Receptor trong thuốc là gì

Tác dụng của phần lớn các thuốc, là kết quả của sự tương tác giữa thuốc với receptor, receptor là một thành phần đại phân tử.

Bạn đang xem: Chất chủ vận là gì


Receptor

Tác dụng của phần lớn các thuốc là kết quả của sự tương tác giữa thuốc với receptor (thể thụ cảm). Receptor là một thành phần đại phân tử (macromolécular) tồn tại với một lượng giới hạn trong một số tế bào đích, có thể nhận biết một cách đặc hiệu chỉ một phân tử "thông tin" tự nhiên (hormon, chất dẫn truyền thần kinh), hoặc một tác nhân ngoại lai (chất hóa học, thuốc) để gây ra một tác dụng sinh học đặc hiệu, là kết quả của tác dụng tương hỗ đó.

Thành phần đại phân tử của receptor thường là protein vì chỉ có protein mới có cấu trúc phức tạp để nhận biết đặc hiệu của một phân tử có cấu trúc 3 chiều.

Receptor có 2 chức phận

Nhận biết các phân tử thông tin (hay còn gọi là ligand) bằng sự gắn đặc hiệu các phân tử này vào receptor theo các liên kết hóa học:

Liên kết ion: các chất hóa học mang điện tích (như nhóm amoni bậc 4 cuả acetylcholin có điện tích dương), sẽ gắn vào vùng mang điện tích trái dấu của receptor theo liên kết này, với lực liên kết khoảng 5- 10 kcal/ mol.

Liên kết hydro: do sự phân bố không đồng đều electron trong phân tử nên có mối liên kết giữa nguyên tử hydro với các nguyên tử có điện tích âm cao như oxy, nitơ và fluor. Lực liên kết khoảng 2- 5 kcal/ mol.

Liên kết Van- der- Waals: là lực liên kết của mối tương hỗ giữa các electron với các nhân của các phân tử sát bên. Lực liên kết phụ thuộc vào khoảng cách giữa các phân tử, lực này tương đối yếu, khoảng 0,5 kcal/ mol. Các thuốc có vòng benzen, có mật độ electron phân bố đồng đều thường có mối liên kết này

Các lực liên kết trên đều là thuận nghịch.

Liên kết cộng hóa trị: là lực liên kết giữa các nguyên tử bằng những cặp điện tử chung. Vì là lực liên kết lớn 50- 150 kcal/ mol nên là liên kết không thuận nghịch ở nhiệt độ cơ thể, không có chất xúc tác. Loại liên kết này ít gặp. Thí dụ liên kết giữa chất alkyl hóa với tế bào ung thư, các thuốc ức chế enzym mono- amin oxydase (MAOI), thuốc trừ sâu lân hữu cơ với cholinesterase.

Một phân tử thuốc có thể gắn vào receptor theo nhiều kiểu liên kết. Thí dụ: acetylcholin gắn vào receptor M- cholinergic:

Receptor trong thuốc là gì

Acetylcholin gắn vào receptor M theo đường nối sau:

Hai O của chức ester tạo liên kết hydro với receptor.

Nhóm CH2- CH2 gắn với receptor bằng liên kết phân tử (lực Van - der- Waals).

Hai gốc CH3 của amin bậc 4 gắn vào các khoang của vị trí anion cũng bằng lựcVan- der- Waals

Chuyển tác dụng tương hỗ giữa ligand và receptor thành một tín hiệu để gây ra được đáp ứng tế bào:

Các receptor nằm ở nhân tế bào được hoạt hóa bởi các ligand gắn trên các vị trí đặc hiệu của ADN nằm trong các vùng điều hòa gen, gây ra sự sao chép các gen đặc hiệu (receptor của hormon steroid, vitamin D3...). Các receptor nằm ở màng tế bào vì ở xa nhân nên không tham gia trực tiếp vào các chương trình biểu hiện của gen. Khi các ligand tác động lên receptor sẽ làm sản xuất ra các phân tử trung gian- "người truyền tin thứ 2" (AMPv, GMPv, IP 3, Ca2+, diacetyl glycerol...)- Những chất này sẽ gây ra một loạt phản ứng trong tế bào, dẫn tới một thay đổi chuyển hóa trong tế bào, cùng với hoặc không có sự thay đổi về biểu hiện gen (receptor của adrenalin, của benzodiazepin...).

