Nguyên nhân dẫn đến con đường mại dâm

Successfully reported this slideshow.

Your SlideShare is downloading. ×

Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net

Download luận văn thạc sĩ ngành tội phạm học với đề tài: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh, cho các bạn làm luận văn tham khảo

Nguyên nhân dẫn đến con đường mại dâm

Liên Hệ Zalo 0909232620 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: TRANGLUANVAN.COM

Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net

Download luận văn thạc sĩ ngành tội phạm học với đề tài: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh, cho các bạn làm luận văn tham khảo

More Related Content

Nguyên nhân dẫn đến con đường mại dâm
Nguyên nhân dẫn đến con đường mại dâm

  1. 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THANH KHÁNH NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI VỀ MẠI DÂM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HÀ NỘI, năm 2018
  2. 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THANH KHÁNH NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI VỀ MẠI DÂM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60 38 01 05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA HÀ NỘI, năm 2018
  3. 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu, trích dẫn được sử dụng trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực, có dẫn chiếu, tham chiếu đầy đủ nguồn theo quy định của một công trình khoa học. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung công trình nghiên cứu của mình./. Tác giả luận văn TRẦN THANH KHÁNH
  4. 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI VỀ MẠI DÂM..............................................7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm....................................................................................7 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm..........12 1.3. Cơ chế tác động của nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội về mại dâm ...............................................................................................................................15 1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm với tình hình các tội về mại dâm, với nhân thân người phạm tội và với phòng ngừa các tội phạm này ...........................................................................................17 Tiểu kết Chương 1...................................................................................................19 Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI VỀ MẠI DÂM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017......................................21 2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm..................................................................................................................21 2.2. Thực trạng những nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.....................................................25 Tiểu kết Chương 2...................................................................................................49 Chương 3: NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI VỀ MẠI DÂM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA CÁC TỘI PHẠM NÀY ............51 3.1. Dự báo tình hình tội về mại dâm trên cơ sở nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh...................................51 3.2. Tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm trong phòng ngừa các tội phạm về mại dâm...........................................58
  5. 5. 3.3. Một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm về mại dâm trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm về mại dâm ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................60 Tiểu kết Chương 3...................................................................................................76 KẾT LUẬN..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. 6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : TAND : THTP : TP.HCM : VKSND : Bộ luật hình sự Tòa án nhân dân Tình hình tội phạm Thành phố Hồ Chí Minh Viện kiểm sát nhân dân
  7. 7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Cơ cấu tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian từ năm 2013 dến năm 2017 xét theo trình độc học vấn của người phạm tội Bảng 2.2. Cơ cấu tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian từ năm 2013 dến năm 2017 xét theo độ tuổi của người phạm tội Bảng 2.3. Cơ cấu tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian từ năm 2013 dến năm 2017 xét theo nghề nghiệp của người phạm tội Bảng 2.4. Cơ cấu tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian từ năm 2013 dến năm 2017 xét theo giới tính của người phạm tội Bảng 3.1. Thống kê số tội phạm và người phạm tội trên địa bàn TP.HCM trong thời gian từ năm 2013 dến năm 2017 Bảng 3.2. Tỷ lệ các tội về mại dâm trên tổng số tội phạm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian từ năm 2013 dến năm 2017 Bảng 3.3.1. Thống kê số tội phạm và người phạm tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian từ năm 2013 dến năm 2017 Biểu 3.3.2. Cơ cấu tình hình các tội phạm về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian 2013-2017 Biểu 3.3.3. Thực trạng số lượng tội phạm về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian 2013-2017 Biểu 3.3.4. Thực trạng người phạm tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian 2013-2017 Biểu 3.4. Diễn biến tình hình các tội phạm về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian 2013-2017 Bảng 3.5. Thống kê số người có hộ khẩu tại TP.HCM phạm tội về mại dâm trong thời gian 2013-2017 Bảng 3.6.1. Thực trạng xét xử tội phạm và người phạm tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian 2013-2017 Biểu 3.6.2. Tỷ lệ số tội phạm và người phạm tội bị đưa ra xét xử trên tổng số tội phạm và người phạm tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM trong thời gian 2013- 2017
  8. 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay là một thành phố lớn với diện tích khoảng 2.095,06 km², bao gồm 24 quận, huyện và khoảng 13 triệu dân. Những bước phát triển vượt bậc của Thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều năm qua đã tạo nên sức hút mạnh mẽ về nguồn lao động, kinh tế, văn hóa, giáo dục… với người dân trong nước và các quốc qia khác trên thế giới. Điều kiện này đã mang đến cho Thành phố những giá trị tích cực cả về vật chất và tinh thần nhưng đồng thời cũng kéo theo sự phát triển của các tệ nạn xã hội trong đó có mại dâm. Hậu quả của tệ nạn này là rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều mặt của đời sống văn hóa, xã hội, làm băng hoại truyền thống đạo đức, phá hoại hạnh phúc nhiều gia đình, gây bất ổn về an ninh trật tự công cộng. Tệ nạn mại dâm đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm ở Thành phố Hồ Chí Minh , đặc biệt là các tội về mại dâm. Trong 5 năm qua, từ năm 2013 đến năm 2017, tình hình tội phạm về mại dâm ở Thành phố Hồ Chí Minh diễn biến rất phức tạp. Nhìn chung số tội phạm và người phạm các tội về mại dâm giảm theo từng năm, tuy nhiên thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi hơn, có sự mở rộng về quy mô và các phương thức hoạt động... Điều này cho thấy mặc dù công tác phòng chống tội phạm về mại dâm trên địa bàn Thành phố đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn rất cần những giải pháp phù hợp để kiểm soát, kéo giảm triệt để hơn nữa các tội phạm này. Để làm được điều đó, tác giả cho rằng cần đánh giá đúng thực trạng, diễn biến tình hình các tội phạm về mại dâm và đặc biệt là xác định, phân tích các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tình hình đó, làm cơ sở cho việc đưa ra dự báo, đề xuất các giải pháp phòng chống các tội phạm về mại dâm nói riêng và tội phạm nói chung phù hợp với điều kiện đặc thù của Thành phố trong tương lai. Vì vậy, cần xem xét về các đặc điểm đặc thù cũng như hậu quả cùa tác hại do nhóm tội phạm về mại dâm gây ra, tác động đến tình hình kinh tế - xã hội của
  9. 9. 2 Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như cả nước nói chung. Thông qua đó tạo tiền đề cho việc nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nghiên cứu này, sẽ làm rõ để có các giải pháp dự báo và phòng ngừa trong tương lai đạt hiệu quả tốt nhất. Do đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu luận văn Thạc sĩ Luật học; ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm; Mã số: 60.38.01.05. 2. Công tác nghiên cứu liên quan đến đề tài Các tài liệu nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học Thực hiện đề tài Luận văn này, tác giả đã nghiên cứu, tham khảo các công trình khoa học sau đây: - “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh, Nxb. Công an nhân dân, năm 2007; - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân dân, tái bản năm 2011, 2013; - Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tái bản năm 2004, 2012; - “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân ấn hành năm 2013. Tình hình nghiên cứu cụ thể Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài, tác giả đã tham khảo các công trình khoa học sau đây: - Nguyễn Quốc Tuân (2017), “Các tội mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội; - Hà Thúy Yến (2008), “Đấu tranh phòng, chống tội phạm chứa mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
  10. 10. 3 - Bùi Thanh Trung (2005), “Công tác phòng ngừa và điều tra khám phá tội phạm về mại dâm của lực lượng CSĐT tội phạm về TTXHCônganthành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân; - Nguyễn Đình Trần (2006), “Tội phạm mại dâm và đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về mại dâm trên địa bàn tỉnh Tây Ninh”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu một số các báo cáo của cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Sở Lao động thương binh và xã hội Thành phố Hồ Chí Minh và một số cơ quan khác đề cập đến vấn đề nghiên cứu.Các công trình, tài liệu nêu trên với góc độ tiếp cận và mục tiêu khác nhau đã có những đóng góp trong việc hoàn thiện lý luận và đề ra các giải pháp thực tiễn trong Luận văn này. Nội dung của các công trình, tài liệu này là nguồn để Luận văn kế thừa thông tin, đối chứng số liệu. Đồng thời, Luận văn vẫn đảm bảo tính sáng tạo về ý tưởng nghiên cứu do có sự khác nhau với các công trình, tài liệu trên về nhiều yếu tố như: cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu; thời gian; địa bàn; chất liệu nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài này hướng đến mục đích phòng ngừa các tội phạm về mại dâm trên cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017, tạo tiền đề đưa ra dự báo và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội phạm này trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu Nhằm phục vụ đạt kết quả tốt nhất, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: Thứ nhất là nghiên cứu lý luận và pháp luật. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu tài liệu về tội phạm học, về pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài, làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất về đối tượng cần nghiên cứu;
  11. 11. 4 Thứ hai là nghiên cứu thực tế, bao gồm ba hoạt động sau: - Phân tích số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ năm 2013 đến năm 2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ; - Phân tích các bản án xét xử sơ thẩm hình sự về các tội phạm mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2017; - Phân tích các báo cáo tổng kết năm của các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh về tệ nạn và tội phạm về mại dâm; Thứ ba là nghiên cứu sáng tạo, bao gồm các việc cụ thể sau: - Khái quát hóa những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm về mại dâm; - Áp dụng lý luận chung đó vào việc làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013-2017; - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị phòng ngừa các tội phạm về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở thực trạng đã được xác định về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm đó trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh . 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh . Phạm vi nghiên cứu Tội phạm học là góc độ nghiên cứu của tác giả khi thực hiện Luận văn; Tội danh khi nghiên cứu được Luận văn đề cập các tội phạm được quy định từ Điều 254 đến Điều 256 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và cập nhật từ Điều 327 đến Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
  12. 12. 5 Đồng thời, Luận văn sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh , bao gồm số liệu thống kê của các cơ quan chức năng, trong đó có các cơ quan tư pháp hình sự cấp tỉnh, cấp huyện, đặc biệt là của Tòa án nhân dân với hơn 200 bản án hình sự sơ thẩm; Tác giả giới hạn thời gian đề tài nghiên cứu bắt đầu từ năm 2013 và kết thúc năm 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lô-gic, nghiên cứu từng hồ sơ vụ án, tình huống để áp dụng vào giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ luận văn nhằm làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm; - Phương pháp thống kê được sử dụng trong thống kê số liệu của Luận văn nhằm khái quát tình hình của các tội về mại dâm trong phạm vi nghiên cứu; - Phương pháp so sánh được sử dụng trong toàn bộ luận văn. Đối chiếu những nguyên nhân và điều kiện nào là quan trọng cần phải ngăn chặn, từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa phù hợp, hiệu quả; - Phương pháp logic được trong toàn bộ luận văn, thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa các phần, các nội dung của luận văn, thể hiện sự đầu tư nghiên cứu, sáng tạo của Luận văn; - Phương pháp nghiên cứu từng hồ sơ vụ án, tình huống điển hình nhằm làm rõ thực trạng thực trạng tình hình và những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội các tội về mại dâm.
