Thời nhà Trần kinh đô nước ta đất tài

09:04, 27/06/2021

Triều đại nhà Lý bắt đầu từ năm 1010, khi Thái tổ Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi vua và dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long. Đó là giai đoạn đất nước phát triển mạnh mẽ, mở đầu thời kỳ thế nước vươn cao, lòng dân đồng thuận đánh bại cuộc xâm lăng lần thứ hai của nhà Đại Tống.

Thế nhưng những năm tháng cuối cùng của thời nhà Lý lại là những bức tranh u ám đối lập hoàn toàn với thuở sơ khai. Những vị vua sau tài hèn đức mọn, đặc biệt Lý Cao Tông hoang chơi sa đọa, con trai Thái tử Lý Hạo Sảm u tối, nhu nhược. Đất nước Đại Việt bấy giờ lâm vào tình cảnh rối ren, vua Lý Cao Tông còn đang loay hoay không tìm ra lối thoát để đối phó sự nổi loạn của Quách Bốc (giặc nổi dậy). Cuộc chiến giữa các sứ quân, hào trưởng địa phương ngày càng hỗn loạn và nhà Lý không còn khả năng trấn áp. Cuối cùng Lý Cao Tông bỏ kinh thành Thăng Long chạy trốn về Thiên Trường trú nhờ nhà dân làm nghề đánh cá. Trong thời gian này thái tử Sảm (con vua Cao Tông) lấy cô gái họ Trần (Trần Thị Dung) người vùng này làm vợ. Từ đó, anh em họ Trần chiêu mộ binh sĩ giúp Thái tử Sảm về kinh trừng trị bọn Quách Bốc, đón vua cha Lý Cao Tông về lại kinh thành, ông làm vua thêm một năm thì lâm bệnh rồi băng hà ở tuổi 38.

Vì sao Lý Chiêu Hoàng không được thờ trong tôn miếu nhà Lý?

Trong 9 vị vua nhà Lý, 8 vị được thờ tại đền Đô ở phía đông làng Cổ Pháp (nay là đền Lý Bát Đế thuộc khu phố Thượng, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) để ngày ngày đón hào quang bình minh; còn vua Lý Chiêu Hoàng thờ tại đền Rồng ở phía tây để hoàng hôn rọi vào rồi nhạt dần dành cho màn đêm buông xuống, bóng tối bao phủ ngôi đền ảm đạm như mang theo nỗi u uẩn số phận của một nữ vương. Có nhiều ý kiến khác nhau nhưng phần lớn cho rằng vì vua bà đã để mất ngôi nhà Lý, là mang tội với dòng họ, vì vậy không được thừa nhận và phải thờ riêng; cũng có ý kiến, do bà đã đi lấy chồng nên thuộc tôn thất nhà Trần, không được thờ chung với các bậc tiên vương. Tuy là một vị vua chính thức của vương triều nhà Lý nhưng Lý Chiêu Hoàng đã không được sử sách công nhận một cách công bằng.

Ngược dòng lịch sử, năm 1211 Thái tử Lý Hạo Sảm kế vị ngôi vua, lấy hiệu Huệ Tông. Bấy giờ các thế lực chống đối nổi lên như ong vỡ tổ, đói kém triền miên năm này qua năm khác; nói chung cơ nghiệp mà Lý Huệ Tông kế thừa từ vua cha là một vương triều đang lâm vào thời kỳ suy thoái.

Huệ Tông lúc 15 tuổi làm vua, quản triều chính mà tài đức thì kém cỏi, tính tình lại nhu nhược, u mê. Tháng 12-1216, Trần Thị Dung được phong làm Hoàng hậu. Kể từ đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều. Trần Tự Khánh làm Phụ chính Thái úy, Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ, họ là các anh trai của Hoàng hậu; chưa kể còn người em họ Trần Thủ Độ và hơn 500 anh em dòng tộc Trần nắm giữ những công việc quan trọng khác.

Lý Huệ Tông do không có con trai nên lập Chiêu Thánh công chúa Lý Chiêu Hoàng lên làm Thái tử và truyền ngôi báu, Lý Chiêu Hoàng tại vị ngai vàng được hai năm rồi nhường ngôi lại cho chồng là Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông mở đầu cho vương triều Trần).

Trần Cảnh không được hậu thế gọi là Trần Thái Tổ

Triều đại nhà Trần cũng giống như nhà Lý, nhà Lê, nhà Nguyễn… nhưng sao Trần Cảnh không phải là Trần Thái Tổ? Thời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo được xem là quốc đạo, vì vậy các vua thường nắm triều chính vài năm thì nhường lại cho con để vào các chùa tu hành, phụng chức Thái Thượng hoàng, đồng thời “tu nhân tích đức” cho đời sau. Năm 1224, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, vua Lý Huệ Tông chính thức nhường ngôi cho con gái là Chiêu thánh công chúa, tức Lý Chiêu Hoàng lúc này mới 6 tuổi, và ông vào chùa Chân Giáo tu hành.

