Thứ năm, 19/12/2019 - 08:52 AM Show
Theo Bộ NN-PTNT, các khu rừng rừng đặc dụng, phòng hộ phân bố đều các tỉnh, thành phố từ Bắc đến Nam với 54/63 tỉnh thành có các khu rừng đặc dụng và 59/63 tỉnh có rừng phòng hộ. Diện tích rừng đặc dụng lớn nhất cả nước là tỉnh Đắk Lắk (227.818 ha), chiếm gần 10% diện tích rừng đặc dụng cả nước. Tỉnh có diện tích rừng đặc dụng nhỏ nhất là tỉnh Bạc Liêu 248,8ha, chiếm 0,01% diện tích cả nước. Tỉnh có diện tích rừng phòng hộ lớn nhất cả nước là tỉnh Nghệ An với diện tích 291.071 ha, chiếm 6,3% diện tích rừng phòng hộ cả nước, tỉnh có diện tích rừng phòng hộ nhỏ nhất là tỉnh Bắc Ninh 530 ha. Trong những năm qua, rừng đang được khôi phục và phát triển nhanh, ổn định cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp, cả nước diện tích có rừng là 14,45 triệu ha, trong đó rừng đặc dụng 2,15 triệu ha, rừng phòng hộ 4,6 triệu ha, rừng sản xuất 7,7 triệu ha. Tính đến nay, đã có 164 Ban Quản lý rừng đặc dụng đã được thiết lập, bao gồm: 33 Vườn Quốc gia (6 Vườn Quốc gia trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp: Tam Đảo, Ba Vì, Cúc Phương, Bạch Mã, Yok Đôn, Cát Tiên và 27 Bản quản lý Vườn Quốc gia trực thuộc UBND tỉnh và Sở NN-PTNT); 57 Ban Quản lý Khu Dự trữ thiên nhiên, 12 Ban Quản lý Khu Bảo tồn loài sinh cảnh và 53 Ban Quản lý Khu bảo vệ cảnh quan do các cơ quan địa phương quản lý. Bên cạnh đó, còn có 9 Ban Quản lý khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học do các đơn vị sự nghiệp quản lý. Rừng phòng hộ cả nước có 231 Ban Quản lý, trong đó trực thuộc Sở NN-PTNT 153, trực thuộc UBND huyện 55, trực thuộc UBND tỉnh 5 và trực thuộc Chi cục kiểm lâm 18 Ban Quản lý. Trước đây, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng tuy đã có nhiều quy định về rừng đặc dụng, phòng hộ, song vẫn còn những hạn chế, nhưng Luật Lâm nghiệp năm 2017 cùng các văn bản hướng dẫn đã đảm bảo cho phát triển lâm nghiệp bền vững theo chuỗi giá trị sản xuất lâm nghiệp, phù hợp về phân hạng, phân loại, bước đầu tạo cơ chế tài chính bền vững phát triển rừng đặc dụng, phòng hộ. Trong những năm qua, Bộ NN-PTNT kiểm soát chặt chẽ chuyển đổi diện tích rừng đặc dụng, phòng hộ sang mục đích sử dụng khác. Đặc biệt, Chỉ thị số 13-CT/TW của Ban Bí thư tháng 1/2017 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng cho thấy tầm quan trọng của rừng nói chung và rừng đặc dụng, phòng hộ nói riêng với tương lai phát triển bền vững của đất nước. Thời gian qua, công tác quản lý, bảo vệ phát triển rừng đặc dụng, phòng hộ đã đạt được một số kết quả đáng nghi nhận. Đó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã, tạo điều kiện cho ban quản lý khu rừng đặc dụng, phòng hộ quản lý hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng. Bảo tồn đa dạng sinh học và có tác động tích cực đối với việc bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ các loài động vật, thực vật hoang dã trong rừng đặc dụng, phòng hộ. Đến nay, 85% các ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đã xây dựng phương án tự chủ, được cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định phê duyệt và phân loại mức độ tự chủ. Bước đầu tất cả các ban quản lý đã tự chủ xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học.
Tự chủ về tài chính, thực hiện các dịch vụ sự nghiệp công, phát triển dịch vụ du lịch sinh thái và các dịch vụ sự nghiệp khác nhằm thu hút các nguồn lực tài chính tăng cường cho công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như mô hình tổ chức quản lý các Ban quản lý rừng đặc dụng ở các địa phương chưa thống nhất. Có Ban quản lý trực thuộc Sở NN-PTNT, có Ban quản lý trực thuộc UBND tỉnh, có nơi lại trực thuộc Chi cục Kiểm lâm. Đội ngũ cán bộ phần lớn chưa được quan tâm và chưa có điều kiện được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn theo vị trí, việc làm, đặc biệt là cán bộ các ban quản lý rừng phòng hộ. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị đầu tư cho các khu bảo tồn còn thiếu và yếu, trang thiết bị chuyên dụng cho lực lượng quản lý, tuần tra, nghiên cứu, theo dõi diễn biến rừng, bảo vệ rừng còn thiếu. Trong bối cảnh đó, ngày 19/12 tại Hà Nội, Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác quản lý hệ thống rừng đặc dụng, phòng hộ toàn quốc năm 2019, đề xuất các giải pháp phát triển bền vững trong giai đoạn tới, trong đó ưu tiên xây dựng chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc dụng, phòng hộ đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Bên cạnh đó là cac chính sách đầu tư phát triển bền vững hệ thống rừng đặc dụng, phòng hộ giai đoạn tiếp theo 2021 - 2030 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt.
Rừng đặc dụng là gì? Là loại rừng được thành lập với mục đích là bảo tồn bảo tồn thiên nhiên hoang dã của quốc gia, lưu giữ những loài động – thực vật quý hiếm và cân bằng hệ sinh thái. Không những thế, rừng đặc dụng còn giữ một vai trò quan trọng đối với công tác nghiên cứu khoa học. Cùng tìm hiểu chi tiết trong bài viết dưới đây. Rừng đặc dụng là gì?Khái niệm rừng đặc dụng là rừng gì đã được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 117/2010/NĐ-CP như sau: “Rừng đặc dụng là loại rừng được xác lập theo quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, có giá trị đặc biệt về bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường”. Rừng đặc dụng có tên gọi trong tiếng Anh là “Special-use forest” hoặc “SUF”
Phân loại rừng đặc dụngTheo Nghị định 117/2010/NĐ-CP, rừng đặc dụng được chia làm những loại sau: Vườn quốc giaLà vùng đất tự nhiên, được hình thành với mục đích là bảo vệ một hoặc nhiều hệ sinh thái. Vườn quốc gia cần phải đáp ứng được các yêu cầu như:
Khu bảo tồn thiên nhiênCòn được biết đến với tên gọi là khu bảo toàn loài sinh cảnh và khu dự trữ tự nhiên. Đây là vùng đất tự nhiên, được thành lập với mục đích đó là bảo vệ diễn thế tự nhiên. Khu bảo tồn thiên nhiên cần phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
Khu rừng văn hóa – lịch sử – môi trườngLà khu vực có một hoặc nhiều cảnh quan mang giá trị văn hóa, lịch sử; được lập ra với mục đích đó là phục vụ hoạt động văn hóa, du lịch, nghiên cứu, gồm có:
Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa họcKhu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học là khu rừng có một phần diện tích đất ngập nước, biển được xác lập để nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, phát triển công nghệ, đào tạo. Vai trò của rừng đặc dụngRừng đặc dụng giữ một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn gen, đa dạng sinh vật trong các vườn quốc gia cũng như các khu bảo tồn thiên nhiên. Không chỉ động vật, thực vật cũng được bảo tồn để tránh được tình trạng khai thác quá mức, tuyệt chủng giống loài. Rừng đặc dụng phải theo mẫu chuẩn của hệ sinh thái, đảm bảo được các yếu tố bắt buộc. Đất rừng đặc dụng còn giúp bảo vệ di tích lịch sử đất nước, duy trì các địa danh nổi tiếng. Không những thế, các loại đất còn phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Hiện nay, rừng đặc dụng còn được sử dụng để triển khai thành các khu thăm quan, nghỉ dưỡng,…
Các phân khu của rừng đặc dụngPhân khu bảo vệ nghiêm ngặtLà khoanh vùng được bảo vệ chặt chẽ với mục đích theo dõi tình hình tự nhiên, đảm bảo sự toàn vẹn. Cơ quan này có nhiệm vụ nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan của rừng bao gồm:
Phân khu phục hồi sinh tháiLà khu vực được bảo vệ và quản lý chặt chẽ để rừng được phục hồi, tái sinh tự nhiên. Khu vực này có nhiệm vụ nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của rừng, bao gồm:
Phân khu hành chính và dịch vụLà khu vực được thành lập với mục đích:
Phân khu vùng đệmLà khu vực có diện tích vùng rừng, vùng đất, vùng có mặt nước sát với ranh giới của rừng đặc dụng. Khu vùng đệm có nhiệm vụ giảm nhẹ hoặc ngăn chặn sự xâm hại đối với rừng đặc dụng. Hình phạt khi vi phạm rừng đặc dụng
Mong rằng, các thông tin có trong bài viết “Rừng đặc dụng là gì? Vai trò và phân loại rừng đặc dụng” sẽ giúp ích bạn. Rừng đặc dụng giữ vai trò quan trọng nên mỗi cá nhân, tổ chức hãy cùng nhau bảo vệ, ngăn chặn các hành vi có ý định phá hủy hệ sinh thái; duy trì sự đa dạng sinh học,… |