  13. 13. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận tội phạm học về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung và của các tội phạm về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Ý nghĩa thực tiễn Trên thành quả nghiên cứu của Luận nhằm giúp cho mọi người nhận thức đúng và đầy đủ về nguyên nhân và điều kiện của các nhóm tội mà mại dâm. Từ đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng và hệ thống các cơ quan Nhà nước nói chung rút kinh nghiệm và đề ra những phương pháp tối ưu nhất trong công tác phòng, chống loại tội phạm trên. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được trình bày như sau: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm. - Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Chương 3: Nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động phòng ngừa các tội phạm này.
  14. 14. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI VỀ MẠI DÂM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm 1.1.1. Khái niệm chung về các tội về mại dâm Với tư tưởng, tội phạm học Việt nam cũng như các khoa học pháp lý hình sự khác, không có lý luận riêng về quan hệ nhân - quả, mà chỉ cụ thể hóa nội dung cặp phạm trù nhân - quả của triết học Mác- xít vào lĩnh vực nghiên cứu của mình và theo đó những khái niệm của cặp phạm trù này được hiểu và vận dụng trong tội phạm học. Các hiện tượng là nguyên nhân, trong những điều kiện nhất định sẽ làm phát sinh ra kết quả. Nguyên nhân có khả năng làm phát sinh kết quả nhưng điều kiện lại là chất xúc tác, thúc đẩy kết quả xảy ra nhanh hơn, thuận lợi hơn. Nguyên nhân và điều kiện không phải là một hiện tượng xã hội bất biến mà chúng luôn vận động, thay đổi và có thể chuyển hóa cho nhau. Xét dưới góc độ tội phạm học kết quả của mối quan hệ nhân quả này chính là tình hình tội phạm. Quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh rằng: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình” [40, tr. 81] là hoàn toàn chính xác và được tác giả nhất trí là quan điểm chủ đạo xuyên suốt của việc nghiên cứu Luận văn. Nguyên nhân và điều kiện xuất hiện và tồn tại trong xã hội có nguồn gốc và bản chất mang tính xã hội. Với tính cách là những hiện tượng xã hội tiêu cực nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội trong tất cả lĩnh vực của đời sống con người. Chúng có mối quan hệ tương hỗ qua lại với nhau sinh ra THTP. Đến lượt mình, THTP cũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực tham gia vào quá trình tương tác qua lại đó nên tái sản xuất ra THTP như là một kết quả tất yếu bởi một hiện tượng nào
  15. 15. 8 đó trong mối liên hệ này là nguyên nhân thì trong mối liên hệ khác là kết quả, và ngược lại. Điều kiện của THTP không sinh ra THTP mà nó chỉ là chất xúc tác có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy THTP cũng giống như nguyên nhân đó là những hiện tượng xã hội tiêu cực Từ những lý luận trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm cụ thể như sau:Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội về mại dâm là những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực mà trong sự tương tác lẫn nhau ở hai cấp độ làm phát sinh tình hình của các tội phạm về mại dâm đă xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian xác định. Nguyên nhân và điều kiện là hai phạm trù khác nhau nên chúng có vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả là tình hình các tội phạm về mại dâm. Thực tế nếu thiếu những hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi thì nguyên nhân tự bản thân không thể làm phát sinh được kết quả. Tương tự, điều kiện tự nó cũng không thể làm phát sinh kết quả là tình hình các tội về mại dâm. Mối quan hệ tương hỗ giữa nguyên nhân và điều kiện chính là kết quả của nó. Phải có đồng thời cả hai nhân tố là nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm thì mới làm phát sinh tình hình các tội về mại dâm. Chính vì thế việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm luôn đòi hỏi phải loại trừ cả nguyên nhân và điều kiện. Để nhận thức sâu sắc hơn về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội về mại dâm, chúng ta cũng phải xác định tình hình các tội phạm về mại dâm là gì thông qua việc làm rõ hai khái niệm sau đây: Một là, khái niệm các tội phạm về mại dâm; Hai là khái niệm tình hình tội phạm. Dưới đây tác giả phân tích một số nội dung để làm rõ hai khái niệm này: Mại dâm là một trong những tệ nạn xã hội, biểu hiện bởi các hành vi sai lệch với chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu về mọi mặt đối với đời sống xã hội. Mại dâm là hành vi nhằm thực hiện các dịch vụ chỉ có liên quan đến quan hệ tình dục có tính chất mua bán trên cơ sở một giá trị vật chất nhất định theo quan điểm của một số nhà tâm lý học nhận xét.
  16. 16. 9 Mại dâm là một dịch vụ kinh doanh nhằm cung cấp sự thỏa mãn tình dục cho cá nhân trong những trường hợp nhất định có tác dụng như thuốc kích thích đối với một số người nhất định đồng thời cung cấp và đáp ứng như cầu tình dục cho những người không cần sự gắn bó về tình cảm theo quan điểm một số nhà xã hội học nhận xét. Tóm lại, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát rằng: Mại dâm là hành vi có sự quan hệ trao đổi tình dục ngoài hôn nhân, trong đó thể hiện sự thỏa thuận về mặt vật chất hoặc tinh thần (hối lộ tình dục đang pháp triển mạnh và là loại tội phạm mới trong xã hội hiện nay) . Vậy tội phạm về mại dâm là gì? Để nhận thức đúng đắn về vấn đề này, chúng ta cần dựa trên khái niệm pháp lý về “tội phạm”, cụ thể như sau: Tội phạm, theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Căn cứ vào quy định trên ta thấy, tội phạm nói chung bao gồm các dấu hiệu sau: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; Được quy định trong Bộ luật hình sự; Do người có đủ điều kiện chủ thể thực hiện; Có lỗi cố ý hoặc vô ý; Xâm phạm những lĩnh vực khác … Như vậy, nếu một hành vi không thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu trên thì không được xem là tội phạm. Từ khái niệm pháp lý về tội phạm và nhận thức chung về mại dâm và nạn mại dâm nêu trên, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát về các tội về mại dâm như sau: Các tội về mại dâm là những hành vi về mại dâm, có tính nguy hiểm cho
  17. 17. 10 xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến các khách thể được luật hình sự bảo vệ. Theo đó, các hành vi là tội phạm về mại dâm được quy định cụ thể tại các Điều 254, 255 và 256 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (từ ngày 01/01/2018, quy định tại các Điều 327, 328 và 329 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đó là các tội phạm cụ thể sau: tội Chứa mại dâm, tội Môi giới mại dâm và tội Mua dâm người dưới 18 tuổi. “THTP là hiện tượng xã hội tiêu cực mang thuộc tính xã hội, thường xuyên thay đổi, giai cấp, pháp luật hình sự và được phản ánh bằng toàn bộ tình hình, cơ cấu, diễn biến của tổng thể các loại hoặc một loại tội phạm đã xảy ra trong một khoảng thời gian nhất định và trong một phạm vi nhất định”[40, tr.99]. Đây chính là khái niệm được áp dụng phổ biến khi nghiên cứu về tội phạm học biến ở Việt Nam, theo nhận định của GS. TS. Võ Khánh Vinh. Từ khái niệm về THTP như trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm tình hình các tội về mại dâm như sau: Tình hình các tội về mại dâm là hiện tượng xã hội tiêu cực mang thuộc tính xã hội, thường xuyên thay đổi, giai cấp, pháp luật hình sự và được phản ánh bằng toàn bộ tình hình, cơ cấu, diễn biến của tổng thể các tội phạm Chứa mại dâm, Môi giới mại dâm và Mua dâm người dưới 18 tuổi đă xảy ra trong một khoảng thời gian nhất định và trong một phạm vi nhất định. Khái niệm trên đây về tình hình các tội về mại dâm là cơ sở cho việc nhận thức đúng đắn hơn về khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm dựa trên mối quan hệ nhân – quả của chúng. Trong mối quan hệ đó, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm đóng vai trò là “nhân”, còn tình hình các tội về mại dâm giữ vai trò là “quả”. Tóm lại, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về mại dâm là những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực mà trong sự tương tác lẫn nhau ở hai cấp độ làm phát sinh tình hình của các tội phạm Chứa mại dâm, Môi giới mại dâm
  18. 18. 11 và Mua dâm người dưới 18 tuổi đă xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian xác định. Việc làm rõ khái niệm trên đây giúp chúng ta nhận thức được ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm về mại dâm. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm Trên cơ sở nghiên cứu lý luận này, vận dụng vào tình hình thực tiễn ở địa phương để đưa ra các biện pháp phòng ngừa các tội về mại dâm, trong đó chủ yếu là tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình các tội về mại dâm để có các giải pháp tương ứng, thích hợp đạt kết cảo cao nhất. Vì vậy, phòng ngừa các tội về mại dâm không thể tách rời việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm và phòng ngừa các tội về mại dâm chỉ đạt hiệu quả khi nó sử dụng những thành tựu nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm. Do đó, có thể khẳng định rằng việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm là vấn đề vô cùng quan trọng, là tiền đề để xây dựng các giải pháp phòng chống các tội về mại dâm trong xã hội. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm còn tạo cơ sở để hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, xã hội một cách phù hợp, giảm thiểu các nguyên nhân làm phát sinh tình hình các tội về mại dâm nói riêng và tội phạm nói chung. Việc soạn thảo, ban hành các chính sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như về lâu dài rất cần thiết phải nắm bắt kịp thời những nhân tố xã hội có khả năng làm phát sinh tội phạm, để có các giải pháp tương ứng, thích hợp đạt kết cảo cao nhất cũng như kéo giảm tình hình tội phạm xuống đến mức thấp nhất. Điều này cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát được tình hình tội phạm trong xã hội, duy trì sự phát triển kinh tế - xã hội một các bền vững. Ngoài ra, việc nghiên cứu này còn giúp chúng ta dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới, cung cấp những thông tin hữu ích, tạo cơ sở cho việc hoạch định chính sách về pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng.
