Phân tích nội dung biện pháp áp dụng hình phạt về tội hiếp dâm

Công ty Luật Thái An có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật hình sự, đúc kết từ rất nhiều vụ việc khách hàng mỗi năm. Một số khách hàng của chúng tôi là nạn nhân bị hiếp dâm, rất bức xúc và đau khổ. Tội hiếp dâm thuộc nhóm tội đặc biệt nghiêm trọng, với mức xử phạt cao nhất là tù chung thân. Trong bài viết dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một số quy định của pháp luật liên quan tới tội hiếp dâm:

Một người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nếu dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì phạm tội hiếp dâm.

Cần phân biệt tội hiếp dâm với tội cưỡng dâm để tránh nhầm lẫn

===>>> Xem thêm: Tội cưỡng dâm hình phạt thế nào?

Cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm hình sự đối với tội hiếp dâm là Điều 141 và Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phân tích nội dung biện pháp áp dụng hình phạt về tội hiếp dâm
Người phạm tội hiếp dâm có thể bị xử phạt tù chung thân ở mức cao nhất – Nguồn ảnh minh họa: Internet.

Người nào phạm tội hiếp dâm thì bị phạt tù từ hai năm đến bẩy năm.

Người nào phạm tội hiếp dâm mà thuộc một trong các trường hợp dưới đây, thì bị phạt tù từ bẩy năm đến mười lăm năm:

  • Hiếp dâm có tổ chức;
  • Hiếp dâm người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
  • Nhiều người hiếp một người;
  • Hiếp dâm hai lần trở lên;
  • Hiếp dâm hai người trở lên;
  • Hiếp dâm có tính chất loạn luân;
  • Hiếp dâm và gây ra hậu quả là nạn nhân có thai;
  • Hiếp dâm và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
  • Hiếp dâm và gây ra hậu quả là nạn nhân bị rối loạn tâm thần từ 11% đến 45%;
  • Tái phạm nguy hiểm.

===>>> Xem thêm: Thế nào là tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Người nào phạm tội hiếp dâm mà thuộc một trong các trường hợp dưới đây, thì bị phạt tù từ mười ha năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

  • Hiếp dâm và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  • Hiếp dâm khi biết mình bị nhiễm HIV;
  • Hiếp dâm và gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
  • Hiếp dâm gây hậu quả nạn nhân chết hoặc tự sát.

Nếu phạm tội hiếp dâm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.

Nếu phạm tội thuộc trường hợp nêu tại điểm b và c mục 3 nêu trên thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định đối với các trường hợp đó.

Các khung hình phạt nếu hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự như sau:

Khung hình phạt này áp dụng trong các trường hợp sau:

  • hiếp dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
  • giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi

Khung hình phạt này áp dụng trong các trường hợp sau:

  • Hiếp dâm có tính chất loạn luân;
  • Hiếp dâm và làm nạn nhân có thai;
  • Hiếp dâm và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
  • Hiếp dâm và gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
  • Hiếp dâm người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
  • Hiếp dâm hai lần trở lên;
  • Hiếp dâm hai người trở lên;
  • Tái phạm nguy hiểm.

===>>> Xem thêm: Tội đe dọa giết người hình phạt thế nào?

Khung hình phạt này áp dụng trong các trường hợp sau:

  • Hiếp dâm có tổ chức;
  • Nhiều người hiếp dâm một người;
  • Hiếp dâm người dưới 10 tuổi;
  • Hiếp dâm và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên;
  • Hiếp dâm gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
  • Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn hiếp dâm người khác;
  • Hiếp dâm và làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

Người phạm tội hiếp dâm còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

===>>> Xem thêm: Tội vô ý làm chết người có hình phạt thế nào?

Trên đây là phần tư vấn của Công ty Luật Thái An về tội hiếp dâm. Xin lưu ý là sau thời điểm chúng tôi viết bài này, luật pháp đã có thể thay đổi các quy định liên quan. Hãy đừng ngần ngại gọi đến Tổng đài tư vấn Luật Hình Sự nếu Bạn muốn được tư vấn trực tiếp và chính xác nhất về tất cả các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người.

Hiến pháp nước ta và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đều quy định về quyền được thuê luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa”. Sử dụng dịch vụ luật sư bào chữa, người phạm tội sẽ được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Bạn hãy đọc bài viết Dịch vụ luật sư bào chữa để hiểu những lợi ích to lớn cho mình.

