Khả năng là phạm trù Triết học chỉ khi có điều kiện thích hợp

Khả năng là phạm trù Triết học chỉ khi có điều kiện thích hợp

60 điểm

NguyenChiHieu

Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống của câu. sau để được định nghĩa khái niệm khả năng: "Khả năng là phạm trù triết học chỉ .......... khi có các điều kiện thích hợp". a. Cái đang có, đang tồn tại b. Cái chưa có, nhưng sẽ có c. Cái không thể có

d. Cái tiền đề để tạo nên sự vật mới.

Tổng hợp câu trả lời (1)

b. Cái chưa có, nhưng sẽ có

Tham khảo giải bài tập hay nhất

Loạt bài Lớp 12 hay nhất

xem thêm

Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống của câu sau để được định nghĩa khái niệm khả năng: “Khả năng là phạm trù triết học chỉ ………. khi có các điều kiện thích hợp”.

A. Cái đang có, đang tồn tại

B. Cái chưa có, nhưng sẽ có

C. Cái không thể có

D. Cái tiền đề để tạo nên sự vật mới.

Hướng dẫn

Chọn B là đáp án đúng

(Last Updated On: 19/02/2022)

Khi đã nhận thức được bản chất và các mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng, chủ thể nhận thức đã có thể phán đoán được sự vật, hiện tượng đó, do sự phát triển của những mâu thuẫn bên trong nó quy định, số biến đổi theo hướng nào, nghĩa là đã có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của sự vật, hiện tượng đó. Biện chứng của sự liên hệ lẫn nhau giữa quá khứ, hiện tại và tương lai được phản ánh trong các phạm trù “hiện thực” và “khả năng”.

Phạm trù khả năng phản ánh thời kỳ hình thành đối tượng, khi nó mới chỉ tồn tại dưới dạng tiền đề hay với tư cách là xu hướng. Vì thế khả năng là phạm trù phản ánh tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của hiện thực mới, là cái có thể có, nhưng ngay lúc này chưa có; hiện thực là phạm trù phản ánh kết quả sinh thành, là sự thực hiện khả năng, và là cơ sở để định hình những khả năng mới.

Một cách đơn giản hơn, khả năng là cái hiện chưa xảy ra, nhưng nhất định sẽ xảy ra khi có điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại gồm tất cả các sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại khách quan trong thực tế và các hiện tượng chủ quan đang tồn tại trong ý thức, là sự thống nhất biện chứng của bản chất và các hiện tượng thể hiện bản chất đó. Theo nghĩa này, hiện thực khách quan và hiện thực chủ quan được dùng để phân biệt các hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần, về thực chất, hiện thực là sự thống nhất giữa bản chất của đối tượng với vô vàn các hiện tượng của nó, tạo nên tính xác định động cho đối tượng trong một không gian, thời gian cụ thể.

Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực. Là những mặt đối lập, khả năng và hiện thực thống nhất biện chứng với nhau: chúng loại trừ nhau theo những dấu hiệu căn bản nhất, nhưng không cô lập hoàn toàn với nhau. Sinh ra từ trong lòng hiện thực và đại diện cho tương lai ở thời hiện tại, khả năng làm bộc lộ hết tính tương đối của hiện thực. Thông qua tính tương đối đó mà hiện thực hóa sự liên tục của các quá trình biến đổi. Mọi đối tượng đều bắt đầu phát triển từ sự chín muồi các tiền đề sinh thành của nó. Hiện thực bao chứa trong mình số lớn các khả năng, nhưng không phải tất cả đều được hiện thực hóa. Sự hiện thực hóa từng khả năng đòi hỏi các điều kiện tương ứng, nhưng rất có thể thiếu điều kiện như thế. Trong xã hội, sự hiện thực hóa một khả năng nào đó không tách rời hoạt động thực tiễn, mà hoạt động đó chỉ có thể thành công khi con người tính đến các khả năng vốn có ở hiện thực, ở các xu hướng biến đổi khách quan của nó. Mục đích, phương tiện và các phương thức của hoạt động đó xét đến cùng cũng gắn với các hoàn cảnh khách quan tương ứng. Đồng thời chính hoạt động thực tiễn như là quá trình chuyển hóa mục đích (khả năng) thành sản phẩm của hoạt động (hiện thực) là sự thống nhất khả năng và hiện thực. Dĩ nhiên, mức độ tự do và hiệu quả của hoạt động đó không phải là vô hạn, mà cũng bị các quy luật khách quan quy định.

Các dạng khả năng. Hiện thực thường có nhiều mặt, nhiều xu hướng vận động, nhiều khả năng biến đổi. Chúng giữ vai trò không ngang nhau trong sự vận hành và phát triển hiện thực. Chẳng hạn, sự hiện thực hóa một số khả năng này quy định sự chuyển hóa đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác vẫn trong khuôn khô chính bản chât đó, sự hiện thực hóa những khả năng khác lại đòi hỏi sự biến đổi bản chất của đối tượng, biến nó thành đối tượng khác. Trong quá trình thực hiện một số khả năng đối tượng chuyển từ thấp lên cao, nhưng ở những khả năng khác – thì lại hạ từ cao xuống thấp. Có khả năng liên quan đến biến đổi về chất, số khác lại liên quan đến biển đổi về lượng của đối tượng. Một số khả năng gắn với cái tất nhiên trong đối tượng, số khác – với cái ngẫu nhiên. Có khả năng được hiện thực hóa trong các điều kiện được tạo lập ở hiện tại, nhưng một số khác lại chờ các điều kiện đó được tạo ra ở tương lai xa. Hoạt động thực tiễn của con người làm thay đổi hiện thực khách quan chính là thực hiện các khả năng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng.

Có nhiều cơ sở phân loại khả năng. Có thể chia các khả năng thành hai nhóm phụ thuộc vào việc cái gì quy định chúng: các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên hay ngẫu nhiên. Những khả năng bị quy định bởi những thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên của đối tượng được gọi là khả năng thực; còn những khả năng bị quy định bởi các thuộc tính và mối liên hệ ngẫu nhiên, – là khả năng hình thức. Khả năng thực trong những điều kiện thích hợp tất yếu được thực hiện, còn khả năng hình thức – có thể được thực hiện cũng có thể không. Sự phân biệt khả năng thực và khả năng hình thức có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động thực tiễn: khi đặt ra mục đích, xây dựng chương trình, thực hiện hành vỉ, con người cần phải xuất phát từ những khả năng thực. Những khả năng hình thức không thê làm cơ sở cho hoạt động có kế hoạch.

Các khả năng chỉ được hiện thực hóa khi có các điều kiện thích hợp. Phụ thuộc vào mối liên hệ với những điều kiện này như thế nào, khả năng được chia ra thành khả năng cụ thể và khả năng trừu tượng. Loại thứ nhất là những khả năng mà để thực hiện chúng hiện đã có đủ điều kiện, loại thứ hai là những khả năng mà ở thời hiện tại còn chưa có những điều kiện thực hiện chúng, nhưng điều kiện có thể xuất hiện khi đối tượng đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Để lập những kế hoạch trước mắt, xác định cách thức giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn đã chín muồi thì cần phải xuất phát từ khả năng cụ thể, chứ không thể căn cứ vào các khả năng trừu tượng.

2. Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ không tách rời nhau và luôn chuyển hóa cho nhau; do hiện thực được chuẩn bị bằng khả năng còn khả năng hướng tới sự chuyển hóa thành hiện thực, nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không thể dựa vào khả năng. Tuy nhiên, vì khả năng biếu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai nên khi đề ra kế hoạch, phải tính đến mọi khả năng để kế hoạch đó sát với thực tiễn. Nhiệm vụ của hoạt động nhận thức là phải xác định được khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng và tìm ra khả năng ấy trong chính bản thân nó, bởi khả năng nảy sinh vừa do sự tác động qua lại giữa các mặt bên trong, vừa do sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng với hoàn cảnh bên ngoải.

