.4

25.0

25.8

24.7

23.2

21.7

20.0

19.0

19.7

...

...

Lao PDR

...

22.7

22.4

21.5

25.7

24.2

24.1

21.1

18.3

21.0

...

...

Indonesia

...

17.2

17.5

18.4

18.7

18.5

17.8

16.9

16.5

16.5

16.3

...

Brunei Darussalam

32.1

34.0

30.8

31.4

33.6

33.6

35.7

39.7

36.3

32.8

31.1

...

Nguồn: Asian Development Bank's Key Indicators

Về cơ cấu chi NSNN: có thay đổi theo xu hướng tăng tỷ trọng chi thường xuyên và giảm tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tốc độ tăng chi thường xuyên cũng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng chi đầu tư. Trong giai đoạn 2005 - 2010, chi đầu tư phát triển chiếm 31% thì đến giai đoạn 2011 - 2020 giảm chỉ còn bình quân 26%. Trong khi đó, tỷ trọng chi thường xuyên tăng từ 50,1% (2005) lên  xấp xỉ 60% (Bảng 1) mà đỉnh điểm hơn 65% tổng chi NS trong hai năm 2014 và 2017 (cao hơn mục tiêu Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020 là giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống dưới 64% tổng chi NSNN). Cơ cấu chi thường xuyên chưa bảo đảm mục tiêu đặt ra, dù chi tiêu cho các lĩnh vực phát triển con người như y tế, giáo dục và khoa học công nghệ được ưu tiên trong thời gian qua nhưng chi lương và chi quản lý hành chính nhà nước vẫn là hai nguồn chi chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi NSTW.

Việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế để giảm chi thường xuyên còn chậm (Năm 2018, tổng số chi lương, phụ cấp lương và các khoản đóng góp theo lương từ NSNN là 364.228,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 39% chi thường xuyên). Chi thường xuyên luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN và thường khó cắt giảm hơn so với chi đầu tư phát triển. Tốc độ tăng chi NSNN trong những năm qua chững lại chủ yếu là do hạn chế đầu tư công, điều này làm cho việc giảm thâm hụt ngân sách khó khăn hơn và ảnh hưởng đến khả năng cung cấp cải thiện hạ tầng cơ sở cho phát triển kinh tế - xã hội.

Số liệu phân tích cũng cho thấy một khoản chi khác có vai trò ngày càng lớn trong tổng chi NSNN là chi trả nợ. Số nợ phải trả trung bình trong cả giai đoạn chiếm khoảng 13% trong tổng chi NSNN. Cùng với đó là mức tăng chi trả nợ trung bình 16,3% mỗi năm có thể ảnh hưởng tới tính bền vững của NSNN trong tương lai.

Về công tác dự toán và giải ngân: Tình trạng bố trí kinh phí nhưng không hoàn thành nhiệm vụ chi phải chuyển nguồn hoặc để kết dư ngân sách địa phương lớn kéo dài nhiều năm, thể hiện sự lãng phí nguồn lực, chất lượng lập dự toán thấp, công tác chấp hành, hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách chưa cao. Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, tổng chi NSNN năm 2020 (tính đến 15/12/2020) ước tính đạt 1.432,5 nghìn tỷ đồng, giảm so với các năm trước, chỉ bằng 82% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 966,7 nghìn tỷ đồng, bằng 91,5%; chi đầu tư phát triển 356 nghìn tỷ đồng, bằng 75,7%; chi trả nợ lãi 98,8 nghìn tỷ đồng, bằng 83,6% kế hoạch.

Bên cạnh đó, Nhà nước đã thực hiện giải ngân vốn năm 2019 chuyển sang năm 2020 đạt khoảng 75% kế hoạch (GSO). Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 26 nghìn tỷ đồng vốn vay ngoài nước cho đầu tư phát triển không thực hiện được, phải hủy dự toán. Giải ngân chi đầu tư đạt thấp, kéo dài trong nhiều năm do nhiều dự án chưa tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn, giao vốn chậm, không đúng đối tượng,.., gây lãng phí trong sử dụng nguồn vốn đầu tư công. Bên cạnh đó, một số khoản chi tiêu cho phát triển con người, xã hội có phần mở rộng, nhưng giải ngân thường xuyên không đạt kế hoạch như chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề; chi sự nghiệp y tế; chi sự nghiệp khoa học, công nghệ,…

3. Định hướng giải pháp hoàn thiện chi NSNN

Trước những vấn đề bất cập tồn tại kéo dài và chậm được điều chỉnh của chi tiêu NSNN như phân tích ở trên và sức ép tăng trưởng kinh tế đi cùng đảm bảo an ninh tài chính quốc gia đòi hỏi cải cách mạnh mẽ hoạt động chi tiêu NSNN. Một số biện pháp được khuyến nghị như sau:

Một là, cân đối lại cơ cấu chi NSNN theo hướng giảm chi thường xuyên, tăng chi đầu tư phát triển. Bởi vì chi đầu tư phát triển là những khoản chi có thời hạn tác động dài, thường trên một năm, hình thành nên những tài sản vật chất có khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, trực tiếp làm tăng cơ sở vật chất của quốc gia. Giảm chi thường xuyên là khó khăn, cần có quyết tâm lớn của cả hệ thống chính trị và chính quyền, đoàn thể bằng các hành động cụ thể: rà soát, cơ cấu lại, bảo đảm hợp lý, tiết kiệm, sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các nhiệm vụ thiết thực cấp bách, cắt, giảm những nhiệm vụ chi không cần thiết; không bố trí kinh phí mua sắm trang thiết bị đắt tiền, xe công; giảm mạnh chi cho khánh tiết, hội nghị, hội thảo, lễ hội, đi công tác nước ngoài,... như đã thực hiện trong năm 2020. Tiếp tục tổ chức lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, hiệu quả, ứng dụng chính phủ điện tử ở cấp độ sâu hơn,… để giảm mạnh các khoản chi lương và chi quản lý hành chính (là mục chi chiếm tỷ trọng lớn trong chi thường xuyên). Đẩy mạnh hơn nữa cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập để giảm áp lực chi NSNN, nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Hai là, nâng cao chất lượng dự toán, lập dự toán NSNN, cải tiến thủ tục cấp phát ngân sách: Cần xem xét lại quy mô chi tiêu công cho phù hợp với khả năng của quốc gia (%GDP) và mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong trung và dài hạn. Cần tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng lập dự toán không sát, giải ngân chậm và sai đối tượng diễn ra trong nhiều năm đối với đầu tư công và các hoạt động quan trọng như giáo dục đào tạo và dạy nghề, sự nghiệp y tế, khoa học công nghệ.

Ba là, tuân thủ nghiêm các nguyên tắc trong quản lý chi tiêu công, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cấp có thẩm quyền về hoạt động thu - chi và cân đối ngân sách nhà nước. Tăng cường các chức năng giám sát của Kiểm toán Nhà nước ở tất cả các cấp của Chính phủ và cho phép tham gia chặt chẽ với các Tổ chức xã hội dân sự và thông tin đại chúng nhằm đẩy mạnh truyền thông và nâng cao năng lực giám sát ngân sách.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

[1] //www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/12/baocao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2020/

[2] Theo IMF, khi tính cân đối NSNN không bao gồm chi trả nợ gốc. Còn theo cách tính của Bộ Tài chính, trước năm 2016 bao gồm cả chi trả nợ gốc, từ 2017 sẽ loại trừ chi trả nợ gốc khi cân đối ngân sách nhà nước.

[3] Theo //cafef.vn/tinh-hinh-tai-chinh-ngan-sach-2018-duoi-goc-nhin-chuyen-gia-phan-tich-20190205085543234.chn

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Bùi Thị Mai Hoài và cộng sự (2015), “Cân đối ngân sách nhà nước, nợ công và các chuẩn mực quốc tế”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 26 (9), 02-25.
  2. Hoàng Khắc Lịch và cộng sự (2018), “Chi ngân sách nhà nước của Việt Nam giai đoạn 2007-2017 và một số khuyến nghị”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh doanh, tập 34, số 4 (2018) 28-36.
  3. Quỹ tiền tệ Quốc tế, “Cẩm nang về minh bạch tài khóa”, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội dịch 2011.
  4. Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội (2010), “Bội chi NSNN - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, Báo cáo tổng hợp chuyên đề nghiên cứu khoa học.
  5. World Bank (2017), Đánh giá chi tiêu công của Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu.

The state budget expenditure of Vietnam in the period from 2005

to 2020 and existing problem

Master. Do Thi Thanh Huyen 1

Ph.D Nguyen Thi Thu Hien 1

1 Department of Economics, Thuongmai University

ABSTRACT:           

State budget expenditure is considered an important tool of the State to perform its role of managing and supporting socio-economic development, ensuring security, defense and diplomacy. In the context of increasing difficulties in collecting budget revenues, widening budget deficit and increasing public debt, it is essential for the Government of Vietnam to restructure its budget spending to fulfill its roles and ensuring the national financial security. This paper analyzes the state budget expenditure in Vietnam in the period from 2005 to 2020 and points out existing problems. Based on the paper’s findings, some measures are proposed to improve the efficiency of state budget expenditure of Vietnam.

Keywords: state budget expenditure, development investment expenditure, frequent expenditure.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 9, tháng 4 năm 2021]

Video liên quan

Chủ đề