Như vậy, khi thuốc gắn vào receptor của tế bào thì gây ra được tác dụng sinh lý. Nhưng có khi thuốc gắn vào tế bào mà không gây ra tác dụng gì, nơi gắn thuốc được gọi là nơi tiếp nhận (acceptor) hoặc receptor câm, (silent receptor) như thuốc mê gắn vào tế bào mỡ, digitalis gắn vào gan, phổi, thận...

Thuốc gắn vào receptor phụ thuộc vào ái lực (affinity) của thuốc với receptor. Hai thuốc có cùng receptor, thuốc nào có ái lực cao hơn sẽ đẩy được thuốc khác ra. Còn tác dụng của thuốc là do hiệu lực (efficacy) của thuốc trên receptor đó. Ái lực và hiệu lực không phải lúc nào cũng đi cùng nhau: acetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh của hệ phó giao cảm, khi gắn vào receptor M, gây hiệu lực làm tăng tiết nước bọt, co đồng tử, chậm nhịp tim...; atropin có ái lực trên receptor M mạnh hơn acetylcholin rất nhiều nên đẩy được acetylcholin ra khỏ i receptor M, nhưng bản thân nó lại không có hiệu lực gì. Ở lâm sàng, tác dụng của atropin quan sát được chính là tác dụng của sự thiếu vắng acetylcholin trên receptor M: khô miệng (giảm tiết nước bọt), giãn đồng tử, nhịp tim nhanh...

Xem thêm: P2O5 Là Gì ? Phốtpho Pentôxít

Các cơ chế tác dụng của thuốc

Tác dụng của thuốc thông qua receptor

Thuốc tác dụng trực tiếp trên các receptor của các chất nội sinh (hormon, chất dẫn truyền thần kinh): nhiều thuốc tác dụng trên các receptor sinh lý và thường mang tính đặc hiệu. Nếu tác dụng của thuốc lên receptor giống với chất nội sinh, gọi là chất đồng vận hay chất chủ vận (agonists), như pilocarpin trên receptor M- cholinergic. Nếu thuốc gắn vào receptor, không gây tác dụng giống chất nội sinh, trái lại, ngăn cản chất nội sinh gắn vào receptor, gây tác dụn g ức chế chất đồng vận, được gọi là chất đối kháng (antagonists), như d- tubocurarin tranh chấp với acetylcholin tại receptor N của cơ vân.

Một số thuốc thông qua việc giải phóng các chất nội sinh trong cơ thể để gây tác dụng: Amphetamin giải phóng adrenalin trên thần kinh trung ương, nitrit làm giải phóng NO gây giãn mạch...

Xét trên nhiều mặt, protein là một nhóm quan trọng của receptor - thuốc. Do đó, ngoài receptor tế bào, các receptor của thuốc còn là:

Các enzym chuyển hóa hoặc điều hòa các quá trìn h sinh hóa có thể bị thuốc ức chế hoặc hoạt hóa:

Thuốc ức chế enzym: captopril ức chế enzym chuyển angiotensin I không hoạt tính thành angiotensin II có hoạt tính dùng chữa cao huyết áp; các thuốc chống viêm phi steroid ức chế cyclooxygenase, làm giảm tổng hợp prostaglandin nên có tác dụng hạ sốt, chống viêm; thuốc trợ tim digitalis ức chế Na+- K+ ATPase...

Thuốc hoạt hóa enzym: các yếu tố vi lượng như Mg 2+, Cu2+, Zn2+ hoạt hóa nhiều enzym protein kinase, phosphokinase tác dụng lên nhiều quá trình chuy ển hóa của tế bào.

