Nguyên nhân ung thư tuyến tụy

Ung thư tuyến tụy phát sinh từ các tế bào ống tuyến thường gặp nhiều hơn 9 lần so với tế bào nang tuyến; 80% xảy ra ở đầu tụy. Ung thư biểu mô tuyến xuất hiện ở tuổi trung bình 55 và gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới 1,5 đến 2 lần.

  • 1. Siegel RL, Miller KD, Jemal A: Cancer statistics, 2018. CA Cancer J Clin 68(1):7–30, 2018. doi: 10.3322/caac.21442.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Các triệu chứng của ung thư tuyến tụy như đau và sụt cân không đặc hiệu, dẫn đến chẩn đoán muộn khi bệnh đã lan rộng. Vào thời điểm chẩn đoán, 90% bệnh nhân ung thư đã tiến triển tại chỗ, xâm lấn tới các cấu trúc sau phúc mạc, di căn hạch vùng hoặc di căn đến gan và phổi.

Hầu hết các bệnh nhân đều bị đau bụng thượng vị nặng, thường lan ra sau lưng. Bệnh nhân thường sút cân. Ung thư biểu mô tuyến ở đầu tụy gây vàng da tắc mật (có thể gây ngứa) ở 80 đến 90% bệnh nhân. Ung thư ở thân và đuôi có thể gây tắc nghẽn tĩnh mạch lách, dẫn đến lách to, giãn tĩnh mạch dạ dày và thực quản và xuất huyết tiêu hóa.

  • Chụp CT, siêu âm nội soi, hoặc chụp cộng hưởng từ đại trực tràng (MRCP)

  • CA 19-9 để theo dõi (không dùng để sàng lọc)

Các xét nghiệm thường sử dụng là chụp CT bụng đa dãy sử dụng kỹ thuật cho tuyến tụy, MRCP, hoặc siêu âm nội soi. Nếu các xét nghiệm này cho thấy bệnh không thể cắt bỏ hoặc di căn rõ ràng, thì sinh thiết qua da có thể được xem xét để làm chẩn đoán mô bệnh học. Nếu CT cho thấy một khối u có khả năng cắt bỏ hoặc không có khối u, MRCP hoặc siêu âm nội soi có thể được sử dụng để xác định giai đoạn bệnh hoặc phát hiện các khối u nhỏ không thấy được trên CT. Bệnh nhân bị vàng da ứ mật có thể dùng nội soi mật tụy ngược dòng như là thủ thuật chẩn đoán đầu tiên.

Tiên lượng ung thư tụy thay đổi theo giai đoạn bệnh nhưng tổng thể là xấu (tỷ lệ sống sau 5 năm: < 2%), vì nhiều bệnh nhân ở giai đoạn muộn vào thời điểm chẩn đoán.

  • Phẫu thuật Whipple (cắt khối tá tụy)

  • Hóa trị bổ trợ và xạ trị

  • Kiểm soát triệu chứng

Khoảng 80 đến 90% ung thư không thể phẫu thuật cắt bỏ được tại thời điểm chẩn đoán vì di căn hoặc xâm lấn vào các mạch máu lớn. Tùy thuộc vào vị trí của khối u, phẫu thuật lựa chọn để cắt bỏ ung thư thường là phẫu thuật Whipple (cắt khối tá tụy). Hiện nay, hóa trị bổ trợ với gemcitabine là biện pháp cơ bản được khuyến cáo (1 Tài liệu tham khảo về điều trị Ung thư tụy, chủ yếu là ung thư biểu mô tuyến ống, chiếm khoảng 55.440 ca và 43.330 trường hợp tử vong hàng năm ở Hoa Kỳ (1). Các triệu chứng bao gồm gầy sút câ... đọc thêm ) và xạ trị chiếu ngoài ngoài thường được áp dụng, làm tăng thời gian sống thêm 2 năm khoảng 40% và sống thêm 5 năm 25%. Sự kết hợp này cũng được sử dụng cho bệnh nhân có khối u không di căn nhưng không phẫu thuật được và thời gian sống thêm trung bình chỉ khoảng 1 năm. Gemcitabine và các loại thuốc khác có thể có hiệu quả hơn hóa trị liệu phác đồ có 5-Fluoruoracil, nhưng hiện không có thuốc, đơn chất hoặc kết hợp rõ ràng là tốt nhất trong việc kéo dài thời gian sống thêm. Những bệnh nhân bị di căn ở gan hoặc di căn xa có thể được điều trị hoá trị liệu nhưng tiên lượng khá xấu dù có điều trị hay không và một số bệnh nhân có thể chọn không điều trị.

Nếu khối u không thể cắt bỏ được làm tắc nghẽn dạ dày tá tràng hoặc đường mật, một biện pháp phẫu thuật nối thông dạ dày và đường mật thường được thực hiện để làm giảm bớt sự tắc nghẽn. Ở những bệnh nhân có tổn thương không phẫu thuật được và bị vàng da, phương pháp đặt stent đường mật qua nội soi sẽ làm giảm vàng da. Đặt stent tá tràng thường được thực hiện. Tuy nhiên, phẫu thuật nối thông nên được xem xét ở bệnh nhân có tổn thương không thể cắt bỏ được nếu thời gian sống kỳ vòng > 6 đến 7 tháng do các biến chứng liên quan.

  • Thuốc giảm đau, thường là nhóm opioid

  • Đôi khi dùng các thủ thuật để duy trì sự lưu thông đường mật

  • Đôi khi phải bổ sung men tụy

Bệnh nhân đau ở mức độ vừa phải đến đau nặng nên dùng nhóm opioid đường uống với liều đủ để giảm đau. Mối lo về nghiện thuốc không phải là một rào cản để kiểm soát đau. Đối với đau mạn tính, các chế phẩm giảm đau tác động lâu dài (ví dụ, fentanyl qua da, oxycodone, oxymorphone) thường là tốt nhất. Phẫu thuật mổ mở hoặc qua da (ổ bụng) có hiệu quả kiểm soát cơn đau ở một số bệnh nhân. Trong trường hợp đau không thể chịu đựng được, opioid được tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch, truyền ngoài màng cứng hoặc trong màng cứng có thể giúp giảm triệu chứng.

Nếu phẫu thuật giảm đau hoặc đặt stent đường mật qua nội soi không làm giảm ngứa thứ phát do vàng da tắc mật, có thể điều trị bằng cholestyramine (4g uống một lần/ngày đến 4 lần/ngày).

Thiếu enzyme tuỵ ngoại tiết được điều trị bằng các loại enzyme tuỵ chiết xuất từ lợn (pancrelipase). Có một số loại trên thị trường với lượng enzyme trên mỗi viên thay đổi. Liều lượng cần khác nhau tùy thuộc vào triệu chứng của bệnh nhân, lượng mỡ trong phân và hàm lượng chất béo trong chế độ ăn uống. Thông thường, bệnh nhân nên bổ sung đủ enzyme để cung cấp khoảng 25.000 đến 40.000 IU lipase trước bữa ăn thông thường và khoảng 5.000 đến 25.000 IU lipase mỗi bữa ăn nhẹ. Nếu bữa ăn được kéo dài (như ăn trong nhà hàng), một số loại thuốc nên được uống trong bữa ăn. Độ pH tối ưu cho các enzym là 8; do đó, một số bác sĩ lâm sàng cho thuốc ức chế bơm proton hoặc ức chế thụ thể H2 2 lần/ngày. Phải theo dõi và kiểm soát chặt đái tháo đường.

  • 1. Neoptolemos JP, Palmer DH, Ghaneh P, et al: So sánh chất bổ trợ gemcitabine và capecitabine với đơn trị liệu gemcitabine ở bệnh nhân ung thư tuyến tụy đã cắt bỏ (ESPAC-4): Một thử nghiệm pha 3 đa trung tâm, nhãn mở, ngẫu nhiên. Lancet 389(10073):1011–1024, 2017. doi: 10.1016/S0140-6736(16)32409-6.

  • Ung thư tụy đặc biệt nguy hiểm bởi vì nó thường chỉ được chẩn đoán ở giai đoạn muộn.

  • Các yếu tố nguy cơ nổi bật bao gồm hút thuốc lá và tiền sử viêm tụy mãn tính; việc sử dụng rượu không có vẻ là một yếu tố nguy cơ độc lập.

  • Chẩn đoán bao gồm chụp CT, siêu âm nội soi, và/hoặc chụp cộng hưởng từ mật tuỵ (MRCP); nồng độ amylase và lipase thường bình thường và kháng nguyên CA 19-9 không đủ độ nhạy hoặc đặc hiệu để sử dụng cho sàng lọc trong quần thể.

  • Khoảng 80 đến 90% ung thư không thể phẫu thuật cắt bỏ được tại thời điểm chẩn đoán vì di căn hoặc xâm lấn vào các mạch máu lớn.

  • Thực hiện phẫu thuật Whipple khi có thể và nên hóa trị, xạ trị bổ trợ.

  • Kiểm soát các triệu chứng bằng thuốc giảm đau phù hợp, phẫu thuật nối tắt dạ dày và/hoặc đường mật để giảm các triệu chứng tắc nghẽn và có thể bổ sung men tụy.

Ung thư biểu mô tuyến nang là một loại ung thư biểu mô tuyến hiếm gặp ở tụy, xuất hiện như sự thoái hóa ác tính của các tế bào biểu mô tuyến nang nhầy và biểu hiện với các cơn đau bụng phía trên và sờ thấy khối vùng bụng.

Chẩn đoán ung ung thư biểu mô tuyến nang tụy nhờ chụp CT hoặc MRI ổ bụng với hình ảnh điển hình là các nang có vách, khối vùng bụng có thể được chẩn đóan nhầm là ung thư biểu mô tuyến của tụy hay nang giả tụy.

Không giống như ung thư biểu mô tuyến ống tụy, ung thư biểu mô tuyến nang của tụy có tiên lượng tương đối tốt. Chỉ 20% bệnh nhân đã có di căn khi được phẫu thuật, phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tổn thưởng mở rộng hay toàn bộ tuyến tụy hoặc phẫu thuật Whipple (cắt khối tá tụy) cho tỷ lệ sống 65 năm lên tới 5%.

U nhày nhú nội ống của tụy là khối u hình thành do sự tăng tiết nhày và tắc nghẽn ống tụy. Mô bệnh học có thể lành tính, giáp biên hoặc ác tính. Hầu hết (80%) khối u loại này gặp ở nữ và ở đuôi tụy (66%).

Chẩn đoán u nhú nội ống được thực hiện bởi CT hoặc MRI.

Phẫu thuật được chỉ định ở bệnh nhân u nhày nhú nội ống tụy loạn sản độ cao tiến triển thành ung thư biểu mô tụy xâm nhập hoặc ở bệnh nhân có nhiều yếu tố gợi ý nguy cơ cao bệnh tiến triển thành ung thư. Khi được phẫu thuật, tỷ lệ sống 5 năm của bệnh nhân là > 95% đối với các trường hợp lành tính hoặc u giáp biên, nhưng chỉ 50 đến 75% với các u ác tính.