Đạo đức của những người cộng sản thể hiện như thế nào

Khẳng định Đảng ta là đạo đức, là văn minh bởi Đảng là một tổ chức chính trị chân chính, trung thực, trung thành, quang minh, chính đại, chung thủy, tôn trọng công lí và chính nghĩa, phấn đấu, hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng bao gồm những người ưu tú của xã hội kết thành một tổ chức có năng lực, trí tuệ cao, có trình độ văn hóa , lí luận đủ sức tiên phong dẫn đường cho nhân dân trong các giai đoạn phát triển của lịch sử.

Trong công tác xây dựng đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng về xây dựng đạo đức cách mạng. Bởi đạo đức là biểu hiện trực tiếp của tư tưởng, chỉ đạo tư duy và hành động của con người. Giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng tình cảm, xây dựng nhân cách người đảng viên, cũng như chăm lo củng cố xây dựng tổ chức đảng phải đặt trên nền tảng đạo đức cách mạng, bảo đảm hiệu quả vững chắc và lâu bền.

Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một trong những tư cách của người cách mạng là “ít lòng ham muốn về vật chất”, cái hữu hạn của giá trị vật chất so với cái vô hạn của giá trị tinh thần: Ai chẳng muốn no cơm, áo ấm. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người ta hết, còn tiếng tăm xấu hay tốt vẫn lan truyền đến ngàn đời về sau. Vì vậy, người cách mạng chớ để cho ham muốn vật chất tầm thường làm cho mình sa ngã.

Hồ Chí Minh không chỉ đề ra một hệ thống chuẩn mực đạo đức cách mạng cho các thế hệ học tập mà bản thân Người đã suốt đời gương mẫu thực hiện. Trước khi từ biệt chúng ta, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Thực tế cho thấy, sự suy thoái về đạo đức là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng. Sự kém cỏi về đạo đức sớm muộn cũng sẽ dẫn đến sự tha hóa về chính trị. Trong lãnh đạo, Đảng cũng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, Đảng đã nghiêm túc trong phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Điển hình như trong Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản năm 1930, Đảng đã tiến hành tự phê bình rất nghiêm khắc bằng sự “tự chỉ trích”, “chuyển hướng phong trào dân chủ 1936-1939”. Đại hội VI của Đảng năm 1986 khởi xướng công cuộc đổi mới trên toàn quốc và đã thu được những thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt. và gần đây nhất là Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã đề ra nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiên nay”. Nghị quyết chỉ rõ: “Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng đảng còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kì chậm khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”(1) và khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lí tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, cơ hội, tham nhũng lãng phí, tùy tiện vô nguyên tắc\"(2). Vì vậy, sau khi kiểm điểm, phê bình, tại Hội nghị Trung ương 6, khóa XI, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương, trước toàn Đảng, toàn dân về những yếu kém trong công tác xây dựng đảng và những suy thoái, hư hỏng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương cũng nghiêm túc tự phê bình và hứa trước nhân dân sẽ có gắng hết sức mình để từng bước khắc phục sữa chữa.

Dù luôn luôn tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, vào bản lĩnh của Đảng ta nhưng nhân dân vẫn chưa thật yên tâm trước những diễn biến đáng lo ngại hiện nay. Tình trạng sa sút nghiêm trọng về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền đang làm suy yếu Đảng, làm cho nhân dân xa rời Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) xác định.

Tham nhũng thường gắn liền với chức quyền nhưng không phải bất cứ ai có chức quyền cũng đều tham nhũng. Hoàn cảnh khách quan chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua chủ quan của con người, tức là tham nhũng hay không vẫn phụ thuộc phần lớn vào công tác giáo dục và sự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người. Điều đó cho thấy, chúng ta đã thiếu chủ động trong việc đề ra chiến lược về giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên khi bước vào đổi mới cơ chế, thực hiện mở cửa, hội nhập. Chúng ta chưa kế thừa tốt tấm gương đạo đức và phong cách làm việc của Bác Hồ trước mỗi bước chuyển của cách mạng. Vì vậy, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, toàn xã hội chúng ta đang chứng tỏ tính tất yếu khách quan của vấn đề giáo dục đạo đức và việc tu dưỡng, rèn luyện nhân cách người cán bộ, nhất là phẩm chất đạo đức, lối sống của người đảng viên.

Đã có không ít cán bộ, đảng viên cách mạng, thời trẻ chấp nhận gian khổ, hi sinh, hiến dâng tuổi thanh xuân và cả tính mệnh quý giá của mình cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một thời, họ đã là những anh hùng, là biểu tượng về lí tưởng và đạo đức cách mạng nhưng tiếc thay khi đã ngồi vào ghế quyền lực, họ cũng bị quyền lực làm cho tha hóa, trở thành những con người tầm thường, lợi dụng chức quyền để vơ vét, vì đồng tiền mà bước qua pháp luật, tiếp tay cho những kẻ phi pháp, đánh mất phẩm giá và sự nghiệp chính trị đã theo đuổi cả đời. Tình trạng đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, xin đừng đổ lỗi riêng cho mặt trái cơ chế thị trường tác động, hoặc do tàn dư của xã hội thực dân phong kiến. Công bằng mà nói, thời nào bên cạnh bọn “quan tham, ô lại” cũng có những “minh quan lương lại”. Những người này đọc sách thánh hiền cũng biết đề cao thanh liêm, công minh, chính trực, cũng tự xem mình là công bộc của dân. Nhưng đáng tiếc, số này không nhiều.