Thứ hai, phát triển là quá trình mà trong đó khả năng chuyển hóa thanh hiện thực, còn hiện thực này trong quá trình phát triến của mình lại sinh ra các khả năng mới, các khả năng mới ấy trong điều kiện thích hợp lại chuyển hóa thành hiện thực, tạo thành quá trình vô tận; do vậy, sau khi đã xác định được các khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng, thì mới nên tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng.

Thứ ba, trong quá trình thực hiện khả năng đã lựa chọn, cần chú ý là trong một sự vật, hiện tượng có thể chứa nhiều khả năng khác nhau, do vậy cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích hợp cho từng trường hợp có thể xảy ra.

Thứ tư, cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại một số khả năng và ngoài một số khả năng vốn có, thì khi có điều kiện mới bổ sung, ở sự vật, hiện tượng sẽ xuất hiện thêm một số khả năng mới dẫn đến sự xuất hiện một sự vật, hiện tượng mới, phức tạp hơn. Bởi vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải lựa chọn khả năng trong số hiện có, trước hết là chú ý đến khả năng gần, khả năng tất nhiên vì chúng dễ chuyển hóa thành hiện thực hơn.

Thứ năm, khả năng chỉ chuyển hóa thành hiện thực khi có đầy đủ các điều kiện cần thiết nên cần tạo ra các điều kiện đó để nó chuyển hóa thành hiện thực, cần tránh sai lầm, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường vai trò ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.

Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, việc nắm được cặp phạm trù khả năng hiện thực sẽ giúp chúng ta có cái nhìn thực tế và tránh được những ảo tưởng sai lầm.

I. Khái niệm khả năng và hiện thực

1. Khái niệm:

Khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới nhưng nó sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện thích hợp.

Ví dụ: Ông X đã có sẵn gạch, xi-măng, sắt, thép… Ở đây có khả năng của một ngôi nhà.

Hiện thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.

Ví dụ: Chiếc xe đạp bạn A đang đi là hiện thực. Suy nghĩ của bạn B về một bộ phim hay cũng là hiện thực.

Do tất cả những gì đang tồn tại thực sự đều được coi là hiện thực nên ta cần phân biệt:

+ Hiện thực khách quan: Chính là thế giới vật chất đang tồn tại khách quan.

+ Hiện thực chủ quan: Là ý thức, tư tưởng đang tồn tại trong mỗi con người.

Khả năng là phạm trù Triết học chỉ khi có điều kiện thích hợp
Những ngôi sao trên bầu trời là hiện thực. Bầu trời có sao sáng không là khả năng. (Bức tranh “The Starry Night”, tạm dịch: Đêm đầy sao, của danh họa Vincent van Gogh.). Ảnh: Alamy.com.

2. Phân loại khả năng:

Tùy giác độ chúng ta lựa chọn mà có các loại khả năng khác nhau. Một số loại khả năng hay gặp như:

Khả năng thực tế là những khả năng do các mối liên hệ tất nhiên quyết định, xuất hiện từ bản chất bên trong của sự vật và khi có đầy đủ điều kiện sẽ trở thành hiện thực.

Ví dụ: Trong mỗi hạt thóc có khả năng thực tế hạt thóc sẽ thành cây lúa.

Khả năng hình thức, hay khả năng ảo, khả năng trừu tượng là những khả năng do các mối liên hệ ngẫu nhiên, quan hệ bên ngoài mang đến và chưa có đủ điều kiện để chuyển hóa thành hiện thực

Ví dụ: Khả năng con người trúng sổ xố là khả năng ảo. Khả năng này biến thành hiện thực chỉ là do ngẫu nhiên, may mắn.

– Ngoài các khả năng chính trên đây, ta còn có thể phân loại thành:

+ Từ góc độ xác suất lớn hay nhỏ xảy ra: Khả năng chủ yếu và khả năng thứ yếu.

+ Xét theo sự liên quan đến lợi ích của con người: Khả năng tốt và khả năng xấu.

+ Khi xét tới sự tương tác giữa các khả năng: Khả năng cùng tồn tại và khả năng loại trừ lẫn nhau.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khả năng và hiện thực có mối quan hệ biện chứng như sau:

1. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn chuyển hóa lẫn nhau.

– Sở dĩ như vậy vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng hướng tới biến thành hiện thực.