  19. 19. 12 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau để xây dựng hệ thống nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, vì đây là vấn đề rất đa dạng và luôn biến động theo sự vận động của thực tiễn. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh thì: “Trong tội phạm học, tùy thuộc vào nhiệm vụ của việc nghiên cứu người ta sử dụng việc phân chia các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm theo các cách khác nhau” [40, tr.93]. Như vậy, việc phân loại các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm không phải tuân theo những căn cứ cụ thể nhất định. Người nghiên cứu có thể đưa ra những tiêu chí, căn cứ khác nhau để phân loại các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm để đạt được kết quả nghiên cứu cao nhất. Qua nghiên cứu, tác giả rất tâm đắc với những căn cứ phân loại nguyên nhân và tình hình tội phạm được nêu trong giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học luật Hà Nội năm 2003 như: căn cứ vào cơ chế tác động; mức độ tác động; nội dung tác động và các dấu hiệu khách quan, chủ quan. Việc nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm theo các cách phân loại này giúp chúng ta tiếp cận được vấn đề nghiên cứu một cách bao quát, đầy đủ, và sâu sắc nhất dựa trên những góc độ, phạm vi khác nhau của mối quan hệ giữa nguyên nhân, điều kiện với tình hình tội phạm. Dựa trên những căn cứ phân loại nêu trên, nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội về mại dâm có thể được phân chia thành các nhóm như sau: - Căn cứ vào cơ chế tác động Căn cứ vào cơ chế tác động các ảnh hưởng và quá trình xã hội lên tình hình tội phạm về mại dâm được phân chia thành nguyên nhân và điều kiện. Nguyên nhân tình hình các tội về mại dâm là những tác động làm nảy sinh và tồn tại tình hình tội phạm về mại dâm do ảnh hưởng quá trình xã hội trực tiếp tạo ra kết quả mang tính quy luật. Chẳng hạn thói lười lao động, thích hưởng thụ của cá nhân được coi là những nguyên nhân cần xem xét khi nghiên cứu nguyên nhân của tình hình tội phạm về mại dâm.
  20. 20. 13 Điều kiện tình hình các tội về mại dâm tuy không làm nảy sinh mà chỉ tạo điều kiệnđể các nguyên nhân của tình hình tội phạm được vận động một cách nhanh chóng thuận lợi do những ảnh hưởng quá trình xã hội tác động hình thành. Xét về mặt lý luận, nguyên nhân tội phạm về mại dâm có mối quan hệ hết sức chặt chẽ điều kiện của tình hình tội phạm về mại dâm. Xét về bản chất, việc thực hiện tội phạm không phải do điều kiện phát sinh. Nhưng nguyên nhân cũng không thể thể hiện được bản chất của mình - không thể làm nảy sinh tội phạm về mại dâm nếu không có các điều kiện thuận lợi tác động đến một cách cụ thể. Nguyên nhân và điều kiện luôn luôn tồn tại độc lập và đứng bên cạnh nhau như những tiền đề không thể thiếu được của các tội phạm về mại dâm. - Căn cứ vào mức độ tác động Căn cứ vào mức độ tác động làm phát sinh tình hình các tội về mại dâm của nguyên nhân và điều kiện như sau: + Nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm nói chung; + Nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình nhóm các tội về mại dâm; + Nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình từng tội phạm cụ thể về mại dâm như: Nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội Chứa mại dâm; Nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội Môi giới mại dâm; Nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình từng tội phạm Mua dâm người dưới 18 tuổi. Các loại nguyên nhân và điều kiện nói trên được phân chia giúp cho việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các loại tội về mại dâm đạt được kết quả tốt nhất trong thực tiễn phòng chống tội phạm. Đồng thời, qua công tác này này còn giúp chúng ta lập kế hoạch, giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về mại dâm một cách có kết quả. Thí dụ nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về mại dâm nói chung, chúng ta nhất thiết phải chú ý đến các yếu tố cơ bản của nguyên nhân và điều kiện về kinh tế, xã hội như sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan chức năng trong lĩnh vực kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn, tình trạng thất
  21. 21. 14 nghiệp, thói quen thích hưởng thụ, lười lao động… Mặt khác khi nghiên cứu nguyên nhân và điều kìện của từng tội pham cụ thể, chúng ta lại phải chú ý đến các sự kiện có tính đặc thù. Thí dụ tâm lý trụy lạc của các chủ thể dẫn đến hành vi phạm tội Mua dâm người dưới 18 tuổi. - Căn cứ vào nội dung tác động Căn cứ vào nội dung tác động, các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm về mại dâm được chia thành: + Nguyên nhân và điều kiện kinh tế - xã hội Đây là những nhân tố thuộc về lĩnh vực kinh tế - xã hội có thể tác động làm phát sinh các tội về mại dâm như là thất nghiệp, đói nghèo, quá trình đô thị và công nghiệp hóa… + Nguyên nhân và điều kiện giáo dục - văn hóa Đây là những nhân tố thuộc về văn hóa - giáo dục có thể tác động ảnh hưởng làm phát sinh các tội về mại dâm. Đó là những yếu tố tiêu cực, hạn chế tác động trong thời gian quản lý và hoạch chương trình về giáo dục nói chung. Ví dụ như nhà trường chưa phối hợp tốt với phụ huynh học sinh trong việc quản lý việc học hành dẫn đến nhiều học sinh bỏ học hoặc không làm bài tập; hay chưa quan tâm đến việc đưa ra chương trình cụ thể về tuổi dậy thì (như giáo dục giới tính); còn tư tưởng xem trọng giáo dục học (văn hóa) hơn là hành (đạo đức) cho các em… Điều này sẽ dẫn đến lối sống, tư tưởng sai lầm của một con người. + Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức - quản lý Thuộc hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý trong những lĩnh vực khác nhau nhưng có nhiều thiếu sót, bất cập. Có thể nhìn thấy nguyên nhân này nhiều trong xã hội như: không có năng lực quản lý, không làm tròn trách nhiệm, thiếu hợp tác trong công tác phối hợp khi thực hiện nhiệm vụ … + Nguyên nhân và điều kiện về chính sách - pháp luật Đây là những yếu kém, thiếu sót trong việc hoạch định, thực hiện chính sách - pháp luật có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh các tội về mại dâm. - Căn cứ vào các dấu hiệu khách quan, chủ quan
  22. 22. 15 Căn cứ vào bản chất của nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình các tội về mại dâm, có thể nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm này thành hai nhóm: + Nguyên nhân và điều kiện khách quan là những hoàn cảnh không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của con người phạm tội nhưng lại là cơ sở cho người phạm tội về mại dâm thực hiện hành vi của mình. + Nguyên nhân và điều kiện chủ quan là những tác nhân xuất hiện và tác động vào ý thức của con người phạm tội, từ những yếu tố này làm phát sinh hoặc thúc đẩy tình hình tội về mại dâm. 1.3. Cơ chế tác động của nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội về mại dâm Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tác động đến tình hình các tội về mại dâm thông qua hai cơ chế cụ thể sau: Thứ nhất, cơ chế hình thành đặc điểm nhân cách tiêu cực ở cá nhân Nhân cách cá nhân vốn bị tác động, ảnh hưởng bởi những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực trong sự tác động lẫn nhau và tác động với cá nhân đó. Dưới góc độ nghiên cứu, người ta thường xác định đây là người có tiềm năng phạm tội cao hoặc là người có nhận thức hay hành vi không đúng chuẩn mực trong cuộc sống. Thứ hai, cơ chế hành vi phạm tội Đó là sự phản ánh mối tương hỗ giữa một bên là người có hành vi không đúng chuẩn mực với tình huống phạm tội tồn tại bên ngoài cá thể đó. Trong cơ chế này có những đặc điểm như sau: - Quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm Bao gồm các nhu cầu cá nhân, các ý định, dự định, kế hoạch và lợi ích trong đó sự tác động lẫn nhau với hệ thống các định hướng giá trị của cá nhân sinh ra các động cơ của hành vi phạm tội. - Việc hoạch định các hoạt động phạm tội
  23. 23. 16 Đây là kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội được sự cụ thể hóa tính động cơ tác động vào. Trong trường hợp này, chủ thể lập kế hoạch cụ thể để thực hiện hành vi phạm tội của mình. - Thực hiện hành vi tội phạm một cách trực tiếp: Thực hiện hành vi phạm tội, sự biến dạng do những ảnh hưởng của những nhân tố tiêu cực trong môi trường của hoạt động sống, của xã hội trong quan điểm của cá nhân được hình thành. Tình hình các tội về mại dâm là hiện tượng có tính chất cá nhân và xã hội. Cần nghiên cứu sự tác động từ nguyên nhân và điều kiện từ môi trường sống dẫn đến sự hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân người phạm tội và nghiên cứu cả tình huống cụ thể bởi vì trong nhiều tình huống đóng vai trò như là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm khi tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ phía xã hội và nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội. Đó là do tính độc lập của mỗi cá nhân trong môi trường là khác nhau, tức là mặc dù các cá nhân chịu sự tác động lớn từ môi trường sống, nhưng sự tiếp thu, chịu sự tác động từ môi trường sống đến cá nhân như thế nào lại là do từng cá nhân đó quyết định. Chủ thể đó, còn có thể chủ động tiếp nhận và tác động trở lại đến môi trường, thậm chí là thay đổi môi trường mà mình đang sống ở mức độ nào đó, bởi vì, mỗi con người là một thực thể của xã hội, và mỗi cá nhân sống trong môi trường đó, không phải chỉ thụ động chịu sự tác động một phía từ môi trường mà cá nhân đó đang sống đến bản thân mình. Chính vì vậy, tuy cùng sống trong môi trường xấu, nhưng có cá nhân dễ dàng chịu sự tác động của môi trường xấu, tiêm nhiễm những thói hư, tật xấu ngoài xã hội, nhưng ngược lại, cũng có những cá nhân bản lĩnh vững vàng trước mọi cám dỗ tiêu cực của đời sống hoặc cũng do cá nhân chịu sự tác động của môi trường sống một cách hạn chế. Đây cũng là câu trả lời có những người phạm tội và những người khác không phạm tội chung sống cùng nhau. Tóm lại, phải nghiên cứu không bỏ sót tất cả các hiện tượng và quá trình xã hội tiêu cực xuất phát từ phía người phạm tội bắt nguồn từ phía xã hội và nguyên
  24. 24. 17 nhân, điều kiện, các hiện tượng và quá trình xã hội tiêu cực đó cùng sự tác động qua lại giữa khi nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội về mại dâm. 1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm với tình hình các tội về mại dâm, với nhân thân người phạm tội và với phòng ngừa các tội phạm này - Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm với tình hình các tội về mại dâm Mối quan hệ biện chứng với nhau theo cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của triết học Mác – Lênin chính là quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm. Sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm – sinh lý tiêu cực thuộc cá nhân con người trong những điều kiện nhất định làm phát sinh tình hình các tội về mại dâm chính là nguyên nhân của tình hình các tội về mại dâm. Còn tình hình các tội về mại dâm chính là tổng thể các hành vi trong tình hình các tội về mại dâm, là một bức tranh tổng thể về tình hình các tội về mại dâm trong một đơn vị thời gian và không gian nhất định, là kết quả của nguyên nhân và điều kiện tình hình các tội về mại dâm. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Vì vậy, chủ thể phòng ngừa tình hình tình hình các tội về mại dâm cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan ... Mặt khác, có biện pháp thích hợp nhằm hạn chế các nguyên nhân sinh ra kết quả, tức là hạn chế nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm nhằm hạn chế, giảm đến mức thấp nhất tình hình các tội về mại dâm. Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện cần phải dựa vào tình hình tội phạm đã xảy ra trong khoảng thời gian, không gian nhất định, đó là cơ sở thực tế để xác định những nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung và tình hình các tội về mại dâm nói riêng.
  25. 25. 18 - Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm với nhân thân người phạm tội Nhân thân người phạm tội được hiểu là những đặc điểm thuộc về chủ quan người phạm tội, trong nhiều trường hợp đóng vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Những ảnh hưởng, tác động của các yếu tố sinh học và xã hội trong bản thân người phạm tội cũng như những hoàn cảnh xã hội bên ngoài dẫn đến việc hình thành nhân cách sai lệch, những phẩm chất đạo đức cá nhân tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh hành vi phạm tội là việc nghiên cứu làm rõ đặc điểm nhân thân người phạm tội sẽ giúp chúng ta thấy rõ điều này. Ví dụ như việc nghiên cứu nhân thân sẽ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội như thế nào (lần đầu hay tái phạm, có tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ) cũng như cho phép biết được động cơ - mục đích của việc thực hiện hành vi phạm tội, biết được tiền án - tiền sự của cá nhân đó, biết được độ tuổi - trình độ học vấn - dân tộc - hoàn cảnh gia đình - thành phần - địa vị xã hội. Từ các thông tin trên, chúng ta có thể làm rõ mức độ, diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm. Dựa trên mối quan hệ giữa tình hình tội phạm với nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, chúng ta có thể xác định, đánh giá chính xác về nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tình hình đó để có thể đề ra biện pháp phòng ngừa và dự đoán được xu hướng của các tội phạm về mại dâm trong tương lai. - Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm với phòng ngừa các tội phạm này Việc nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội về mại dâm cho phép biết được đâu là nguyên nhân cơ bản, chủ yếu và biết được đâu là nơi dễ phát sinh tình hình tội phạm để từ đó tập trung về lực lượng và phương tiện trong địa phương, xã hội để tổ chức thực hiện các biện pháp cơ bản, chủ yếu nhằm phòng ngừa hiệu quả tình hình tội về mại dâm. Như vậy muốn phòng ngừa được các tội về mại dâm, không cho nó phát sinh trong đời sống xã hội thì chúng ta phải loại trừ được các yếu tố làm phát sinh tội phạm và các yếu tố là chất xúc tác thúc đẩy tội phạm được thực hiện, điều này có nghĩa rằng việc xây dựng và tổ chức thực hiện
  26. 26. 19 các biện pháp phòng ngừa các tội về mại dâm phải dựa trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện THTP. Nếu xem rằng trên cơ sở xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các tội về mại dâm, nhất là những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội về mại dâm. Hoạt động phòng ngừa tội phạm là hình thức được tiến hành bằng việc sử dụng thống nhất các giải pháp của Nhà nước và xã hội hướng đến mục tiêu hạn chế nguyên nhân điều kiện tội phạm và ngăn chặn các hành vi phạm tội có thể xảy ra. Tiểu kết Chương 1 Tại Chương này, tác giả đã trình bày những lý luận chung của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra ý nghĩa của việc nghiên cứu và sự tương hỗ cũng như mối quan hệ của nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm với các khái niệm khác trong tội phạm học. Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm tại Chương này, tác giả rút ra một số kết luận sau: Thứ nhất, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm là sự tương tác giữa hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực ở hai cấp độ làm phát sinh tình hình các tội về mại dâm. Thứ hai, cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm về mại dâm một cách khoa học và hiệu quả nhất chính là việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm. Thứ ba, những hiện tượng có tính chất cá nhân và xã hội của tình hình tội phạm về mại dâm. Đồng thời, khi cần phải tìm hiểu cả tình huống cụ thể bởi vì trong một số trường hợp, tình huống đóng vai trò như là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm trong việc khi về tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội về mại dâm. So vẫy, phải nghiên cứu cả nguyên nhân, điều kiện bắt nguồn từ phía xã hội và nguyên nhân, điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội.
  27. 27. 20 THTP tình hình tội về mại dâm là sự tổng hợp kết quả theo chiều hướng tiêu cực của sự tác động qua lại giữa các hiện tượng và quá trình xã hội tiêu cực làm phát sinh tội phạm. Các biểu hiện của hiện tượng cũng như sự phát triển của xã hội tồn tại trong môi trường xã hội và ngay trong bản thân người phạm tội. Những vấn đề nêu trên là cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý cho việc xác định, đánh giá thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp khắc phục, hạn chế và dần triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện này, làm kéo giảm tình hình tình hình các tội về mại dâm đến mức thấp nhất, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước trong thời gian tới.
  28. 28. 21 Chương 2 THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI VỀ MẠI DÂM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017 2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm Lý thuyết về Tội phạm học đã chỉ ra rằng: Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa chúng và bằng cách đó làm kéo giảm và dần dần loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Theo đó, để công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội về mại dâm nói riêng đạt hiệu quả khả quan và bền vững nhất, đòi hỏi các chủ thể tham gia thực hiện công tác này phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm. Tuy nhiên, trên thực tế, các chủ thể phòng ngừa, từ các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan bảo vệ pháp luật đến người dân tại Thành phố Hồ Chí Minh, vẫn chưa nhận thức sâu sắc về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung và tình hình các tội về mại dâm nói riêng. 2.1.1. Thực trạng nhận thức thông qua văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Công tác phòng ngừa các tội về mại dâm nói riêng cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung và luôn được các cấp (Đảng và Nhà nước) quan tâm. Điều đó được thể hiện rõ thông qua các văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nước ta như: Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Quyết định 282/QĐ-TTg năm 2011 về Kế hoạch thực hiện Chỉ thị 48CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới; Chỉ thị
  29. 29. 22 số 22/CT-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống mại dâm trong tình hình hiện nay, Chương trình phòng chống mại dâm giai đoạn 2011-2015 và Chương trình phòng chống mại dâm giai đoạn 2016-2020. Đây là những văn bản thể hiện quan điểm kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tệ nạn, tội phạm về mại dâm nói riêng của Đảng, Nhà nước ta thông qua việc đề ra mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể đối với công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về mại dâm và nạn mại nói riêng trong tình hình mới. Thông qua các văn bản này, chúng ta nhận thấy Đảng và Nhà nước ta đã có những đánh giá bao quát về thực trạng, diễn biến của tình hình tội phạm, xác định nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm nói chung trong thời gian qua đó là: “Tình hình trên đây do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là cấp ủy đảng, chính quyền ở một số nơi chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nên chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác phòng, chống tội phạm; lực lượng trực tiếp chống tội phạm ở nhiều nơi còn yếu; công tác quản lý xã hội, công tác tuyên truyền, giáo dục về pháp luật, về đạo đức, lối sống và vận động nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm còn nhiều hạn chế …” [1]. Trên cơ sở đánh giá tình hình và nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, Đảng ta xác định rõ mục đích “phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm” [1] phân công trách nhiệm rõ ràng cho các Cơ quan, ban ngành, đoàn thể, quần chúng nhân dân tham gia vào bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Ở mức độ cụ thể hơn, Chỉ thị số 22/CT-TTg và Chương trình phòng chống mại dâm 2 giai đoạn 2011-2015, 2016-2020 có nhắc đến tình hình tội phạm về mại dâm nhưng cũng trong phạm vi tình hình tệ nạn mại dâm và cũng xác định nhiệm vụ: “Đấu tranh, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm liên quan đến mại dâm” [24] mà không đề cập cụ thể đến tình hình nguyên nhân của các tội phạm về mại dâm.
  30. 30. 23 Như vậy, có thể thấy rằng, những nhận thức và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm rất bao quát, vĩ mô và do đó không đi sâu đánh giá, xác định những nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình hình các tội về mại dâm. 2.1.2. Thực trạng nhận thức thông qua văn bản chỉ đạo, triển khai của chính quyền và các cơ quan chuyên trách Thành phố Hồ Chí Minh Trong những năm qua, các cấp, các ngành, đoàn thể Thành phố Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến vấn đề phòng chống mại dâm nói chung và tội phạm về mại dâm nói riêng. Điều này được thể hiện qua việc chính quyền và các cơ quan chuyên trách ở Thành phố đã ban hành nhiều văn bản tổ chức triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm và tội phạm về mại dâm như: Quyết định số 6448/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2011 của Ủy ban nhân dân Thành phố về ban hành Kế hoạch triển khai công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2011 - 2015 và Chỉ thị số 13/2012/CT-UBND ngày 25 tháng 4 năm 2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố về tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ phát sinh tệ nạn xã hội trên địa bàn Thành phố, Chỉ thị số 13/2014/CT-UBND ngày 25/6/2014 về tăng cường thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phòng chống mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh … Qua phân tích các văn bản này, tác giả nhận thấy các cấp chính quyền ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ đánh giá về tình hình các tội phạm về mại dâm với góc độ là sự biến tướng, phát triển của tệ nạn mại dâm. Ngoài ra, các văn bản này cũng chỉ ra được nguyên nhân, điều kiện của tình hình về nạn mại dâm (bao gồm cả nguyên nhân của tình hình các tội phạm về mại dâm) như sau: “… do quá trình đô thị hóa và sự gia tăng dân số cơ học nhanh, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới, đã nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp, trong đó có tệ nạn mại dâm với hình thức hoạt động biến tướng ngày càng tinh vi đã gây ảnh hưởng tác động xấu đến thuần phong mỹ tục, đạo đức lối sống, nhất là các đối tượng trong độ tuổi thanh thiếu niên” [32].
  31. 31. 24 Có thể thấy rằng, các cấp chính quyền và cơ quan chuyên trách ở Thành phố Hồ Chí Minh chỉ mới tiếp cận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm về mại dâm dưới góc độ là các nguyên nhân, điều kiện của tệ nạn mại dâm mà chưa có những nghiên cứu, đánh giá về các nguyên nhân, điều kiện cụ thể của nhóm tội phạm này. Có lẽ chính vì vậy mà các giải pháp, nhiệm vụ được đề ra trong các văn bản nêu trên chưa thể hiện được hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm về mại dâm trên thực tế. 2.1.3. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm về mại dâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật (CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án) và người dân Qua khảo sát nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm cho thấy, đa số cán bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật (CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án), cho rằng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội về mại dâm chủ yếu là xuất phát từ người phạm tội: Phần lớn người phạm tội có nhân thân là nghiện ngập hoặc thích ăn chơi hưởng thụ nhưng lười lao động. Một số khác các đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, kinh tế gia đình khó khăn nhưng có nhu cầu đòi hỏi về vật chất cao và xem thường pháp luật. Chính các điều kiện trên là nguyên nhân khiến họ thực hiện hành vi phạm tội để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Khảo sát thực trạng nhận thức của nhiều người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm chủ yếu là từ người phạm tội có nhu cầu hưởng thụ về vật chất cao, nhưng lại không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, nghiện ngập… và cách để thỏa mãn nhu cầu đó chính là việc thực hiện hành vi phạm tội về mại dâm. Nguyên nhân và điều kiện tiếp đến là do sự yếu kém của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý trật tự an toàn xã hội, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu… Nguyên nhân, điều kiện còn lại là do sự yếu kém của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong phát hiện, ngăn chặn, điều tra và xử lý người phạm tội dẫn đến các biện pháp xử lý thiếu sức răn đe, giáo dục, tạo tâm lý xem thường pháp luật của một số đối tượng dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội.
  32. 32. 25 Như vậy, nhìn chung nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm của đa số các chủ thể được khảo sát có sự phù hợp với lý luận và thực tiễn trong phạm vi và mức độ khác nhau. Tuy nhiên một số nội dung khác của nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm vẫn chưa được các chủ thể hiểu biết đầy đủ như nguyên nhân về kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, pháp luật…Điều này đã phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả công tác phòng chống tội phạm này tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. 2.2. Thực trạng những nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh Xuất phát từ nguồn gốc của tình hình tội phạm và tội phạm gắn bó chặt chẽ với các yếu tố kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội cũng như với các đặc điểm đạo đức - tư tưởng và suy nghĩ, thói quen, sự sinh hoạt của xã hội nhất định. Do đó, để làm rõ được bản chất xã hội của tình hình các tội phạm về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn năm 2013-2017, làm cơ sở dự báo và đề xuất các giải pháp phòng chống tội phạm trong thời gian tới, sau đây tác giả sẽ phân tích các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tình hình các tội mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở phân chia thành các nhóm cụ thể như sau: 2.2.1. Những nguyên nhân, điều kiện chung 2.2.1.1. Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế - xã hội Thời gian qua, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các mặt đời sống kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, điều kiện về kinh tế- xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã kéo theo nhiều hệ lụy đáng lo ngại. Những hệ lụy đó chính là nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội phạm về mại dâm trong thời gian vừa qua. Điều này được thể hiện qua các nội dung sau: Thứ nhất, đời sống không ít của dân cư còn gặp nhiều khó khăn mặc dù kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh tăng trưởng không ngừng ở mức cao. Theo báo cáo của Thành ủy, kinh tế thành phố trong những năm gần đây duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, GRDP bình quân đạt khoảng 8 %/năm, GRDP bình quân quân đầu
  33. 33. 26 người đạt khoảng 5.122 USD/người (tương đương 113 triệu đồng/người), gấp 2,37 lần bình quân cả nước. Tuy nhiên, số liệu thống kê cũng cho thấy số hộ nghèo trên thành phố chiếm tỷ lệ 2,52% (thu nhập bình quân từ 21 triệu đồng/người/năm trở xuống) và hộ cận nghèo là 2,33% (thu nhập bình quân từ 28 triệu đồng/người/năm trở xuống) [50]. Chúng ta dễ dàng nhận ra rằng thu nhập của một người ở hộ gia đình thuộc diện nghèo và cận nghèo chỉ bằng 1/5 so với thu nhập bình quân đầu người. Những con số này cho thấy sự phân hóa giàu nghèo khá rõ rệt ở Thành phố Hồ Chí Minh . Tình trạng này đã gây tâm lý tiêu cực đối với một số người dân có nhu cầu hưởng thụ vật chất ngày càng tăng trong khi điều kiện kinh tế cá nhân không cho phép. Tâm lý tiêu cực này đã đẩy họ đến tình trạng kiếm tiền bằng mọi giá để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, kể cả thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có cả các tội phạm về mại dâm. Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã khiến nhiều công ty, doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực, thuộc nhiều loại hình doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh bị phá sản. Theo số liệu của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, chỉ riêng 08 tháng đầu năm 2013, Thành phố Hồ Chí Minh có số doanh nghiệp thành lập mới tăng 5,4% nhưng số giải thể, ngừng hoạt động cũng tăng 9,16% [55]. Các năm tiếp theo đó, số doanh nghiệp trên địa bàn phá sản, giải thể cũng ngày càng tăng lên. Ngoài ra, mặc dù nhu cầu lao động của các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh là rất lớn nhưng chỉ một số ít lao động đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, năng lực [48, tr.1]. Điều này kéo theo hàng loạt người rơi vào cảnh thất nghiệp. Số liệu thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Thành phố cho biết: Lượng người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp từ năm 2013 cho đến 2017 vẫn rất cao: năm 2013 là 110.070 lượt người; 2014 là 107.677 lượt người; 2015 là 108.500 lượt người và năm 2016 là 122.771 lượt người, riêng trong 04 tháng đầu năm 4.2017 con số này là 41.700 lượt người [47, tr.1]. Hoàn cảnh thiếu việc làm dễ dẫn đến con đường tội phạm, trong đó có các tội về mại dâm. Điển hình như trường hợp Bùi Anh Tân phạm tội Môi giới mại dâm, cụ thể như sau:
  34. 34. 27 Tháng 02/2017, Bùi Anh Tân mở quán cà phê, địa chỉ: 65/11E Quốc lộ 22, ấp Dân Thắng 1, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, đồng thời thuê 02 tiếp viên kích dục và bán dâm cho khách. Tân không trả lương mà chỉ lo chỗ ăn ở cho tiếp viên, nếu khách có nhu cầu kích dục hay mua dâm thì phải được sự đồng ý của Tân. Giá tiền một lần kích dục là 150.000 đồng, Tân được hưởng 70.000 đồng, tiếp viên hưởng 80.000 đồng; giá tiền mua bán dâm là 300.000 đồng và 500.000 đồng tại khách sạn thì Tân hưởng 80.000 đồng, còn lại tiếp viên hưởng. Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 08/6/2017, Nguyễn Anh Tuấn và Lê Văn Thành đến quán và thỏa thuận việc mua bán dâm tại khách sạn. Tân đồng ý cho Đinh Thị Yến và Nguyễn Thị Kim Luôn đi bán dâm cho khách, đồng thời Tân chở Yến và Luôn đến khách sạn Bích Phương tại số 63/3A, ấp Dân Thắng 1, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn để bán dâm. Trong lúc Yến và Luôn thực hiện hành vi bán dâm cho khách tại phòng số 114 và 115 thì bị Công an huyện Hóc Môn kết hợp cùng Công an TP. Hồ Chí Minh bắt quả tang. Tại Cơ quan điều tra, Bùi Anh Tân thừa nhận thực hiện hành vi môi giới mại dâm nhiều lần, thu lợi số tiền 4.800.000 đồng. Kết quả xác minh về nhân thân cho thấy: Gia đình Bùi Anh Tân thuộc diện hộ nghèo trên địa bàn xã Tân Thới Nhất, huyện Hóc Môn. Tân không có nghề nghiệp ổn định và phải nuôi mẹ già, em trai bị tâm thần và 2 con nhỏ (vợ Tân đã mất vì tai nạn giao thông). Ngày 13/6/2017, CQĐT- Công an huyện Hóc Môn khởi tố vụ án, bị can và ra lệnh tạm giam đối với Bùi Anh Tân về tội “Môi giới mại dâm”. Ngày 27/9/2017, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn đưa vụ án ra xét xử, tuyên phạt bị cáo Tân 03 năm 06 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Qua trường hợp này, chúng ta có thể nhận định rằng những áp lực của cuộc sống mưu sinh, thất nghiệp là nguyên nhân chính dẫn đến hành vi phạm tội về mại dâm của một số người trên thực tế. Thứ hai, đó là sự gia tăng cũng như biến tướng của các loại hình thức về tệ nạn xã hội, trong đó quan trọng nhất là tệ nạn ma túy - rượu bia - cờ bạc. Theo số liệu thống kê của Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội Thành phố Hồ Chí Minh , tính đến năm 2017, Thành phố có 22.000 người nghiện ma túy có hồ sơ
  35. 35. 28 quản lý, số người nghiện mới có xu hướng trẻ hóa và sử dụng nhiều loại ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp. Người sử dụng ma túy ngày càng tăng trong khi thủ tục xử lý hành chính buộc cai nghiện còn rườm rà, chi phí tự nguyện cai nghiện cao dẫn đến tình trạng số đối tượng được đưa đi cai nghiện chỉ vào khoảng 11.000 người, bao gồm cả học viên cai nghiện tự nguyện. Nhóm đối tượng nghiện ma túy không được quản lý thường sẵn sàng làm tất cả để có được tài sản nhằm thỏa mãn cơn nghiện, kể cả việc thực hiện các hành vi phạm tội, bao gồm các tội về mại dâm. Bên cạnh đó, nạn ăn chơi, sử dụng rượu bia ở Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phổ biến và gia tăng theo quá trình đô thị hóa cũng có thể được coi là điều kiện dẫn đến các tội phạm về mại dâm. Các dự án chỉnh trang đô thị được tiến hành trong những năm gần dây đã mang đến cho Thành phố diện mạo mới, đặc biệt là một số tuyến đường quan trọng ở các quận huyện trên địa bàn. Đi liền với những chuyển biến tích cực của quy hoạch đô thị Thành phố thể hiện qua hệ thống cơ sở hạ tầng, đường xá khang trang, sạch đẹp là sự xuất hiện, phát triển của hàng loạt các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, nhà hàng tập trung tại các tuyến đường mới như Phạm Văn Đồng (quận Bình Thạnh, Thủ Đức), Tên Lửa (quận Bình Tân)... luôn tấp tập thực khách. Nắm được nhu cầu, tâm lý của nhiều thực khách, những đối tượng bán dâm, môi giới, chủ chứa mại dâm thường tập trung xung quanh các cơ sở này để tiếp cận, gạ gẫm họ mua dâm trong tình trạng say xỉn. Nhiều người không kiểm soát được nhu cầu tình dục còn chủ động tìm kiếm, liên hệ với các chủ chứa, môi giới để mua dâm. Ngoài thực trạng về tệ nạn ma túy và rượu bia nêu trên, tệ nạn mại dâm cũng đang là mối lo của Thành phố Hồ Chí Minh . Tính đến đầu năm 2017, Thành phố Hồ Chí Minh có gần 10.000 cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để phát sinh tệ nạn mại dâm với hơn 27.000 nhân viên, tiếp viên làm việc trong các cơ sở này. Số liệu thống kê của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy qua kiểm tra gần 30.000 cơ sở kinh doanh dịch vụ, lưu trú, massage, cà phê... các cơ quan chức năng đã phát hiện trên 64.000 lượt vi phạm về mại dâm [54]. Câu hỏi đặt ra là:
  36. 36. 29 Trong số các vi phạm này, có bao nhiêu vi phạm không có sự tham gia của các đối tượng chứa mại dâm, môi giới mại dâm? Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng, những tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, rượu bia… là nguồn chính dẫn đến các tội phạm về mại dâm và tình hình các tội phạm về mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. 2.2.1.2. Nguyên nhân, điều kiện về văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh với chính sách mở cửa toàn diện, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho sự xuất hiện và phát triển của các sản phẩm văn hóa giải trí độc hại, cổ súy cho lối sống thực dụng, trụy lạc như phim ảnh, sách truyện, trò chơi trực tuyến mang nội dung khiêu dâm… Những sản phẩm văn hóa này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức, nhân cách của một bộ phận nhân dân nhất là lớp trẻ. Một số người bị tiêm nhiễm văn hóa phẩm đồi trụy đã hình thành lối sống buông thả, trụy lạc, coi thường người khác, không làm chủ bản thân từ đó dễ phát sinh hành vi phạm tội để đạt được mục đích, bao gồm cả các hành vi phạm tội về mại dâm. Minh chứng cụ thể cho vấn đề này là trường hợp 2 “quý bà” mua dâm người dưới 18 tuổi xảy ra tại quận 5, cụ thể như sau: Ngày 19/5/2013, Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội (PC45) – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt quả tang 07 đôi nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm. Trong đó, P.T.T.Th. (37 tuổi) và L.H.H. (44 tuổi) đều ngụ phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức đang thực hiện hành vi mua dâm N.T.T, sinh năm 1996 (17 tuổi, giới tính nam) với giá 300.000 đồng/người. 2.2.1.3. Nguyên nhân, điều kiện về giáo dục - Giáo dục từ gia đình Đầu tiên xuất phát từ những gia đình mà con mồ côi cha mẹ sớm, mặc dù những người này có thể sinh sống với người thân ruột thịt trong họ hàng khác nhưng tất nhiên vẫn không thể so sánh được như cha mẹ ruột đã dành tình cảm cho họ. Điều này dẫn đến hệ lụy là thiếu sự hoàn thiện về lựa chọn hành vi - suy nghĩ - lối sống dễ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và các tội về mại dâm nói riêng lụy do thiếu tình cảm và sự yêu thương của cha mẹ ruột.