Đến vấn đề cần suy ngẫm, thực hiện

Bệnh trọng thì phải dùng thuốc đắng. Muốn giữ được nhân cách, đạo đức, muốn giữ nghiêm kỉ luật của Đảng, tránh hủ hóa, sai lầm, khuyết điểm thì phải dùng “bốn thứ thuốc” đặc trị: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Bởi có siêng năng mới hiểu được giá trị về một nắng hai sương của hạt gạo làm ra, mới biết tiết kiệm. Có giản dị, tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí thì mới giữ được thanh liêm. Đã có liêm thì sẽ giữ được ngay thẳng, chính trực, thấy đúng dám bảo vệ, thấy sai dám đấu tranh, vì không phụ thuộc vào thế lực nào, không sợ “há miệng mắc quai”, “rút dây động rừng”. Đồng thời phải giữ nghiêm kỷ cương, phép nước như Hồ Chí Minh khẳng định: Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.

Sự lành mạnh của đời sống đạo đức xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự nêu gương của người lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xưa nay, niềm tin của người dân Việt Nam luôn gắn liền với niềm tin vào tấm gương đạo đức của người cầm quyền. Đối với các dân tộc phương Đông thì “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(3). Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đó là trách nhiệm về nêu gương của cán bộ, đảng viên: “Đi đầu trong đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; nêu gương về đức khiêm tốn giản dị; tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần chúng”(4).

Chúng ta đã tích cực đấu tranh chống những những căn bệnh tham nhũng, tiêu cực đang diễn ra trên nhiều lĩnh vực song tình hình đó chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, trái lại, có nơi còn gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp. Như thế có nghĩa là một số phần tử cố tình lún sâu vào con đường suy thoái, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống. Tại sao như vậy? Phải chăng có hiện tượng “nhờn” pháp luật, coi thường kỉ cương, phép nước? Nếu chúng ta không kiên quyết với bọn giặc “nội xâm” này, liệu chúng ta có còn kiểm soát được tình hình đất nước? Đó là vấn đề mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cần suy ngẫm và thực hiện cho được những biện pháp đã đề ra.

Đại tá TS.Nguyễn Dân Quốc-Trung tá ThS.Nguyễn Ngọc Sáng

Sĩ quan Lục quân 2

----------------------------------------

(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, NXBCTQG, H. 2012, tr.21,22.

(3) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H. 2012, tr.552.

(4) Quy định số 101 QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.

Nguồn: http://www.xaydungdang.org.vn/

Đạo đức thuộc phạm trù ý thức xã hội và là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, đạo đức có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển xã hội. Khi định hình xã hội loài người từ buổi sơ khai đã ra đời đạo đức, vì đó là những chuẩn mực cần thiết điều chỉnh hành vi của con người, sự ứng xử của con người với nhau và với cộng đồng. 

  • Đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh

V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức cộng sản, coi đạo đức là một bộ phận trong cuộc đấu tranh nhằm cảo tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Người đòi hỏi những người cộng sản, nhất là thế hệ thanh niên phải tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức.

“Các đồng chí phải tự giáo dục mình thành những người cộng sản”, “Đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục tùng lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra” (Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tập 41, trang 366-367). Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ và sáng tạo ra xã hội mới.

Khi chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu Tư cách một người cách mệnh với 23 điểm căn bản. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, yêu cầu và nội dung xây dựng Đảng đặt ra nhiều vấn đề lớn lao và mới mẻ trong đó có rèn luyện đạo đức cách mạng.

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Chương III về Tư cách và đạo đức cách mạng, nhấn mạnh 12 điều về tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Người nêu bật những tính tốt của người cách mạng cần được bồi đắp: NHÂN, NGHĨA, TRÍ, DŨNG, LIÊM. Hồ Chí Minh nêu rõ:

“Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 5, trang 292), “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 5, trang 292).

Hồ Chí Minh thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên như non kém về lý luận, tư tưởng không vững vàng, thiếu kiên định mục tiêu chính trị, quan liêu trong phong cách lãnh đạo và khuyết điểm về đạo đức.

Biểu hiện kém đạo đức rất nặng nề và tập trung ở sự tham lam, lười biếng, xa hoa, hủ hóa, kiêu ngạo, hiếu danh, hẹp hòi, thiếu kỷ luật... Những thứ bệnh nguy hiểm đó đều bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân.

“Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 5, trang 298.).

Suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do, xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng - lý luận và tổ chức.

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nhiều cán bộ, đảng viên đã nêu tấm gương sáng về đạo đức cách mạng. Ở mỗi thời kỳ đấu tranh cách mạng, với chiến lược cách mạng cụ thể đã định hình những giá trị chuẩn mực đạo đức nổi bật.

Trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và các cuộc kháng chiến cứu nước đã làm nổi bật những tấm gương về nhân cách, đạo đức của những chiến sĩ cộng sản.

Trước hết đó là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp đấu tranh của Đảng và dân tộc vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đạo đức của Đảng là thật sự vì nước, vì dân, nêu cao lợi ích của đất nước, dân tộc, Tổ quốc trên hết, độc lập trên hết. Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức và hành động vì lợi ích của dân tộc.

Ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Toàn Đảng chung sức lãnh đạo đấu tranh làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc, đồng bào được tự do, hạnh phúc, bảo đảm quyền sống và thoát khỏi sự áp bức, bất công, đau khổ dưới sự thống trị của chế độ thực dân, phong kiến và các thế lực phản động.

Đạo đức của Đảng thể hiện ở quyết tâm và kiên cường đấu tranh chống mọi kẻ thù cướp nước và bán nước, cán bộ, đảng viên của Đảng là những chiến sĩ đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh đó. Cuộc đấu tranh đó đã diễn ra rất lâu dài và gian khổ với những thách thức nặng nề.

Cuộc đấu tranh đó phải đương đầu với những thế lực đế quốc, thực dân, phản động cực kỳ tàn bạo, có sức mạnh và mưu đồ hiểm độc. Thách thức nặng nề đó khiến cho toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao phẩm chất, ý chí đấu tranh vì phẩm giá, nhân cách con người và tinh thần tự tôn dân tộc. Bền bỉ đấu tranh vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy để đi tới chiến thắng là giá trị đạo đức của Đảng.

Đạo đức của Đảng của những người cộng sản là đức hy sinh, giữ vững ý chí và khí tiết của người cộng sản. Những người cộng sản đã hy sinh tuổi thanh xuân, cuộc sống gia đình, hạnh phúc riêng tư, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Dù biết phải hy sinh kể cả hy sinh tính mạng cũng không lùi bước. Luôn luôn đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh, nêu tấm gương sáng trước quần chúng nhân dân. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng đã hy sinh trong lao tù đế quốc như Trần Phú, Lê Hồng Phong hoặc ở trường bắn của quân thù như Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Vừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ,…

Đạo đức của Đảng trong đấu tranh giải phóng dân tộc đã góp phần rèn luyện nhiều thế hệ đảng viên, cán bộ và cả quần chúng trung kiên thành những lớp người đặc biệt mà uy vũ không thể khuất phục, sẵn sàng xả thân vì dân, vì nước, vì nghĩa lớn, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.

Những người cộng sản luôn luôn đứng ở hàng đầu trong những lớp người đặc biệt đó và được quần chúng nhân dân kính phục, tin cậy và noi theo. Giá trị đạo đức đó cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng, của cách mạng để đi đến thắng lợi.

Thời kỳ Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới, những giá trị đạo đức của thời cách mạng giải phóng và chiến tranh cứu nước tiếp tục được kế thừa, phát triển và lan tỏa. Đại hội XII của Đảng (1-2016) nhấn mạnh xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Lần đầu tiên nêu rõ nội dung xây dựng Đảng về đạo đức.

Cùng với xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, chú trọng xây dựng tổ chức Đảng và công tác cán bộ, phải rất đề cao giáo dục đạo đức cách mạng trong Đảng và cũng đòi hỏi từng cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đặc biệt học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Chặng đường mới cũng đặt ra nhiều thách thức mới từ vị trí cầm quyền của Đảng và trách nhiệm lớn lao của mỗi cán bộ, đảng viên đòi hỏi quyết tâm mới để vượt qua hoàn cảnh và vượt qua chính mình trước những cám dỗ vật chất, lợi ích cá nhân và tham vọng quyền lực.

Nhiều đồng chí đã giữ vững truyền thống đạo đức của Đảng, thật sự vì sự phát triển, phồn vinh của đất nước, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Nhưng cũng có một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, học tập dẫn tới sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10-2016) đã thẳng thắn chỉ ra.

Những hạn chế, khuyết điểm và sự suy thoái đó đã “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, trang 23).

Hơn lúc nào hết, hiện nay cần tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng để lãnh đạo đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Trước yêu cầu đó, rất cần thiết phải tổng kết sâu sắc hơn những vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức từ trước tới nay và đề ra được những tiêu chí về đạo đức của Đảng trong hoàn cảnh hiện nay.

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 15, trang 622).

Thấm nhuần lời dạy đó của Người, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, nhiệm vụ và mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức đang đặt ra bức thiết.

Cần thiết có sự thống nhất nhận thức và quyết tâm hành động góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc