Luật nghị định thông tư quyết định điều khoản nghị quyết là gì

Nghị định và Thông tư, cái nào có giá trị pháp lý cao hơn?

Cập nhật lúc 09:47, Thứ tư, 05/05/2021 (GMT+7)

Luật nghị định thông tư quyết định điều khoản nghị quyết là gì

Nghị định do Chính phủ ban hành còn Thông tư do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành. Thoạt đầu, cứ ngỡ Nghị định có giá trị pháp lý cao hơn Thông tư bởi cơ quan ban hành của Nghị định là cao hơn.

Điều này đồng nghĩa cùng một vấn đề nhưng thông tư quy định trái với Nghị định thì sẽ áp dụng Nghị định.

Tuy nhiên, theo Nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định về việc kiểm tra xử lý văn bản quy phạm pháp luật nếu Thông tư ban hành trái với Nghị định thì Thông tư đó sẽ bị đình chỉ, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ.

Như vậy, nếu Thông tư đó không bị cơ quan có thẩm quyền đình chỉ, hủy bỏ, bãi bỏ theo quy định thì mặc nhiên hiểu Thông tư đó có giá trị pháp lý và được áp dụng; điều khoản “trái” của Thông tư sẽ vô hiệu hóa quy định tại Nghị định.

Mặt khác trong đời sống thực tiễn có hai cách hiểu ngầm (không cần phân biệt đúng sai) trong việc thực thi pháp luật:

*Một là, truyền thống chờ đợi: Luật có hiệu lực nhưng chưa được áp dụng mà phải chờ Nghị định, Nghị định ra đời không thể thực thi vì phải chờ Thông tư hướng dẫn. Bởi thế không cần đọc và hiểu Luật, Nghị định mà chỉ nắm rõ thông tư mà áp dụng. Nên cơ quan nhà nước hành pháp theo Thông tư.

*Hai là, nghe lệnh người trực tiếp: Thông tư là văn bản mang tính “chỉ đạo” của bộ trong một lĩnh vực nhất định nên cơ quan cấp dưới sẽ tuân theo hướng dẫn của bộ (vì nó rõ ràng và là “chỉ đạo” trực tiếp), nếu làm trái bộ thì sẽ bị “xử lý”.

Từ những phân tích nêu trên có thể thấy:

*Lý luận: Nghị định có giá trị pháp lý cao hơn Thông tư;

*Thực tiễn: Thông tư có giá trị pháp lý cao hơn Nghị định.

Như vậy giữa lý luận và thực tiễn đã có độ chênh rất lớn, thâm chí như hai thái cực đối lập nhau.

Luật nghị định thông tư quyết định điều khoản nghị quyết là gì

Nghị định là gì? Nghị định của Chính phủ được ban hành để làm gì? Phân biệt Luật – Nghị định- Nghị quyết – Thông tư? Nghị định có hiệu lực khi nào?

Hiên nay, để giải quyết các công việc trên thực tế thì Chính phủ thường xuyên ban hành ra các Nghị định. Đối với người dân thì Nghị định không còn là loại văn bản xa lạ. Tuy nhiên còn nhiều người chưa hiểu rõ được Nghị định là gì? cơ quan nào ban hành ra hoặc hay bị nhầm lẫn Nghị định với những văn bản quy phạm pháp luật khác. Do vậy qua bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giải đáp giúp quý khách về những thắc mắc này.

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

Mục lục bài viết

  • 1 1. Nghị định là gì?
  • 2 2. Nghị định của Chính phủ được ban hành để làm gì?
  • 3 3. Phân biệt Luật – Nghị định- Nghị quyết – Thông tư:
  • 4 4. Nghị định có hiệu lực khi nào?

Nghị định là một trong những loại văn bản thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay, chủ thể có thẩm quyền ban hành chủ yếu ở đây là Chính phủ, ban hành ra để giải thích, hướng dẫn luật hoặc những vấn đề mới nảy sinh trong xã hội mà chưa có quy định của pháp luật để điều chỉnh. Đồng thời Nghị định còn quy định các quyền và những vụ của công dân được hưởng theo nội dung của Hiến pháp và Luật.

Chính phủ ban hành nghị định để quy định:

  • Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
  • Các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ; những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
  • Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Nghị định trong tiếng Anh được hiểu là Decree – là một loại văn bản thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Nghị định là văn bản do chính phủ ban hành, dùng để hướng dẫn luật hoặc quy định những việc phát sinh mà chưa có luật hoặc pháp lệnh nào điều chỉnh.

Chính phủ ban hành nghị định để quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của người dân theo Hiến Pháp và Luật do Quốc hội ban hành.

Nghị định của Chính phủ có giá trị pháp lý thấp hơn so với Hiến pháp, luật và pháp lệnh, nhưng cao hơn so với những văn bản quy phạm pháp luật khác do cơ quan nhà nước từ cấp Bộ đến Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp ban hành.

Ví dụ: trong Luật Đất đai 2013 sẽ có một số nghị định do Chính phủ ban hành như:

  • Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai
  • Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai (Hiệu lực 03/3/2017)

Dưới Nghị định thường có nhiều thông tư chi tiết hướng dẫn các thủ tục và giải quyết các vấn đề pháp lý…

2. Nghị định của Chính phủ được ban hành để làm gì?

Nghị định được Chính phủ ban hành để quy định:

  • Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
  • Các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ; những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
  • Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

3. Phân biệt Luật – Nghị định- Nghị quyết – Thông tư:

Luật

Luật là văn bản có giá trị cao sau Hiến Pháp và do Quốc hội ban hành. Bộ luật, luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. Nói cách khác, bộ luật, luật dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản thuộc các lĩnh vực về đối nội và đối ngoại của quốc gia.

Bộ luật, luật có tính chất cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp theo những ngành luật hoặc các lĩnh vực pháp luật chuyên biệt, ví dụ: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình,…

Trong khoa học pháp lý, bộ luật và luật đều được gọi là đạo luật; sự khác nhau giữa bộ luật và luật thường không nhiều. Tuy nhiên, bộ luật thường điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát; bộ luật là “xương sống” của một ngành luật.

Ngoài ra, các bộ luật lớn còn chứa đựng những nguyên tắc chi phối các ngành luật lân cận. Ví dụ: các quy định của Bộ luật Dân sự có thể được viện dẫn trong khi giải quyết các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật thương mại…

Luật được Quốc hội ban hành để quy định về:

  • Tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
  • Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định, việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt;
  • Chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
  • Chính sách cơ bản về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường;
  • Quốc phòng, an ninh quốc gia;
  • Chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
  • Hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao; hàm, cấp nhà nước khác; huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
  • Chính sách cơ bản về đối ngoại;
  • Trưng cầu ý dân;
  • Cơ chế bảo vệ Hiến pháp;
  • Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Nghị quyết

Nghị quyết là Hình thức văn bản quyết định về những vấn đề cơ bản sau khi được hội nghị bàn bạc, thông qua bằng biểu quyết theo đa số, biểu thị ý kiến hay ý định của một cơ quan, tổ chức về một vấn đề nhất định.

Hiến pháp đã quy định nghị quyết là hình thức văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.

Nghị quyết được Quốc Hội ban hành để quy định về :

  • Tỷ lệ phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương;
  • Thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành;
  • Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
  • Quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia;
  • Đại xá;
  • Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
  • Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng ban hành pháp lệnh để quy định những vấn đề được Quốc hội giao. Họ thường ban hành nghị quyết để quy định:
  • Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
  • Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội;
  • Bãi bỏ pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; trường hợp bãi bỏ pháp lệnh thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm báo cáo Quốc hội tại kỳ hợp gần nhất;
  • Tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
  • Hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân;
  • Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Thông tư

Thông tư là văn bản giải thích, hướng dẫn thực hiện những văn bản của nhà nước ban hành, thuộc phạm vi quản lí của một ngành nhất định.

Đơn giản hơn, có thể nói thông tư dùng để hướng dẫn nghị định, do cấp bộ, bộ trưởng ký ban hành.

4. Nghị định có hiệu lực khi nào?

– Hiện nay không có bất cứ một điều luật cụ thể nào quy định chung về thời điểm phát sinh hiệu lực của Nghị định

– Theo như phân tích ở nội dung phía trên thì Nghị định được Chính phủ ban hành nhằm triển khai thực hiện hoặc đưa ra các giải pháp đối với những vấn đề thuộc lĩnh vực Kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế…. mới phát sinh mà luật chưa có quy định hoặc chưa đủ điều kiện để xây dựng thành luật

– Do vậy, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng, cấp bách mà thời điểm phát sinh lực của Nghị định quy định các vấn đề khác nhau là khác nhau.

– Trong mỗi Nghị định thì thông thường nội dung của điều cuối cùng trong Nghị định sẽ quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực.

– Tuy nhiên trong một số trường hợp ngoài lệ, Nghị quyết được ban hành theo thủ tục rút gọn thì ngày phát sinh hiệu lực có thể chính là ngày Nghị định được thông qua hoặc ký ban hành.

Ví dụ:

– Trong Nghị định 100/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm giao thông đường bộ, đường sắt được ban hành vào ngày 30/12/2019 thì tại Điều 84 của Nghị định quy định về hiệu lực thi hành là từ ngày 1/1/2020.

Nguyên nhân Nghị định 100/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành chỉ sau 2 ngày ban hành là để kịp thời khắc phục “chỗ trống” của Nghị định số 46/2016/NĐ-CP.

– Trong Nghị định số 76/2019/NĐ-CP về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động….vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được ban hành ngày 8/10/2019, thì tại điều 16 hiệu lực thi hành sẽ bắt đầu vào ngày 1/12/2019, tức là sau gần 2 tháng ban hành thì văn bản mới có hiệu lực.

Kết luận: Nghị định giữ một vai trò rất quan trọng trong hệ thống văn bản pháp luật hiện nay, nhằm làm rõ, chi tiết hóa hoặc hướng dẫn các điều khoản được quy định trong Luật. Mặt khác, nghị định do Chính phủ ban hành để quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của người dân theo Hiến pháp và Luật do Quốc hội ban hành.