Sản phẩm tiết của tuyến nội tiết có tên gọi là gì A kháng nguyên B hoocmôn C enzim D kháng thể

Câu hỏi:

14/09/2022 966

A. Kháng nguyên

B. Hoocmôn

Đáp án chính xác

C. Enzim

D. Kháng thể

Chọn đáp án B

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Câu 1:

Tuyến nào dưới đây vừa có chức năng ngoại tiết, vừa có chức năng nội tiết?

Câu 2:

Tuyến nào dưới đây không thuộc tuyến nội tiết?

Câu 3:

Tuyến nào vừa là tuyến nội tiết vừa là tuyến ngoại tiết?

Câu 4:

Tính đặc hiệu của hoocmon là gì?

Câu 5:

Điều nào dưới đây không đúng?

Câu 6:

Hoocmon nào dưới đây được tiết ra từ tuyến tụy?

Câu 7:

Vai trò nào dưới đây không đúng với tuyến nội tiết?

Câu 8:

Hệ nội tiết có đặc điểm nào dưới đây?

Câu 9:

Hoocmon đi khắp cơ thể là nhờ?

Câu 10:

Dịch tiết của tuyến nào dưới đây không đi theo hệ thống dẫn?

Câu 11:

Sản phẩm tiết của các tuyến nội tiết là gì?

Câu 12:

Hệ nội tiết có vai trò trong quá trình chuyển hóa vật chất và năng lượng trong các tế bào của cơ thể là nhờ?

Câu 13:

Hoocmôn glucagôn chỉ có tác dụng làm tăng đường huyết, ngoài ra không có chức năng nào khác. Ví dụ trên cho thấy tính chất nào của hoocmôn?

Câu 14:

Tuyến nội tiết nào dưới đây nằm ở vùng đầu ? 

I. Đặc điểm của hệ nội tiết

- Hệ nội tiết bao gồm các tuyến nội tiết sản xuất hoocmon theo đường máu đến cơ quan đích, điều hòa quá trình sinh lí của cơ thể.

II. Phân biệt tuyến nội tiết với tuyến ngoại tiết

Sản phẩm tiết của tuyến nội tiết có tên gọi là gì A kháng nguyên B hoocmôn C enzim D kháng thể

Tuyến Đặc điểm

Nội tiết

Ngoại tiết

Giống nhau

Có các tế bào tuyến tiết ra chất tiết (hoocmôn hoặc enzim).

Khác nhau

- Các chất tiết ra được ngấm thẳng vào máu và vận chuyển trong cơ thể.

- Kích thước nhỏ.

- Lượng chất tiết ra (hoocmôn) ít, nhưng có hoạt tính cao.

Ví dụ: tuyến yên, tuyến tuy...

- Các chất tiết ra theo ống dẫn đổ ra ngoài tuyến.

- Kích thước lớn.

- Lượng chất tiết ra (enzim) nhiều, nhưng hoạt tính thấp hơn.

Ví dụ: tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi...

III. Hoocmon

1. Tính chất của hoocmon

- Hệ nội tiết gồm hệ thống cấu trúc đặc biệt của cơ mể tiết ra các chất hoá học (được gọi là hoocmôn) ngấm thẳng vào máu. Sản phẩm của tuyến nội tiết là hoocmon. Hoocmon có chưc năng sau:

   + Đảm bảo cho các quá trình sinh lí diễn ra bình thường thông qua việc điều hoà quá trình trao đổi chất và quá trình chuyển hoá trong tế bào của các cơ quan.

   + Duy trì sự ổn định của môi trường trong cơ thể.

2. Vai trò của hoocmon

- Giúp điểu chỉnh các quá trình sinh lí của cơ thể diễn ra bình thường (tiêu hoá, sinh sản, phát triển, trao đổi chất).

- Giúp duy trì tính ổn định của môi trường bên trong cơ thể.

- Điều hoà hoạt động thể dịch của các cơ quan và tự điều chỉnh trong nội bộ hộ nội tiết.

Hệ thống nội tiết điều hòa chức năng giữa các cơ quan khác nhau thông qua các hormon, là các chất hóa học được giải phóng vào máu từ các loại tế bào đặc biệt trong các tuyến nội tiết (không có ống dẫn). Khi lưu hành trong máu, các hormon ảnh hưởng tới chức năng của các cơ quan đích, đó có thể là 1 tuyến nội tiết hay 1 cơ quan khác. Một số hormon tác động lên tế bào của cơ quan mà chúng được giải phóng (hiệu ứng cận tiết), hoặc thậm chí là trên cùng một loại tế bào (hiệu ứng tự tiết).

Hormon có thể là

  • Peptide có kích thước khác nhau

  • Steroids (dẫn xuất từ cholesterol)

  • Dẫn xuất axit amin

Các hormon gắn chọn lọc với các thụ thể nằm bên trong hoặc trên bề mặt tế bào đích. Các thụ thể bên trong các tế bào tương tác với các hormon điều hòa chức năng gen (ví dụ, corticosteroid, vitamin D, hormon tuyến giáp). Các thụ thể trên bề mặt tế bào gắn kết với các hormon điều hòa hoạt động của enzym hoặc ảnh hưởng đến các kênh ion (ví dụ GH, TRH).

tuyến yên và các cơ quan đích của nó

Chức năng tuyến nội tiết ngoại vi được kiểm soát ở mức độ khác nhau bởi các hormon tuyến yên. Một số chức năng (ví dụ, sự tiết insulin bởi tuyến tụy, chủ yếu được kiểm soát bởi nồng độ glucose máu) được kiểm soát chặt chẽ, trong khi nhiều chức năng khác (ví dụ tiết hormon tuyến giáp hoặc hormone sinh dục) biến thiên trong khoảng rộng hơn. Sự tiết hormon tuyến yên được kiểm soát bởi vùng dưới đồi.

Sự tương tác giữa vùng dưới đồi và tuyến yên (trục dưới đồi-tuyến yên) là một hệ thống kiểm soát có phản hồi. Vùng dưới đồi nhận tín hiệu từ hầu như tất cả các khu vực khác của hệ thần kinh trung ương và gửi đến tuyến yên. Đáp lại, tuyến yên tiết ra nhiều hormon kích thích một vài tuyến nội tiết trên cơ thể. Hệ dưới đồi phát hiện ra sự thay đổi nồng độ các hormon trong máu, qua đó sẽ tăng hoặc giảm sự kích thích tuyến yên để duy trì cân bằng nội môi.

Vùng dưới đồi điều chỉnh các hoạt động của thùy trước và sau của tuyến yên theo những cách khác nhau. Các hormon mà tế bào thần kinh tiết ra được tổng hợp ở vùng dưới đồi, đưa tới thùy trước tuyến yên (adenohypophysis) thông qua hệ mạch cửa đặc biệt và điều hòa sự tổng hợp và giải phóng 6 hormon peptide chính của thùy trước tuyến yên tuyến yên và các cơ quan đích của nó

Sản phẩm tiết của tuyến nội tiết có tên gọi là gì A kháng nguyên B hoocmôn C enzim D kháng thể
. Các hormon thùy trước tuyến yên điều hoà các tuyến nội tiết ngoại vi (tuyến giáp, tuyến thượng thận, và tuyến sinh dục) cũng như sự phát triển và tiết sữa. Không có kết nối thần kinh trực tiếp giữa vùng dưới đồi và tuyến yên.

Ngược lại, thùy sau tuyến yên (neurohypophysis) bao gồm các sợi trục có nguồn gốc từ thân các tế bào thần kinh nằm ở vùng dưới đồi. Những sợi trục này có vai trò là nơi lưu trữ 2 hormon peptide, vasopressin (hormone chống bài niệu) và oxytocin, được tổng hợp từ vùng dưới đồi; các hormon này hoạt động ở ngoại vi để điều hòa sự cân bằng nước, bài xuất sữa, và sự co tử cung.

Hầu như tất cả các hormon sản xuất từ vùng dưới đồi và tuyến yên được giải phóng theo nhịp; pha chế tiết xen kẽ pha không hoạt động. Một số hormon (ví dụ ACTH, GH, prolactin) có nhịp sinh học rõ ràng; những hormon khác (ví dụ LH và FSH trong chu kỳ kinh nguyệt) có nhịp tính bằng tháng và chồng nối nhau.

Sản phẩm tiết của tuyến nội tiết có tên gọi là gì A kháng nguyên B hoocmôn C enzim D kháng thể

Cho đến nay, người ta đã xác định được 7 hormon thần kinh vùng dưới đồi quan trọng về mặt sinh lý bệnh (xem bảng Tế bào thần kinh hạ đồi Hormon thần kinh vùng dưới đồi

Sản phẩm tiết của tuyến nội tiết có tên gọi là gì A kháng nguyên B hoocmôn C enzim D kháng thể
). Ngoại trừ amin sinh học dopamin, tất cả đều là những peptide nhỏ. Rất nhiều hormon được tạo ra ở tuyến ngoại vi cũng như ở vùng dưới đồi và hoạt động ở hệ nội tiết ngoại vi tại chỗ, đặc biệt là ở đường tiêu hóa. Ví dụ như peptide hoạt mạch tại ruột (VIP), kích thích giải phóng prolactin.

