Cách xếp loại học sinh lớp 6 mới

Tin cùng chuyên mục

  • Ngày 27/02: Số mắc Covid-19 mới tăng vọt lên 86.990 ca; Phú Thọ đăng ký bổ sung 14.838 F0
  • Khi làm Sổ đỏ người dân được cấp bao nhiêu m2 đất ở?
  • Mua nhà đất khi ly thân: Sổ đỏ ghi thế nào? Ly hôn có phải chia?
  • Trường hợp nào bị phong tỏa tài khoản ngân hàng?
  • Sẽ kéo dài thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ do Covid-19?

Ban hành Thông tư đánh giá học sinh trung học theo CT GDPT 2018

Cỡ chữ Màu chữ:

Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) vừa ban hành Thông tư số 22/2021/TT-BGDĐT Quy định về đánh giá học sinh trung học cơ sở (THCS) và học sinh trung học phổ thông (THPT). Thông tư có hiệu lực từ ngày 5/9/2021 và thực hiện theo lộ trình triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới (CT GDPT 2018) đối với cấp trung học.

Cụ thể, từ năm học 2021-2022 áp dụng Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT đối với lớp 6. Từ năm học 2022-2023 áp dụng tiếp cho lớp 7 và lớp 10. Từ năm học 2023-2024 thực hiện tiếp nối việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT đối với lớp 8 và lớp 11. Từ năm học 2024-2025 thực hiện đánh giá theo Thông tư này cho 2 lớp còn lại là lớp 9 và lớp 12.

Thông tư 22 ra đời sẽ thay thế cho hai Thông tư 58 và 26 quy định về đánh giá, xếp loại học sinh THCS và THPT được ban hành trước đó.

Đánh giá vì sự tiến bộ của người học

Kế thừa Thông tư 26/2020/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS và THPT, Thông tư 22 yêu cầu việc đánh giá phải vì sự tiến bộ của người học. Theo đó, việc đánh giá căn cứ vào yêu cầu cần đạt được quy định trong CT GDPT; bảo đảm tính chính xác, toàn diện, công bằng, trung thực, khách quan. Việc đánh giá thực hiện bằng nhiều phương pháp, hình thức, kĩ thuật và công cụ khác nhau, kết hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì. Hoạt động này phải coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong rèn luyện và học tập của học sinh; không so sánh học sinh này với học sinh khác.

Mục đích của việc đánh giá là xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh theo yêu cầu cần đạt được quy định trong CT GDPT. Hoạt động này nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời để học sinh điều chỉnh hoạt động rèn luyện và học tập; cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên thông qua đó cũng có sự điều chỉnh hoạt động dạy học cho phù hợp.

Nhiều môn chỉ đánh giá bằng nhận xét

Thông tư 22 quy định 2 hình thức đánh giá là bằng nhận xét và bằng điểm số. Trong đó, việc đánh giá bằng nhận xét, ngoài ý kiến chính của giáo viên, còn có sự tham gia phối hợp của học sinh, phụ huynh, và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có tham gia vào quá trình giáo dục học trò. Cả đánh giá bằng nhận xét và điểm số đều được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ.

Tuy nhiên, khác với các Thông tư quy định về đánh giá học sinh THCS và THPT trước đây, Thông tư 22 cho phép một số một chỉ thực hiện đánh giá bằng nhận xét. Cụ thể, các môn: Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, kết quả học tập theo môn học chỉ được đánh giá bằng nhận xét theo một trong hai mức: Đạt, Chưa đạt.

Đối với các môn học còn lại, kết hợp giữa đánh giá bằng nhận xét với đánh giá bằng điểm số. Kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10 và phải làm tròn đến chữ số thập phân thứ nhất nếu điểm là số nguyên hoặc số thập phân.

Bỏ tính điểm trung bình tất cả các môn học

Nếu Thông tư 58 có quy định về điểm trung bình học các môn để lấy căn cứ xếp loại học lực học sinh trong học kỳ và cả năm, thì ở Thông tư 22 mới, quy định này đã không còn. Điểm trung bình học kì và năm học chỉ được tính của riêng cho từng môn học.

Thay vì xếp loại học lực Giỏi, khá, trung bình, yếu, kém như Thông tư 58, thì Thông tư 22 vì đánh giá sự phát triển năng lực của người học theo yêu cầu cần đạt của chương trình, nên đánh giá kết quả học tập của người học theo 4 mức “Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt” đối với môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số và 2 mức “Đạt, Chưa đạt” đối với môn chỉ đánh giá bằng nhận xét.

Khi tất cả các môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức Đạt; tất cả môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số có điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm đạt từ 6,5 điểm trở lên, trong đó có ít nhất 06 môn học có đạt từ 8,0 điểm trở lên, thì học sinh được đánh giá kết quả học tập là “Tốt”.

Nếu học sinh có kết quả học tập tất cả các môn đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức Đạt, đồng thời tất cả các môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số có điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm đạt từ 5,0 điểm trở lên, trong đó có ít nhất 06 môn đạt từ 6,5 điểm trở lên, thì được đánh giá mức “Khá”.

Kết quả học tập của học sinh được đánh giá mức “Đạt” khi có nhiều nhất 01 môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức “Chưa đạt” và có ít nhất 06 môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số có điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm đạt từ 5,0 điểm trở lên, không có môn học nào dưới 3,5 điểm.

Các trường hợp còn lại, học sinh được đánh giá là “Chưa đạt”.

Việc đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh ở Thông tư 22 được đánh giá theo một trong 04 mức: Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt; thay vì xếp loại Hạnh kiểm: Tốt, khá, trung bình, yếu như Thông tư 58.

* Xem nội dung Thông tư trong file đính kèm./.

Cách xếp loại học sinh lớp 6 mới
Gửi email
Cách xếp loại học sinh lớp 6 mới
In trang

Tweet

Phương pháp đánh giá, xếp loại học sinh kể từ năm học 2021-2022 sẽ thay đổi thế nào?

Xã hội 16:25 | 20/08/2021

Năm học 2021-2022, học sinh khối lớp 6 sẽ được áp dụng cách tính điểm mới đối với các môn học theo Thông tư 22/2021/TT-BGDDT mới ban hành của Bộ GD&ĐT.

Cụ thể, học sinh THCS và THPT sẽ được đánh giá kết quả rèn luyện và kết quả học tập thông qua hình thức đánh giá bằng nhận xét và đánh giá bằng điểm số bắt đầu từ ngày 5-9-2021 theo lộ trình: từ năm học 2021-2022 đối với lớp 6; từ năm học 2022-2023 đối với lớp 7 và lớp 10; từ năm học 2023-2024 đối với lớp 8 và lớp 11; từ năm học 2024-2025 đối với lớp 9 và lớp 12.

Cách xếp loại học sinh lớp 6 mới
Phương pháp xếp loại học sinh sẽ được thay đổi kể từ năm học 2021-2022, bắt đầu với khối lớp 6. (Ảnh: Khánh Huy)

Không đánh giá điểm số một số môn học

Theo quy định mới, các môn học được đánh giá bằng nhận xét gồm: Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp. Kết quả học tập sẽ được đánh giá theo một trong hai mức là Đạt hoặc Chưa đạt. Các môn học còn lại trong Chương trình giáo dục phổ thông (CT GDPT) sẽ được đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số. Kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10.

Theo đó, đối với hình thức đánh giá bằng nhận xét, giáo viên sẽ dùng hình thức nói hoặc viết để nhận xét việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh; nhận xét sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của học sinh trong quá trình rèn luyện và học tập; đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.

Còn với hình thức đánh giá bằng điểm số, giáo viên dùng điểm số để đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh. Đánh giá bằng điểm số được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì thông qua các hình thức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh phù hợp với đặc thù môn học.

Đối với một môn học, mỗi học sinh được kiểm tra, đánh giá nhiều lần, trong đó chọn một số lần kiểm tra, đánh giá phù hợp để sử dụng trong việc đánh giá kết quả học tập môn học. Đối với môn học đánh giá bằng nhận xét, mỗi học kì chọn 2 lần. Đối với môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số, chọn số điểm đánh giá thường xuyên mỗi học kì như sau: môn học có 35 tiết/năm học chọn 2 điểm đánh giá thường xuyên; môn học có trên 35 tiết/năm học đến 70 tiết/ năm học: chọn 3 điểm; môn học có trên 70 tiết/năm học chọn 4 điểm.

Thay đổi cách tính điểm, xếp loại học lực

Theo quy định mới của Bộ GD&ĐT, học sinh sẽ được đánh giá kết quả học tập dựa trên kết quả đánh giá của từng môn học trong từng học kì, cả năm học thay vì tính trung bình cộng tất cả các môn học như trước đây. Theo đó, kết quả học tập trong từng kì và cả năm học được đánh giá theo một trong 4 mức: Tốt, Khá, Đạt và Chưa đạt.

Cụ thể, học sinh được xếp mức Tốt khi tất cả các môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức Đạt; đồng thời tất cả các môn học đánh giá bằng nhận xét lết hợp điểm số có điểm trung bình môn học kì, cả năm từ 6,5 trở lên, trong đó có ít nhất 6 môn học có ĐTB môn học kì, cả năm đạt từ 8,0 trở lên.

Học sinh đạt mức Khá khi tất cả các môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức Đạt và ĐTB môn học kì, cả năm từ 5,0 trở lên, trong đó có ít nhất 6 môn học có ĐTB môn học kì, cả năm đạt từ 6,5 trở lên.

Học sinh đạt mức Đạt khi có nhiều nhất 1 môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá Chưa đạt và có ít nhất 6 môn học có ĐTB môn học kì, cả năm từ 5,0 trở lên, không môn nào có ĐTB môn học kì, cản năm dưới 3,5. Các trường hợp còn lại ở mức Chưa đạt.

Duy Linh