Bạn có thể đọc bài viết Bảng giá dịch vụ thuê luật sư tranh tụng để có thêm thông tin, cụ thể là ở phần dịch vụ thuê luật sư vụ án hình sự.

Mời bạn đọc bài viết Quy trình dịch vụ thuê luật sư tranh tụng của Luật Thái An.

HÃY LIÊN HỆ NGAY VỚI CHÚNG TÔI ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ

Tác giả bài viết:

Tiến sỹ luật học, Luật sư Nguyễn Văn Thanh – Giám đốc Công ty luật Thái An

  • Thành viên Đoàn Luật sư TP. Hà Nội và Liên đoàn Luật sư Việt Nam
  • Lĩnh vực hành nghề chính: * Tư vấn pháp luật: Doanh nghiệp, Đầu tư, Xây dựng, Thương mại, Lao động, Dân sự, Hình sự, Đất đai, Hôn nhân và gia đình

    * Tố tụng và giải quyết tranh chấp: Kinh doanh thương mại, Đầu tư, Xây dựng, Lao động, Bảo hiểm, Dân sự, Hình sự, Hành chính, Đất đai, Hôn nhân và gia đình 

Xem thêm Luật sư Nguyễn Văn Thanh.

  • Giới thiệu tác giả
  • Bài viết mới nhất

Phân tích nội dung biện pháp áp dụng hình phạt về tội hiếp dâm

Giám đốc tại Công ty Luật Thái An

Tiến sỹ luật học, Luật sư Nguyễn Văn Thanh là thành viên Đoàn Luật sư TP. Hà Nội và Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Lĩnh vực hành nghề chính: * Tư vấn pháp luật: Doanh nghiệp, Đầu tư, Xây dựng, Thương mại, Lao động, Dân sự, Hình sự, Đất đai, Hôn nhân và gia đình

* Tố tụng và giải quyết tranh chấp: Kinh doanh thương mại, Đầu tư, Xây dựng, Lao động, Bảo hiểm, Dân sự, Hình sự, Hành chính, Đất đai, Hôn nhân và gia đình

Phân tích nội dung biện pháp áp dụng hình phạt về tội hiếp dâm

Luật sư tư vấn tội hiếp dâm. Căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự tội hiếp dâm.

Tóm tắt câu hỏi:

Khoảng giữa năm 2019. Con gái tôi mang thai, con gái khác của tôi đã đủ 16 tuổi đi nuôi chị gái sinh con thì con rể dụ dỗ nó bỏ nhà đi và làm có thai. Vậy tôi có thể kiện con rể tôi về tội gì?

Luật sư tư vấn:

Căn cứ Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017  quy định tội hiếp dâm như sau:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

c) Nhiều người hiếp một người;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

Xem thêm: Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Có tính chất loạn luân;

g) Làm nạn nhân có thai;

h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3.52 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

Xem thêm: Khách thể và đối tượng tác động của tội phạm hiếp dâm

c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Phân tích nội dung biện pháp áp dụng hình phạt về tội hiếp dâm

Luật sư tư vấn pháp luật về tội hiếp dâm qua tổng đài:1900.6568

* Dấu hiệu pháp lý: 

– Khách thể: là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền tự do tình dục của con người. Đối tượng tác động là người phụ nữ.

Xem thêm: Bỏ thuốc ngủ để giao cấu trái ý muốn có phạm tội hiếp dâm không?

– Hành vi khách quan:

+ Hành vi thứ nhất là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệđược của nạn nhân hoặc dùng thủđoạn khác

+ Hành vi thứ hai là giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ. hành vi giao cấu được coi là trái với ý muốn của nạn nhân khihành vi đó không được nạn nhân đồng ý, chấp nhận.

Trường hợp nạn nhân miễn cưỡng chấp nhận giao cấu vì một lý do nào đó thì hành vi không cấu thành tội phạm.

Tội phạm hoàn thành khi cả hai hành vi trên được thực hiện.

– Chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.

– Chủ thể: Thực tiễn xét xử loại tội này ở nước ta xác định chủ thể của tội phạm này là nam giới. Nữ giới chỉ có thể tham gia với vai trò là người đồng phạm như người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức.

Nếu người con rể của bạn có một trong những hành vi trên thì người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội hiếp dâm theo quy định trên.

Xem thêm: Có tồn tại tội hiếp dâm chưa đạt? Chủ thể của tội hiếp dâm?

Để đảm bảo quyền lợi cho con bạn, bạn có quyền làm đơn tố cáo tới Cơ quan công an cấp huyện nơi người con rể đang cư trú để yêu cầu giải quyết.

1. Hiếp dâm người bị tâm thần bị phạt tù bao nhiêu năm?

Tóm tắt câu hỏi: 

Xin chào luật sư, tôi có thắc mắc vấn đề sau mong luật sư giải đáp giúp tôi. Gần nhà tôi có trường hợp ông Hải, 45 tuổi  có hành vi hiếp dâm em T năm nay 21 tuổi bị bệnh tâm thần. Hành vi này đã xảy ra nhiều lần nhưng gần đây mới bị gia đình phát hiện và kiện ông Hải ra tòa. Xin hỏi với hành vi của ông Hải sẽ bị đi tù bao nhiêu năm? Tôi xin chân thành cảm ơn!

Luật sư tư vấn:

Trong trường hợp gia đình chị T khởi kiện ông Hải với nội dung là hiếp dâm người tâm thần thì Tòa án sẽ tiến hành xét xử ông Hải về “Tội hiếp dâm” quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể là:

“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”

Để có thể xét xử ông Hải với tội hiếp dâm thì phải có các cấu thành sau:

– Thứ nhất, ông Hải phải có hành vi: Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ hoặc thủ đoạn khác.

Xem thêm: Mức xử phạt hành chính, mức phạt tù đối với tội cố ý gây thương tích

+ Dùng vũ lực là dùng sức mạnh về thể chất như vật ngã, đè, giữ tay, chân, bịt miệng, bóp cổ, đấm đá, trói, giằng xé quần áo… của nạn nhân làm mất hoặc hạn chế khả năng phòng vệ, tự vệ, tự vệ, chống trả của nạn nhân.

+ Đe dọa dùng vũ lực là dùng lời nói, cử chỉ, động tác nhưng chưa tác động vào người nạn nhân, nhưng làm cho nạn nhân hiểu rằng nếu người phạm tội không giao cấu được thì sẽ sử dụng vũ lực ngay tức khắc.

+ Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân như: nạn nhân bị say, bị ốm hoặc bị tâm thần.

+ Dùng thủ đoạn khác như đánh thuốc mê nạn nhân, lừa nạn nhân.

– Giao cấu trái ý muốn nhân là việc giao cấu nhưng không được sự đồng ý của nạn nhân.

Trong thực tiễn xét xử của Tòa án Việt Nam, quan hệ tình dục giữa một người nam đủ năng lực hành vi hình sự với người tâm thần nữ luôn được coi là hiếp dâm vì người tâm thần bị coi là không đồng ý với hành vi đó.

Căn cứ khoản 2, Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với hành vi hiếp dâm phạm tội nhiều lần sẽ bị phạt tù từ 7 – 15 năm tù.

2. Phạm tội hiếp dâm hình phạt như thế nào?

Tóm tắt câu hỏi:

Xem thêm: Quy định về tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015

Chào Luật sư, tôi có một câu hỏi tình huống cần Luật sư tư vấn như sau:

A và B (là nam giới), rủ nhau đi uống rượu. Khi đã ngà ngà say, A và B vào một chòi canh bảo vệ khu nuôi cá nghỉ. Khi đang nghỉ A nhìn thấy chị C đang đi một mình trên quãng đường vắng gần đó. A bàn với B để thực hiện hành vi giao cấu với C. Thực hiện kế hoạch đã bàn, A ra ngoài buông lời trêu ghẹo chị C và dụ chị C vào chòi khu nuôi cá. Vào chòi cá, A, B đòi giao cấu với chị C, chị C không đồng ý và định hô hoán người cứu giúp. Do nơi vắng người qua lại, chị C không dám hô hoán gì. A đã đe doạ nếu không đồng ý sẽ lột hết quần áo của chị C. Sau đó A đã cởi quần áo chị C, chị C chỉ phản ứng yếu ớt. Sau đó A đè lên người chị C thực hiện hành vi giao cấu. Trong chòi cá chỉ riêng A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, còn B chỉ đứng nhìn không nói gì, sau đó đi ra khỏi chòi bảo vệ. Hai ngày sau A, B bị bắt.

1. Nếu khi A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, còn B giữ chân tay chị C thì B được coi là người giúp sức, đúng hay sai? Tại sao?
2. Giả sử sau khi bị bắt, A được xác định dương tính với vi rút HIV thì khung hình phạt áp dụng đối với A có thay đổi không? Tại sao?

Luật sư tư vấn:

1. Nếu khi A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, còn B giữ chân tay chị C thì B được coi là người giúp sức, đúng hay sai? Tại sao?

Khẳng định trên là sai, vì những lý do sau:

     Đầu tiên, có thể khẳng định, A và B trong trường hợp này là đồng phạm vì đã cố ý cùng thực hiện một tội phạm là tội hiếp dâm đối với chị C, theo đúng như định nghĩa về đồng phạm được quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự 2015: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.” Trong đó cả hai cùng cố ý thực hiện tội hiếp dâm, thể hiện qua việc bàn bạc, phân công hành động từ trước, tới việc B giữ tay chân chị C để A thực hiện hành vi giao cấu với C dễ dàng. Cả A và B đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn quyết tâm cùng nhau thực hiện và thực hiện đến cùng, thể hiện qua việc đe dọa và giao cấu với chị C bằng được. Dù phạm tội trong tình trạng không tỉnh táo do say rượu, nhưng không vì thế mà hành vi của A, B được pháp luật cảm thông, vì chính A, B đã đẩy mình đến tình trạng không tỉnh táo để rồi phạm tội.

     Trong trường hợp này, cả A và B đều phạm tội hiếp dâm với vai trò là người thực hành bởi lẽ:

Xem thêm: Quan hệ tự nguyện với bạn gái 17 tuổi có phạm tội không?

     Theo khoản 3 Điều 17  Bộ luật hình sự 2015 thì “người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.”  Và trong một vụ phạm tội cố ý “có thể có nhiều người cùng tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (CTTP). Trong trường hợp này, không đòi hỏi mỗi người phải thực hiện trọn vẹn hành vi được mô tả trong CTTP mà có thể mỗi người chỉ thực hiện một phần hành vi đó. Nhưng đòi hỏi hành vi tổng hợp của họ phải có đủ dấu hiệu của CTTP.” Trường hợp của A và B trên đây chính là một ví dụ:

      Tội phạm mà A và B thực hiện là tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật hình sự 2015). Theo đó tội hiếp dâm được mô tả trong CTTP là hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.” Tù đó suy ra, có hai hành vi khách quan cấu thành tội hiếp dâm, bao gồm:

– Hành vi thứ nhất là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác;

– Hành vi thứ hai là hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân.

Thiếu một trong hai hành vi này thì không cấu thành tội hiếp dâm.

 Trong tình huống trên, nếu xét riêng rẽ từng hành vi của A và B (A giao cấu trái ý muốn chị C, B giữ chân tay chị C để A thực hiện hành vi giao cấu) thì tội hiếp dâm chưa được cấu thành, chẳng hạn nếu chỉ có hành vi giao cấu của A thì có thể cấu thành tội khác, đó là tội cưỡng dâm; hay giả sử nếu chỉ có hành vi giữ tay chân của B thì chỉ có thể truy cứu TNHS về tội hiếp dâm chưa đạt , nhưng khi tổng hợp lại hai hành vi trên thì đã thể hiện đầy đủ các hành vi được mô tả trong CTTP của tội hiếp dâm. Dù B không thực hiện hành vi giao cấu với chị C, nhưng hành vi của B đã cùng với hành vi của A thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu bắt buộc trong CTTP cơ bản của tội hiếp dâm.

     Nói tóm lại B đã thực hiện hành một trong số các hành vi được mô tả trong CTTP mà khi tổng hợp hành vi ấy với hành vi của A đã cấu thành tội hiếp dâm nên cả A và B đều là người thực hành.

       B không phải là người giúp sức vì Người giúp sức là người tạo ra điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm.” (khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự 2015). Bởi lẽ hành vi giữ tay chân chị C của B thỏa mãn dấu hiệu về hành vi khách quan trong CTTP của tôi hiếp dâm. Hơn nữa, tội hiếp dâm là tội phạm có chủ thể đặc biệt (là nam giới), B cũng thỏa mãn điều kiện này. Vì thế B phải là người thực hành. Người phạm tội chỉ có thể được coi là người giúp sức nếu người thực hiện hành vi đó là nữ.

Xem thêm: Đồng phạm trong tội hiếp dâm? Tố cáo tội phạm hiếp dâm?

2. Giả sử sau khi bị bắt A được xác định dương tính với HIV, thì khung hình phạt áp dụng  đối với A có thay đổi không? Vì sao?

Theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Căn cứ vào Điều luật trên ta đã xác định A phạm tội hiếp dâm theo khoản 1 Điều 141. Và ở khoản 2 và 3 Điều 141 là khoản quy định về cấu thành tăng nặng của tội hiếp dâm. Tại điểm b khoản 3 Điều 141 có quy định tình tiết người phạm tội “biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” thì khung hình phạt sẽ nặng hơn rất nhiều so với tội phạm được xác định ở khoản 1 Điều 141  Bộ luật hình sự 2015.

        A sau khi bị bắt được xác định dương tính với HIV có nghĩa là A đã bị nhiễm virut HIV từ trước khi phạm tội tức là khi giao cấu với chị C thì trong người A đã mang mầm bệnh HIV và khả năng lây truyền HIV cho chị H là rất cao. Vấn đề cần lưu ý ở đây là phải xác định được khi thực hiện tội phạm A đã biết mình đang bị nhiễm HIV hay chưa?  Bởi vì khi xác định được ý chí hay lỗi của chủ thể thực hiện tội phạm thì có thể xác định được mức nguy hiểm của tội phạm đối với xã hội và qua đó xác định được khung hình phạt để chừng phạt phù hợp người phạm tội về tội phạm mà mình thực hiện như trong nhiều điều khoản của  Bộ luật hình sự 2015 đều quy định rõ ràng về mức độ lỗi khi thực hiện tội phạm và khung hình phạt được xác định dựa trên đó

        Ở trường hợp của A. Nếu như cơ quan pháp luật chứng minh được là A đã biết được mình bị nhiễm HIV trước khi thực hiện tội phạm và hiển nhiên là khi A biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn có hành vi hiếp dâm chị A là A cố ý lây nhiễm nguồn bệnh này cho C. như vậy thì tội danh của A được xác định sẽ là khoản 3 Điều 141 chứ không phải là khoản 1 như ban đầu chúng ta đã xác định vì tình tiết cố tình lây nhiễm HIV là một tình tiết tăng nặng của tội phạm hiếp dâm và độ nguy hiểm của tội phạm này sẽ cao hơn rất nhiều so với hiếp dâm xác định theo cấu thành thông thường. Mức hình phạt ở khoản 3 Điều 141:

“3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.”

        Như vậy tội phạm thuộc khoản 3 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chứ không còn tội nghiêm trọng như ở khoản 1 nữa. Do đó việc xác định A đã biết mình bị nhiễm HIV trước khi thực hiện tội phạm hay chưa là một việc rất quan trọng vì qua đó có thể xác định được đúng tội phạm tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm cũng như là làm oan người vô tội.

      Nếu như A được xác định là chưa biết việc mình bị nhiễm HIV trước khi thực hiện tội phạm thì tội phạm A thực hiện sẽ không thuộc khoản 3 Điều 141 vì ở đây quy định rõ là người phạm tội phải biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội thì mới cấu thành tội phạm ở khoản này còn trường hợp không biết mình đang bị nhiễm HIV khi thực hiện tội phạm thì A sẽ chỉ bị định tội theo khoản 1 Điều 141 khung hình phạt chỉ “từ hai năm tù đến bảy năm tù”

Xem thêm: Bị người khác đe dọa phải làm như thế nào?

       Do đó trong trường hợp này khung hình phạt áp dụng đối với A có thay đổi hay không sẽ phụ thuộc vào việc cơ quan pháp luật có chứng minh được rằng A đã biết mình bị nhiễm HIV khi thực hiện tội phạm hay không và đương nhiên là khi chứng minh được A biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội thì khung hình phạt đối với A sẽ thay đổi theo hướng tăng nặng.

3. Hỏi về vấn đề đồng phạm trong vụ án hiếp dâm

Tóm tắt câu hỏi:

A và B cùng lên kế hoạch đi ăn trộm tiền tại nhà chị C. Khi đang lục lọi A và B bị C phát hiện và tri hô. Ngay lập tức A và B lao vào khống chế dùng dây trói chân tay và bịt miệng C. Sau khi lấy được 55 triệu đồng. A thấy C ở nhà 1 mình liền thực hiện hành vi hiếp dâm C. B nhìn thấy không nói gì và cầm tiền bỏ ra ngoài trước. Trong trường hợp này B có phải là đồng phạm với A về tội hiếp dâm không? Vì sao?

Luật sư tư vấn:

Về vấn đề đồng phạm, Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

“Điều 17. Đồng phạm 

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

Xem thêm: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo Điều 142 Bộ luật hình sự 2015

3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”

Trong trường hợp này, có thể khẳng định A và B là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người thực hành.

Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiên tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác đặt ra, Khoa học luật hình sự gọi là hành thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm. Ở nước ta chế định về hành vi thái quá chưa được ghi trong Bộ luật hình sự, nhưng về lý luận cũng như thực tiến xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách nhiệm hình sự  của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác trong một vụ án có đồng phạm.

Xem thêm: Nghĩa vụ khai báo của người bị hại

Hành vi thái quá của người thực hành là trường hợp người thực hành tự ý thực hiện hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Hay nói cách khác là hành vi phạm tội của người thực hành mà những người đồng phạm khác không có ý định thực hiện. Xét trong trường hợp này hành động hiếp dâm C chính là hành vi thái quá của A. Như vậy, tuy việc B cùng A dùng dây trói chân tay và bịt miệng C đã tạo điều kiện thuận lợi cho A thực hiện hành động hiếp dâm C nhưng khi truy cứu trách nhiệm hình sự, B chỉ bị truy cứu về tội trộm cắp tài sản mà không bị truy cứu về tội hiếp dâm, hay nói cách khác, B không phải là đồng phạm của A về tội hiếp dâm.

4. Xét xử kín tội hiếp dâm theo yêu cầu của người bị hại

Tóm tắt câu hỏi:

Em có một người bạn bị một thanh niên trên 18 tuổi cưỡng bức, nhưng vì bạn em còn nhỏ (17 tuổi) nên không dám kiện ra tòa vì bạn ấy sợ nhiều người biết ảnh hưởng đến tương lai của bạn. Xin hỏi Tòa án có xét xử kín không ?

Luật sư tư vấn:

Theo quy định tại đoạn 2 Điều 25 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì trường hợp này để giữ bí mật cho bạn gái đó, tránh ảnh hưởng đến tương lai của bạn gái đó, bạn gái đó hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án xét xử kín.

Điều 25 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 25. Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai

Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng.

Xem thêm: Bị người khác hiếp dâm thì mức bồi thường thiệt hại như thế nào?

Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.”

Để đảm bảo bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm người bị hại – bạn của bạn làm đơn yêu cầu Tòa án để yêu cầu xét xử kín đối với vụ án hiếp dâm này. Đây là một quyền lợi được pháp luật thừa nhận thay vì thủ tục xét xử công khai theo thủ tục thông thường.

5. Thủ tục tố cáo người thực hiện hành vi hiếp dâm

Tóm tắt câu hỏi:

Tôi có người chị gái đang là sinh viên năm thứ hai. Hiện chị đang quen với một người con trai tên là T, nói là quen nhưng người ấy vẫn đang theo đuổi chứ chị tôi chỉ xem nhau là bạn mà thôi. Có lần người ấy hẹn chị đi chơi, hắn đã dùng sức khống chế và thực hiện hành vi giao cấu với chị, mặc dù chị đã chống cự. Cho tôi hỏi, nếu muốn tố cáo người này thì phải làm gì? Mức án đối với người ấy như thế nào?

Luật sư tư vấn:

Thứ nhất, hành vi dùng sức khống chế và thực hiện hành vi giao cấu với chị bạn có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015:

“Điều 141. Tội hiếp dâm

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xem thêm: Cấu thành tội phạm, mức hình phạt tù đối với tội hiếp dâm?

…”

Thứ hai, để tiến hành tố cáo về hành vi của thanh niên T thì chị bạn hoàn toàn có thể gửi đơn hoặc đến trực tiếp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức để tố giác hành vi của thanh niên T. Nhưng trường hợp này để xử lý nhanh nhất hành vi của T, chị bạn nên trực tiếp Cơ quan điều tra cấp huyện nơi xảy ra hành vi để tố giác hành vi của T. Sau khi tiến hành xác minh có dấu hiệu của tội phạm, Cơ quan điều tra sẽ tiến hành khởi tố theo quy định của pháp luật.

6. Đăng ảnh lên facebook làm bạn bị hiếp dâm có phạm tội không?

Tóm tắt câu hỏi:

Thưa công ty, em là một học sinh THPT, em có tham gia vào một nhóm trên Facebook. Tại đó, em đã post lên một bài viết với nội dung trạng thái :”Anh em thích thì tự cưa , rau này trồng lâu dài”. Mang ý nghĩa giới thiệu bạn gái cho mọi người kèm theo tấm ảnh chụp màn hình có tên facebook và hình mặt của bé gái đó (khoảng 16 tuổi) và không kèm thêm bất cứ thông tin nào khác nữa nhưng không hiểu sao lại có ba người trong nhóm đó hiểu nhầm ý em, lại làm sao đó mà rủ đi hiếp dâm con bé kia. Em nghe nói lại hình như là vậy và con bé ấy có nhiều nguồn tin nói nó bị mất trinh từ trước ạ. Nếu vậy thì em có bị buộc tội môi giới mại dâm hay bất cứ tội nào khác không? Công ty tư vấn giúp em ạ! Em cảm ơn.

Luật sư tư vấn:

Trong vụ việc này, hành vi của đăng ảnh của em gái kia với mục đích là chỉ để giới thiệu đến bạn bè. Việc chia sẻ bức ảnh này không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc em gái kia bị hiếp dâm. Bạn không nên lo lắng là vì hành vi của mình mà làm em gái kia bị hiếp, không phải như vậy, nếu ba người kia đã có ý định hiếp dâm thì ý nghĩ  đầu tiên của họ sẽ tìm kiếm nạn nhân dễ tổn thương và trong quá trình tìm kiếm đó, họ đã bắt gặp hình ảnh của em gái mà bạn đã đăng. Bức ảnh của bạn chỉ là vô tình “giúp” ba “con “yêu râu xanh” tìm được con mồi của mình.

Bên cạnh đó theo Điều 328 Bộ luật hình sự 2015:

Điều 328. Tội môi giới mại dâm

Xem thêm: Hiếp dâm là gì? Phân biệt hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô và giao cấu?

1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

Hành vi đăng ảnh người bạn gái lên facebook nhằm giới thiệu người bạn này cho mọi người không phải hành vi dụ dỗ hay dẫn dắt người bạn gái thực hiện hành vi mại dâm nên bạn không phạm tội môi giới mại dâm. 

Như những lập luận trên, bạn sẽ không bị truy cứu về bất kỳ tội danh nào liên quan đến vụ án trên

7. Phạm tội hiếp dâm chưa đạt và có tình tiết tăng nặng

Tóm tắt câu hỏi:

Chào luật sư. Em muốn hỏi là một người định thực hiện hành vi hiếp dâm nhưng nạn nhân đã kịp chạy ra ban công để kêu cứu, người kia chạy theo nạn nhân để bắt lại, nạn nhân vì sợ hãi mà nhảy từ tầng 3 xuống đất và bị thương tật 75%. Vậy có phải là phạm tội hiếp dâm chưa đạt và có tình tiết tăng nặng không ạ?

Luật sư tư vấn:

– Căn cứ Mục 2 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ luật Hình sự quy định về phạm tội chưa đạt như sau:

“2. Phạm tội chưa đạt (Điều 18).

Xem thêm: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại theo quy định mới nhất

a. Theo quy định tại Điều 18 “Bộ luật hình sự năm 2015” thì tội phạm chưa đạt là trường hợp đã bắt đầu cố ý thực hiện tội phạm, nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người tội phạm. Khác với chuẩn bị phạm tội, thì người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt (bất kỳ tội phạm nào do cố ý). Tuy nhiên, cần chú ý là chỉ khi có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng tội phạm mà người phạm tội không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của họ thuộc khoản nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó, thì mới áp dụng khoản, điều luật tương ứng đó. Trong trường hợp không xác định được tội phạm mà họ thực hiện không đạt thuộc khoản tăng nặng cụ thể nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó, thì áp dụng khoản nhẹ nhất của điều luật tương ứng đó. 

Ví dụ 1: Một người tội phạm có tính chất chuyên nghiệp đang phá khoá để trộm cắp chiếc xe máy Dream II thì bị bắt hoặc một người chưa có tiền án, tiền sự đang trộm cắp tài sản có giá trị 100 triệu đồng thì bị phát hiện. Những người này sẽ bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 “Bộ luật hình sự năm 2015” (điểm c hoặc điểm e).

Ví dụ 2: Một người đã bị xử phạt 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xoá án tích mà lại phá khoá cửa vào nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này theo quy định tại khoản 1 Điều 138 “Bộ luật hình sự năm 2015”, thì hành vi của người này đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng không xác định được thuộc khoản tăng nặng cụ thể nào của Điều 138 “Bộ luật hình sự năm 2015”; do đó, chỉ có căn cứ xét xử họ theo khoản 1 Điều 138 “Bộ luật hình sự năm 2015”.

b- Trong trường hợp xác định được hành vi vi phạm mà người đó thực hiện không đạt vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của họ không có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được hành vi vi phạm mà họ thực hiện không đạt đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay chưa, thì áp dụng khoản 2 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Điều 18 “Bộ luật hình sự năm 2015” tuyên bố bị cáo không phạm tội mà họ đã bị truy tố.

Ví dụ 1: Nguyễn Văn B (chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng đã được xoá án tích) đang lừa đảo người khác để chiếm đoạt tài sản có giá trị 300 nghìn đồng thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này theo quy định tại khoản 1 Điều 139 “Bộ luật hình sự năm 2015”, thì hành vi vi phạm của Nguyễn Văn B không cấu thành tội phạm; do đó, áp dụng khoản 2 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Điều 18 “Bộ luật hình sự năm 2015” tuyên bố Nguyễn Văn B không phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà họ đã bị truy tố.

Ví dụ 2 : Trần C (chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng đã được xoá án tích) phá khoá cửa và nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, những chưa lấy được tài sản gì thì bị phát hiện và bị bắt giữ, Trong trường hợp này theo quy định tại khoản 1 Điều 138 “Bộ luật hình sự năm 2015”, thì không thể xác định được hành vi vi phạm của Trần C đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay chưa (ví không thể xác định được giá trị tài sản bị chiếm đoạt); do đó, áp dụng khoản 2 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Điều 18 “Bộ luật hình sự năm 2015” tuyên bố Trần C không phạm tội “trộm cắp tài sản” mà họ đã bị truy tố.

c- Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, ngoài việc phải áp dụng điểm, khoản, điều luật quy định về tội phạm đó, cần phải áp dụng Điều 18 và các khoản 1 và 3 Điều 52 “Bộ luật hình sự năm 2015”.

Ví dụ: Trần M là tái phạm nguy hiểm đang phá khoá để trộm cắp chiếc xe máy Dream II có giá trị 25 triệu đồng, thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này phải tuyên bố trong bản án là: “Trần M phạm tội trộm cắp tài sản (chưa đạt); áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, Điều 18, các khoản 1 và 3 Điều 52 “Bộ luật hình sự năm 2015″ xử phạt Trần M….”.

Xem thêm: Nam nữ quan hệ với nhau không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không?

– Căn cứ Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội hiếp dâm như sau:

“Điều 141. Tội hiếp dâm

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

…”

Như vậy, đối với trường hợp người có ý định thực hiện hành vi hiếp dâm nhưng nạn nhân đã kịp chạy ra ban công để kêu cứu, người kia chạy theo nạn nhân để bắt lại, nạn nhân vì sợ hãi mà nhảy từ tầng 3 xuống đất và bị thương tật 75%, nếu có đủ căn cứ chứng minh người này thực sự có ý định cố ý thực hiện hành vi hiếp dâm thì áp dụng điểm a Mục 2 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP nêu trên, truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà người đó có ý định phạm tội nhưng phạm tội chưa đạt. Nếu trong trường hợp xác định được hành vi vi phạm mà người đó thực hiện không đạt vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của họ nhưng không có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được hành vi vi phạm mà họ thực hiện không đạt đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay chưa, thì áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên bố bị cáo không phạm tội mà họ đã bị truy tố. 

Tuy nhiên, không thể kết luận người có có thuộc đối tượng phạm tội quy định tại Khoản 3 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 hay không vì việc kết luận người đó có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự về tội hiếp dâm trong trường hợp phạm tội chưa đạt phụ thuộc vào việc điều tra chính xác, cụ thể hành vi của người này do cơ quan công an có thẩm quyền tiến hành.

Phân tích nội dung biện pháp áp dụng hình phạt về tội hiếp dâm

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:19006568

Xem thêm: Quy định của luật hình sự về tội dâm ô đối với trẻ em

Ngoài ra, còn phải xét đến độ tuổi và năng lực hành vi dân sự của nạn nhân. Nếu nạn nhân là người dưới 16 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm về tội hiếp dâm trẻ em như sau:

“Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;

b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.

….”