Các hormon thần kinh có thể kiểm soát việc giải phóng các hormon tuyến yên. Sự điều hòa hoạt động của hầu hết các hormon thùy trước tuyến yên phụ thuộc vào các tín hiệu kích thích từ vùng dưới đồi; ngoại trừ prolactin, được điều chỉnh bởi tín hiệu ức chế. Tổn thương cuống tuyến yên (nối tuyến yên với vùng dưới đồi) làm tăng phóng thích prolactin tăng, giảm giải phóng tất cả các hormon khác ở thùy trước tuyến yên.

Các tế bào của thùy trước (chiếm 80% trọng lượng tuyến yên) tổng hợp và giải phóng một số hormon cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường, kích thích hoạt động của một số tuyến đích.

ACTH còn được gọi là corticotropin. Hormon giải phóngCorticotropin (CRH) là tác nhân chính kích thích sự giải phóng ACTH, vasopressin là tác nhân còn lại và chủ yếu phát huy vai trò khi cơ thể gặp căng thẳng. ACTH kích thích vỏ thượng thận giải phóng cortisol và một số nội tiết tố androgen yếu, chẳng hạn như dehydroepiandrosterone (DHEA). Cortisol tuần hoàn và các corticosteroid khác (kể cả corticosteroid ngoại sinh) ức chế sự giải phóng CRH và ACTH. Trục CRH-ACTH-cortisol là thành phần trung tâm của đáp ứng đối với căng thẳng. Nếu không có ACTH, vỏ thượng thận bị teo đi và gần như ngừng tiết cortisol.

TSH điều chỉnh cấu trúc và chức năng của tuyến giáp và kích thích sự tổng hợp và giải phóng hormone tuyến giáp. Sự tổng hợp và giải phóng TSH được kích thích bởi hormon TRH vùng dưới đồi và bị ức chế (điều hòa ngược âm tính) bởi nồng độ hormon tuyến giáp.

LH và FSH kiểm soát việc sản xuất các hormon sinh dục. Sự tổng hợp và giải phóng LH và FSH được kích thích chủ yếu bằng hormon phóng thích gonadotropin (GnRH) và bị ức chế bởi estrogentestosterone. Một yếu tố kiểm soát sự giải phóng GnRH là kisspeptin, một peptide dưới đồi được kích hoạt bởi nồng độ leptin tăng lên ở tuổi dậy thì. Hai hormon sinh dục, hoạt hóa và ức chế, chỉ ảnh hưởng đến FSH.

GH kích thích sự tăng trưởng của tế bào soma và điều hòa sự trao đổi chất. Hormone kích thích hormon tăng trưởng (GHRH) là chất kích thích chủ yếu và somatostatin là chất ức chế chính trong tổng hợp và giải phóng GH. GH kiểm soát quá trình tổng hợp yếu tố tăng trưởng giống insulin1 (IGF-1, còn gọi là somatomedin-C), phần lớn kiểm soát sự tăng trưởng. Mặc dù IGF-1 được sản xuất bởi nhiều mô, nhưng gan là nguồn chính. Loại IGF-1 tồn tại ở cơ có vai trò giúp tăng cường sức mạnh cơ bắp. Nó ít chịu sự kiểm soát của GH hơn là loại nguồn gốc ở gan.

Tác dụng chuyển hóa của GH là hai pha. GH ban đầu phát huy tác dụng giống insulin, tăng hấp thu glucose ở cơ và ở mỡ, kích thích sự hấp thu axit amin và tổng hợp protein ở gan và ở cơ và ức chế quá trình phân giải mỡ trong mô mỡ. Vài giờ sau đó, GH có tác dụng trên chuyển hóa đối ngược insulin. Các tác dụng này bao gồm ức chế sự hấp thu và sử dụng glucose, làm cho glucose trong máu và phân giải lipid tăng lên, làm tăng axit béo tự do trong huyết tương. Nồng độ GH tăng lên trong thời gian nhịn ăn, giúp duy trì mức đường trong máu và vận động chất béo làm nguyên liệu trao đổi chất thay thế. Sản xuất GH giảm khi lão hóa. Ghrelin, một hormon được sản sinh trong dạ dày, thúc đẩy sự phóng thích GH từ tuyến yên, tăng lượng thức ăn đưa vào và cải thiện trí nhớ.

Prolactin được tạo ra trong các tế bào có tên là lactotrophs chiếm khoảng 30% số tế bào của thùy trước tuyến yên. Tuyến yên tăng kích thước gấp đôi trong thời kỳ mang thai, chủ yếu do tăng sản và phì đại lactotrophs. Ở người, chức năng chính của prolactin là kích thích sản xuất sữa. Ngoài ra, prolactin được giải phóng khi quan hệ tình dục và khi căng thẳng. Prolactin có thể là một chỉ số nhạy cảm khi chức năng tuyến yên bị rối loạn; u tuyến yên thường gây tăng tiết prolactin; u xâm lấn hoặc chèn ép tuyến yên có thể gây thiếu prolactin.

Một số hormon khác được sản xuất bởi thùy trước tuyến yên. Các chất này bao gồm pro-opiomelanocortin (POMC, làm tăng ACTH), hormon kích thích melanocyte alpha- và beta (MSH), beta-lipotropin (β-LPH), enkephalins, và endorphins. POMC và MSH có thể gây tăng sắc tố da và chỉ có ý nghĩa lâm sàng trong các rối loạn mà ACTH tăng lên rõ rệt (ví dụ như bệnh Addison Bệnh Addison Bệnh Addison tiến triển thầm lặng, chức năng vỏ thượng thận ngày một suy giảm. Nó gây ra các triệu chứng khác nhau, bao gồm hạ huyết áp, sạm da, thậm chí cơn suy thượng thận cấp với biến cố... đọc thêm

Sản phẩm tiết của tuyến nội tiết có tên gọi là gì A kháng nguyên B hoocmôn C enzim D kháng thể
, hội chứng Nelson). Chức năng của β-LPH hiện còn chưa rõ. Enkephalins và endorphins là các opioid nội sinh gắn kết và kích hoạt thụ thể opioid trong toàn hệ thống thần kinh trung ương.

Thùy sau tuyến yên tiết vasopressin (còn được gọi là argininevasopressin hoặc hormon chống bài niệu [ADH]) và oxytocin. Cả hai loại hormon đều được giải phóng theo đáp ứng xung thần kinh và có thời gian bán hủy khoảng 10 phút.

Vasopressin có tác dụng chủ yếu là thúc đẩy quá trình giữ nước của thận bằng cách tăng tính thấm của biểu mô ống xa với nước. Ở nồng độ cao, vasopressin cũng có thể gây ra co thắt mạch. Giống như aldosterone, vasopressin đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng nội môi và giữ nước cho mạch máu và tế bào. Các kích thích chính gây giải phóng vasopressin là sự tăng áp lực thẩm thấu trong cơ thể, được cảm nhận bởi các thụ thể thẩm thấu vùng dưới đồi.

Các kích thích lớn khác là giảm số lượng Giảm thể tích Thiếu hụt thể tích, hoặc thể tích dịch ngoại bào (ECF) cô đặc thể tích, xảy ra là kết quả của sự mất tổng natri cơ thể. Nguyên nhân bao gồm nôn, đổ mồ hôi quá nhiều, tiêu chảy, bỏng, lợi tiểu... đọc thêm , được cảm nhận bởi baroreceptors (thụ thể nhạy cảm áp) ở tâm thất trái, xoang động mạch cảnh, cung động mạch chủ, sau đó truyền đến hệ thần kinh trung ương thông qua các dây thần kinh phế vị và thanh quản. Những tác nhân khác gây giải phóng vasopressin bao gồm đau, căng thẳng, nôn, thiếu oxy, tập thể dục, hạ đường huyết, chất chủ vận cholinergic, thuốc chẹn bêta, angiotensin và prostaglandin. Các chất ức chế tiết vasopressin bao gồm rượu, thuốc chẹn alpha và glucocorticoid.

Oxytocin có 2 cơ quan đích:

  • Các tế bào cơ biểu mô ở vú, bao quanh các nang của tuyến vú

  • Tế bào cơ trơn của tử cung

Việc cho bú kích thích sản xuất oxytocin, làm cho tế bào cơ biểu mô co lại. Sự co thắt này làm cho sữa di chuyển từ các nang ra các xoang lớn để tiết ra (khi trẻ ăn sữa ngoài, không bú mẹ sẽ làm giảm phản xạ này ở phụ nữ). Oxytocin kích thích sự co lại của tế bào cơ tử cung sưng và độ nhạy của tử cung với oxytocin tăng trong suốt thai kỳ. Tuy nhiên, nồng độ trong huyết tương không tăng mạnh trong khi sinh, và vai trò của oxytocin ở giai đoạn đầu cuộc đẻ vẫn chưa rõ ràng.

Cơ thể nam giới có 1 lượng rất ít oxytocin, người ta không tìm thấy có kích thích nào gây tăng tiết oxytocin ở nam.