  37. 37. 30 Thứ hai là gia đình không hạnh phúc, không khí gia đình căng thẳng, thiếu sự hoà thuận, đầm ấm, mọi người không chú ý, quan tâm đến nhau khiến những thành viên chán nản cuộc sống gia đình, dẫn đến tình trạng người lớn tham gia các hoạt động vui chơi, nhậu nhẹt, ma túy, trụy lạc, thanh thiếu niên chán học và tham gia vào nhóm bạn xấu… Thực tiễn cho thấy tỷ lệ ly hôn ở Thành phố Hồ Chí Minh là khá cao, cứ 2,7 đôi vợ chồng thì có 01 đôi ly hôn. Hầu hết các cuộc ly hôn này đều gây ra những biến động nhất định về tâm lý cho con cái và kinh tế cho các cặp vợ chồng sau ly hôn. Điều kiện, hoàn cảnh này dễ dẫn đến lối sống và hành vi không lành mạnh của những con người cụ thể, đẩy họ vào con đường tệ nạn xã hội và các hành vi phạm tội, bao gồm các tội về mại dâm. Thứ ba, gia đình có người thân phạm tội hoặc làm ăn phi pháp sẽ tác động tiêu cực đến con cái, hình thành nên các đặc điểm coi thường các giá trị đạo đức – xã hội, chuẩn mực pháp luật, coi thường giá trị con người và cuộc sống, tạo ra lòng tham, quá coi trọng đồng tiền, có động cơ vụ lợi, khát vọng kiếm tiền bất chính nên dễ dẫn đến hành vi phạm tội. Thứ tư, gia đình có bạo hành vì không ít các bậc làm cha mẹ do thiếu kiến thức về học vấn hoặc kiến thức xã hội, mặt khác do không kiểm soát được hành vi (nóng nảy, giận dữ …) của bản thân trước những sai sót của người thân hoặc con cái nên thường xuyên chọn cánh hành xử bằng bạo lực (đánh đập với nhiều hình thức) với nhau hay hành hạ về mặt tinh thần (cấm đoán, cô lập, ghét bỏ, không quan tâm ...). Chính vì nguyên nhân này, các đối tượng bị hành hạ bằng bạo lực hoặc tinh thần dễ ngộ nhận rằng hình thức sử dụng như trên là cách giải quyết vấn đề trong gia đình và xã hội. Từ những suy nghĩ không đúng trên các đối tượng chuyển sang căm thù cha mẹ và có thái độ chai lì, bi quan trong cuộc sống. Cùng với sự tác động cộng hưởng từ sách báo, phim ảnh, games bạo lực hay các hành vi bạo lực ngoài xã hội... cũng sẽ góp phần vào việc hình thành nhân cách tiêu cực như bản tính bất cần, chống đối, quậy phá, thô bạo, độc ác, tụ tập băng nhóm gây rối trật tự công cộng, sa ngã vào tệ nạn xã hội và đi vào con đường phạm tội.
  38. 38. 31 Thứ năm, gia đình có cha mẹ nghiêm khắc quá đáng trong việc quản lý, giáo dục con cái là nguyên nhân dẫn đến nguy hại lớn cho sự phát triển của trẻ vì làm cho không khí trong gia đình trở nên căng thẳng thậm chí nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến những nhiều tình cảnh đáng tiếc. Có nhiều trường hợp hành vi vi phạm pháp luật do cha mẹ đã quá nghiêm khắc trong việc giáo dục nên làm cho con trầm uất, nhút nhát hoặc làm cho chúng trở nên sợ hãi, bất mãn từ đó chúng căm thù mọi người xung quanh và dễ dàng vướng vào các cạm bẫy trong xã hội rồi đi đến phạm tội nói chung và các tội về mại dâm nói riêng. Thứ sáu, nhất là những gia đình có giàu có (có điều kiện kinh tế) sẵn sàng đáp ứng mọi đòi hỏi, nuông chiều con cái quá mức sẽ hình thành ra tầng lớp những đứa trẻ là ông vua, bà hoàng ngay từ nhỏ. Những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong sự bao bọc, muốn gì cũng được cha mẹ đồng ý và đáp ứng đầy đủ. Do sự quản lý cưng chiều và lỏng lẻo của gia đình về mặt hình phạt khi trẻ có vi phạm (đòi hỏi quá đáng, lười lao động và học tập như bao trẻ khác) nên đa số trẻ trong các gia đình trên thường có tính tự cao, lười biếng … Trong trường hợp không thỏa mãn được nhu cầu cá nhân cộng với sự tiêm nhiễm các hiện tượng tiêu cực khác ngoài xã hội là nguyên nhân khiến chúng dễ dàng phạm tội. Mặt khác, do sống trong gia đình nghèo khó (có hoàn cảnh khó khăn), nhiều trẻ em không được quan tâm, chăm sóc, ăn học đến nơi đến chốn đã phải bôn ba ra ngoài xã hội để làm mọi việc nhằm có tiền để giúp đỡ cho gia đình. Theo số liệu thống kê của Sở Lao động Thương binh xã hội, hiện nay thành phố có gần 10.000 trẻ em không có nơi ở nhất định hoặc phải đi làm việc ở các cơ sở tư nhân trong thành phố. Chính vì điều khiện khắc nghiệt trên, cộng thêm không được quản lý, chăm sóc, giáo dục đầy đủ từ hai phía gia đình - nhà trường cộng thêm việc tiếp xúc với môi trường sinh hoạt, làm việc có nhiều thành phần phúc tạp nên rất dễ bị lôi kéo vào những tệ nạn, đây là nguyên nhân dẫn tới tội phạm về mại dâm. Tóm lại, đặc điểm gia đình có ảnh hưởng hớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách, lối sống của các các thành viên trong gia đình đó. Những gia đình có các đặc điểm nêu trên thường đưa đến sự phát triển lệch lạch về nhân cách và nhận thức
  39. 39. 32 cũng như cách xử sự trái với đạo đức và pháp luật của các thành viên trong gia đình. Đây cũng có thể được xem là một trong những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tình hình các tội phạm về mại dâm hiện nay ở Thành phố Hồ Chí Minh . - Giáo dục từ nhà trường Một là, khuyết điểm trong công tác giáo dục - quản lý học sinh, sinh viên Hoạt động quan trọng, cần thiết trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo là công tác quản lý học sinh, sinh viên. Công tác này cần được xem là quan trọng hàng đầu vì có như vậy mới đảm bảo hiệu quả thật sự, đảm bảo phát hiện những suy nghĩ, hành vi, ngôn phong của các em từ khi bước vào nhà trường để từ đó kịp thời có kế hoạch, sách lược áp dụng cho các em một cách phù hợp. Mỗi thành viên phạm tội là cả một quá trình tác động trong thời gian dài, chứ không phải một cách ngẫu nhiên. Trước khi phạm tội các em đã có một quá trình phát triển lệch chuẩn, với những hành vi không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội nhưng không được nhà trường, thầy cô phát hiện để giáo dục, định hướng kịp thời. Các em có những hành vi không đúng mực trong xã hội (lệch chuẩn) như là thói quen, lối sống không phù hợp với độ tuổi, giới tính, nhu cầu… Khi cần thỏa mãn nhu cầu vật chất, các yếu tố môi trường tác động tương thích các em sẵn sàng thực hiện các tội phạm về mại dâm như Môi giới bán dâm… Hai là, khuyết điểm trong công tác giáo dục đạo đức lối sống - phẩm chất chính trị, cho học sinh, sinh viên Công tác giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên là một nội dung cần được đưa vào trọng tâm hàng đầu và làm thường xuyên, qua đó giúp nhân cách của các em được phát triển một cách toàn diện. Nhìn từ thực tiễn, trong thời gian vừa qua và hiện tại, các cơ sở giáo dục vẫn chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục đạo đức - lối sống - kỹ năng sống cũng như văn hóa ứng xử ... Trong đó, vấn đề đáng quan trọng là tình trạng coi trọng dạy tri thức, chuyên môn mà xem nhẹ vấn đề giáo dục về chính trị - đạo đức và phẩm chất nhân cách công dân thể hiện rõ tại các cơ sở giáo dục. Điều này tác động lớn đến sự phát triển và hoàn thiện về nhân cách, làm cho học sinh, sinh viên xuất hiện những suy nghĩ lệch lạc dẫn nhu
  40. 40. 33 cầu không lành mạnh cũng như hành vi giải quyết nhu cầu trên bất chấp trái đạo đức và pháp luật. Có không ít trường hợp học sinh, sinh viên tôn sùng lối sống thiên vê vật chất để hưởng thụ hoặc rơi vào cuộc sống ảo mà không học tập và làm việc như mọi người. Những biểu hiện tiêu cực của học sinh, sinh viên nói trên sẽ là nguồn nguy hiểm để tệ nạn xã hội và tội phạm thâm nhập phát triển, trong đó có các tội phạm về mại dâm. Có không ít nguyên nhân đã dẫn đến nhiều học sinh đã không còn đi học khi đang ở cấp tiểu học, phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, trong đó có nguyên nhân công tác giảng dạy, quản lý, giáo dục của một số nhà trường còn nhiều thiếu sót, bất cập. Chính vì trình độ học vấn, trình độ chuyên môn thấp, số đối tượng này hầu hết là không có nghề nghiệp ổn định hoặc làm những nghề lao động chân tay nặng nhọc mà thu nhập thấp, thậm chí không ít người thất nghiệp. Do đó, vì nhu cầu sống và sinh hoạ ... những người này dễ bị sa ngã hoặc sớm bước vào con đường phạm tội nói chung cũng như phạm các tội về mại dâm nói riêng. Vì thế mà đa số những người phạm các tội về mại dâm có trình độ học vấn thấp. Như đã phân tích trong cơ cấu về trình độ học vấn của các chủ thể phạm tội về mại dâm, có tới 173người phạm tội có trình độ văn hóa cấp tiểu học và phổ thông cơ sở phạm vào các loại tội này, chiếm tỷ lệ 65,78%, số người phạm tội không biết chữ là 52 người, chiếm 15,2% (Bảng 2.1). - Giáo dục từ phía xã hội Lý luận của Tội phạm học đã chỉ ra rằng những yếu tố chủ quan làm phát sinh tình hình tội phạm và đã làm cho chúng xuất hiện trong xã hội phải là những yếu tố do bản thân Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình dù không một ai mong muốn xảy ra sự việc trên. Thực tế, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân nói chung và pháp luật về các tội về mại dâm nói riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều hạn chế được biểu hiện qua một số nội dung sau: Thứ nhất, hoạt động tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng, nhất là hoạt động tuyên truyền pháp luật về phòng, ngừa tội phạm về mại dâm được triển khai
  41. 41. 34 còn chậm, thiếu đồng bộ. Trong thời gian qua, nhiều cơ quan trong bộ máy chính quyền Nhà nước cùng tham gia công tác tuyên truyền, giáo dục nhưng trên thực tế không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về việc hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá về kết quả cũng như chất lượng của công tác này. Thứ hai, nội dung tuyên truyền còn giới hạn trong phạm vi các nội dung, tuyên truyền về phòng chống tệ nạn mại dâm như: Tác hại nhiều mặt của tệ nạn mại dâm, tệ nạn ma tuý; Nguy cơ cao của bệnh dịch HIV/AIDS đối với người mại dâm, người nghiện ma tuý... Điều này khiến người dân chưa nhận thức được đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội về mại dâm cũng như trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội này nên chưa đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung đối với các tội phạm về mại dâm.. Thứ ba, hình thức công tác tuyên truyền, giáo dục về các tội phạm về mại dâm còn nghèo nàn, thiếu sinh động, chưa phong phú, chưa có sự phân loại cho phù hợp với các đối tượng cụ thể như sinh viên, học sinh, công nhân… Thứ tư, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục trong cộng động về phòng, ngừa tội phạm về mại dâm còn hình thức, công tác triển khai chưa thực sự có hiệu quả cũng như chưa đồng bộ. Thứ năm, hoạt động tuyên truyền giáo dục phòng, ngừa tội phạm về mại dâm chưa được quan tâm đúng mức, chưa có hoạt động tuyền truyền độc lập về phòng ngừa nhóm tội này; các chương trình, nội dung tuyên truyền giáo dục chủ yếu được lồng ghép và gắn với các chương trình khác như chăm sóc sức khỏe, bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Bắt nguồn từ thực tế công tác đấu tranh phòng, chống các tội về mại dâm đã rút ra nhiều kinh nghiệm như: có không ít các vụ án xảy ra có nguyên nhân do kém hiểu biết hoặc sự hiểu biết còn phiến diện về công tác phòng, chống tội phạm này. 2.2.1.4. Nguyên nhân, điều kiện thuộc về quản lý xã hội Theo báo cáo Tổng cục thống kê tính đến năm 2017 dân số Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 13 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số hằng năm 3.1%. Theo tính toán mỗi ngày ở Thành phố Hồ Chí Minh có trên 01 triệu người (bao gồm khách
  42. 42. 35 vãng lai, du khách trong và ngoài nước) đi, đến hoặc cư ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh để vui chơi, sinh hoạt, kinh doanh... Mặt khác, với tư cách là một trung tâm văn hóa, Thành phố Hồ Chí có nhiều loại hình thức dịch vụ giải trí ngày càng đa dạng trong những ngày lễ hội, tết Nguyên Đán… Đây chính địa bàn thuận lợi cho các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi phạm tội về mại dâm.Thực tế quản lý xã hội và kết quả đấu tranh, điều tra xử lý các tội về mại dâm cho thấy còn nhiều hạn chế, bất cập được biểu hiện qua một số nội dung sau: - Hạn chế trong công tác quản lý nhân khẩu Thực tiễn cho thấy nhiều cán bộ quản lý không nắm rõ số người đến và đi, nhân thân, lai lịch của từng người trong phạm vi mình phụ trách nên không kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng này. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía các chủ thể liên quan, đặc biệt là lực lượng cán bộ công an phụ trách quản lý khu vực. - Hạn chế trong quản lý kinh doanh các dịch vụ “nhạy cảm” Tính đến năm 2017, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 10.000 cơ sở kinh doanh các dịch vụ nhạy cảm như karaoke, mát xa, nhà hàng, khách sạn [54]. Không ít cơ sở tkinh doanh đó trở thành nơi diễn ra các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm… Tuy nhiên, công tác quản lý, kiểm soát các cơ sở này của lực lượng chức năng Thành phố còn mỏng, chưa thường xuyên, phương án chiến thuật tuần tra kiểm soát chưa hợp lý và còn mang nặng tính hình thức, chiếu lệ. Đây chính là điều kiện để các tệ nạn và tội phạm về mại dâm diễn ra tại các địa điểm này trong một thời gian dài mà không bị phát hiện như trường hợp phạm tội của đối tượng Nguyễn Văn Sang, cụ thể như sau: Ngày 08/12/2017, kiểm tra hành chính khách sạn K.H trên đường Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận, Cảnh sát Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt quả tang 03 đôi nam nữ đang có hành vi mua bán dâm. Các cô gái khai là nhân viên nhà hàng H.C cách khách sạn vài trăm mét. Tiếp tục kiểm tra nhà hàng H.C do Nguyễn Văn Sang (SN 1979), lực lượng chức năng đã lập biên bản hàng chục cô gái ăn mặc "thiếu vải" đang phục vụ khách. Nguyễn Văn Sang thừa nhận đã thực
  43. 43. 36 hiện hoạt động chứa mại dâm từ tháng 6/2015 nhưng không bị phát hiện. Phương thức phạm tội của Sang là kinh doanh dịch vụ ăn uống, bố trí tiếp viên ăn mặc hở hang, trực phục vụ bàn. Sau khi ăn uống, hát hò tại quán, khách có nhu cầu mua dâm thì chọn tiếp viên rồi trả 01 triệu đồng cho Sang (bao gồm tiền mua dâm và môi giới bán dâm). Việc mua bán dâm được thực hiện ngay tại nhà hàng hoặc ở địa điểm khác sau khi thỏa thuận với khách mua dâm. Qua trường hợp cụ thể này cho thấy, nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm trở thành “bức bình phong” cho các đối tượng lợi dụng thực hiện tội phạm về mại dâm một cách tinh vi, kín kẽ. Chính vì thế, mặc dù công tác quản lý, kiểm tra các cơ sở này vẫn được các cơ quan chức năng thực hiện nhưng có lúc, có nơi chưa thường xuyên, nghiêm túc nên không phát hiện các vi phạm, tội phạm về mại dâm xảy ra tại các cơ sở này. - Hạn chế trong công tác cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ người đã chấp hành án, người bị xử phạt hành chính về hành vi mại dâm tại địa phương Những người đã chấp hành án, người bị xử phạt hành chính về hành vi mại dâm rất cần sự gần gũi, động viên của hàng xóm láng giềng; sự quản lý, giúp đỡ của chính quyền, Công an, các tổ chức đoàn thể xã hội. Tuy nhiên, tại cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, rất nhiều người phạm tội đã chấp hành xong hình phạt về địa phương bị mọi người xung quanh khinh bỉ, không tiếp xúc; chính quyền địa phương không quan tâm nhất là hỗ trợ họ công an việc làm chính đáng. Do thất nghiệp, cần tiền sinh sống nên bị sa ngã và dễ phạm tội trở lại. Vì thế, có nhiều người đã từng chấp hành án tiếp tục tái phạm các tội Chứa mại dâm, Môi giới mại dâm, hoặc trước đây người đó chỉ phạm tội Môi giới mại dâm sau khi chấp hành án lại phạm tội Chứa mại dâm với tính chất, mức độ phạm tội nghiêm trọng hơn. 2.2.1.5. Nguyên nhân, điều kiện về pháp luật - Luật Xử lý vi phạm hành chính còn nhiều kẽ hở Từ khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực và triển khai thi hành, người bán dâm không còn bị áp dụng biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường, trị