Trong thực tế, quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả năng biến thành hiện thực, còn hiện thực này lại sản sinh ra những khả năng mới. Cả khả năng mới ấy trong những điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực mới.

Sự chuyển hóa cứ tiếp diễn mãi như vậy, tạo thành quá trình vô tận.

– Để khả năng biến thành hiện thực cần có vai trò của các điều kiện khách quan và chủ quan.

Quá trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là một quá trình khách quan.

Nói “chủ yếu” là vì trong tự nhiên không phải mọi khả năng đều biến thành hiện thực một cách tự phát.

Ở đây có thể phân ra 03 trường hợp:

+ Thứ nhất: Loại khả năng mà điều kiện đển biến chúng thành hiện thực chỉ có thể có bằng con đường tự nhiên. Ví dụ: Các trường hợp động đất, sóng thần, núi lửa…

+ Thứ hai: Loại khả năng có thể biến thành hiện thực bằng con đường tự nhiên cũng như nhờ sự tác động của con người. Ví dụ: Để thuyền buồm vượt biển đến đúng cảng A, cần có gió và sự điều khiển của con người.

+ Thứ ba: Loại khả năng mà bắt buộc có sự tham gia của con người để biến thành hiện thực. Ví dụ: Việc chế tạo ô-tô, ti-vi…

Trong lĩnh xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng muốn biến thành hiện thực còn cần có các điều kiện chủ quan. Đó là hoạt động thực tiễn của con người. Ở đây, khả năng sẽ không bao giờ biến thành hiện thực nếu không có sự tham gia của con người.

Hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực. Nó cũng có thể điều khiển khả năng phát triển theo hướng này hay theo hướng khác bằng cách tạo ra các điều kiện thích ứng.

2. Các khả năng có thể cùng tồn tại với nhau.

– Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể tồn tại một số khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng.

Ví dụ: Ông X đã có sẵn gạch, xi-măng, sắt, thép… Có khả năng xuất hiện một ngôi nhà, đồng thời cũng có khả năng xuất hiện một cái kho.

– Ngoài một số khả năng vốn có ở sự vật trong những điều kiện có sẵn nào đó, khi có thêm những điều kiện mới thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm một hoặc nhiều khả năng mới.

Đó là do với sự xuất hiện của những điều kiện mới, về thực chất, một hiện thực mới phức tạp hơn đã xuất hiện do sự tác động qua lại giữa hiện thực cũ và điều kiện mới. Từ đó làm cho số tương tác tăng thêm và dẫn đến làm tăng thêm khả năng mới.

3. Sự biến đổi của mỗi khả năng.

– Mỗi khả năng không phải là không thay đổi. Nó tăng lên hay giảm đi tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.

Ví dụ: Khả năng diễn ra biểu tình ở một quốc gia lớn hay thấp là tùy theo mức độ  mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền lớn hay thấp.

Do đó, muốn cho một khả năng nào đấy phát triển biến thành hiện thực thì phải tạo cho nó các điều kiện thích hợp tương ứng.

– Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực thường cần có không chỉ một điều kiện mà là một tập hợp các điều kiện. Tập hợp đó được gọi là điều kiện cần và đủ, nếu có nó thì khả năng nhất định biến thành hiện thực.

Ví dụ: Để cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra cần một tập hợp các điều kiện sau:

+ Giai cấp thống trị không thể giữ nguyên sự thống trị dưới dạng cũ nữa.

+ Giai cấp bị trị bị bần cùng hóa quá mức bình thường.

+ Tính tích cực của quần chúng tăng lên đáng kể.

+ Giai cấp cách mạng có đủ năng lực chỉ đạo, tổ chức những hành động cách mạng mạnh mẽ, đủ sức đập tan chính quyền cũ.

Thiếu một trong các điều kiện trên, cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể nổ ra.

III. Ý nghĩa phương pháp luận

1. Trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào thực tế nhưng cũng cần tính đến các khả năng.

– Trong hoạt động thực tiễn, việc quyết định, trù tính các kế hoạch cần dựa và hiện thực chứ không thể dựa vào khả năng. Vì hiện thực là cái đang thực sự tồn tại, còn khả năng là cái chưa có.

