Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939

Vì sao cổ loa lại được chọn làm kinh đô

Admin - 16/05/2021 375

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939

Cổ Loa là mảnh đất đã hai lần được chọn làm kinh đô của nước ta, đó là kinh đô nước Âu Lạc thời An Dương Vương và kinh đô của Vương triều Ngô. Sự kiện mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phương Bắc, tự xưng Vương, lấy Cổ Loa, kinh đô cũ của Âu Lạc - An Dương Vương làm kinh đô đã mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ cho dân tộc với sự tiếp nối rực rỡ của các triều đại Tiền Lê, Lý, Trần, Lê...

Bạn đang xem: Vì sao cổ loa lại được chọn làm kinh đô


Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939

Thành Cổ Loa - nơi hai lần được chọn làm kinh đô của nước ta

Bằng chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã có công chấm dứt ách đô hộ hơn nghìn năm của Phương Bắc, xây dựng một quốc gia độc lập hoàn toàn. Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương bước đầu tổ chức một triều chính độc lập “đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục”. Triều đình của Ngô Vương tuy còn đơn sơ, nhưng được xây dựng theo thể chế của một vương triều hoàn toàn độc lập. Trong sáu năm trị vì tại Cổ Loa (939 - 944) chắc chắn triều Ngô vẫn chưa xây dựng được thêm gì nhiều ở Loa thành xưa. Khảo cổ học chỉ phát hiện được những đoạn thành sửa đắp vào thời Ngô Quyền trên nền tảng hoang phế thành cũ của Thục An Dương Vương. Truyền thuyết dân gian vùng đất Cổ Loa kể lại rằng, Ngô Vươngkhi đóng đô ở đây đã cho trồng cây đa ở trước am thờ Mỵ Châu và cho đào cái giếng nước ở trên của đền. Người dân vùng này còn truyền tụng những câu cửa miệng: “Cây đa nghìn tuổi”, “giếng nước nhà Ngô”. Với việc Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa, vùng đất Hà Nội lại khôi phục vị trí trung tâm chính trị của đất nước trong buổi đầu phục hưng độc lập sau hơn nghìn năm Bắc thuộc. Đóng đô ở Cổ Loa, Ngô Quyền muốn dựa vào thành cao, hào sâu ở vị trí đầu mối của các luồng giao thông thủy bộ giữa trung tâm châu thổ sông Hồng, để triều đình có thể nắm chắc miền châu thổ mà vươn ra quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Việc Ngô Quyền xưng Vương, định đô ở Cổ Loa năm 939 cũng cho thấy, Tiền Ngô Vương ý thức rất rõ việc quốc thống, nối nghiệp của các vua Hùng, vua Thục, từ đó cho thấy Ngô Quyền xứng với vị thế là Tổ trung hưng của dân tộc Việt.

Tưởng nhớ công lao của Tiền Ngô Vương, nhiều địa phương trong cả nước đã xây dựng đền thờ. Tính riêng Hải Phòng -mảnh đất gắn với chiến thắng Bạch Đằng có hơn 30 di tích; Thái Bình 3 di tích, Hà Nam 1 di tích, Phú Thọ 1 di tích. Hà Nội có hai nơi thờ Ngô Quyền là ở quê hương ông tại xã Đường Lâm - Sơn Tây và đền Thượng Tiết nơi ghi dấu chân ông hành quân tại xã Đại Hưng -huyện Mỹ Đức.

Xem thêm: Tổ Chức Kinh Doanh Là Gì ? Bước Đầu Khi Thành Lập Doanh Nghiệp

Tuy nhiên, tại mảnh đất Cổ Loa lịch sử, nơi Ngô Quyền chọn để định đô cho triều Ngô đến nay vẫn chưa có một công trình nào tưởng niệm về Ngô Quyền. Tất cả các di tích liên quan đến Ngô Quyền mà các công trình nghiên cứu đề cập trên phạm vi cả nước chỉ là đền, thờ, lăng mộ, bia ký… đều là các di tích muộn sau này để nghi nhớ các chiến công, thân thế, sự nghiệp, sự tích liên quan tới thời Ngô. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã khẳng định trên mảnh đất Cổ Loa có đền thờ An Dương Vương – khởi dựng Nhà nước Âu Lạc, rồi mất nước vào tay phong kiến phương Bắc; Ngô Quyền đã lấy lại độc lập tự chủ, lấy lại quốc thống. Vì vậy cần nghiên cứu xây dựng các công trình thờ phụng, tưởng nhớ Ngô Quyền ở Cổ Loa theo các hướng: Xây dựng một khu lưu niệm về Ngô Quyền trong quần thể di tích Cổ Loa; chọn khoảng đất còn trống gần trung tâm quần thể di tích Cổ Loa để thực hiện đề án này. Tại đây, nên xây dựng một ngôi đền (hay đình) thờ Ngô Quyền, cùng các công trình phụ trợ khác để xứng đáng với công lao và tầm vóc lịch sử của vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền.

