Sự khác nhau giữa đảng và nhà nước

Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản ly, nhân dân làm chủ (phần 1)

Ngày phát hành: 24/07/2019 Lượt xem 1888


I. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

1. Những nhận thức đã rõ

Đại hội IV của Đảng ta (1976) đã đề cập đến mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Bước sang thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ này được xem là một trong những mối quan hệ lớn, được nhận thức sâu sắc hơn và rõ hơn trong điều kiện mới.

1.1. Trước hết, nhận thức sâu sắc hơn và đây đủ hơn về nhân dân làm chủ trong mối quan hệ với Đảng và Nhà nước. Nhân dân làm chủ được xác định là mục tiêu cao nhất trong mối quan hệ. Cả ba chủ thể Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải phấn đấu vì mục tiêu nhân dân làm chủ. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đều vì mục đích đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính vì thế nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” có bước nhận thức mới, đầy đủ hơn so với trước đây. Chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước là nhân dân. Quyền lực của Đảng cũng như quyền lực nhà nước đều bắt nguồn, ra đời, tồn tại và phát triển từ quyền lực của nhân dân. Với nhận thức đó, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta – Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhân dân Việt nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này” (lời mở đẩu). Quyền lập hiến thuộc về nhân dân mà không phải như nhận thức trước đây duy nhất thuộc về Quốc hội. Bằng quyền lập hiến của mình, mà Nhân dân giao quyền, Nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Vì thế, đề cao nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một đòi hỏi tất yếu. Nhân dân trước đây chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thì ngày nay không những thông qua các cơ quan đại diện do mình bầu ra và các cơ quan nhà nước khác mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ được Đảng ta đề cao và được xem là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và quản lý của nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đúng như Cương lĩnh của Đảng đã chỉ rõ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được khẳng định vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của công cuộc đổi mới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mối quan hệ này.

1.2. Nhà nước quản lý trong mối quan hệ với Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Việc khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phản ánh quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, đầy đủ, sâu sắc và cụ thể hơn về những tư tưởng của Nhà nước kiểu mới được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và xây dựng trong giai đoạn trước đây và những giá trị tiến bộ, phù hợp có thể kế thừa và phát triển về nhà nước pháp quyền của nhân loại ngày nay. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng theo những đặc trưng cơ bản sau đây:

Trước hết, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực Nhà nước về nhân dân.

Hai là, quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xét về bản chất là thống nhất, nhưng về kỹ thuật và tổ chức hoạt động của nó có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và các đạo luật. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí và hiệu lực tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật, chủ yếu là các đạo luật là kết quả của sự thể chế đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tính pháp quyền được đề cao trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Bốn là, bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân và không ngừng hoàn thiện cơ chế pháp lý thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước tôn trọng và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, có thiện chí các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc thừa nhận.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan, không những trước đây mà cả trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã lựa chọn, một mặt Đảng phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mặt khác đòi hỏi Nhà nước phải có năng lực để thực hiện các chức năng, thẩm quyền được nhân dân và xã hội giao phó.

1.3. Nhận thức rõ hơn và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ

- Đảng giữ vị trí, vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên, bằng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ … Thước đo hiệu quả lãnh đạo của Đảng thể hiện ở kết quả phát huy vai trò của Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nhiều hay ít.

- Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước chỉ mạnh khi phát huy được đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

- Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước và bằng các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình và bằng các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân được Hiến pháp và luật quy định; có trách nhiệm xây dựng Đảng và Nhà nước ngày càng vững mạnh.

2. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau và nguyên nhân

2.1. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau

Một là, chưa có sự nhận thức thống nhất và rõ ràng giữa 2 thuật ngữ Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Hiến pháp năm 2013 viết Đảng cộng sản Việt Nam là … lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4). Như vậy, cầm quyền và lãnh đạo giống và khác nhau như thế nào? Khi nào thì gọi Đảng ta là Đảng cầm quyền và khi nào thì gọi là Đảng lãnh đạo. Về vấn đề này một số người cho rằng, ở nước ta Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo là một, chỉ khác nhau cách nói, cách dùng thuật ngữ. Người khác lại cho rằng, Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo có sự khác nhau. Đảng cầm quyền là Đảng phải hóa thân vào Nhà nước để vừa cầm quyền, vừa lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo là để chỉ khi Đảng chưa giành được chính quyền.

Ở các nước dân chủ và pháp quyền tư sản không có thuật ngữ Đảng lãnh đạo mà chỉ có Đảng cầm quyền là Đảng thắng cử sau các cuộc tổng tuyển cử hoặc là liên minh với một số Đảng để có đa số trong Nghị viện để thành lập Chính phủ được gọi là Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là Đảng đã “hóa thân” vào bộ máy nhà nước. Tùy theo hình thức chính thể cộng hòa hay đại nghị mà người đứng đầu Đảng thắng cử sau tổng tuyển cử trở thành Tổng thống hay Thủ tướng, còn những nhân vật chủ chốt của Đảng cầm quyền giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Đảng thắng cử với Nhà nước hòa vào nhau làm một. Nhà nước thực thi đường lối thể hiện trong Cương lĩnh tranh cử của Đảng cầm quyền.

Ở nước ta, chỉ có một Đảng, có nên đồng nhất Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền là một hay không là câu hỏi chưa có câu trả lời rõ ràng. Đảng vẫn có bộ máy tổ chức riêng để thực thi vai trò lãnh đạo. Đã có một thời các Ban của Đảng giảm thiểu hoà nhập vào Nhà nước; nhưng sau đó lại tái thành lập để thực thi vai trò lãnh đạo như Ban Nội chính, Ban Kinh tế. Lãnh đạo nhà nước và xã hội thì Đảng coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo. Còn cầm quyền có phương thức cầm quyền không? và đó là phương thức gì? Vì còn lúng túng trong nhận thức, chưa phân biệt rõ ràng vị trí, vai trò lãnh đạo với vị trí, vai trò cầm quyền nên không có sự nhất quán trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, Đảng vừa lãnh đạo (có tổ chức bộ máy riêng để thực hiện vai trò lãnh đạo), lại vừa cầm quyền (nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng nắm giữ các cương vị chủ chốt của bộ máy nhà nước) nên không tránh khỏi giữa Đảng và Nhà nước có sự trùng lắp trong công việc, dựa dẫm, ỷ lại nhau.

Hai là, chưa có nhận thức đầy đủ và phân biệt rõ ràng giữa lãnh đạo và quản lý. Ranh giới giữa hai tư cách Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý không phải lúc nào cũng rõ ràng. Vì vậy, trong thực tiễn còn có sự lẫn lộn giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Mặc dù Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra các phương thức lãnh đạo của Đảng, khác với phương thức quản lý nhà nước, nhưng trong thực tế không phải lúc nào cũng trả lời được một cách minh bạch. Bởi lãnh đạo hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả quản lý; quản lý theo nghĩa rộng bao gồm cả lãnh đạo. Vì thế, tiếp tục phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý trong lãnh đạo của Đảng và trong quản lý của nhà nước là một nhu cầu của thực tiễn hiện nay về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để phòng chống sự bao biện, làm thay hay ỷ lại.

Ba là, nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” được ghi nhận trong Cương lĩnh và trong Hiến pháp năm 2013, nhìn chung chưa được nhận thức sâu sắc, đầy đủ và còn có sự khác nhau và lúng túng trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong hoạt động lập pháp:

+ Thứ nhất, vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất được hiểu như thế nào? Quyền lực nhà nước thống nhất ở đâu? Ý nghĩa của quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như thế nào? Về những vấn đề này đang có những quan niệm khác nhau. Một số người cho rằng, ở nước ta do đặc thù của một Đảng cầm quyền, nên quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể ở Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, Ban Bí thư. Và vì quan niệm như vậy, nên khi có các ý kiến khác nhau trong tổ chức và hoạt động quyền lực nhà nước phải chờ đợi, dựa dẫm, ỷ lại xin ý kiến của cấp ủy. Ngược lại, cũng có người cho rằng quyền lực nhà nước là tập trung và thống nhất ở Quốc hội. Bới Quốc hội được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội là thiết chế có toàn quyền, là cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Đây thực chất là quan điểm theo nguyên tắc tập quyền vốn đã tồn tại trong tổ chức quyền lực nhà nước trong nhiều năm ở nước ta. Cũng có một số người khác lại tuyệt đối hóa sự thống nhất của quyền lực nhà nước, “lo sợ quyền lực nhà nước không thống nhất, sợ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mất đoàn kết”. Quan điểm này nhấn mạnh yếu tố phối hợp giữa các cơ quan, coi nhẹ phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây chính là quan điểm dẫn đến hạ thấp vai trò kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và hạ thấp vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân.

Ngày nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, theo chúng tôi, quan niệm đúng đắn hơn cả là quyền lực nhà nước là thống nhất ở nhân dân thể hiện tập trung ở bản Hiến pháp - phương tiện để nhân dân trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp mà không phải nhân dân trao hết thảy quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, rồi đến lượt mình Quốc hội lại trao quyền hành pháp cho Chính phủ, trao quyền tư pháp cho Tòa án nhân dân như quan điểm của các bản Hiến pháp thời kỳ trước đây (trừ Hiến pháp 1946). Quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm 2011) và với Hiến pháp năm 2013: Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ đại diện mà còn cả bằng các quyền dân chủ trực tiếp, trong đó trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất. Có quan niệm như vậy thì nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mới được đảm bảo thực hiện đầy đủ, không hình thức. Quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Không có quyền lực nhà nước nào cao hơn quyền nào, đứng trên quyền nào. Do vậy, quyền lực nhà nước thống nhất ở mục tiêu chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thể hiện tập trung trong Hiến pháp. Vì thế, Đảng và Nhà nước phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, tôn trọng và đề cao Hiến pháp. Cả Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp – phương tiện chính trị - pháp lý để thống nhất quyền lực nhà nước.

+ Thứ hai, về yếu tố phối hợp trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp…” cũng còn nhận thức không thống nhất. Có người cho rằng phối hợp là phương thức, cách thức, lề lối làm việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, các cơ quan nhà nước làm đúng, làm đủ các nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp và pháp luật quy định là phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Phối hợp không có nghĩa là làm thay công việc của cơ quan khác. Vì thế, phối hợp không phải là yếu tố quyết định trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, phối hợp có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định chất lượng của việc thực hiện các quyền. Ví dụ như, phối hợp giữa hành pháp và lập pháp trong xây dựng luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo quan niệm này. Quy trình thông qua luật chia làm 2 bước: bước đầu tiên, cơ quan soạn thảo (thường là Chính phủ) trình, Quốc hội cho ý kiến; sau bước đầu đó, toàn bộ dự thảo Luật là sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra (các Uỷ ban của Quốc hội) hoàn thiện dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua. Thực tiễn này chỉ ra rằng, dự án Luật được Quốc hội thông qua, nếu chất lượng tốt thì không sao, nhưng chất lương không tốt thì trách nhiệm thuộc về ai? Không xác định được rõ ràng (ví dụ như Bộ luật hình sự hay Luật bảo hiểm xã hội). Theo chúng tôi, phối hợp trong lao động quyền lực nhà nước chỉ đặt ra khi các quyền thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà không thống nhất thì mới đặt ra phối hợp để tìm giải pháp “thỏa hiệp” đúng đắn nhất nhằm giải quyết vấn đề. Tuyệt đối phối hợp không phải là việc làm thay công việc của nhau để dẫn đến dựa dẫm, ỷ lại, không làm hết trách nhiệm của mình và không xác định được trách nhiệm thuộc về ai, nhằm hạ thấp việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước.

+ Thứ ba, yếu tố “kiểm soát” trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất …” cũng còn những nhận thức không thống nhất và đầy đủ. Một số người cho rằng, quyền lực nhà nước, nhất là quyền hành pháp đòi hỏi phải hoạt động năng động, kiến tạo mới góp phần làm giàu đất nước. Đề cao kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ hạn chế sự năng động, sáng tạo trong lao động quyền lực nhà nước. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước như con dao hai lưỡi, một mặt để phòng chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và mặt khác sẽ hạn chế sự năng động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, một số người lại quá nhấn mạnh vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước và cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là phương thức làm cho Nhà nước mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước chỉ mạnh khi quyền lực nhà nước được kiểm soát một cách chặt chẽ. Theo chúng tôi, kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp của tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.Tính phức tạp đó một mặt, do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để chống sự lạm dụng, nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và pháp quyền nào. Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước mà không làm mất đi tính mềm dẻo, cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước. Cái khó nhất để kiểm soát quyền lực nhà nước là phải thiết kế được một chính quyền nhà nước có khả năng kiểm soát được xã hội và sau nữa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng, đó là việc thiết kế được về mặt tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, sao cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất.

2.2. Những nguyên nhân về nhận thức chưa rõ hoặc có ý kiến khác nhau.

- Một là, vấn đề Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền cũng như vấn đề lãnh đạo và quản lý không phải là vấn đề mới mà đã được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều năm nay. Nhưng là vấn đề khó đối với nước ta, khi mà vẫn còn hai bộ máy song song tồn tài. Một bộ máy lãnh đạo và một bộ máy quản lý. Vì thế không tránh khỏi trùng lắp, lẫn lộn giữa lãnh đạo, cầm quyền và quản lý. Tình trạng dựa dẫm, ỷ lại và bao biện làm thay chức năng của nhau đã thường được phê phán trong các văn kiện của Đảng, nhưng khó mà khắc phục được một cách triệt để. Chừng nào mà lãnh đạo, cầm quyền và quản lý còn tách rời nhau thì các vấn đề trên chưa thể giải quyết một cách triệt để.

- Hai là, đối với nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và vấn đề có cần luật về Đảng hay không? những vấn đề mới khác về chất so với các quan niệm vốn đã tồn tại nhiều năm trong tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta, nên không thể nhận thức một cách đầy đủ ngay. Mặt khác, thói quen thần thành hóa và tuyệt đối hóa những tư duy lý luận của chủ nghĩa xã hội hiện thực và sức ỳ của nhận thức truyền thống về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, đã cản trở việc tiếp thu những nhân tố mới.

(Còn tiếp)

GS.TS Trần Ngọc Đường

PGS.TS Phạm Văn Chúc

Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

Ngày đăng: 02/08/2019 02:21
Mặc định Cỡ chữ
Sự khác nhau giữa đảng và nhà nước
Sự khác nhau giữa đảng và nhà nước
Đại hội lần thứ IV của Đảng ta (1976) đã đề cập đến mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Bước sang thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ này được xem là một trong những mối quan hệ lớn, được nhận thức sâu sắc hơn và rõ hơn trong điều kiện mới.
Sự khác nhau giữa đảng và nhà nước
Ảnh minh họa: internet

I. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

1.1. Những nhận thức đã rõ

1.1.1 Trước hết, nhận thức sâu sắc hơn và đầy đủ hơn về nhân dân làm chủ trong mối quan hệ với Đảng và Nhà nước. Nhân dân làm chủ được xác định là mục tiêu cao nhất trong mối quan hệ. Cả ba chủ thể Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải phấn đấu vì mục tiêu nhân dân làm chủ. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đều vì mục đích đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính vì thế nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” có bước nhận thức mới, đầy đủ hơn so với trước đây. Chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước là nhân dân. Quyền lực của Đảng cũng như quyền lực nhà nước đều bắt nguồn, ra đời, tồn tại và phát triển từ quyền lực của nhân dân. Với nhận thức đó, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta – Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhân dân Việt nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này” (lời mở đẩu). Quyền lập hiến thuộc về nhân dân mà không phải như nhận thức trước đây duy nhất thuộc về Quốc hội. Bằng quyền lập hiến của mình, mà Nhân dân giao quyền, Nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Vì thế, đề cao nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một đòi hỏi tất yếu. Nhân dân trước đây chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thì ngày nay không những thông qua các cơ quan đại diện do mình bầu ra và các cơ quan nhà nước khác mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ được Đảng ta đề cao và được xem là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và quản lý của nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đúng như Cương lĩnh của Đảng đã chỉ rõ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được khẳng định vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của công cuộc đổi mới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mối quan hệ này.

1.1.2 Nhà nước quản lý trong mối quan hệ với Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Việc khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phản ánh quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, đầy đủ, sâu sắc và cụ thể hơn về những tư tưởng của Nhà nước kiểu mới được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và xây dựng trong giai đoạn trước đây và những giá trị tiến bộ, phù hợp có thể kế thừa và phát triển về nhà nước pháp quyền của nhân loại ngày nay. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng theo những đặc trưng cơ bản sau đây:

Trước hết, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực Nhà nước về nhân dân.

Hai là, quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xét về bản chất là thống nhất, nhưng về kỹ thuật và tổ chức hoạt động của nó có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và các đạo luật. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí và hiệu lực tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật, chủ yếu là các đạo luật là kết quả của sự thể chế đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tính pháp quyền được đề cao trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Bốn là, bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân và không ngừng hoàn thiện cơ chế pháp lý thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước tôn trọng và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, có thiện chí các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc thừa nhận.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan, không những trước đây mà cả trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã lựa chọn, một mặt Đảng phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mặt khác đòi hỏi Nhà nước phải có năng lực để thực hiện các chức năng, thẩm quyền được nhân dân và xã hội giao phó.

1.1.3. Nhận thức rõ hơn và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ

- Đảng giữ vị trí, vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên, bằng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ … Thước đo hiệu quả lãnh đạo của Đảng thể hiện ở kết quả phát huy vai trò của Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nhiều hay ít.

- Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước chỉ mạnh khi phát huy được đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

- Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước và bằng các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình và bằng các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân được Hiến pháp và luật quy định; có trách nhiệm xây dựng Đảng và Nhà nước ngày càng vững mạnh.

1.2. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau và nguyên nhân

1.2.1. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau

Một là, chưa có sự nhận thức thống nhất và rõ ràng giữa 2 thuật ngữ Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Hiến pháp năm 2013 viết Đảng cộng sản Việt Nam là … lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4). Như vậy, cầm quyền và lãnh đạo giống và khác nhau như thế nào? Khi nào thì gọi Đảng ta là Đảng cầm quyền và khi nào thì gọi là Đảng lãnh đạo. Về vấn đề này một số người cho rằng, ở nước ta Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo là một, chỉ khác nhau cách nói, cách dùng thuật ngữ. Người khác lại cho rằng, Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo có sự khác nhau. Đảng cầm quyền là Đảng phải hóa thân vào Nhà nước để vừa cầm quyền, vừa lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo là để chỉ khi Đảng chưa giành được chính quyền.

Ở các nước dân chủ và pháp quyền tư sản không có thuật ngữ Đảng lãnh đạo mà chỉ có Đảng cầm quyền là Đảng thắng cử sau các cuộc tổng tuyển cử hoặc là liên minh với một số Đảng để có đa số trong Nghị viện để thành lập Chính phủ được gọi là Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là Đảng đã “hóa thân” vào bộ máy nhà nước. Tùy theo hình thức chính thể cộng hòa hay đại nghị mà người đứng đầu Đảng thắng cử sau tổng tuyển cử trở thành Tổng thống hay Thủ tướng, còn những nhân vật chủ chốt của Đảng cầm quyền giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Đảng thắng cử với Nhà nước hòa vào nhau làm một. Nhà nước thực thi đường lối thể hiện trong Cương lĩnh tranh cử của Đảng cầm quyền.

Ở nước ta, chỉ có một Đảng, có nên đồng nhất Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền là một hay không là câu hỏi chưa có câu trả lời rõ ràng. Đảng vẫn có bộ máy tổ chức riêng để thực thi vai trò lãnh đạo. Đã có một thời các Ban của Đảng giảm thiểu hoà nhập vào Nhà nước; nhưng sau đó lại tái thành lập để thực thi vai trò lãnh đạo như Ban Nội chính, Ban Kinh tế. Lãnh đạo nhà nước và xã hội thì Đảng coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo. Còn cầm quyền có phương thức cầm quyền không? và đó là phương thức gì? Vì còn lúng túng trong nhận thức, chưa phân biệt rõ ràng vị trí, vai trò lãnh đạo với vị trí, vai trò cầm quyền nên không có sự nhất quán trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, Đảng vừa lãnh đạo (có tổ chức bộ máy riêng để thực hiện vai trò lãnh đạo), lại vừa cầm quyền (nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng nắm giữ các cương vị chủ chốt của bộ máy nhà nước) nên không tránh khỏi giữa Đảng và Nhà nước có sự trùng lắp trong công việc, dựa dẫm, ỷ lại nhau.

Hai là, chưa có nhận thức đầy đủ và phân biệt rõ ràng giữa lãnh đạo và quản lý. Ranh giới giữa hai tư cách Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý không phải lúc nào cũng rõ ràng. Vì vậy, trong thực tiễn còn có sự lẫn lộn giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Mặc dù Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra các phương thức lãnh đạo của Đảng, khác với phương thức quản lý nhà nước, nhưng trong thực tế không phải lúc nào cũng trả lời được một cách minh bạch. Bởi lãnh đạo hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả quản lý; quản lý theo nghĩa rộng bao gồm cả lãnh đạo. Vì thế, tiếp tục phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý trong lãnh đạo của Đảng và trong quản lý của nhà nước là một nhu cầu của thực tiễn hiện nay về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để phòng chống sự bao biện, làm thay hay ỷ lại.

Ba là, nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” được ghi nhận trong Cương lĩnh và trong Hiến pháp năm 2013, nhìn chung chưa được nhận thức sâu sắc, đầy đủ và còn có sự khác nhau và lúng túng trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong hoạt động lập pháp:

+ Thứ nhất, vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất được hiểu như thế nào? Quyền lực nhà nước thống nhất ở đâu? Ý nghĩa của quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như thế nào? Về những vấn đề này đang có những quan niệm khác nhau. Một số người cho rằng, ở nước ta do đặc thù của một Đảng cầm quyền, nên quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể ở Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, Ban Bí thư. Và vì quan niệm như vậy, nên khi có các ý kiến khác nhau trong tổ chức và hoạt động quyền lực nhà nước phải chờ đợi, dựa dẫm, ỷ lại xin ý kiến của cấp ủy. Ngược lại, cũng có người cho rằng quyền lực nhà nước là tập trung và thống nhất ở Quốc hội. Bới Quốc hội được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội là thiết chế có toàn quyền, là cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Đây thực chất là quan điểm theo nguyên tắc tập quyền vốn đã tồn tại trong tổ chức quyền lực nhà nước trong nhiều năm ở nước ta. Cũng có một số người khác lại tuyệt đối hóa sự thống nhất của quyền lực nhà nước, “lo sợ quyền lực nhà nước không thống nhất, sợ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mất đoàn kết”. Quan điểm này nhấn mạnh yếu tố phối hợp giữa các cơ quan, coi nhẹ phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây chính là quan điểm dẫn đến hạ thấp vai trò kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và hạ thấp vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân.

Ngày nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, theo chúng tôi, quan niệm đúng đắn hơn cả là quyền lực nhà nước là thống nhất ở nhân dân thể hiện tập trung ở bản Hiến pháp - phương tiện để nhân dân trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp mà không phải nhân dân trao hết thảy quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, rồi đến lượt mình Quốc hội lại trao quyền hành pháp cho Chính phủ, trao quyền tư pháp cho Tòa án nhân dân như quan điểm của các bản Hiến pháp thời kỳ trước đây (trừ Hiến pháp 1946). Quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm 2011) và với Hiến pháp năm 2013: Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ đại diện mà còn cả bằng các quyền dân chủ trực tiếp, trong đó trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất. Có quan niệm như vậy thì nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mới được đảm bảo thực hiện đầy đủ, không hình thức. Quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Không có quyền lực nhà nước nào cao hơn quyền nào, đứng trên quyền nào. Do vậy, quyền lực nhà nước thống nhất ở mục tiêu chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thể hiện tập trung trong Hiến pháp. Vì thế, Đảng và Nhà nước phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, tôn trọng và đề cao Hiến pháp. Cả Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp – phương tiện chính trị - pháp lý để thống nhất quyền lực nhà nước.

+ Thứ hai, về yếu tố phối hợp trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp…” cũng còn nhận thức không thống nhất. Có người cho rằng phối hợp là phương thức, cách thức, lề lối làm việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, các cơ quan nhà nước làm đúng, làm đủ các nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp và pháp luật quy định là phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Phối hợp không có nghĩa là làm thay công việc của cơ quan khác. Vì thế, phối hợp không phải là yếu tố quyết định trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, phối hợp có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định chất lượng của việc thực hiện các quyền. Ví dụ như, phối hợp giữa hành pháp và lập pháp trong xây dựng luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo quan niệm này. Quy trình thông qua luật chia làm 2 bước: bước đầu tiên, cơ quan soạn thảo (thường là Chính phủ) trình, Quốc hội cho ý kiến; sau bước đầu đó, toàn bộ dự thảo Luật là sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra (các Uỷ ban của Quốc hội) hoàn thiện dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua. Thực tiễn này chỉ ra rằng, dự án Luật được Quốc hội thông qua, nếu chất lượng tốt thì không sao, nhưng chất lương không tốt thì trách nhiệm thuộc về ai? Không xác định được rõ ràng (ví dụ như Bộ luật hình sự hay Luật bảo hiểm xã hội). Theo chúng tôi, phối hợp trong lao động quyền lực nhà nước chỉ đặt ra khi các quyền thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà không thống nhất thì mới đặt ra phối hợp để tìm giải pháp “thỏa hiệp” đúng đắn nhất nhằm giải quyết vấn đề. Tuyệt đối phối hợp không phải là việc làm thay công việc của nhau để dẫn đến dựa dẫm, ỷ lại, không làm hết trách nhiệm của mình và không xác định được trách nhiệm thuộc về ai, nhằm hạ thấp việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước.

+ Thứ ba, yếu tố “kiểm soát” trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất …” cũng còn những nhận thức không thống nhất và đầy đủ. Một số người cho rằng, quyền lực nhà nước, nhất là quyền hành pháp đòi hỏi phải hoạt động năng động, kiến tạo mới góp phần làm giàu đất nước. Đề cao kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ hạn chế sự năng động, sáng tạo trong lao động quyền lực nhà nước. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước như con dao hai lưỡi, một mặt để phòng chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và mặt khác sẽ hạn chế sự năng động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, một số người lại quá nhấn mạnh vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước và cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là phương thức làm cho Nhà nước mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước chỉ mạnh khi quyền lực nhà nước được kiểm soát một cách chặt chẽ. Theo chúng tôi, kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp của tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.Tính phức tạp đó một mặt, do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để chống sự lạm dụng, nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và pháp quyền nào. Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước mà không làm mất đi tính mềm dẻo, cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước. Cái khó nhất để kiểm soát quyền lực nhà nước là phải thiết kế được một chính quyền nhà nước có khả năng kiểm soát được xã hội và sau nữa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng, đó là việc thiết kế được về mặt tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, sao cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất.

1.2.2. Những nguyên nhân về nhận thức chưa rõ hoặc có ý kiến khác nhau.

- Một là, vấn đề Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền cũng như vấn đề lãnh đạo và quản lý không phải là vấn đề mới mà đã được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều năm nay. Nhưng là vấn đề khó đối với nước ta, khi mà vẫn còn hai bộ máy song song tồn tài. Một bộ máy lãnh đạo và một bộ máy quản lý. Vì thế không tránh khỏi trùng lắp, lẫn lộn giữa lãnh đạo, cầm quyền và quản lý. Tình trạng dựa dẫm, ỷ lại và bao biện làm thay chức năng của nhau đã thường được phê phán trong các văn kiện của Đảng, nhưng khó mà khắc phục được một cách triệt để. Chừng nào mà lãnh đạo, cầm quyền và quản lý còn tách rời nhau thì các vấn đề trên chưa thể giải quyết một cách triệt để.

- Hai là, đối với nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và vấn đề có cần luật về Đảng hay không? những vấn đề mới khác về chất so với các quan niệm vốn đã tồn tại nhiều năm trong tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta, nên không thể nhận thức một cách đầy đủ ngay. Mặt khác, thói quen thần thành hóa và tuyệt đối hóa những tư duy lý luận của chủ nghĩa xã hội hiện thực và sức ỳ của nhận thức truyền thống về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, đã cản trở việc tiếp thu những nhân tố mới.

II. Kết quả giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ: ưu điểm, hạn chế, bất cập, nguyên nhân

2.1. Ưu điểm

- Dưới ánh sáng của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội với những nội dung mang tính chính trị - pháp lý mới thể hiện sâu sắc vị trí, vai trò, trách nhiệm chính trị - pháp lý giữa Đảng, nhà nước và nhân dân. Với nhận thức về vị trí, vai trò và trách nhiệm đó, Đảng cộng sản Việt nam đã giữ vững và ngày càng phát huy là nhân tố định hướng sự tồn tại và phát triển mối quan hệ giữa 3 thành tố: Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Không có sự lãnh đạo của Đảng với các định hướng mới như khởi xướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các Nghị quyết của mình; bộ máy nhà nước không thể ngày càng được cải cách đổi mới và hoàn thiện; nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của mình không thể tham gia ngày càng sâu rộng vào đời sống nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đề ra trong Cương lĩnh được vận dụng và thực hiện trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Điểm nổi bật là đã từng bước nâng cao nhận thức về dân chủ, pháp quyền, công khai, minh bạch, thượng tôn pháp luật trong nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

- Thể chế hóa Cương lĩnh, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Nhà nước ta là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”, tổ chức và hoạt động theo một nguyên tắc mới về chất so với trước đây “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Với những tư duy chính trị - pháp lý mới đó, lần đầu tiên ở nước ta có sự phân công quyền lực Nhà nước một cách mạch lạc giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát quyền lực trở thành một nguyên tắc Hiến định. Đến nay, bộ máy nhà nước được xây dựng và hoàn thiện thêm một bước; nhiệm vụ và quyền hạn của các thiết chế trong bộ máy nhà nước được quy định một cách minh bạch; hạn chế được sự dựa dẫm, ỷ lại; nhân dân có điều kiện để đánh giá hiệu lực và hiệu quả của việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi quyền; giữa các quyền có điều kiện để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao. Công tác giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các cấp đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước được tăng cường.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội đã được Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 giao cho một nhiệm vụ, quyền hạn mới là giám sát, phản biện xã hội. Với nhiệm vụ và quyền hạn mới này, hàng năm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã tiến hành giám sát, phản biện xã hội hàng ngàn cuộc. Từ kết quả trên, có thể nói giám sát và phản biện xã hội, tuy là một công việc mới nhưng đã trở thành hoạt động thường xuyên của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Qua hoạt động này đã tạo điều kiện để các tầng lới nhân dân phát huy quyền làm chủ tham gia vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược, đề án, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa phương.

2.2. Hạn chế, bất cập

- Còn tình trạng có lúc, có nơi nhấn mạnh một chiều vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao tính tất yếu coi nhân dân làm chủ như là hệ quả là kết quả đương nhiên của sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, nhưng vai trò “đồng thời là bộ phận của hệ thống chính trị ấy” (Cương lĩnh) chưa thấy rõ, dẫn đến một bộ phận cán bộ đảng viên của Đảng và Nhà nước chưa thực sự trở thành công bộc của nhân dân; phê bình và tự phê bình trong nội bộ Đảng còn rất hình thức. Dường như trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, vẫn có tổ chức cấp ủy đảng và cán bộ đảng viên của Đảng xem mình cao hơn Nhà nước và nhân dân, đứng trên Nhà nước và nhân dân; chưa thật sự xuất phát từ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Quyền lực chính trị của Đảng rất lớn nhưng cả trong điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước không quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của tổ chức đảng và cá nhân đứng đầu tổ chức đảng, nên dường như chưa kiểm soát được quyền lực của người đứng đầu cấp ủy đảng các cấp trên thực tế. Vì thế, cá biệt có trường hợp cá nhân có trọng trách của Đảng và Nhà nước ở các cấp, có điều kiện thao túng quyền lực vừa độc đoán, chuyên quyền, vừa buông lỏng vai trò lãnh đạo nấp dưới chiêu bài đúng quy trình, thủ tục.

- Một số tổ chức của bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hoạt động chưa coi trong nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã tạo nền tảng hiến định cho sự ra đời 3 cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát và phản biện xã hội (Điều 9); công dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6) và các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân (các Điều ở Chương II). Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (bao gồm cả cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong của mỗi quyền (tự kiểm soát mình) và cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền) và cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo luật định (khoản 2 Điều 119). Tuy nhiên, đến nay các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đó chưa ra đời đầy đủ và chưa hoàn thiện. Đối với cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước tuy đã ra đời, bằng việc thể chế hóa trong Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam về giám sát và phản biện xã hội, nhưng quy định không đầy đủ trình tự, thủ tục, hiệu lực cũng như trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát và phản biện xã hội. Đối với cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền mới chỉ coi trọng giám sát tối cao của Quốc hội đối với việc thực hiện quyền hành pháp và tư pháp còn quyền hành pháp và quyền tư pháp, kiểm soát quyền lập pháp như thế nào còn bỏ ngỏ. Bên trong mỗi quyền cũng chưa hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực của mình. Luật tổ chức Quốc hội; Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành sau Hiến pháp năm 2013 chưa có một quy định nào quy định cơ chế tự kiểm soát bên trong quyền lực của mình như thế nào. Trong kiểm soát quyền lực nhà nước, trước hết phải tự kiểm soát mình tốt thì mới nói đến kiểm soát quyền lực nhà nước đối với các cơ quan nhà nước khác. Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cơ chế bảo hiến chuyên trách ở nước ta cũng chưa ra đời. Vì thế, chủ trương “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X) đến nay vẫn chưa thực hiện được. Chính vì cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 chưa ra đời đầy đủ và chưa hoàn thiện nên “việc ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân”, tuy mấy năm gần đây được đẩy mạnh, nhưng vẫn chưa đáp ứng sự mong mỏi của nhân dân và dự luận xã hội.

Tổ chức và hoạt động của một số cơ quan trong bộ máy nhà nước có trường hợp không tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, không có sự phân công, phân cấp và không coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước mà theo nguyên tắc tập trung vào cá nhân người đứng đầu Đảng và chính quyền các cấp, tập thể trở thành người hợp thức hóa ý muốn của người đứng đầu cấp ủy nên tình trạng thao túng quyền lực, tham nhũng, lãng phí xẩy ra khá phổ biến, để lại hậu quả mà những năm gần đây phải giải quyết.
Một số tổ chức, cơ quan trong bộ máy Nhà nước chưa thực sự gắn bó mật thiết với nhân dân, chưa coi trọng việc thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân nhất là chính quyền ở cấp cơ sở.

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa thực sự trở thành động lực của sự phát triển. Nhiều quyền dân chủ trực tiếp của công dân được Hiến pháp ghi nhận, nhưng đến nay chưa được thể chế hóa như: “công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước” (Điều 28 Khoản 1); quyền hội họp, lập hội (Điều 25)… Quyền bầu cử là quyền dân chủ chính trị quan trọng nhất trong một nhà nước dân chủ và pháp quyền chậm được đối mới. Các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp còn mang nặng tính hình thức. Các cuộc giám sát phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc các cấp tổ chức nhiều nhưng chất lượng còn hạn chế. Thanh tra, kiểm tra nhiều nhưng quyền con người, quyền công dân vẫn còn bị vi phạm nhiều. Có thể nói quyền làm chủ của nhân dân chưa được đảm bảo và phát huy đầy đủ.

2.3. Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế

- Có được những ưu điểm nói trên trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ những tư tưởng và quan điểm mới của Đảng đề ra trong Cương lĩnh (sửa đổi, bổ sung năm 2011) như bổ sung vào nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước; đề cao dân chủ trực tiếp, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp; dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước…

- Còn những hạn chế, bất cập chủ yếu do các nguyên nhân:

+ Các phương thức lãnh đạo của Đảng đề ra trong Cương lĩnh là phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội nói chung. Việc vận dụng các phương thức này đòi hỏi không rập khuôn, máy móc, giống nhau cho các cơ quan và tổ chức của bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc vận dụng các phương thức lãnh đạo của Đảng, không ít trường hợp chẳng những không sáng tạo thêm được một phương thức lãnh đạo mới nào mà ngay các phương thức lãnh đạo đã có việc vận dụng còn rập khuôn, máy móc, thiếu linh hoạt. Ví dụ đối với Quốc hội, tổ chức và hoạt động của nó mang tính tập thể và đề cao dân chủ bàn bạc thì phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội phải khác với phương thức lãnh đạo đối với Chính phủ - một thiết chế lại chủ yếu coi trọng trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu Chính phủ và các Bộ trưởng; và lại càng phải khác với phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án – đề cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tìm kiếm và vận dụng các phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc thù của các thiết chế và các tổ chức để phát huy vai trò của nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân đang là một đòi hỏi của thực tiễn. Có thể xem đây là một nguyên nhân làm cho các thiết chế của bộ máy nhà nước dựa dẫm, ỷ lại Đảng, kém năng động, sáng tạo, không phát huy đầy đủ trách nhiệm của mình.

+ Một số tổ chức, cơ quan của Nhà nước, cũng như các tổ chức chính trị - xã hội … của nhân dân vẫn còn ỷ lại, dựa dẫm vào Đảng. Tính chủ động và thúc đẩy của Nhà nước và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng để tác động qua lại giữa các thành tố còn thiếu mạnh mẽ. Chính vì thế, có thể nói, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý mang tính ổn định, một chiều là chủ yếu, Đảng có khởi xướng và đề xuất chủ trương thì Nhà nước và nhân dân mới thực hiện. Ngược lại sự tác động của Nhà nước và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng để thúc đẩy, phát huy và phát triển vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng còn hạn chế. Có thể nói, quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vẫn còn là quan hệ “tĩnh” một chiều nên có thể nói đó là nguyên nhân làm cho mối quan hệ kém năng động.

+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân được Cương lĩnh thừa nhận có vai trò rất to lớn trong việc thực hiện dân chủ, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Nhưng đội ngũ cán bộ được các cấp ủy đảng bố trí chưa được tương xứng với vai trò của nó. Vì thế, tiếng nói của nhân dân thông qua người đại diện là Mặt trận các cấp chưa có “sức nặng” đối với Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Trong nền dân chủ nhất nguyên như nước ta, Mặt trận Tổ quốc, theo chúng tôi nghĩ, phải là một thiết chế hướng đến khắc phục những khiếm khuyết của nền dân chủ đó. Vì vậy, cán bộ, nhất là người đứng đầu Mặt trận Tổ quốc các cấp phải là những người có uy tín và năng lực tương xứng như những người nắm giữ cương vị chủ chốt của tổ chức Đảng và Nhà nước.

III. Những vấn đề đặt ra về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

3.1. Ngày nay, những điều kiện tồn tại và phát triển mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đã có sự thay đổi căn bản, đòi hỏi nhận thức và giải quyết mối quan hệ không thể như cũ mà phải có sự đổi mới mạnh mẽ về chất.

Các điều kiện tồn tại đã thay đổi căn bản, trước hết đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng đã bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu, bộc lộ đầy đủ các quy luật vận động của nó. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo những nguyên tắc mới, chủ quyền nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước được đề cao. Dân trí và dân chủ của đông đảo các tầng lớp nhân dân được nâng lên một trình độ mới. Hội nhập sâu rộng không chỉ về kinh tế mà trên tất cả các mặt về văn hóa, khoa học, công nghệ. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi tư duy và lối sống của con người. Tất cả các điều thay đổi đó, không thể không đặt ra đòi hỏi phải đổi mới nhận thức và cách thức giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

- Đối với Đảng không những vận dụng sáng tạo các phương thức lãnh đạo đã có phù hợp với điều kiện đã thay đổi và tìm kiếm các phương thức lãnh đạo mới đối với nhà nước và xã hội, mà còn phải đổi mới một cách mạnh mẽ tổ chức và nội dung lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội. Trước hết Đảng phải kiểm soát được quyền lực Nhà nước và sau đó là tự kiểm soát được quyền lực lãnh đạo của mình. Dân chủ và pháp quyền phải trở thành động lực phát triển của Đảng và là nhân tố quyết định dân chủ và pháp quyền trong quản lý của nhà nước và trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

- Đối với Nhà nước không chỉ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc mới, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, phòng chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước mà còn phải đảm đương chức năng kiến tạo và hướng dẫn các quan hệ xã hội mới, đáp ứng sự biển đổi nhanh chóng về tư duy và lối sống của con người do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đưa lại, bằng hoạt động lập pháp và lập quy của Quốc hội và Chính phủ. Quyền con người, quyền công dân nhất là các quyền dân chủ trực tiếp của công dân cần phải tiếp tục thể chế hóa. Công bằng và công lý tiếp tục được đề cao và xuyên suốt trong các hoạt động tư pháp.

3.2. Hệ thống chính trị nước ta là hệ thống chính trị nhất nguyên. Hệ thống chính trị đó vừa có những ưu điểm nhưng cũng vừa có những khiếm khuyết. Thực tiễn vận hành của hệ thống chính trị nước ta chỉ ra rằng, mặc dầu Đảng ta trong Cương lĩnh của mình đã xác định dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển; nhưng trên thực tế dân chủ có nơi vẫn còn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ. Nhận rõ điều đó, theo chúng tôi, một mặt, Đảng và Nhà nước trong tổ chức và hoạt động của mình phải thực sự dân chủ và minh bạch; đồng thời phải đảm nhận vai trò là nhân tố hàng đầu tạo lập môi trường và điều kiện để cho nhân dân làm chủ thực sự. Mặt khác, nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của mình và từng cá nhân công dân phải nâng cao năng lực làm chủ. Theo đó, về tổ chức bộ máy nhà nước, nên chăng phải tăng cường thêm các thiết chế phản biện nhà nước đối với các chủ trương, chính sách và pháp luật của chính bản thân Đảng và Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải đảm đương vai trò là một thiết chế khắc phục cho các khiếm khuyết bằng việc tăng cường chức năng giám sát và phản biện xã hội một cách thực chất, nâng cao nhận thức và tìm kiếm các giải pháp giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

IV. Bổ sung nhận thức và định hướng giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

4.1. Bổ sung nhận thức

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa muốn trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển, Đảng và Nhà nước phải thực sự dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mình và đặc biệt tạo lập môi trường và điều kiện thực sự để cho nhân dân làm chủ thì mới có dân chủ trên thực tế.

- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Vị trí và vai trò của các thành tố cấu thành mối quan hệ tuy khác nhau, nhưng bản chất của nó là bình đẳng, dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ quyền nhân dân xuyên suốt mối quan hệ ấy.

- Kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng và quyền lực nhà nước là nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quyền lãnh đạo của Đảng, cũng như quyền lực nhà nước được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền là có giới hạn mà không phải vô hạn. Giới hạn đó là Hiến pháp. Vì vậy, để kiểm soát quyền lực cả Đảng và Nhà nước phải căn cứ vào Hiến pháp thể chế hóa một cách minh bạch và cụ thể quyền và trách nhiệm của mình làm căn cứ để kiểm soát quyền lực.

Trong kiểm soát quyền lực thì kiểm soát việc thao túng quyền lực của người đứng đầu của các cấp ủy đảng và người đứng đầu các cơ quan nhà nước thuộc các cấp chính quyền có vai trò quyết định. Phòng chống sự tha hóa của quyền lực chủ yếu và cơ bản tập trung vào kiểm soát sự lộng quyền, lạm quyền, thao túng quyền lực của những người nắm giữ các trọng trách của các tổ chức Đảng và Nhà nước ở các cấp trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.

Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ lớn và cơ bản nhất thuộc đời sống chính trị - pháp lý ở nước ta. Trong điều kiện mới và đặc thù của hệ thống chính trị nước ta, đòi hỏi phải có những tư duy mới và hành động mới, quyết liệt hơn để tiếp tục đổi mới về chất mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

4.2. Định hướng giải quyết mối quan hệ

Một là, tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, theo các định hướng sau:
+ Trước hết, đổi mới tư duy để có những quyết định chính trị mới phù hợp với điều kiện mới.
+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Đảng bằng việc sửa đổi điều lệ Đảng, quy định một cách cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức đảng (từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các tổ chức cấp ủy các cấp …) và các cá nhân có trọng trách của Đảng (bao gồm Tổng bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương, bí thư cấp ủy các cấp, các ngành …). Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng quy định một cách minh bạch, đầy đủ, rõ ràng là công cụ để đề cao trách nhiệm, kiểm soát quyền lực, phòng chống sự lộng quyền, lạm quyền và thao túng quyền lực một cách có hiệu quả trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với điều kiện mới theo định hướng tạo lập điều kiện và môi trường thuận lợi hơn để các thiết chế của bộ máy nhà nước năng động, sáng tạo, làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình, không dựa dẫm, ỷ lại. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm soát quyền lực nhà nước để kịp thời phòng chống được sự thao túng quyền lực của những người đứng đầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng.
+ Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc Việt nam và các tổ chức Đoàn thể của nhân dân theo định hướng phát huy mạnh mẽ hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân; dân chủ phải thực sự trở thành động lực của sự phát triển trong điều kiện mới.

Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân thực sự là một Nhà nước dân chủ, pháp quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, theo định hướng:
+ Tiếp tục nâng cao nhận thức, thực hiện đúng đắn nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII nhằm hình thành một bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, trước hết là kiểm soát được xã hội và sau nữa là kiểm soát được bản thân mình.
+ Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền các cấp ở địa phương theo Hiến pháp năm 2013 và các Nghị quyết của Đảng.
+ Xây dựng một Quốc hội mạnh và thực quyền về lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước; một Chính phủ năng động, sáng tạo, quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả; một nền tư pháp vì công lý, vì quyền con người, quyền công dân.

Ba là, tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân để dân chủ thực sự trở thành động lực của sự phát triển trong thời gian tới theo định hướng:
+ Đảng và Nhà nước phải thực sự tạo điều kiện và môi trường để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các chủ trương, chính sách, pháp luật cởi mở, thân thiện, dễ dàng trong việc thực hiện các quyền dân chủ cơ bản của công dân. Trong đó sớm xây dựng và hoàn thiện các đạo luật về các quyền dân chủ trực tiếp của công dân như Luật bầu cử, Luật về Hội, Luật về quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân, Luật giám sát và phản biện xã hội…
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội phải nâng cao nhận thức, thực hiện mạnh mẽ, thực chất chức năng giám sát và phản biện xã hội; coi đó là phương tiện của những tổ chức đại diện nhân dân kiểm soát trước và sau đối mới đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước./.

GS.TS Trần Ngọc Đường

PGS.TS Phạm Văn Chúc

Theo hdll.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Hệ thống chính trị và phương thức lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay

Chuyên đề 3
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
------------

I- HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Khái niệm “hệ thống chính trị”
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhay trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp nhà nước nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
a) Tính nhất nguyên chính trị
- Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thế chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
- Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
- Tính chất nguyên chính của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b) Tính thống nhất
- Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát hiện sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
- Tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp thành.
c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
- Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hộ. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
- Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
- Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
3. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) đã xác định mục tiêu, quan điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
a) Mục tiêu và quan điểm
- Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
- Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị gồm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị thể hiện trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Trong những năm đầu, Đảng tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Quá trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định sự kết hợp nhuần nhuyễn và bước đi đúng đắn đó. Đến Đại hội X, Đảng đã xác định đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo những nguyên tắc xác định.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đó là quá trình làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
b) Chủ trương, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị
Một là, xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định rõ bản chất của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” . về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991 xác định rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phân của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” . Điều đó là cơ sở của sự gắn bó giữa xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị” đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa mà là sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người của nền văn minh nhân loại.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo năm đặc điểm sau đây:
+ Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công ràng mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Để xây dựng Nhà nước pháp quyền cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàng thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn… duy trì dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị; thực hiện “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” và dân thụ hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phô trương, hình thức để nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
II- VAI TRÒ VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
- Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của dân tộc ta, là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.
- Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước pháp quyền và trong các điều kiện xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước.
- Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Điều đó cũng đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành viên của Đảng và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các mối quan hệ chính trị và sinh hoạt dân chủ.
- Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Vai trò cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước khác với sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Sự mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nước, hoặc là Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức hóa Nhà nước và hệ thống chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
- Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
- Vị trí cầm quyền của Đảng thể hiện quyền hạn trách nhiệm chung của Đảng và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc quyết định các vấn đề của đất nước, các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội ở các cấp, các ngành, trong các mối quan hệ với Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội.
- Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất lãnh đạo về chính trị và tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.
- Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội định hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
- Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là hệ thống những phương pháp, hình thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng vận dụng để tác động vào các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân nhằm biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo, qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
- Nội dung cơ bản của phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, gồm:
+ Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
+ Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
+ Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
+ Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật .
- Ngoài những điểm nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự đề cao và tôn trọng vai trò của Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Sự lãnh đạo thật sự của Đảng không chỉ thông qua các quyết định, các chỉ thị mà còn bằng uy tín, bằng khả năng thuyết phục trong lời nói, trong hành động, trong phong cách công tác của các tổ chức đảng và của từng cá nhân cán bộ lãnh đạo, đảng viên của Đảng.
- Giống như nội dung sự lãnh đạo của Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng luôn là một yêu cầu có tính khách quan, một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Yêu cầu khách quan này luôn được Đảng ta quán triệt và nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương.
III- MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
- Trong lịch sử cách mạng nước ta, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò rất quan trọng. Các tổ chức này đã động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh giành chính quyền, trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đấu tranh thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là thành viên đã có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và củng cố Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều 9 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, củng cố Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước” .
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta, được hình thành nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của cách thành viên; thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý các công việc nhà nước, công việc xã hội; nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Trong xã hội ta, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình không chỉ bằng Nhà nước mà còn thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Vì vậy, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị tùy theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bào vệ quyền làm chủ của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt nam, các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
- Các tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Cùng với hình thức tổ chức của hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở gồm: Tổ chức cơ sở đảng; Hội đồng nhân dân các xã, phường; Ủy ban nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường; các tổ chức chính trị khác: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh ở xã, phường, thị trấn…
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
2. Nhiệm vụ chính trị của người cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta. Vì vậy, nhiệm vụ chính trị của người cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là rất to lớn, quan trọng, trực tiếp góp công, góp sức xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.
Căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển hệ thống chính trị ở cơ sở, có thể nêu những nhiệm vụ cụ thể của mỗi cán bộ Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở là:
- Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chính đốn Đảng, xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
- Thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, mạnh dạn đấu tranh với những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của nhân dân.
- Tích cực tham gia và thực hiện tốt Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực học tập và công tác.
- Luôn luôn học tập, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào do các tổ chức chính trị - xã hội phát động; trực tiếp tham gia xây dựng tổ chức của mình ngày càng phát triển mạnh mẽ và bền vững./.