Lạm phát Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022

Mới đây, tại cuộc họp báo công bố tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2022 và quý III/2022 của Tổng cục Thống kê, bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá đã trả lời cầu hỏi của phóng viên về nguyên nhân Việt Nam kiềm chế lạm phát ở mức thấp, trong khi đó, các nền kinh tế lớn trên thế giới đều lạm phát cao.

Theo bà Oanh, Việt Nam duy trì được mức độ tăng trưởng GDP khá tốt trong 9 tháng đạt 8,83% so với cùng kỳ năm trước, riêng trong quý III/2022 GDP đạt 13,6% so với cùng kỳ. Đây là nỗ lực của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân.

Còn về lạm phát, trong bối cảnh lạm phát 9 tháng đầu năm 2022 tại nhiều nước tại khu vực châu Âu, châu Mỹ và một số nước ở châu Á như Thái Lan, Indonesia… tăng cao, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm các nước có tỷ lệ lạm phát thấp với bình quân 9 tháng năm 2022 ở mức 2,73%.

Cụ thể, tại Mỹ, lạm phát 9 tháng đầu năm 2022 đạt 8,3%, điều này khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tiếp tục tăng lãi suất lần thứ 5 trong năm 2022 với mức tăng thêm 0,75 điểm phần trăm. Tại khu vực châu Âu, ghi nhận con số lạm phát kỷ lục vào tháng 8 là 9,1%. Ở khu vực châu Á, lạm phát hiện cũng đang tăng rất cao, có thể kể đến như Thái Lan đạt mức lạm phát 7,9% trong tháng 8, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,1%, Indonesia tăng 4,7%.

Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm các nước có tỷ lệ lạm phát thấp. Theo đó, tháng 9/2022, lạm phát Việt Nam tăng 3,94% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân lạm phát 9 tháng đầu năm ở mức 2,73%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra năm nay là 4%.

Bà Oanh cho biết, để đạt được kết quả như vậy, trong thời gian vừa qua Chính phủ đã có những động thái điều hành rất sát sao, quyết liệt với công tác bình ổn giá. Trong đó, Chính phủ đã đưa ra một loạt giải pháp về thuế, nguồn cung và hỗ trợ giá, điều này đã giúp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ổn định đời sống của người dân, qua đó đã giảm áp lực đến mặt bằng giá. Ngoài ra, một loạt nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có tác động lớn tới CPI trong thời gian vừa qua cũng được Chính phủ được trợ giá rất chặt chẽ.

Đơn cử, ở nhóm dịch vụ giáo dục, các địa phương đã miễn giảm học phí, chia sẻ khó khăn cho người dân, điều này đã giúp cho chỉ số giá giáo dục 9 tháng đầu năm giảm 1,88% so với cùng kỳ năm trước và giảm CPI chung 0,1%.

Với lĩnh vực y tế, nếu thực hiện đúng lộ trình tăng giá dịch vụ y tế theo pháp luật quy định giá y tế thì đã phải hoàn thành trong năm 2021 nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành, điều này góp phần kiềm chế lạm phát. Trong rổ hàng hóa tính CPI, người dân Việt Nam tiêu dùng cho giáo dục và y tế đóng góp tỷ trọng rất lớn trong thu nhập của người dân chiếm gần 12%. Chính vì vậy 2 nhóm hàng này đã giúp kiềm chế lạm phát trong 9 tháng vừa qua.

Đối với giá điện, trong 4 năm vừa qua EVN chưa tăng giá điện mặc dù chịu ảnh hưởng do các nguồn nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, than tăng giá cao. Theo như tính toán, nếu chỉ số giá nhóm điện tăng 10% thì sẽ tác động vào chỉ số CPI chung tăng 0,33%.

Đối với lương thực, thực phẩm chiếm tỷ số rất lớn trong rổ hàng hóa lên đến gần 25%, nước ta có lợi thế chủ động được về lương thực, thực phẩm cũng như phần lớn các nước châu Á về gạo, lúa mỳ trong bối cảnh giá lúa mỳ trên thế giới đang tăng cao. Xuất khẩu gạo cũng là điểm sáng trong thời gian vừa qua, theo số liệu quý III xuất khẩu gạo nước ta tăng 27% so với cùng kỳ năm trước. Chính vì vậy, chủ động được về lương thực thực phẩm cũng là yếu tố đóng góp giúp kiềm chế lạm phát.

Ngoài ra, giá thịt lợn bình quân 9 tháng đầu năm giảm gần 16%. Quyền số của nhóm thịt lợn trong rổ hàng hóa chiếm 3,39%, do giá thịt lợn giảm 16% nên đã tác động khiến chỉ số CPI 9 tháng đầu năm giảm 0,54%. Mặt hàng thịt lợn trong nhóm thực phẩm giúp kiềm chế chỉ số giá của nhóm này không tăng quá cao mặc dù trong nhóm thực phẩm nhiều nhóm hàng hóa tăng giá mạnh, có thể kể đến như dầu ăn tăng 17,87%, trứng tăng 10,35%, rau tăng 10,4%, thủy sản tăng 3,89%.

Cũng theo bà Oanh, một nguyên nhân khác khiến chỉ số CPI ở châu Á tăng thấp hơn ở châu Âu và Mỹ do chính sách “sống chung với dịch” chậm hơn so với châu Âu và Mỹ. Ví dụ như Indonesia đến 22/3 mới bỏ cách ly với khách quốc tế, tại Malaysia việc đi lại trở lại bình thường diễn ra vào đầu tháng 5, Trung Quốc áp dụng chính sách “Zero Covid” và Việt Nam mới mở cửa chính thức đón khách quốc tế từ 15/3.

(sav.gov.vn) – Tin từ Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,42%, cao hơn tốc độ tăng 5,74% của 6 tháng đầu năm 2021. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,78% (đóng góp 5,07%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,70%, (đóng góp 48,33%), trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 9,66%; khu vực dịch vụ tăng 6,60%, (đóng góp 46,60%).

Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,05%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,30%; khu vực dịch vụ chiếm 40,63%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,02%. Về sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,06% so với cùng kỳ năm 2021; tích lũy tài sản tăng 3,92%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 9,10%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,41%.

Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 tháng ước đạt 2.717 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,9% (cùng kỳ năm 2021 tăng 1,9%). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 1,25%. Chỉ số giá vàng bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,63%. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 6 tháng đầu năm 2022 giảm 0,2%.

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng tăng 1,38% so với cùng kỳ năm trước; Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp 6 tháng tăng 4,75%; Chỉ số giá sản xuất dịch vụ 6 tháng tăng 2,83%; Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất 6 tháng tăng 6,04%.

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa 6 tháng tăng 8,03% so với cùng kỳ năm trước; Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá 6 tháng tăng 11,21%; Tỷ giá thương mại hàng hóa 6 tháng giảm 2,85%.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 ước tính tăng 8,48% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,66%, đóng góp 2,58 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước của một số ngành trọng điểm tăng cao: Sản xuất trang phục tăng 23,3%; sản xuất thiết bị điện tăng 22,2%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 17,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,4%; khai thác quặng kim loại, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học cùng tăng 11,2%. Có 61 địa phương có chỉ số IIP tăng, riêng tỉnh Hà Tĩnh và Trà Vinh giảm do ngành sản xuất điện giảm. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2022 tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2021.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) 6 tháng đầu năm ước đạt 192,2 nghìn tỷ đồng, bằng 35,3% kế hoạch năm và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 bằng 34,8% và tăng 11,9%).

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/6/2022 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 14,03 tỷ USD, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của 6 tháng đầu năm trong 5 năm qua.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2022 có 57 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 300,9 triệu USD, gấp 2,1 lần so với cùng kỳ năm trước; có 14 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 44,9 triệu USD, giảm 88,9%.
 

Lạm phát Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2022, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,70


Về thu, chi NSNN,lũy kế tổng thu NSNN 6 tháng đầu năm 2022 đạt 932,9 nghìn tỷ đồng, bằng 66,1% dự toán năm.Lũy kế 6 tháng đầu năm 2022, tổng chi NSNN ước đạt 713 nghìn tỷ đồng, bằng 40% dự toán năm.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng ước đạt 185,94 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm nhiều nhất với 88,7%. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 55,9 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 61,3 tỷ USD.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 6 tháng ước đạt 185,23 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm nhiều nhất với 94%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 710 triệu USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 1,86 tỷ USD).

Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 4,3 tỷ USD, tăng 81,8% so với cùng kỳ năm 2021; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 12,3 tỷ USD, tăng 22,3%. Nhập siêu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 là 8 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu là 4,6 tỷ USD).

Công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực, đời sống người dân được đảm bảo, các chính sách hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng từ dịch Covid-19 theo các Nghị quyết của Chính phủ được thực hiện hiệu quả. Tính đến ngày 15/6/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 8/10/2021 đã triển khai được hơn 43,5 nghìn tỷ đồng, cho 36,7 triệu lượt người lao động và gần 381,7 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 với tổng mức hỗ trợ gần 38,4 nghìn tỷ đồng cho gần 13 triệu lượt lao động và gần 346,7 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 với mức hỗ trợ đạt 14,1 tỷ đồng cho 25.660 lao động của 487 đơn vị sử dụng lao động./.

Khánh Vy