Kỷ niệm 1080 năm Ngô Quyền xưng Vương, định đô ở Cổ Loa (939 -2019) là dịp để mỗi người trong chúng ta ôn lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc; tri ân công lao của Ngô Quyền với sự nghiệp trung hưng đất nước góp phần giáo dục, nhân lên niềm tự hào về truyền thống lịch sử trong các thế hệ hôm nay và mai sau./.

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939

Cổ Loa là mảnh đất đã hai lần được chọn làm kinh đô của nước ta, đó là kinh đô nước Âu Lạc thời An Dương Vương và kinh đô của Vương triều Ngô. Sự kiện mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phương Bắc, tự xưng Vương, lấy Cổ Loa, kinh đô cũ của Âu Lạc - An Dương Vương làm kinh đô đã mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ cho dân tộc với sự tiếp nối rực rỡ của các triều đại Tiền Lê, Lý, Trần, Lê...

Bạn đang xem: Vì sao cổ loa lại được chọn làm kinh đô


Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939

Thành Cổ Loa - nơi hai lần được chọn làm kinh đô của nước ta

Bằng chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã có công chấm dứt ách đô hộ hơn nghìn năm của Phương Bắc, xây dựng một quốc gia độc lập hoàn toàn. Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương bước đầu tổ chức một triều chính độc lập “đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục”. Triều đình của Ngô Vương tuy còn đơn sơ, nhưng được xây dựng theo thể chế của một vương triều hoàn toàn độc lập. Trong sáu năm trị vì tại Cổ Loa (939 - 944) chắc chắn triều Ngô vẫn chưa xây dựng được thêm gì nhiều ở Loa thành xưa. Khảo cổ học chỉ phát hiện được những đoạn thành sửa đắp vào thời Ngô Quyền trên nền tảng hoang phế thành cũ của Thục An Dương Vương. Truyền thuyết dân gian vùng đất Cổ Loa kể lại rằng, Ngô Vươngkhi đóng đô ở đây đã cho trồng cây đa ở trước am thờ Mỵ Châu và cho đào cái giếng nước ở trên của đền. Người dân vùng này còn truyền tụng những câu cửa miệng: “Cây đa nghìn tuổi”, “giếng nước nhà Ngô”. Với việc Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa, vùng đất Hà Nội lại khôi phục vị trí trung tâm chính trị của đất nước trong buổi đầu phục hưng độc lập sau hơn nghìn năm Bắc thuộc. Đóng đô ở Cổ Loa, Ngô Quyền muốn dựa vào thành cao, hào sâu ở vị trí đầu mối của các luồng giao thông thủy bộ giữa trung tâm châu thổ sông Hồng, để triều đình có thể nắm chắc miền châu thổ mà vươn ra quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Việc Ngô Quyền xưng Vương, định đô ở Cổ Loa năm 939 cũng cho thấy, Tiền Ngô Vương ý thức rất rõ việc quốc thống, nối nghiệp của các vua Hùng, vua Thục, từ đó cho thấy Ngô Quyền xứng với vị thế là Tổ trung hưng của dân tộc Việt.

Tưởng nhớ công lao của Tiền Ngô Vương, nhiều địa phương trong cả nước đã xây dựng đền thờ. Tính riêng Hải Phòng -mảnh đất gắn với chiến thắng Bạch Đằng có hơn 30 di tích; Thái Bình 3 di tích, Hà Nam 1 di tích, Phú Thọ 1 di tích. Hà Nội có hai nơi thờ Ngô Quyền là ở quê hương ông tại xã Đường Lâm - Sơn Tây và đền Thượng Tiết nơi ghi dấu chân ông hành quân tại xã Đại Hưng -huyện Mỹ Đức.

Xem thêm: Tổ Chức Kinh Doanh Là Gì ? Bước Đầu Khi Thành Lập Doanh Nghiệp

Tuy nhiên, tại mảnh đất Cổ Loa lịch sử, nơi Ngô Quyền chọn để định đô cho triều Ngô đến nay vẫn chưa có một công trình nào tưởng niệm về Ngô Quyền. Tất cả các di tích liên quan đến Ngô Quyền mà các công trình nghiên cứu đề cập trên phạm vi cả nước chỉ là đền, thờ, lăng mộ, bia ký… đều là các di tích muộn sau này để nghi nhớ các chiến công, thân thế, sự nghiệp, sự tích liên quan tới thời Ngô. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã khẳng định trên mảnh đất Cổ Loa có đền thờ An Dương Vương – khởi dựng Nhà nước Âu Lạc, rồi mất nước vào tay phong kiến phương Bắc; Ngô Quyền đã lấy lại độc lập tự chủ, lấy lại quốc thống. Vì vậy cần nghiên cứu xây dựng các công trình thờ phụng, tưởng nhớ Ngô Quyền ở Cổ Loa theo các hướng: Xây dựng một khu lưu niệm về Ngô Quyền trong quần thể di tích Cổ Loa; chọn khoảng đất còn trống gần trung tâm quần thể di tích Cổ Loa để thực hiện đề án này. Tại đây, nên xây dựng một ngôi đền (hay đình) thờ Ngô Quyền, cùng các công trình phụ trợ khác để xứng đáng với công lao và tầm vóc lịch sử của vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền.

Kỷ niệm 1080 năm Ngô Quyền xưng Vương, định đô ở Cổ Loa (939 -2019) là dịp để mỗi người trong chúng ta ôn lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc; tri ân công lao của Ngô Quyền với sự nghiệp trung hưng đất nước góp phần giáo dục, nhân lên niềm tự hào về truyền thống lịch sử trong các thế hệ hôm nay và mai sau./.

Ngô Vương Quyền và kinh đô Cổ Loa

21/08/2013

Ngô Quyền sinh vào năm Mậu Ngọ (898) niên hiệu Càn Ninh thứ năm trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây – Hà Nội.

Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, châu mục ở châu Đường Lâm, họ Ngô của ông là dòng họ hào trưởng có thế lực, đời đời là quí tộc.

Truyền thuyết kể rằng, khi mới sinh, Ngô Quyền có ba cái nốt ruồi ở lưng, có thầy tướng số trông thấy cho là lạ, đoán rằng về sau ông có thể làm chúa một phương, do đó mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền dáng người khôi ngô, “mắt sáng như chớp, đi thong thả như cọp” “sức có thể cầm vạc giơ lên”.

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939

Thuở thiếu thời của Ngô Quyền cũng là thời kì bão táp của chế độ thống trị nhà Đường ở An Nam. Đô hộ phủ An Nam ngày càng tỏ ra bất lực trong việc khống chế các thế lực cát cứ địa phương cũng như các thế lực bên ngoài. Người Nam Chiếu đã tấn công dữ dội Giao Châu từ năm 858 đến năm 866. Sau loạn An Sử (755 – 763) và nhất là khởi nghĩa Hoàng Sào (874 – 884), nhà Đường phải đối phó với nạn phiên trấn cát cứ, sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với An Nam ngày càng yếu đi. Quyền lực của phủ Đô hộ bị phân tán xuống các vùng nhỏ, do đó xuất hiện các thế lực hào trưởng có vai trò ngày càng quan trọng trong bộ máy cai trị. Vì vậy, họ Khúc, hào trưởng Hồng Châu, đã thiết lập chính quyền tự chủ ở An Nam một cách khá dễ dàng và ít xáo trộn vào năm 905. Thế lực họ Khúc yếu ớt, đối đầu và thất bại trước sự xâm lấn của nhà Nam Hán. Nhưng sự thống trị của nhà Nam Hán chẳng vững bền: năm 931, thế lực họ Dương ở Ái Châu đánh bại quan lại nhà Nam Hán là Lý Tiến, Trần Bảo ở dưới chân thành Đại La, Dương Đình Nghệ trở thành Tiết Độ sứ của chính quyền người Việt tự chủ.

Thế lực họ Dương nắm quyền ở Đại La được sự ủng hộ của nhiều thế lực địa phương khác, trong đó có họ Ngô của Ngô Quyền.

Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, “có trí dũng”. Sau khi Ngô Quyền kết hôn với con gái Dương Đình Nghệ là Dương thị, em gái Dương Tam Kha, Ngô Quyền trở thành nha tướng và cũng là con rể của Dương Đình Nghệ, được vị Tiết độ sứ tin tưởng, giao cho quyền cai quản Ái Châu, đất căn bản của họ Dương vào năm 932.

Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán.

Ngô Quyền và Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử

Vào những ngày mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền từ Ái châu đem quân ra hỏi tội Kiều Công Tiễn.

Theo thần tích, truyền thuyết dân gian và gia đình họ Dương ở làng Ràng (xã Dương Xá, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa) thì dưới sự chỉ đạo của Ngô Quyền, Dương Tam Kha (con Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh Thạc đã cầm quân tiến công thành Đại La, giết Kiều Công Tiễn.

Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch chống ngoại xâm. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai. Hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền.

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939
Tại đây, một kế hoạch chiến đấu mưu trí và chắc thắng đã được Ngô Quyền và các tướng lĩnh bàn định và thông qua. Trong một cuộc họp bàn, với lòng tự tin và làm chủ tình thế, Ngô Quyền đề ra ý kiến như sau:

“Hoằng Thao là một đứa trẻ, lại đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Song giặc có lợi về thuyền chiến, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nhưng ta sẽ cho người đem theo cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt đầu nhọn bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước thuỷ triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hay hơn kế ấy cả”.
Kế hoạch và việc lựa chọn chiến trường cho trận “quyết chiến chiến lược” đã được quyết định. Tướng sĩ ai cũng vui mừng, tin rằng chắc thắng. Sau đó, Ngô Quyền và bộ chỉ huy tạm rời thành Đại La, kéo quân về vùng biển đông bắc chuẩn bị chiến trường đón đánh thủy quân Nam Hán.

Theo thần tích và truyền thuyết dân gian các làng và hơn 30 đền thờ Ngô Quyền và các tướng có công phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, thì vùng đóng quân của Ngô Quyền lúc bấy giờ được trải dài từ các làng Bình Kiều, Hạ Đoan tới Lương Khê, còn đại bản doanh thì đặt tại các thôn Lương Sâm, Gia Viện (đều thuộc huyện An Hải, Hải Phòng).

Trước đây, đại bộ phận quân đội của Ngô Quyền là người Ái châu, nơi ông trấn trị. Trước nạn Nam Hán xâm lược, đạo quân này được bổ sung tăng cường và nhanh chóng. Nhân dân khắp nơi nô nức mang vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ quân đội. Chỉ riêng một thôn Gia Viện nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh cũng đã có hàng mấy chục trai tráng dưới quyền chỉ huy của Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố tình nguyện nhập ngũ.

Vùng cửa sông và hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm điểm quyết chiến.

Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là giao thông quan trọng từ biển Đông vào đất Việt. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông.
Sông Bạch Đằng chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Triều lên từ nửa đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km. Đến gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh.

Bấy giờ vào cuối năm 938. Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và dân ta lặn lội mưa rét, ngày đêm vận chuyển gỗ, dựng cọc.
Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm xuống hai bên bờ sông (quãng cửa Nam Triệu hiện nay) thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn.

Khi triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông thì thuyền lớn qua lại hai bên bờ vẫn dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp rút và chỉ trong khoảng thời gian hơn một tháng là mọi việc đã hoàn thành.
Theo dự kiến của Ngô Quyền, trận đánh sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc. Tướng Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ) chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ.

Từ cửa biên ngược lên phía trên không xa là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn do chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh lại đội binh thuyền địch.

Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra.

Cả đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị dồn dắt vào thế trận bố trí sẵn của ta, và bị tiêu diệt trong thời gian ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận.

Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: “Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui’.
Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Trong điều kiện lực lượng ta địch chênh lệch không nhiều, Ngô Quyền đã lợi dụng được cả thời tiết, địa hình có lợi cho ta, tạo lên thế mạnh giáng cho quân xâm lược vừa mới thò mặt tới một đòn trời giáng, giành thắng lợi quyết định bằng một trận mai phục thủy chiến trên sông.

Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy”.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là trận trung kết toàn thắng của dân tộc ta trên con đường đấu tranh Bắc thuộc, giành lại độc lập hoàn toàn.
Chiến công hiển hách đó đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, chấm dứt hoàn toàn thời Bắc thuộc kéo dài trên nghìn năm.

Ngô Vương Quyền và kinh đô Cổ Loa
Bằng chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, dân tộc ta không những chấm dứt ách đô hộ hơn nghìn năm của Phương Bắc, mà còn tạo điều kiện tiến lên xây dựng một quốc gia độc lập hoàn toàn.

Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục.

Sử gia Lê Văn Hưu đời Trần nêu cao ý tưởng này của Ngô Vương Quyền khi viết với Ngô Vương “chính thống của nước Việt ta đã nối lại được”.
Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương bước đầu tổ chức một triều chính độc lập: “đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế vương”.
Bà vợ họ Dương, con gái Dương Đình Nghệ, được lập làm hoàng hậu. Triều đình của Ngô Vương tuy còn đơn sơ, nhưng được xây dựng theo thể chế của một vương triều hoàn toàn độc lập.

Các tướng sĩ có công trong cuộc chiến tranh chống Nam Hán đều được phong tước, cấp thái ấp như Phạm Lệnh Công được phong đất ở miền Nam Sách Giang (Nam Sách, Hải Dương).

Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa được 6 năm (939 944). Trong sáu năm ngắn ngủi đó chắc chắn triều Ngô vẫn chưa xây dựng được thêm gì nhiều ở Loa thành xưa. Khảo cổ học chỉ phát hiện được những đoạn thành sửa đắp vào thời Ngô Quyền trên nền tảng hoang phế thành cũ của Thục An Dương Vương.
Truyền thuyết dân gian vùng đất Cổ Loa kể lại rằng, Ngô Vương Quyền khi đóng đô ở đây đã cho trồng cây đa ở trước am thờ Mỵ Châu và cho đào cái giếng nước ở trên của đền. Người dân vùng này còn truyền tụng những câu cửa miệng: “Cây đa nghìn tuổi”, “giếng nước nhà Ngô”.

Với việc Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa, vùng đất Hà Nội lại khôi phục vị trí trung tâm chính trị của đất nước trong buổi đầu phục hưng độc lập sau hơn nghìn năm Bắc thuộc.

Ngô Quyền mất năm 944, thọ 47 tuổi.Tại quê hương xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Tây) có đình thờ và lăng Ngô Quyền. Trong nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng; gần đó có những rộc sâu, tương truyền xưa kia là hồ sen, nơi Ngô Quyền thường cùng bạn bè thuở nhỏ chơi trò thủy chiến.

Tại thành phố Hải Phòng, bên cạnh dòng sông Bạch Đằng lịch sử, cũng có những ngôi đền và đình thờ Ngô Quyền. Ở đình Hàng Kênh – ngôi đình tráng lệ ở Hải Phòng xây dựng năm 1718 – có câu đối lớn với dòng chữ nho:
“Vương nghiệp khởi nghiệp Loa Thành, trường biên thanh sử.

Chiến công lưu Đằng thủy, cộng mộc hồng ân”, dịch nghĩa là: “Vương nghiệp bắt đầu từ Loa thành lưu mãi trong sử sách. Chiến công lưu lại trên sông Đằng, trong đó có ân phúc của loài cây”.

2013-08-21

Chia sẻ

  • Facebook
  • Twitter
  • Google +

Phát triển Cổ Loa gắn với sự kiện Ngô Quyền xưng vương và định đô

Thứ Sáu, 02-10-2020, 10:35

Facebook Email Bản in +

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939
Hội thảo khoa học "Ngô Quyền - Vị tổ trung hưng đất nước".

Tại cuộc Hội thảo khoa học “Ngô Quyền - Vị tổ trung hưng đất nước” được UBND TP Hà Nội và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cùng tổ chức, ngày 1-10, tại Hà Nội, các nhà nghiên cứu đã khẳng định những đóng góp của Ngô Quyền trong tiến trình lịch sử dân tộc cũng như với lịch sử, văn hóa của vùng đất Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội) nói riêng, đưa ra những cơ sở khoa học để xây dựng công trình tưởng niệm Ngô Quyền, xây dựng kịch bản cho “Lễ hội Ngô Quyền xưng vương và định đô” tại Cổ Loa.

Người khẳng định nền độc lập, khởi nguồn cuộc trung hưng

Thế kỷ thứ 10 được các nhà nghiên cứu coi là thế kỷ “quá độ”, thế kỷ “bản lề” trong lịch sử Việt Nam. Trong thế kỷ “đặc biệt” này đã diễn ra cuộc đấu tranh giành lại, bảo vệ và khẳng định mạnh mẽ nền độc lập, khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của dân tộc và bắt đầu một thời kỳ độc lập, tự chủ và phát triển hưng thịnh lâu dài của quốc gia Đại Việt.

Trong thế kỷ lịch sử sôi động đó, vị anh hùng Ngô Quyền đã nổi lên đoàn kết, quy tụ mọi nguồn nội lực của đất nước. Bằng chiến thắng Bạch Đằng vang dội năm 938, ông đã đặt cơ sở cho việc “khôi phục quốc thống” (Ngô Thì Sĩ).

Sau khi đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng “Vương” và chọn vùng đất Cổ Loa làm nơi định đô từ mùa xuân năm 939. Ông “đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương…” (Ngô Sĩ Liên).

Trước Ngô Quyền, các thủ lĩnh Khúc Hạo và Dương Đình Nghệ từng bước “gây nền độc lập”, dù đã thoát khỏi sự cai trị từ phương bắc nhưng vẫn chỉ xưng “Tiết độ sứ”. Chỉ đến Ngô Quyền mới xưng “Vương”, khẳng định mạnh mẽ tinh thần quốc gia độc lập. Đây là bước đột biến mạnh mẽ, chưa từng có và đặt nền móng cho cả quá trình khẳng định và bảo vệ nền độc lập dân tộc trong suốt chiều dài tiếp theo của lịch sử.

