Học trò của chu văn an là ai

Học trò của chu văn an là ai

Tượng thờ Chu Văn An tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám

Chu Văn An tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370). Ông là một nhà giáo, một thầy thuốc và cũng là một đại quan nhà Trần, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi Ông là Chu Văn An. Ông người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội).

Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Sau khi thi đậu Thái học sinh, là người chính trực nên Ông không ra làm quan, chỉ ở nhà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam.

Học trò theo học Ông rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát, khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.

Một huyền thoại vẫn được lưu truyền là khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu, ông bèn cho người dò xem thì trò đó cứ đến khu đầm Đại là biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: “Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho”. Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Ông được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Đây chỉ là một giai thoại về ông để nói rằng tài đức của ông có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của ông lúc đương thời là rất lớn.

Năm Khai Thái đời Vua Trần Minh Tông (1314-1329) Ông mới nhận chức Quốc tử giám tư nghiệp, dạy cho thái tử Trần Vượng học (thái tử là vua Trần Hiến Tông trong tương lai). Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái.

Đến đời Trần Dụ Tông (1341-1369), ban đầu vì Dụ Tông còn ít tuổi nên có thượng hoàng Trần Minh Tông lo việc triều chính. Sau khi thượng hoàng Minh Tông mất (1357), Dụ Tông tự mình cầm quyền chính. Nhưng Dụ Tông không có tài trị nước. Nhà vua mải mê chơi bời, thích tửu sắc hát xướng, bỏ bê việc nước. Tình cảnh xã hội rất nhiễu nhương, chính sự càng thối nát. Bọn quyền thần cận thần nhiều người bất tài, o bế vua để lộng quyền, hà khắc, tham nhũng, làm nhiều điều vô đạo. Dân tình đói khổ.

Chu Văn An vốn là người điềm đạm, thẳng thắn, cương trực, có uy tín cao trong triều. Nhìn trung thần nghĩa sĩ bị hãm hại, các quan ngự sử chuyên việc can vua giờ chỉ biết ngồi im ăn lộc (ai có ý định can vua, gia đình phải phát tang làm ma sống rồi mới vào triều) Ông đã dũng cảm dâng “Thất trảm sớ” xin chém bảy tên nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Nhưng vua không nghe. Sớ thất trảm ấy bị thất truyền, không rõ nội dung như thế nào, ngay đương thời cũng ít người được biết Ông đã xin chém những ai. Có thể Dụ Tông muốn tránh rắc rối cho triều đình và giữ yên cho Chu Văn An nên đã hủy đi. Dù thế, thất trảm sớ đã gây chấn động dư luận, nói như người xưa "làm kinh động quỷ thần" và trở thành biểu tượng chói sáng của thái độ trí thức trước thời cuộc.

Do “Thất trảm sớ” không được thực hiện ông bèn “treo mũ ở cửa Huyền Vũ” rồi từ quan lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, lấy hiệu là Tiều Ẩn (người đi hái củi ẩn dật). Ông dạy học và viết sách cho tới khi qua đời tại đây. Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất đời Trần Nghệ Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt tên thụy là Văn Trinh.

Học trò của chu văn an là ai

Đền thờ Chu Văn An

Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ “Quốc ngữ thi tập” bằng chữ Nôm và “Tiều ẩn thi tập” bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề “Tứ thư thuyết ước”. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển “Y học yếu giải tập chu di biên” gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y.

Nhưng cho tới nay người ta mới chỉ sưu tầm được có 12 bài thơ của ông chép trong “Toàn Việt thi lục” do Lê Quý Đôn sưu tập, còn hầu như bị thất lạc cả. Phan Huy Chú nhận xét: “lời thơ trong sáng u nhàn”. Đây là thơ Chu Văn An viết khi lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh. Nói chung thơ các ẩn sỹ thường có phong vị u nhàn, nhưng với Chu Văn An u nhàn chỉ là ở cái giọng thơ. Thơ ông chịu ảnh hưởng của đạo Phật như nhiều nhà thơ thời ấy, nhưng chủ yếu hơn, ông rất trọng hiện thực, tin vào sự chiêm nghiệm của mình, không thiên kiến, không theo những nếp nghĩ có sẵn. Tuy thơ ông ca ngợi sự lánh đời, chúng ta lắng nghe vẫn thấy ở phía sau một nỗi niềm chưa hẳn thoát tục “Thốn tâm thù vị như hôi thổ” (lòng đâu đã nguội như tro đất). Sau thất trảm sớ làm sao ông còn ở kinh đô được nên Ông ở ẩn là do tình thế bắt buộc, mang theo một chí nguyện không thành, muốn giúp đời mà không giúp được, chứ đâu phải vì ham thú tiêu dao hạc nội mây ngàn. Ông lánh thân nhưng lòng vẫn ở giữa đời.

Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của Ông là tấm gương sáng của thời phong kiến. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: “học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được”.

Câu đối thờ Chu Văn An mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục:

Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.

(Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh dong chơi há chẳng phải là cái thú vui của bậc hiền giả Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn núi sông vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân.)

NGÔ TẰNG GIAO
Xuân Canh Dần 2010

Tài liệu tham khảo:

  1. Thơ Văn Lý Trần (nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978)
  2. Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam
  3. Thivien.net
  4. Wikisource.org
  5. VietSciences.org

Tên đầy đủ Chu An (tên chữ Hán: 朱文安)
Tên hiệu Tiều Ẩn
Tên chữ Linh Triệt
Năm sinh và năm mất 1292 - 1370
Quốc tịch Đại Việt
Nơi sinh Làng Văn Thôn, Quang Liệt, huyện Thanh Đàm. Ngày nay, nơi sinh của ông thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Nơi mất Mất tại núi Phượng Hoàng. Ông được được an táng tại đền thờ Chu Văn An, núi Phượng Hoàng, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Nổi tiếng với Danh nhân văn hóa thế giới do UNESCO công nhận, vạn thế sư biểu (người thầy muôn đời) của Việt Nam.
Ông đã từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, dạy vua Trần Hiến Tông, mở trường học dân lập để phổ biến nho giáo.
Ngoài ra, ông dâng “Thất trảm sớ” xin vua chém đầu 7 tên gian thần.
Học trò nổi tiếng Lê Quát (Trạng Quét), Phạm Sư Mạnh.
Gia đình
Cha mẹ Chu Văn Thiện (cha), Nguyễn Thị Chiêm (mẹ).
Hồ sơ Media
Hồ sơ Wikipedia https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu_Văn_An

Chu Văn An là người thầy vĩ đại đã có công phổ biến giáo dục ở nước ta. Ông đã sáng lập trường học tư thục đầu tiên tại Việt Nam. Cả cuộc đời của Chu Văn An gắn liền với công tác giáo dục. Lời dạy vĩ đại của thầy Chu Văn An là về sự hy sinh không màng danh lợi cho đất nước và sự nghiệp "trồng người".

Ông luôn giữ vững quan điểm dạy học không phân sang hèn, học luôn phải đi đôi với hành. Ông đã dày công biên soạn cuốn giáo trình đầu tiên của Việt Nam để phục vụ việc dạy học. 

Ngôi trường tư thục đầu tiên mà ông sáng lập đã đào tạo nên vô số nhân tài cho đất nước, nhiều học trò giữ chức quan lớn trong triều. Trong số đó, Lê Quát và Phạm Sư Mạnh là hai người học trò nổi tiếng nhất. Thầy giáo Chu Văn An sở hữu cá tính độc đáo, thẳng thắn, cao thượng và rất được học trò yêu mến.

Học trò của chu văn an là ai


Dưới triều vua Trần Minh Tông, Chu Văn An thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Thế nhưng, ông không ra làm quan mà lại mở trường học Huỳnh Cung ở quê nhà. Sau đó, ông đã được vua mời đảm nhiệm chức tư nghiệp Quốc Tử Giám và dạy học cho thái tử Vượng (Trần Hiến Tông).

Triều đại nhà Trần dần suy yếu, tham quan nịnh thần ngày càng lộng hành.

Chu Văn An dâng “thất trảm sớ” lên vua Trần Dụ Tông xin chém đầu 7 tên gian thần nhằm giữ nghiêm kỷ cương triều chính. Tuy nhiên, vua Trần Dụ Tông đã không chấp nhận tấu sớ của ông.

thầy Chu cáo quan về núi Phượng Hoàng (TP.Chí Linh, tỉnh Hải Dương) tiếp tục dạy học, viết sách và nghiên cứu y học. Ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Tiều Ẩn Quốc ngữ thi tập, Tiều ẩn thi tập,...

Sau khi mất, ông được vua phong tước Văn Trinh Công và được thờ tại văn miếu Quốc Tử Giám bên cạnh các bậc thánh hiền.

Với những đóng góp to lớn cho nền giáo nước nhà, Chu Văn An được vinh danh là “vạn thế sư biểu” mang ý nghĩa “người thầy của muôn đời”. Ngày 16 tháng 4 năm 2019, Chu Văn An được Unesco công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

Chu Văn An được sinh ra ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm. Hiện nay, quê của ông thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Thanh Trì là vùng đồng bằng sông nước thuộc vùng châu thổ sông Hồng, nổi tiếng với dấu tích đồn lũy Bố Cái Đại Vương.

Theo thần tích được ghi chép tại Thanh Liệt, Chu Văn An sinh năm 1292, mất năm 1370. Từ đời ông trở về sau, dòng họ Chu đã không lập phả hệ. Theo sử sách ghi lại, Chu Đình Bảo đỗ đồng tiến sĩ khoa giáp thìn (1484), làm quan đời Lê Thánh Tông. Theo sách “Chu Văn An - Người thầy của muôn đời”, Chu Đình Bảo thuộc dòng họ của ông.

Ngày nay, họ Chu ở Thanh Liệt đã còn rất ít, phần lớn đã phải chuyển sang họ khác.

Sự nghiệp của Chu Văn An được chia thành 3 giai đoạn như sau:

Lúc này, trường học ở nước ta rất hiếm và dân chúng phần lớn phải chịu cảnh thất học. Cả nước chỉ có 4 ngôi trường nhưng đều không nhận học sinh bình dân. 

Trường Quốc Tử Giám chỉ dành cho hoàng thất, con quan lại theo học. Trường Tư Thiện Đường, Toát Trai Đường cũng chỉ dành cho con cháu quan lại. Ngoài ra, còn có ngôi trường dành riêng các nhà sư là trường Yên Tử.

Chu Văn An là người cương trực, không màng danh lợi. Ông đỗ đạt Thái học sinh (tương đương tiến sĩ ngày nay). Ông không làm quan mà về quê nhà, mở trường tư thục Huỳnh Cung, thu nhận tất cả các học sinh hiếu học không phân biệt sang hèn. 

Dưới triều đại nhà Trần, trường Huỳnh Cung đã tạo nên ảnh hưởng to lớn. Trường Huỳnh Cung được miêu tả có đầy đủ thư viện, lớp học, học sinh trên 3000 (Theo sách “Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - ba bậc thầy của giáo dục Việt Nam”)

Ngôi trường này đã giúp cho con em dân thường có cơ hội được học hành và thi cử. Tại trường Huỳnh Cung, thầy Chu đã cho phổ cập rộng rãi nho giáo với tôn chỉ “giáo kính, giáo trung, giáo văn”.

Ngôi trường có 2 học sinh xuất thân bình dân đỗ đạt Thái Học Sinh là Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, gây nên chấn động cho giới tri thức lúc bấy giờ.

>> Xem thêm bài viết về Phạm Sư Mạnh.

Sau khi trường Huỳnh Cung nổi tiếng, danh tiếng của Chu Văn An lan truyền đến tận kinh đô Thăng Long.

Ông được vua Trần Minh Tông mời về để đảm nhiệm Tư nghiệp Quốc Tử Giám và quản lý công tác giáo dục trên cả nước.

Lúc đầu, ông chủ yếu tập trung vào công việc giảng dạy cho thái tử Vượng (Trần Hiến Tông). Khi Trần Hiến Tông lên ngôi, ông tập trung vào công việc phát triển Quốc Tử Giám. 

Thầy Chu Văn An và Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đã cố gắng tham gia củng cố triều chính khi nhà Trần đang dần suy thoái. 

Năm 1341, vua Trần Hiến Tông qua đời, Trần Dụ Tông được lập làm vua. Ban đầu, Trần Dụ Tông còn nhỏ nên Thái Thượng Hoàng Trần Minh Tông chủ yếu quản lý triều đình.

Sau khi vua Trần Minh Tông mất, Trần Dụ Tông không còn chăm lo việc nước như trước. Vua lại đam mê cờ bạc, tửu sắc. Bấy giờ, quan lại tham nhũng, lộng quyền, chia bè kết phái, vận nước suy yếu. Những quan viên ngự sử vốn phải can ngăn vua nay lại im lặng.

Chu Văn An không thể làm ngơ trước tình cảnh đó. Ông đã dâng vua “Thất trảm sớ” xin chém đầu 7 tên gian thần nhằm giữ gìn kỷ cương triều đình. Tuy nhiên, vua Trần Dụ Tông chỉ im lặng, không hồi âm.

Vì vậy, ông đã treo mũ quan tại cửa Huyền Vũ rồi lui về ở ẩn tại Chí Linh, núi Phượng Hoàng (nay thuộc thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương).

Học trò của chu văn an là ai


Hình ảnh - Tượng thờ Chu Văn An

Khi lui về ở ẩn, ông vẫn tiếp tục công việc dạy học, viết sách. Những lúc rảnh rỗi, ông còn trồng thêm các cây thuốc quý và nghiên cứu y học. Nhiều học trò của Chu Văn An đã làm quan lớn vẫn đến thăm thầy. 

Khi vua Trần Nghệ Tông lên ngôi, ông đã chống gậy về kinh để chúc mừng. Vua có ý mời ông trở lại làm quan nhưng ông từ chối khéo.

Năm 1370, Chu Văn An qua đời tại núi Phượng Hoàng. Vua Trần Nghệ Tông nghe tin đã truy phong cho ông tước hiệu “Văn Trinh” và thờ tại văn miếu Quốc Tử Giám. Nhà văn Ngô Thế Vinh đã giải nghĩa 2 chữ “Văn Trinh” như sau: “ Văn, đức chi biểu giã. Trinh, đức chi chính cổ dã.” Chữ “Văn” là thể hiện thuần nhất bên ngoài của đức độ, trinh là sự biểu hiện cho sự chính trực.

Chu Văn An dù đỗ đạt cao nhưng vẫn mở trường dạy học mà không ra làm quan. Ông chủ trương đào tạo học sinh không phân biệt giàu nghèo, xuất thân. Ngôi trường Huỳnh Cung là nơi đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.

Nhờ đó, thầy Chu đã góp phần phổ cập giáo dục đến mọi tầng lớp trong xã hội. Thầy Chu sinh ra trong thời điểm mà Phật giáo ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp. Ông không hẳn bài trừ Phật giáo mà lên án mạnh mẽ những tệ nạn phát sinh như mê tín dị đoan, lười lao động. 

Ông đã biên tập bộ giáo trình Tứ Thư Thuyết ước, chắt lọc từ các bộ sách Nho giáo kinh điển gồm: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.

Tuy nhiên, ông không chỉ giáo dục lý thuyết suông mà còn chú trọng việc học đi đôi với hành.

Sách là nguồn tư liệu quý giá và có thể lưu giữ kiến thức. Vì vậy, Chu Văn An đã biên soạn khá nhiều sách. Ông đã biên soạn cuốn sách “Y thư lược giải” ghi chép lại công dụng chữa bệnh của một số loại cây đông y. Những tác phẩm của ông thể hiện rõ các quan điểm giáo dục còn mãi giá trị như sau:

  • Cùng lý: tìm hiểu rõ ràng sự vật, hiện tượng.
  • Chính tâm: luôn thể hiện tâm hồn trong sạch, chính trực, kiên quyết bài trừ thói hư tật xấu.
  • Tịch tà: chống lại tà thuyết vô căn cứ và mê tín dị đoan.
  • Cự bí: đấu tranh với mọi điều xấu ảnh hưởng đến tư tưởng.
  • Đến nay, những quan điểm giáo dục của Chu Văn An vẫn còn nguyên giá trị.

Khi Chu Văn An mở trường dạy học tại quê nhà, có một người học trò bí ẩn thường đến theo học. Thầy Chu khen cậu học trò chăm chỉ nhưng không rõ đến từ đâu.

Vì vậy, ông cho người theo dõi cậu học trò này. Thế nhưng, cậu học trò khi đi học về cứ đến đầm Đại thì lại biến mất. Thầy Chu cho rằng cậu học trò ấy là thủy thần.

Năm đó, thời tiết hạn hán kéo dài, dân chúng khắp nơi đói khổ không kể xiết. Thế nên, Chu Văn An cho gọi tất cả các học trò để hỏi xem có cách nào để cứu dân không. Cậu học trò hiếu học nhưng kỳ lạ đã thưa với thầy:

"Con vâng lời thầy là trái lệnh thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho".

Sau đó, cậu mài mực rồi dùng bút vẩy mực lên trời và cầu khẩn. Cuối cùng, cậu học trò tung bút, nghiên lên trời. Bỗng dưng mây đen ùn ùn kéo đến và trời đổ mưa.

Đêm hôm đó, người dân nghe thấy tiếng sét đánh suốt cả đêm. Hôm sau, dân chúng phát hiện xác một con thuồng luồng nổi lên trên đầm Đại. Chu Văn An hay tin bèn cho người lập đền thờ, làm lễ hậu táng long trọng.

Tương truyền, khu vực nghiên mực rơi xuống nước được gọi là đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, Hà Nội. Từ đó, ngôi làng này đã trở thành quê hương của nhiều văn nhân tài ba như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Chí, Ngô Thì Sĩ,...

Các tác phẩm của Chu Văn An bị ảnh hưởng bởi triết lý Phật giáo và Nho giáo. Những tác phẩm của ông thường thể hiện cảnh đẹp đất nước kết hợp với quan điểm chính trị. Hiện nay, phần lớn các tác phẩm của đã thất truyền.

Bộ giáo trình “Tứ Thư Thuyết ước” được ông biên soạn, chắt lọc tinh túy từ bộ sách tứ thư Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Tiếc thay, tứ thư thuyết ước cũng đã thất lạc.

Những bộ sách nổi tiếng do ông sáng tác gồm có:

  • Tứ thư thuyết ước
  • Tiều ẩn quốc ngữ thi tập
  • Tiều ẩn thi tập

Tác phẩm “Thất trảm sớ” mà ông dâng lên vua Trần Dụ Tông đã không còn. Ngoài ra, ông còn nghiên cứu y học và sáng tác “Y học yếu giải tập chu di truyền” ghi lại các phương thuốc chữa bệnh cơ bản.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn lưu giữ được 12 bài thơ của Chu Văn An được ghi chép trong sách “Thơ Văn Lý Trần tập 3, xuất bản 1978”:

  • Cung hoạ ngự chế động chương
  • Đề Dương công Thuỷ Hoa đình
  • Giang đình tác
  • Linh sơn tạp hứng
  • Miết trì
  • Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính
  • Sơ hạ
  • Thanh Lương giang
  • Thôn Nam sơn tiểu khế
  • Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân
  • Vọng Thái Lăng
  • Xuân đán

Một số câu nói hay của Chu Văn An như sau:

“ Lấy đức thắng người là mạnh. Lấy của thắng người là hùng. Lấy sức thắng người là mất”.

“Ta chưa từng nghe nói nước nào không coi trọng sự học mà khá lên được.” 

Học trò của chu văn an là ai


Năm 1997, chính phủ tỉnh Hải Dương đã bắt đầu trùng tu đền thờ Chu Văn An. Đến nay, đền thờ này đã hoàn thành. Ngày nay, khu tưởng niệm tọa lạc trên núi Phượng Hoàng là nơi du khách gần xa thường đến ghé thăm. Khu tưởng niệm Chu Văn An có 3 khu chính gồm: đền thờ, lăng mộ, điện Lưu Quang.

Bên trong ngôi đền có câu đối thờ như sau:

“Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc

Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong”

Tạm dịch:

“Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi chẳng phải là thú vui của bậc hiền giả? 

Núi Phượng vẫn còn lưu dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi ngưỡng mộ phong cách kẻ triết nhân”

Ngoài ra, tên của ông còn được sử dụng để đặt tên cho nhiều ngôi trường như:

  • Trường trung học phổ thông Chu Văn An, Thụy Khuê, Tây Hồ, thành phố Hà Nội (tên cũ trường Bưởi).
  • Trường THCS Chu Văn An tại quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
  • Trường đại học Chu Văn An tại tỉnh Hưng Yên.
  • Trường tiểu học Chu Văn An quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
  • Trường trung học phổ thông chuyên Chu Văn An thuộc tỉnh Bình Định.
Chu Văn An đã để lại di sản giáo dục quý giá cho đời sau. Càng hiểu thêm về cuộc đời của ông, chúng ta không khỏi khâm phục những nghĩa cữ cao đẹp, tinh thần vì dân vì nước. Holaai hy vọng bạn sẽ ủng hộ chúng tôi bằng cách share bài viết này.

Nguồn tư liệu tham khảo:

Sách “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”.

Sách “Chu Văn An - Người thầy của muôn đời” (NXB Chính trị quốc gia Sự Thật).

Sách “Thơ văn Lý Trần tập 3”.

Sách “Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - Ba bậc thầy của giáo dục Việt Nam”.