Các ion: thuốc gắn vào các kênh ion, làm thay đổi sự vận chuyển ion qua màng tế bào. Novocain cản trở Na+ nhập vào tế bào thần kinh, ngăn cản khử cực nên có tác dụng gây tê; benzodiazepin làm tăng nhập Cl- vào tế bào, gây an thần.

Tác dụng của thuốc không qua receptor

Một số thuốc có tác dụng không phải do kết hợp với receptor.

Thuốc có tác dụng do tính chất lý hóa, không đặc hiệu:

Các muối chứa các ion khó hấp thu qua màng sinh học như MgSO 4, khi uống sẽ "gọi nước" ở thành ruột vào lòng ruột và giữ nước trong lòng ruột nên có tác dụng tẩy; khi tiêm vào tĩnh mạch sẽ kéo nước từ gian bào vào máu nên được dùng chữa phù não Isosorbid, mannitol dùng liều tương đối cao, làm tăng áp lực thẩm thấu trong huyết tương. Khi lọc qua cầu thận, không bị tái hấp thu ở ống thận, làm tăng áp lực thẩm thấu trong ống thận, có tác dụng lợi niệu.

Những chất tạo chelat hay còn gọi là chất "càng cua" do có các nhóm có cực như -OH, -SH, -NH2, dễ tạo phức với các ion hóa trị 2, đẩy chúng ra khỏi cơ thể. Các c hất "càng cua" như EDTA (ethyl diamin tetra acetic acid), BAL (British anti lewisit - dimercaprol), d- penicilamin thường được dùng để chữa ngộ độc kim loại nặng như Cu 2+, Pb2+, Hg2+ hoặc thải trừ Ca2+ trong ngộ độcdigital.

Than hoạt hấp phụ được các hơi, các độc tố nên dùng chữa đầy hơi, ngộ độc.

Các base yếu làm trung hòa dịch vị acid dùng để chữa loét dạ dày (kháng acid), như hydroxyd nhôm, magnesi oxyd.

Thuốc có cấu trúc tương tự như những chất sinh hóa bình thường, có thể thâm nhập vào các thành phần cấu trúc của tế bào, làm thay đổi chức phận của tế bào. Thuốc giống purin, giống pyrimidin, nhập vào acid nucleic, dùng chống ung thư, chống virus. Sulfamid gần giống paraamino benzoic acid (PABA), làm vi khuẩn dùng "nhầm", không phát triển được.

Cơ thể người được cấu tạo từ các tế bào và chúng không sống biệt lập, chúng “giao tiếp” với nhau bằng cách truyền tin qua các tín hiệu hóa học và điện. Các tín hiệu hóa học thường là protein hoặc các phân tử khác được tiết ra từ tế bào đích vào không gian ngoại bào và đến gắn kết với tế bào nhận. Vị trí chất truyền tin gắn kết với tế bào nhận được gọi là thụ thể. Vậy, các thụ thể tế bào là gì và có các loại thụ thể tế bào nào?

Các thụ thể tế bào (receptor) là thành phần đại phân tử (thường là các protein) tồn tại với một lượng giới hạn trong tế bào hoặc trên bề mặt tế bào, đóng vai trò tham gia vào quá trình truyền tín hiệu thông qua gắn kết với các phối tử.

Phối tử (ligand) là các chất truyền tin hóa học (chemical signal) được tiết ra từ các tế bào truyền tín hiệu (signaling cells). Phối tử có thể là các chất hóa học, acid amin, protein, lipid; hoặc cũng có thể là các hormone, các chất dẫn truyền thần kinh hoặc thuốc.

Thụ thể có chức năng nhận dạng phối tử và gắn kết đặc hiệu với các phối tử bằng liên kết hóa học. Sau đó, chuyển tác dụng tương hỗ giữa phối tử và thụ thể thành một tín hiệu để gây ra được đáp ứng tế bào. Thụ thể tế bào có tính đặc hiệu, tức là chỉ có thể gắn kết với một số phối tử nhất định. Một cách đơn giản, thụ thể giống như một ổ khóa và phối tử chính là chìa khóa. Chỉ có những chất chìa khóa (các phối tử nhất định) mới gắn được vào ổ khóa đó (thụ thể cụ thể.)

Khi phối tử liên kết với thụ thể tại vị trí tiếp hợp, một chuỗi các phản ứng đáp ứng sinh học sẽ xảy ra sau đó, kèm theo đó là sự hoạt hóa hay bất hoạt hoạt động của các protein. Các phối tử hoạt hóa thụ thể để dẫn truyền tín hiệu được gọi là chất chủ vận (hay còn gọi là chất đồng vận - agonist). Ngược lại, một số phối tử có khả năng ức chế hoặc ngăn thụ thể tiếp nhận thông tin gọi là phối tử đối vận (hay còn gọi là chất đối vận - antagonist). Các phối tử đối vận cạnh tranh với phối tử đồng vận và do đó, ức chế hoạt tính của chất đồng vận.

Trong điều trị bệnh, cả chất đồng vận và chất đối vận đều có giá trị ứng dụng. Ví dụ, một chất đồng vận với thụ thể beta adrenergic là adrenalin. Khi adrenalin gắn vào thụ thể beta adrenergic, làm hoạt hóa thụ thể dẫn đến tác dụng co mạch máu. Ngược lại, các chất đối được gọi là chất ức chế thụ thể beta (beta blocker) có thể sử dụng với vai trò là thuốc điều trị tăng huyết áp, bởi vì chúng ức chế thụ thể beta và do đó, làm giãn mạch.

Tế bào có thể sử dụng các thụ thể tương tự nhau cho những tác dụng khác nhau hoàn toàn. Ví dụ, thụ thể histamin H1 là tham gia vào quá trình dị ứng, trong khi đó, thụ thể histamin H2 ở dạ dày lại đóng vai trò thúc đẩy sự tiết acid dịch vị dạ dày.

Receptor trong thuốc là gì

Các thụ thể tế bào (receptor) tham gia vào quá trình truyền tín hiệu thông qua gắn kết với các phối tử (ligand)

Thụ thể đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền tín hiệu, liệu pháp miễn dịch và đáp ứng miễn dịch. Hiện nay, có thể phân loại thụ thể thành hai loại là các thụ thể trong tế bào và thụ thể trên bề mặt tế bào.

2.1. Các thụ thể trong tế bào

Các thụ thể trong tế bào còn được gọi là thụ thể nội bào. Có hai loại thụ thể trong tế bào là:

  • Thụ thể bào tương: Được tìm thấy trong bào tương, ví dụ như thụ thể của các loại hormon steroid khác nhau.
  • Thụ thể nhân tế bào: Là thụ thể nằm trên nhân tế bào, ví dụ thụ thể của hormone tuyến giáp T3, T4, chúng kết hợp trực tiếp với một hay nhiều nhiễm sắc thể trong nhân tế bào đích.

Các thụ thể nội bào đáp ứng với các phối tử kỵ nước, có khả năng xuyên qua màng tế bào (plasma membrane) và đóng vai trò điều hòa hoạt động gen.

Cơ chế hoạt động của các thụ thể trong tế bào là các phối tử có kích thước phân tử nhỏ và tan trong lipid như corticosteroid, hormon sinh dục (progesterone, estrogen,...) đi xuyên qua màng tế bào để gắn với thụ thể của chúng trong tế bào chất. Phức hợp phối tử - thụ thể sau đó sẽ di chuyển vào nhân tế bào và gắn vào những vị trí đặc hiệu trên phân tử ADN của nhiễm sắc thể, hoạt hoá sự sao chép gen để tạo thành mRNA. Các mRNA sau khi được tạo thành, sẽ khuếch tán từ nhân ra bào tương và thúc đẩy quá trình dịch mã tại ribosom, cuối cùng, tổng hợp ra các protein mới (những protein này có thể là men chuyển hoá, các protein vận tải, protein cấu trúc).

Receptor trong thuốc là gì

Các thụ thể trong tế bào còn được gọi là thụ thể nội bào gồm có Thụ thể bào tương và Thụ thể nhân tế bào

2.2. Thụ thể trên bề mặt tế bào

Thụ thể trên bề mặt tế bào chiếm đa số các thụ thể tế bào có trong cơ thể.