Các sử gia đời sau tôn vinh Ngô Quyền là “bậc tổ trung hưng thứ nhất” (Phan Bội Châu) của quốc gia dân tộc trong thời phong kiến. Năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau khi trở về Tổ quốc, lãnh đạo cách mạng, viết “Lịch sử Việt Nam” bằng thơ lục bát để tuyên truyền vận động quần chúng, trong đó ca ngợi người anh hùng quê gốc Đường Lâm đã “Cứu dân ra khỏi cát lầm nghìn năm” (Hồ Chí Minh - Toàn tập, 2011).

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939
Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội).

Việc thực hành tưởng niệm mang nhiều ý nghĩa

Việc Ngô Quyền lên ngôi, xưng vương, định đô ở Cổ Loa và bắt đầu thiết lập bộ máy nhà nước độc lập đầu tiên, dù chỉ trong thời gian ngắn sáu năm, là một mốc son đáng tự hào, xứng đáng được đời sau ghi nhận, tưởng niệm. Nhân dân đã lập đền thờ phụng Ngô Quyền ở quê (Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) và nhiều nơi khác.

Khu vực có nhiều di tích thờ ông nhất là vùng Hải Phòng, gần chiến trường Bạch Đằng năm xưa. Theo nhà nghiên cứu Đoàn Trường Sơn (Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng), hơn 50 di tích thờ Ngô Quyền ở vùng Hải Phòng có điểm chung là đều quay về hướng tây - hướng về kinh đô Cổ Loa.

Nhưng ở Cổ Loa cho đến nay, những dấu tích vật chất về Ngô Quyền và vương triều của ông rất mờ nhạt, chỉ còn những ghi chép trong những bộ sử đời sau về sự kiện này và những tương truyền trong dân gian về “cây đa nghìn tuổi Ngô Quyền trồng ở Cổ Loa”, về “giếng nước nhà Ngô”, về câu “đất Cổ Loa, cây đa Dục Tú”, về huyền tích Ngô Quyền thả trôi quả bầu theo dòng sông để đặt mốc giới phân chia đất cho dân Dục Tú ...

Việc xây dựng một công trình tưởng niệm Ngô Quyền và tổ chức lễ hội kỷ niệm sự kiện Ngô Quyền xưng vương và định đô ở Cổ Loa mang nhiều ý nghĩa chính trị, văn hóa, không chỉ giáo dục truyền thống, tuyên truyền quảng bá lòng yêu nước, truyền thống văn hiến, lòng tự hào và khát vọng hòa bình của dân tộc mà còn hơn thế nữa, tạo cơ hội để Cổ Loa nói riêng, huyện Đông Anh và Thủ đô Hà Nội nói chung xây dựng “thương hiệu văn hóa”, tạo những điều kiện để phát triển kinh tế xã hội.

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939
Khách tham quan triển lãm tư liệu về Ngô Quyền.

Các chuyên gia nghiên cứu văn hóa cho rằng, việc tổ chức các hoạt động của lễ hội phải gắn chặt với Ngô Quyền, với các sự kiện lịch sử liên quan đến triều đại của Ngô vương; đồng thời nằm trong tổng thể hội lễ của Khu di tích cấp quốc gia đặc biệt Cổ Loa.

Việc tổ chức lễ hội phải lấy cộng đồng cư dân địa phương làm trung tâm và họ phải được tham gia, bàn bạc, tổ chức, thực hành và được hưởng lợi từ những hoạt động này; cần chú ý và thỏa mãn những nhu cầu của người dân, khách tham quan di tích và tất cả các bên liên quan. Tất cả những nghi lễ, trò diễn, trò chơi, biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao… phải được xem xét trong bối cảnh không gian cụ thể nơi diễn ra lễ hội để lựa chọn và đưa vào kịch bản chi tiết ...

Bên cạnh đó, cần có đồ án chi tiết, xây dựng những công trình tưởng niệm, chọn ngày tổ chức kỷ niệm hợp lý với sinh hoạt tinh thần của cư dân mà vẫn gắn với lịch sử.

Phát biểu tại cuộc Hội thảo, đồng chí NgôThị Thanh Hằng, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội khẳng định: “Thành ủy và UBND thành phố quan tâm đến việc xây dựng dự án đền thờ và lễ hội tưởng nhớ công lao của Ngô Quyền, mong các nhà nghiên cứu ủng hộ công việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích, các nguồn tư liệu liên quan đến Ngô Quyền trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử”.

Việc nghiên cứu cần tiếp tục sâu hơn để có được bản thiết kế chi tiết cho công trình cũng như những kết luận khoa học để xây dựng kịch bản cách thực hành nghi lễ phụng thờ, quy mô và hình thức tổ chức “Lễ hội Ngô Quyền xưng vương và định đô” tại Cổ Loa trong thời gian tới.

VƯƠNG ANH

bậc tổ trung hưng thứ nhất gắn với sự kiện Ngô Quyền xưng vương và định đô Phát triển Cổ Loa

Facebook Twitter Link EmailQuay lại

Mục lục

  • 1 Thân thế
  • 2 Sự nghiệp
    • 2.1 Bối cảnh
    • 2.2 Trận chiến Bạch Đằng
  • 3 Cai trị
    • 3.1 Kinh đô
  • 4 Qua đời
  • 5 Nhận định
  • 6 Tồn nghi về quê hương
    • 6.1 1. Đường Lâm (Hà Nội)
    • 6.2 2. Đường Lâm (Bắc Trung Bộ)
    • 6.3 Xem thêm
  • 7 Gia đình
    • 7.1 Vợ
    • 7.2 Con cái
  • 8 Tưởng niệm
    • 8.1 Các cơ sở thờ tự Ngô Quyền
  • 9 Ảnh
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú thích
  • 12 Tham khảo

Thân thế

Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (17 tháng 4 năm 898) trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ái Châu.[3] Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm.[4] Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng".[5]

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư:[4][6]

Ngô Quyền - Người đặt nền móng cho nhà nước quân chủ đầu tiên ở Việt Nam

Thanh Hải (Viện Sử học)

Đánh giá tác giả:

13:09 thứ năm ngày 18/04/2019

Tăng kích thước font chữ Giảm kích thước font chữ In bài viết Gửi bài viết

Ngô Quyền và sự nghiệp trung hưng đất nước

(HNMO) - Chiến thắng năm 938 tại Bạch Đằng giang là chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Sự kiện đánh dấu mốc son lịch sử, một bước ngoặt vĩ đại chấm dứt thời kỳ đô hộ hơn nghìn năm của phong kiến phương Bắctrên đất nước ta. Sau chiến thắng này, Ngô Quyền ghi danh vào trang sử hào hùng của dân tộc không chỉ là vị tướng tài năng, mà còn là người đầu tiên "mở nước xưng Vương", đặt nền móng cho độc lập, tự chủ thực sự và lâu dài của dân tộc.


Chấm dứt thời kỳ đô hộ của phong kiến phương Bắc

Thế kỷ X được xem là thế kỷ bản lề cho nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Hai cuộc kháng chiến giành thắng lợi của Khúc Thừa Dụ (năm 905) và Dương Đình Nghệ (năm 931) đã bước đầu phá bỏ ách thống trị của chính quyền đô hộ trên đất nước ta. Tuy nhiên, thắng lợi đó nhanh chóng bị dập tắt bởi thù trong, giặc ngoài, sự thiếu quyết đoán trong việc khẳng định quyền tự chủ của dân tộc, cũng như thiếu vắng bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương. Phải đến năm 938, khi Ngô Quyền lãnh đạo toàn thể nhân dân đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng và lên ngôi Vương, đất nước ta mới thoát ách đô hộ của phong kiến phương Bắc.

Ngô Quyền là người làng Cam Lâm (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội), sinh trưởng trong một dòng họ làm hào trưởng có thế lực. Ngô Quyền đã sớm tham gia các cuộc khởi nghĩa với vai trò là vị thuộc tướng dưới thời Dương Đình Nghệ. Sau khi Dương Đình Nghệ bị ám hại bởi Kiều Công Tiễn, nước ta rơi vào tình trạng rối loạn, là cơ sở để nhà Nam Hán nuôi âm mưu xâm lược. Trước tình thế thù trong, giặc ngoài, Ngô Quyền đã tập hợp lực lượng từ Ái Châu tiến ra Giao Châu diệt trừ nội phản, rồi tiếp tục hành quân tới cửa biển Bạch Đằng, đánh đuổi ngoại bang.

Sách Đại Việt sử lược ghi: "Quân Nam Hán lợi dụng sự rối loạn trong nước Đại Việt, đã cử một đội chiến thuyền lớn do Hoằng Tháo dẫn đầu. Vua Nam Hán đích thân cầm một đạo quân khác đóng tại Hải Môn trấn làm hậu thuẫn. Ngô Quyền đã bày thế trận trên cơ sở lợi dụng địa hình tự nhiên ở vùng cửa sông Bạch Đằng, kết hợp với bãi cọc nhân tạo để dồn quân giặc vào tình thế bị động, từ đó tiêu diệt giặc và chặn đứng đường rút chạy của chúng…”.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Khi nước thủy triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy liều chết chiến đấu. Quân Hoằng Tháo không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền mắc phải cọc lật úp, tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt, giết Hoằng Tháo tại trận".

Đánh giá về ý nghĩa chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử đánh giặc giữ nước và sự nghiệp dựng xây đất nước, mở đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc, Ngô Thì Sĩ trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng: "Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa, đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại". Sử gia Lê Văn Hưu cũng nhận xét: "Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng Vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".

Nhà nước quân chủ đầu tiên ở Việt Nam

Ngay sau khi đánh thắng quân Nam Hán, Ngô Quyền đã chọn Cổ Loa làm kinh đô của đất nước. Cổ Loa, nay thuộc Đông Anh (Hà Nội), vốn là kinh đô của nước Âu Lạc thời vua Thục. Đóng đô ở Cổ Loa, Ngô Quyền không chỉ tận dụng những thành quả của quá khứ và giảm thiểu thời gian, công sức đầu tư xây dựng một kinh thành mới, mà còn thể hiện một tinh thần cảnh giác cao độ. Đại La là trung tâm cai trị của triều đình, là nơi có nhiều thương nhân Trung Hoa sinh sống. Do đó, nếu chọn Đại La giống họ Khúc và họ Dương thì khó tránh gặp phải nội ứng của chính quyền phương Bắc.

Hơn nữa, điều quan trọng là Ngô Quyền muốn khẳng định việc trở về với cội nguồn của dân tộc, tỏ rõ ý nguyện tiếp tục sự nghiệp dựng nước và giữ nước thời Văn Lang - Âu Lạc, chính thức cắt hẳn sự ảnh hưởng của triều đình phương Bắc.

Năm 905, Khúc Thừa Dụ đã lật đổ được chính quyền đô hộ nhà Đường, tự xưng là Tiết độ sứ, bắt đầu có ý thức xây dựng cơ sở cho một nước độc lập. Song, Khúc Thừa Dụ cũng như Dương Đình Nghệ sau đó đều chỉ xưng là Tiết độ sứ hay Tĩnh hải quân Tiết độ sứ - một chức quan nắm quyền quản lý ở một châu do chính quyền đô hộ áp đặt, tức là chưa thoát khỏi sự ràng buộc của chính quyền phương Bắc.

Chỉ đến mùa xuân năm 939, sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng Vương (tức là vua của một nước), tự khẳng định nước ta là một vương quốc độc lập. Bắt đầu từ đây, bộ máy nhà nước quân chủ độc lập đầu tiên chính thức được hình thành. Triều đình dưới thời Ngô Quyền có bộ máy gồm đầy đủ quan chức văn, võ; có quy định nghi lễ, phẩm phục…

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mùa xuân, vua bắt đầu xưng Vương, lập Dương Thị làm Hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục". Sách Việt sử tiêu án cũng chép: "Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương Thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất".

Về cương vực đất nước, với nhà nước còn non trẻ, Ngô Quyền chỉ thực sự tập trung thế lực ở vùng trung du Bắc Bộ, vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng sông Mã, sông Lam, chủ yếu ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Để quản lý vùng đất này, Ngô Quyền đã thiết lập bộ máy chính quyền ở các địa phương do các tướng lĩnh thân cận giữ. Chẳng hạn, vùng Đông Bắc do Ngô Xương Ngập cai quản; Hải Dương do Phạm Công Lệnh trấn trị; Đinh Công Trứ ở châu Hoan - Nghệ An…

Việc Ngô Quyền xưng Vương, chế định triều nghi, phẩm phục, đặt các chức quan cai trị từ trung ương đến địa phương đã khẳng định nền độc lập chủ quyền của dân tộc, đặt cơ sở cho các nhà nước quân chủ sau này. Mặt khác, thông qua việc chọn Cổ Loa là đất đóng đô, Ngô Quyền đã viết tiếp trang sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nhà nước do Ngô Quyền sáng lập được xem như một nhà nước quân chủ mở đầu của kỷ nguyên văn minh Đại Việt.

Ngô Quyền - Người đặt nền móng cho nhà nước quân chủ đầu tiên ở Việt Nam Đóng Tự trình chiếu Dừng trình chiếu

Tại sao Ngô Quyền chọn Cổ Loa đóng Anh Hà Nội là Nội đóng đô sau khi giành được độc lập năm 939
Tin liên quan Ngô Quyền và sự nghiệp trung hưng đất nước

(HNM) - Thiết thực kỷ niệm 1080 năm Ngô Quyền xưng Vương, định đô ở Cổ Loa (939-2019), ngày 25-3, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và Trung tâm Bảo …

Chia sẻ Facebook Chia sẻ Google Plus Chia sẻ Twitter Chia sẻ Zalo Tới khu vực bình luận In bài viết Gửi bài viết

Từ khóa: Ngô Quyền người đặt nền móng nhà nước quân chủ Đại Việt Việt Nam