Từ khi lên làm vua, Lý Chiêu Hoàng đau ốm triền miên, kéo dài hơn sáu tháng, gầy còm, xanh xao, kém ăn, mất ngủ, nhiều lang y tài giỏi trong nước được triệu vào cung bốc thuốc, tìm bệnh, chữa bệnh nhưng không hiệu quả. Lúc này Nội thị Phán thủ Trần Thừa có cậu con trai tên Trần Cảnh cũng tầm tuổi vua, lại có dáng vẻ khôi ngô. Trần Thủ Độ bày mưu cùng Trần Thừa đưa Trần Cảnh vào cung làm Chính thủ phục vụ vua nữ. Từ ngày đưa Trần Cảnh vào triều, hai đứa bé rất hợp nhau, bệnh vua thuyên giảm dần… Sách Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết: “Một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy cái khăn trầu ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lạy, nhận lấy, rồi mách với Thủ Độ. Thủ Độ liền đem gia thuộc và họ hàng vào trong cung cấm, sai đóng các cửa thành lại. Trăm quan tiến triều không vào được. Thủ Độ nhân thế, loan báo cho mọi người: "Bệ hạ đã có chồng rồi!". Các quan đều vâng lời và xin chọn ngày vào hầu để làm lễ yết kiến”.

Dưới sự “đạo diễn” của Trần Thủ Độ, vở kịch chuyển giao ngôi vị từ họ Lý sang họ Trần kết thúc vào ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu (1225), tại điện Thiên An, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu “nhường ngôi cho chồng”. Trần Cảnh mở đầu cho vương triều Trần nhưng hậu thế không gọi là Trần Thái Tổ bởi vì đây là sự sắp đặt của ba người lớn nắm quyền lực của họ Trần là Trần Thừa, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung. Việc Trần Cảnh được họ Lý nhường ngôi lên làm vua lấy hiệu là Thái Tông thì theo lẽ cha Trần Cảnh là Trần Thừa, dù chưa làm vua giây phút nào vẫn được tôn lên làm Thượng hoàng. Trần Thừa sinh năm 1184 ở làng Tức Mạc, là con trưởng của Trần Lý (sau này giúp Lý Cao Tông dẹp loạn mà chết), là anh của dũng lược tướng quân Thái úy Trần Tự Khánh, Hoàng hậu Trần Thị Dung, anh họ Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thừa từ nhỏ đã theo cha và cậu đem quân về kinh dẹp giặc giúp vua Lý, sau lại cùng em là Trần Tự Khánh lập nhiều công lao đánh tan dư đảng giặc ngoài cõi nên được Lý Huệ Tông phong làm quan. Khi Trần Cảnh lên ngôi, Trần Thừa được tôn là Thượng hoàng trông coi việc nước. Trong chín năm ở ngôi Thượng hoàng, ông dung hòa mọi mâu thuẫn với các bậc cựu thần thời Lý để củng cố vương triều, tái thiết đất nước.

Có thể chưa nói hết những công lao của Trần Thừa với triều Trần, với dân tộc; nhưng với những việc kể trên chứng tỏ ông là người có tầm nhìn, góp công lớn trong buổi đầu khai nghiệp. Ông mất năm Giáp Ngọ (1234), hưởng dương 51 tuổi. Sau khi ông mất 12 năm, được truy tôn làm Thái Tổ nhà Trần (tức Trần Thái Tổ).

Võ Hữu Lộc

19/11/2016 15:17

Đó là Cố đô Hoa Lư, nằm trên địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách Thủ đô Hà Nội gần 100 km về phía Nam. Nơi đây, hơn 1.000 năm trước là trung tâm văn hoá - chính trị của Nhà nước Ðại Cồ Việt, được coi là kinh đô đầu tiên của nước ta.

Kinh đô Hoa Lư tồn tại 42 năm, gắn với sự nghiệp của 3 triều đại liên tiếp là nhà Ðinh, nhà tiền Lê và khởi đầu nhà Lý (từ năm 968-1010). Năm 1010, khi Lý Thái Tổ lên ngôi, ông nhận thấy Kinh đô Hoa Lư phù hợp thời chiến, không phù hợp thời bình nên quyết định dời đô về Thăng Long (Hà Nội). Hoa Lư trở thành Cố đô.

Thời nhà Trần kinh đô nước ta đất tài
Kinh đô Hoa Lư xưa được baoa bọc bởi những dãy núi trùng điệp tạo nên vòng thành vững chắc.     Ảnh: T.Q

Theo tài liệu, sở dĩ vua Ðinh chọn Hoa Lư định đô bởi đây là vùng đất rộng lớn, nhiều núi non hiểm trở bao bọc chung quanh, có nhiều sông, hào, thuận lợi cho việc phòng thủ, tiến công. Khoảng trống giữa các sườn núi được nhà vua cho xây kín bằng đất ken gạch, cao khoảng 10 m. Lối kiến trúc này tiết kiệm tối đa sức người, sức của, đồng thời tạo nên một “quân thành” vững chắc (sau này các triều đại nhà Trần, nhà Tây Sơn đều sử dụng Hoa Lư làm căn cứ phòng tuyến đánh thắng quân thù lập nên nhiều chiến công vang dội).

Lại nói về vua Ðinh, theo sử liệu, Ðinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, cha mất sớm, thuở nhỏ ông đi chăn trâu cho người chú, thường lấy trâu làm ngựa, bông lau làm cờ chơi trò đánh trận. Ông thường rủ đám trẻ làng mình đi đánh nhau với trẻ làng khác, đi đến đâu, thắng đến đấy.

Năm 938, sau khi chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng, Ngô Quyền lên ngôi vua. Năm 944, Ngô Quyền qua đời, xảy ra tình trạng loạn 12 sứ quân. Ðinh Bộ Lĩnh đứng lên dẹp loạn, thu giang sơn về một mối. Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh lên ngôi, lấy hiệu Ðinh Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Ðại Cồ Việt, chọn Hoa Lư làm Kinh đô.

Năm 979, viên hoạn quan là Ðỗ Thích nằm mơ thấy sao rơi vào miệng, cho rằng điềm báo được làm vua nên đã ám sát vua Ðinh và con trai trưởng là Ðinh Liễn. Triều đình đưa con thứ là Ðinh Toàn (mới 6 tuổi) lên ngôi. Nhân cơ hội này, nhà Tống sang xâm lược nước ta. Ông vua 6 tuổi không đủ tài năng đứng lên dẹp giặc. Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính triều đình. Bấy giờ phương Nam quân Chiêm Thành tấn công. Ðất nước trước tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Vì quyền lợi quốc gia, Thái Hậu Dương Vân Nga đành hy sinh quyền lợi riêng tư trao toàn bộ binh quyền cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn.

Khi Lê Hoàn lên ngôi, với tài năng quân sự xuất chúng, ông đã thống nhất được đất nước. Sau khi thắng trận trở về, Thái hậu Dương Vân Nga cũng đã thọ tang vua Ðinh đủ 3 năm, bà tái giá đi bước nữa với vua Lê Hoàn. Bà trở thành hoàng hậu của 2 vương triều.

Kinh đô Hoa Lư­ bao gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam. Tại đây, nhiều công trình kiến trúc, kho tàng, bến bãi, chùa, động... được các đời vua xây dựng phục vụ cho bộ máy bấy giờ.

Khi nhà Lý dời đô, ông rước cung điện 2 triều đại Ðinh, Lê về Thăng Long thờ phượng. Ðể tưởng nhớ công lao nhà Ðinh và nhà Lê, Nhân dân ta xây dựng 2 ngôi đền trên đất Cố đô Hoa Lư để hương khói. Do thời gian phong hoá, đền cũ không còn. Ðến thời hậu Lê (thế kỷ XVII), đền vua Ðinh và vua Lê được xây dựng lại và tồn tại đến ngày nay.

Thời nhà Trần kinh đô nước ta đất tài
Tượng vua Lê Ðại Hành.                   Ảnh: T.Q

Ðền vua Ðinh được xây dựng mô phỏng theo cung điện nhà vua xưa, kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, quay mặt hướng Ðông. Vua Ðinh Tiên Hoàng ngự ở chính điện, 2 bên thờ 3 hoàng tử Ðinh Liễn, Ðinh Toàn và Ðinh Hạng Lang. Ngay trước đền vua Ðinh, trên núi Mã Yên (cao 265 bậc) là lăng mộ Vua Ðinh; ngày xưa Nhân dân ta đưa thi hài vua lên an táng để con người bất tử đó vẫn như còn ngồi trên yên ngựa chống giặc cứu nước, cứu dân.

Thời nhà Trần kinh đô nước ta đất tài
Ðền vua Ðinh Tiên Hoàng.                                    Ảnh: THANH QUANG

Cách đền vua Ðinh khoảng 200 m là đền vua Lê, thờ Lê Ðại Hành (Lê Hoàn). Ðền Lê có quy mô nhỏ hơn đền vua Ðinh. Trong cung của đền có 3 pho tượng: Hoàng đế Lê Ðại Hành ở gian giữa, Hoàng hậu Dương Vân Nga gian bên phải và vua Lê Long Ðĩnh gian bên trái. Trong đền còn giữ được nhiều dấu tích kiến trúc cổ với những mảng chạm trổ công phu, điêu luyện.

Ðể tưởng nhớ nơi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, năm 2000, nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ được dựng lên. Nhà bia được xây dựng trên khu đất phía trước đền thờ vua Ðinh, vua Lê.

Thời nhà Trần kinh đô nước ta đất tài
Núi Mã Yên là nơi an táng vua Ðinh Tiên Hoàng.                     Ảnh: THANH QUANG

Về thăm Cố đô Hoa Lư, những người con đất Việt không chỉ đơn thuần tham quan danh thắng, mà còn là chuyến hành hương tìm về cội nguồn, để tri ân, tưởng nhớ đến công lao tiền nhân dựng nước./.

Trang Anh