Ta cần phải thấy rõ sự khác biện về chất giữa khả năng và hiện thực. Nếu lẫn lộn giữa khả năng và hiện thực, ta sẽ phải gánh hậu quả tai hại trong thực tiễn.

– Tuy nhiên, nói như vậy không phải là bỏ qua, xem thường khả năng. Mà ta phải tính đến các khả năng để đề ra chủ trương, kế hoạch, bởi khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai.

Nếu ta tách rời khả năng và hiện thực, chúng ta sẽ không thấy khả năng tiềm ẩn trong sự vật, dẫn đến không dự đoán được tương lai phát triển của sự vật. Hoặc sẽ không thấy khả năng có thể biến thành hiện thực, do đó không tạo ra những điều kiện thiết yếu để thúc đẩy hoặc ngăn cản sự chuyển biến tùy theo mục đích của mình.

2. Thực hiện quy trình, cách thức xác định các khả năng trong thực tiễn.

– Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận thức khoa học nói riêng là phải tìm ra, xác định cho được các khả năng phát triển của sự vật.

– Khi xác định các khả năng, ta cần chú ý:

+ Chỉ có thể tìm ra các khả năng phát triển của sự vật trong chính bản thân sự vật ấy chứ không thể ở nơi nào khác. Vì khả năng là do sự vật gây nên và tồn tại trong sự vật.

+ Chỉ có thể căn cứ vào tương quan lực lượng giữa các mặt ở bên trong sự vật, vào mâu thuẫn nội tại trong nó, và vào những điều kiện bên ngoài để dự kiến khuynh hướng phát triển của khả năng.

Sở dĩ là do khả năng nảy sinh vừa do tác động qua lại giữa các mặt ở bên trong sự vật, vừa do sự tác động của sự vật với hoàn cảnh bên ngoài.

+ Vì khả năng tồn tại trong chính bản thân sự vật, gắn bó chặt chẽ với sự vật nên ra dễ nhầm lẫn khả năng với hiện thực. Để tránh nhầm lẫn, ta cần lưu ý: Hiện thực là cái đã có, đã tới, còn khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới.

+ Chúng ta không được tách rời khả năng khỏi hiện thực. Lý do là vì khả năng nằm ngay trong hiện thực, gắn bó chặt chẽ với hiện thực.

3. Tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả năng.

Sau khi xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả năng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, ta cần lưu ý:

– Trong hoạt động thực tiễn cần tính đến mọi khả năng có thể có để dự án các kế hoạch hành động, dù những khả năng đó là tốt hay xấu, tiến bộ hay lạc hậu. Chỉ có như vậy ta mới tránh rơi vào bị động trong thực tiễn.

– Trong số các khả năng hiện có của sự vật, cần trước hết chú ý đến khả năng tất nhiên, đặc biệt là các khả năng gần, vì đó là những khả năng dễ biến thành hiện thực hơn cả.

– Vì một khả năng chỉ biến thành hiện thực khi có đủ những điều kiện cần thiết, nên cần chủ động tạo ra những điều kiện cần và đủ để có được hiện thực theo mong muốn.

– Trong lĩnh vực xã hội, phải có sự tham gia của con người (nhân tố chủ quan) để khả năng biến thành hiện thực. Nên tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn, ta cần tạo mọi điều kiện để nhân tố con người tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn cản sự biến đổi khả năng thành hiện thực.

Ở đây, ta cần tránh hai thái cực sai lầm:

+ Tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan. Tức là chỉ cần có con người là khả năng sẽ biến thành hiện thực.

+ Xem thường nhân tố chủ quan. Tức là không tin tưởng vào năng lực của con người trong việc biến khả năng thành hiện thực.

8910X.com

Xin mời các bạn đưa ra một vài bình luận để bài viết có thể hoàn thiện hơn.

Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé!

Sáu cặp phạm trù cơ bản: 

Bài viết cùng chủ đề:

  • http://luanvan.co/luan-van/cap-pham
  • https://text.123doc.org/document/3