Mỗi thụ thể trên bề mặt tế bào có ba thành phần chính: Vùng liên kết phối tử bên ngoài, vùng xuyên màng kỵ nước và vùng nội bào bên trong tế bào. Đặc điểm của các vùng này rất khác nhau, tùy thuộc vào loại thụ thể.

Khác với các thụ thể trong tế bào, cơ chế hoạt động của thụ thể trên bề mặt tế bào là chúng liên kết với các phân tử phối tử bên ngoài, tức là các phối tử tương tác với các thụ thể trên bề mặt tế bào mà không cần phải xâm nhập vào tế bào mà chúng tác động. Sau đó, hoạt hóa vùng nội bào phía trong tế bào và gây ra các tác dụng sinh học đặc hiệu.

Dựa vào cơ chế truyền tín hiệu, các thụ thể trên bề mặt tế bào được chia làm ba loại: Thụ thể liên kết kênh ion, thụ thể liên kết với protein G (G protein-coupled receptor – GPCR) và thụ thể liên kết với enzym.

  • Thụ thể liên kết với kênh ion (ion – channel linked receptor): Các thụ thể tế bào là các kênh ion nằm trên màng tế bào, thường gặp hơn trong hoạt động của hệ thần kinh (acetylcholine, GABA, glutamid, aspartate và glycine). Khi phối tử gắn với thụ thể sẽ kích hoạt mở các kênh ion và làm tăng vận chuyển các ion thích hợp (Na+/ Ca2+/ K+,...) qua màng dẫn đến thay đổi điện thế màng. Kết quả gây ra các biến đổi sinh học. Ví dụ, GABA gắn vào thụ thể của nó gây mở kênh Cl-, tạo ra điện thế hậu synap, ức chế hoạt động của hệ thần kinh trung ương, kết quả giảm cảm giác lo lắng, sợ hãi, căng thẳng.
  • Thụ thể liên kết với enzym (như tyrosine kinase): Thường gặp trong hoạt động của các yếu tố tăng trưởng như yếu tố tăng trưởng biểu bì, các hormon loại polypeptide điều hòa sự tăng trưởng, biệt hóa. Khi phối tử gắn với thụ thể tế bào nằm trên enzyme xuyên màng làm thay đổi hoạt tính của enzym nằm phía trong tế bào. Ví dụ, insulin gắn vào tiểu đơn vị alpha ở mặt ngoài tế bào, kích hoạt tyrosine kinase ở mặt trong tế bào để hoạt hóa kênh vận chuyển glucose.
  • Thụ thể liên kết với protein G (G-protein coupled receptors): Thường gặp nhất trong hoạt động của hệ nội tiết, là thụ thể của acid amin, ecosanoid và nhiều hormone peptid. Các thụ thể tế bào liên kết với protein G liên kết một phối tử và kích hoạt protein màng gọi là protein G. Sau đó, protein G được hoạt hóa sẽ tương tác với kênh ion hoặc enzym trong màng (adenylyl cyclase, phospholipase C và phospholipase A2) dẫn đến thay đổi nồng độ chất truyền tin thứ hai nội bào như AMP vòng, GMP vòng, Ca2+. Chính các chất truyền tin thứ hai này làm thay đổi hoạt tính tế bào.

Mọi tế bào trong tất cả các cơ quan của cơ thể đều cần trao đổi thông tin để duy trì chức năng sinh lý của cơ thể. Tuy nhiên, thụ thể tế bào cũng liên quan đến cơ chế bệnh sinh của một số bệnh lý. Do đó, hiểu được cơ chế bệnh sinh và các hoạt động của thụ thể tế bào giúp các nhà khoa học tìm ra các thuốc điều trị bệnh hiệu quả.

Hãy theo dõi trang web: Vinmec.com thường xuyên để cập nhật nhiều thông tin hữu ích khác.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

Nguồn tham khảo: ncbi.nlm.nih.gov, sciencedirect.com

XEM THÊM: