Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN bao gồm

Từ khóa liên quan số lượng

Câu hỏi ngày hỏi

Ngày hỏi:03/01/2019

 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010  Ngân hàng nhà nước

Ban biên tập hãy giúp tôi giải đáp thắc mắc sau đây: Có những công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia nào? Mong sớm nhận được sự phản hồi. Xin chân thành cảm ơn!

Nội dung này được Ban biên tập Thư Ký Luật tư vấn như sau:

  • Tại Điều 10 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 có quy định về những công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia như sau:

    Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ.

    Trong đó,

    + Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.

    + Lãi suất: Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.

    + Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam.

    + Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

    + Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán giấy tờ có giá với các thành viên.

    Trên đây là nội dung giải đáp về những công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

    Trân trọng!


Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A lời nói đầu Khi có pháp lệnh Ngân hàng, hệ thống Ngân hàng Việt nam được hìnhthành và thực hiện theo hai cấp đã cho phép Ngân hàng Nhà nước đóng vaitrò Ngân hàng Trung ương và từ đây ra đời một hệ thống chính sách tiền tệđược đúc rút từ kinh nghiệm của nhiều nước trên Thế giới. Ngân hàng Nhànước với chức năng quản lý Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại, tổ chứctín dụng đã từng bước tiếp cận với cơ chế mới trong việc xây dựng và điềuhành chính sách tiền tệ Quốc gia thông qua các công cụ trực tiếp hoặc giántiếp như hạn mức tín dụng, nghiệp vụ tiêu thụ mở hoặc cạnh tranh dự trữ bắtbuộc.Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương thời gian qua đã góp phầnnhất định vào sự phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ đất nước. Tuy nhiên trongviệc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trởngại. Trước hết là sự am hiểu về một phương pháp điều hành mới còn nhiềuhạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điềuhành chính sách tiền tệ theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy đối với Ngânhàng Trung ương việc lùa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chínhsách tiền tệ Quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là Èn số và chắc chắn cónhững bắt cập là điều khó tránh khỏi.Chính vì thế, chuyên đề này tập trung phân tích nội dung các công cụ,thực hiện điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam, kinh nghiệm trên Thế giớivà một số điều kiện để chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sanggián tiếp, góp phần nâng cao tính hiệu quả và sự linh hoạt của chính sách tiềntệ.1Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A CHƯƠNG I: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CÁC CÔNG CỤĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.I. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VỚI VAI TRÒ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.Ở tất cả các nước Ngân hàng Trung ương được sử dông nh mét công cụquan trọng để điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. Ngân hàng Trung ương tuykhông tham gia vào thị trường tài chính nhưng nó quản lý mọi hoạt động vềtiền tệ tín dụng của quốc gia. Điều hành chính sách tiền tệ là một trong nhữngnghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Trung ương.Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trungương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ tronglưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội củađất nước trong một thơì kỳ nhất định. Các chính sách tiền tệ của các Quốc giatrên thế giới hiện nay đều hướng vào các mục tiêu chủ yếu là:- Tạo ra và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế: Đây là mục tiêu hàng đầu vàquan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Vì rằng mục tiêu này là mục tiêu baotrùm để giải quyết hàng loạt các mục tiêu khác.- Ổn định giá cả: Vì ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vimô còng nh vĩ mô. Ổn định giá cả giúp cho Nhà nước hoạch định đượcphương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sựbiến động của giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định gópphần thu hót vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanhnghiệp còng nh các cá nhân phát triển sản xuất đem lại nguồn lợi cho mìnhcòng nh xã hội.2Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A - Tạo công ăn việc làm: Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chínhsách tiền tệ cũng hướng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mọi thànhviên trong xã hội, nhất là đối với một quốc gia chưa phát triển, năng suất laođộng thấp, dân số tăng với tốc độ cao thì tỷ lệ thất nghiệp cao là tất yếu. Vìvậy chính sách tiền tệ phải tập trung vào tạo ra công ăn việc làm nhiều hơnnhằm giảm thất nghiệp. Bằng các biện pháp tác động để tăng cường vốn đầutư, mở rộng các hoạt động cho nền kinh tế. - Cân bằng cán cân thanh toán.Tuy nhiên trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế ở từng nước, trình độquản lý và các vấn đề kinh tế xã hội của nước mà chính sách tiền tệ hướng ưutiên vào các mục tiêu khác nhau. Mặt khác cùng một lúc chính sách tiền tệkhông thể đạt được tất cả các mục tiêu vì có khi các mục tiêu mâu thuẫn vớinhau. Chẳng hạn: Về mặt dài hạn không có mâu thuẫn giữa các mục tiêu củachính sách tiền tệ nhưng trong ngắn hạn có những mục tiêu phù hợp nhưngcũng có mục tiêu mâu thuẫn, thậm chí đối nghịch.Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm lạmphát để đảm bảo giá trị đồng tiền, điều đó dẫn đến lãi suất tăng lên, khôngkhuyến khích đầu tư và thất nghiệp có xu hướng tăng trong khi muốn duy trìmột tỷ lệ thất nghiệp thấp thì phải khuyến khích đầu tư, dẫn đến thực thichính sách tiền tệ mở rộng làm tăng giá.Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu công ăn việc làm và mục tiêu ổn định giácòn được thể hiện do mức cung tiền tệ nhằm thoả mãn mức cầu tiền thực tếdẫn đến giá cả hàng hoá tăng theo Để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ Ngân hàng Trungương phải xác định mục tiêu trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng đượctình hình thực hiện các hoạt động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuốicùng, hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy được kết quả cuối cùng của các mục3Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A tiêu đó. Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi phối dòng tiềnchu chuyển và khối lượng tiền.Xét cho cùng Ngân hàng Trung ương có thể thực thi hai loại chính sáchtiền tệ phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế:- Chính sách tiền tệ mở rộng: Là chính sách tăng tiền cung ứng vào lưuthông, dẫn đến trong lưu thông thừa tiền. Trong trường hợp khi nền kinh tế códấu hiệu của sự suy thoái, Ngân hàng Trung ương sẽ hoạch định theo hướngchính sách mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạocông ăn việc làm cho người lao động.- Chính sách tiền tệ thắt chặt: Là chính sách thu hẹp lượng tiền cung ứngdẫn đến trong lưu thông khan hiếm tiền. Trong trường hợp nền kinh tế cónhứng dấu hiệu lạm phát gia tăng, thì Ngân hàng Trung ương sẽ hoạch địnhchính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quámức của nền kinh tế.Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này Ngân hàng Trung ương có thể sửdụng nhiều loại ccông cụ tiền tệ trong tầm tay của mình, các công cụ đượcchia thành công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.II. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các biện pháp mà Ngân hàngTrung ương có thể sử dụng để tác động vào các mục tiêu của chính sách tiềntệ.Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương đã sử dụng hàngloạt các công cô nh công công cụ tài cấp vốn, lãi suất tín dụng dự trữ bắtbuộc, nghiệp vụ thị trường mở Mỗi loại công cụ đều có cơ chế tác độngriêng và đem lại những kết quả trên những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiêncác công cụ này đều nhằm ảnh hưởng trực tiếp hany gián tiếp đến lượng tiềncung ứngvà lãi suất để từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.4Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A 1. Công cụ trực tiếp:Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượngvà Ngân hàng Trungương kiểm soát công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi Ngân hàng Trungương sử dụng công cụ trực tiếp, nó tác động vào mục tiêu trung gian, từ mụctiêu trung gian đã tác động đến tổng cầu.1.1. Hạn mức tín dụng:Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộccác tổ chức tín dụng phải tôn trọng trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện phápnày cho phép Ngân hàng Trung ương Ên định trước khối lượng tín dụng phảicung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm conđường để đưa nó vào nền kinh tế.Việc quy định hạn mức tín dụng thường được Ngân hàng Trung ương sửdụng khi nền kinh tế có nhiều biến động để kiểm soát khối lượng tiền tronglưu thông đảm bảo cho sự bình ổn của tiền tệ, giá cả. Hạn mức tín dụng séphát huy được tác dụng trong điều kiện có lạm phát. Song trong nền kinh tếthị trường, cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉđược áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ của các Ngân hàngthương mại, từ đó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vìmỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của các Ngân hàng thương mạithì tương ứng với nó là một lượng nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnhhưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàngTrung ương tăng hạn mức tín dụng dẫn đến tăng khả năng tạo tiền qua hệthống Ngân hàng, do đó làm tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mứctín dụng tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ nên tác động vào lượng tiền cungứng.5Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A 1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay.Ngân hàng Trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và chovay buộc các Ngân hàng kinh doanh phải thi hành.Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hót được nhiều tiền gửi làm gia tăngnguồn vốn cho vay. Ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tíndụng. Song biện pháp này sẽ làm cho Ngân hàng thương mại mất tính chủđộng linh hoạt trong kinh doanh.Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mứclãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn khi cần hạn chế đầu tư,Ngân hàng Trung ương Ên định mức lãi suất cao.2. Các công cụ gián tiếp.Công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của nó được là nhờ cơchế thị trường (Hay công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tácđộng vào mục tiêu trung gian thông qua việc điều chỉnh các mục tiêu cuốicùng.2.1. Dự trữ bắt buộc.Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng giử tại Ngân hàng Trungương để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷlệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tuy theo tính chất và thời hạnmà các tổ chức tín dụng huy động được.Dự tữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự tứ bắt buộc do Ngânhàng Trung ương quy định bằng việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụnglàm giảm khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng thương mại, từ đó giảmlượng tiền trong lưu thông, góp phần giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảmcung xã hội. Như vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng cao mức độ an toàn tronghoát động của các Ngân hàng thương mại càng cao, tuy nhiên nếu tỷ lệ dự trữbắt buộc quá cao đến mức nào đó sẽ làm cho các Ngân hàng thương mại mất6Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A khả năng tạo tiền - mét khả năng cần có của Ngân hàng. Trong trường hợpgiảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng thươngmại sẽ tăng lên, đẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăngcung xã hội để có thể cân đối tăng cầu về tiền.2.2. Lãi suất tài chiết khấu.Chính sách tài chiết khấu thể hiện qua việc Ngân hàng Trung ương cungứng vốn tín dụng cho Ngân hàng thương mại. Chính sách tài chiết khấu đượcthực hiện thông qua các cửa sổ chiết khấu. Ngân hàng Trung ương áp dụng lãisuất chiêt khấu và qui định các điều kiện để tài chiết khấu cho các tổ chức tíndụng.Ngân hàng Trung ương áp dụng chính sách tài chiết khấu: Là lãi suất màNgân hàng Trung ương áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá của Ngânhàng thương mại. Đây là loại cho vay có đảm bảo.Lãi suất tài chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tài chiếtkhấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu tư của Ngân hàng thươngmại, gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, thu hẹp khả năng cho vaycủa Ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Việctăng lãi suất tài chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo, nhà kinh doanh sẽbiết tác động của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách chiết khấu tốithị trường. Người đầu tư giám sát sự thông báo lãi suất của Ngân hàng Trungương để dự tính được xu hướng thay đổi lãi suất để tìm biện pháp phòngngõa, ngăn chặn làm thay đổi tiền gửi và lãi xuất cho vay đồng thời tác độnggiá chứng khoán.Đi kèm với lãi suất tài chiết khấu Ngân hàng Trung ương còn qui địnhhạn mức tài chiết khấu tức là qui định cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã quiđịnh để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các tổ chức tín dụng vay của Ngânhàng Trung ương. Đồng thời Ngân hàng Trung ương còn qui định các tiêuchuẩn thể hiện tài chiết khấu nh về thời hạn về thể loại giấy tờ có giá, chất7Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A lượng giấy tờ có giá, và uy tín của tổ chức tín dụng khi vay vốn của Ngânhàng Trung ương.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đố người ta thực hiện việc muabán các công cụ tài chính ngắn hạn.Nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sáchtiền tệ cả về mặt giá và lượng.Về mặt lượng: Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ củaNgân hàng thương mại. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện việc muachứng từ có giá trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của Ngân hàng thươngmại tăng lên và khi Ngân hàng Trung ương bán các chứng từ có giá trên thịtrường mở dẫn đến dự trữ của Ngân hàng thương mại giảm đi. Như vậy khiNgân hàng Trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nã sẽ tác động vàodự trữ của Ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền cungứng.Về mặt giá: Khi Ngân hàng Trung ương mua các giấy tờ có giá sẽ làmtăng dự trữ của Ngân hàng thương mại , cung vốn tín dụng cũng tăng lên.Điều đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn làm lãi suất ngắn hạncó xu hướnggiảm xuống và tác động vào lãi suất có kỳ hạn giảm xuống. Bên cạnh đóNgân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá trị trên thị trường mởsẽ ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá, đẫn đến có sựchuyển dịch vốn đầu tư làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường, tác động vàocung cầu vốn trên nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện mua, bán các chứng từ có giá trênthị trường mở sẽ tác động vào giá cả của chứng từ cá giá và khi Ngân hàngTrung ương thực hiện can thiệp vào giá cả của các chứng từ có khối lượng8Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A chiếm tỷ trọng lớn thì vai trò can thiệp của Ngân hàng Trung ương càng có ýnghĩa quan trọng tác động vào lượng tiền cung ứng.CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆTNAM.I. BỐI CẢNH CHUNG.Đảng Cộng Sản Việt nam lần thứ 6 đã đánh dấu sự chuyển đổi từ cơ chếkế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.Bước ngoặt này là tiền đề khách quan, là điều kiện mới cho cải cách tổ chứchoạt động hệ thống Ngân hàng và định hướng chính sách tiền tệ ở Việt nam.Từ năm 1990, sau khi 2 pháp lệnh Ngân hàng được ban hành (pháp lệchvề Ngân hàng Nhà nước và pháp lệch Ngân hàng - Hợp tác xã tín dông -Công ty tài chính), hệ thống Ngân hàng Việt nam chuyển đổi từ một cấp sang2 cấp, phân định ró chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanhtiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống Ngânhàng của nền kinh tế tiền tệ.Chính sách tiền tệ được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụthể: chính sách tín dụng tạo ra nhiều công cụ huy động vốn và đồng thời mởrộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất (xoá bỏ bao cấpqua lãi suất cho vay, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãisuất huy động và cho vay phù hợp với sự biến động của chỉ số lạm phát );chính sách quản lý ngoại hối và một số các công cụ hỡ trợ khác.Đến tháng 10 năm 1998, luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chứctín dụng bắt đầu được thực thi, thay thế hai pháp lệnh năm 1990 nhằm giúp9Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A hoạt động của hệ thống Ngân hàng tự do hơn, thông thoáng hơn phù hợp vớithay đổi lớn lao trong hệ thống Ngân hàng.II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN.Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là tổng hoà các giải phápđảm bảo ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ , góp phần giải quyết các mụctiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đứng trên phương diện này, thời kỳ 1986 đến naycó thể chia làm 4 giai đoạn.1. Giai đoạn 1986 - 1988.Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổngcầu luôn vượt tổng cung. Nền kinh tế đang ở giai đoạn khủng hoảng do thiếuhụt ngân sách. Nh vậy Nhà nước đã bành trướng tăng tiền làm cho lạm phátđạt kỷ lục 3 con số. Nhiệm vụ trung tâm lúc này là chống lạm phát. Do vậy đãcó 2 thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ: Đưa tỷ giá hối đoái nên ngang mứcgiá thị trường và thi hành lãi suất thực dương nhằm tạo nên xung lực mạnhmẽ làm đảo lộn tình hình trên thực tế, hai biện pháp này đã đẩy lùi được lạmphát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân vào đồng tiền tạođộng lực để thực hiện đổi mới.2. Giai đoạn 1989 -1991.Đây là giai đoạn nền kinh tế đong trong quá trình chuyển đổi, tuy cácchính sách kinh tế mới đã cắt được lạm phát cao nhưng lạm phát năm 1990 -1991 vẫn lên tới 60%. Nhà nước đã thực hiện những biện pháp thắt chặt chitiêu tài chính, tiết kiệm chi, giảm bội chi, tăng cường hoạt động của các Ngânhàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng. Đặc biệt việc cảicách hệ thống thuế đã tăng cường các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.3. Giai doạn 1992 - 1995.Chính sách tiền tệ ở Việt nam được coi là công cụ quản lý vĩ mô của Nhànước về tiền tệ do Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm soạn thảo và thực10Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, ổn định tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ nàymục tiêu của chính sách tiền tệ đặt ra là: ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sứcmua đối nội và đối ngoại của đông tiền, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làmcao. Nhận thức nội dung chủ yếu của thời kỳ này thông qua các chính sách:Chính sách cung ứng và điều tiết khối lượng tiền, chính sách ngoại hối, chínhsách tạm ứng cho ngân sách, chính sách cung ứng và điều tiết tiền lúc này đãnhận thức được khối tiền tệ:M1: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thông Ngân hàng và tiền gửi không kỳhạn tại Ngân Hàng.M2: Gồn M1 và tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn.M3: Gồn M2 và các loại tiền gửi các định chế tổ chức khác.L: Gồm M3 và các giấy tờ có giáKhối lượng tiền cung ứng tăng thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đótrong quá trình xác định chi tiêu này Ngân hàng Nhà nước quán triệt cácnguyên tắc:- Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khối lượng tiền tệ tương ứngvới mức tăng trưởng kinh tế.- Khối lượng tiền cung ứng có tính đến phạm vi tỷ lệ lạm phát.- Khối lượng tiền cung ứng dùa vào ngoại hối trong tay người cư trú.- Tiền cung ứng chịu ảnh hưởng bởi tốc đọ lưu thông tiền tệ theo côngthức:Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm bao gồm tiền mặt, cácloại tiền gửi ở Ngân hàng nhằm dành cho nhu cầu đầu tư tín dụng cho nền11 P x QV= M GNPV= MTiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách. Khối lượng tiền cungứng tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng, điều quan trọng là Ngân hàngNhà nước phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, giá cả và tỷ giá hốiđoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho sao cho khối lượng tiềntăng hay giảm không làm ảnh hưởng đến giá cả hoặc thiếu phương tiện lưuthông gây cản trở cho lưu thông hàng hoá. Việc điều chỉnh khối lượng tiềncung ứng theo tín hiệu cuả thị trường, thông qua nhu cầu đối ứng xuất phát từcác kênh tạo tiền (Tín dụng, Ngân hàng, thị trường ngoại hối, thị trường mở).Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: Kiểm soát lượng tiền cung ứngthông qua chỉ tiêu hạn mức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng chocác Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động tài cấp vốn.Chính sách ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp quản lýngoại hối bao gồm việc sử dụng tỷ giá nhằm điều tiết thị trường ngoại hôí,quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngânhàng Nhà nước sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý, phản ánhsức mua của đồng tiền, ổn định giá cả.Các công cụ của chính sách thời kỳ này bao gồm:+ Lãi suất: Lãi suất tài cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại vay khihọ có nhu cầu tiền Trung ương để thanh toán cho khách hàng rút tiền mặt,thanh toán cho Ngân hàng khác, mua ngoại tệ của Ngân hàng Trung ươnghoặc của thị trường.Khung lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định để chỉ đạo điều tiết lãisuất, huy động tiền gửi và lãi suất cho vay của các Ngân hàng kinh doanh.Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu, lãi suất cho vay tốiđa hoặc chỉ khống chế trần lãi suất cho vay. Tất cả các loại lãi suất trên đều cóảnh hưởng đến lãi suất thị trường.12Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A + Dù trữ bắt buộc: để kiểm soát việc tạo tiền của các Ngân hàng thươngmại và điều tiết khối lượng tind dông cho nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nướcViệt nam áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc. Tiền DTBB = Tỷ lệ DTBB x Số dư tiền gửi huy độngTheo pháp lệnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10 - 30% nhưng Ngân hàng Nhànước thường xuyên áp dụng ở mức 10% cho tất cả tiền gửi huy động. Sau đócó thể quy định riêng cho tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Thờikỳ này còn áp dụng cơ cấu dự trữ bắt buộc bao gồm: Tiền gửi trên tài khoảntại Ngân hàng Nhà nước và tiền mặt ngân phiếu tại quỹ của Ngân hàngthương mại, cũng có khi cho phép cả khoản mua tín phiếu kho bạc cũng đượccoi là dự trữ bắt buộc và để giảm bớt gánh nặng dự trữ bắt buộc cho các Ngânhàng.+ Hạn mức tín dụng: Là công cụ để Ngân hàng Nhà nước khống chếmức tăng lượng tiền cung ứng. Trong thời kỳ này công cu hạn mức tín dụngđược hiểu là mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước sử dụng để cấp cho nềnkinh tế thông qua hệ thông hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng kết hợp vớisử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu để khống chế mức tăngkhối lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu của kiểm soát lạm phát.Tóm lại, trong giai đoạn này, nền kinh tế đã đi dần vào trạng thái ổn địnhvà tăng trưởng cao: tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1994 đạt 8,8%, năm 1995đạt 9,5%. Nhân tố quyết định trạng thái ổn định này là do Nhà nước qua kinhnghiệm điều hành đã nhận thức được rõ tác dụng của cung ứng tiền tệ lên lạmphát nên đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng và thực hiệnthành công chính sách tiền tệ.Giai đoạn này đã tạo ra nhiều yếu tố quyết định cho chiều hướng thuậnlợi cho chính sách tiền tệ.và sự phát triển trong tiền tệ ở giai đoạn sau.4. Giai đoạn từ 1996 đến nay. 13Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A Tháng 12/1997 bộ luật Ngân hàng boa gồm luật Ngân hàng Nhà nước vàluật tổ chức tín dụng thì hệ thống Ngân hàng được tiếp tục đổi mới và bướcvoà thời kỳ đổi mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt. Theo đó chínhsách tiền tệ mới bắt đầu xây dựng và từng bước được đi vào thực hiện, di dântừ thấp đến cao phú hợp với tình hình thực tế. Theo luật Ngân hàng Nhà nướcViệt nam thì các công cụ chính sách tiền tệ boa gồm:- Dù trữ bắt buộc. - Lãi suất.- Tài cấp vốn.- Thị trường mở- Tỷ giáHiện nay thực tế vận hành chính sách tiền tệ Quốc gia Ngân hàng Nhànước Việt nam sử dụng các công cụ:+ Công cụ hạn mức tín dụng: Công cụ này được Ngân hàng Nhà nước ápdụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1994 đã có tác dụng hiệu quảđến tốc độ tăng lượng tiền cung ứng và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiêntrong những năm gần đây việc áp dụng công cụ này đã mất dần vai trò của nó.Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩytăng trưởng kinh tế nhưng nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạothêm những khó khăn cho các Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng dovậy từ quý II năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã không sử dụng công cụthường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.+ Áp dông quy chế dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng và các tổ chứctín dụng khác có huy động tiền gửi để điều tiết khối lượng tiền cung ứng theonăm kế hoạch.14Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A + Công cụ tài cấp vốn: Ngân hàng Nhà nước thực hiện tài cấp vốn ngắnhạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các Ngân hàng thươngmại theo các hình thức:\ Cho vay theo hồ sơ tín dụng.\ Chiết khấu, tài chiết khấuthương phiếu và các chứng từ có giá ngằnhạnkhác.\ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các chứng từ có giángắn hạn khác.+ Công cụ lãi suất: Chính sách lãi suất được Ngân hàng Nhà nước sửdụng trong mối quan hệ điều hoà với tỷ giá. Ngân hàng Nhà nước tiếp tụcthực hiện việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng chính sách quyđịnh trần lãi suất cho vay đối với VNĐ và ngoại tệ, trên cơ sở đó các tổ chứctín dụng Ên định các mức lãi suất huy động phù hợp với cung - cầu tín dụng.Hiện nay đang tiến hành tới quy định lãi suất cơ bản.+ Công cụ tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa 2 đồng tiền haygiá cả một đơn vị tiền nước này bằng bao nhiêu đơn vị tiền nước khác.Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt, phùhợp với diễn biến trên thị trường ngoại hối trong khu vực.+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Hiện nay Việt nam đang chuẩn bịcác điều kiện cần thiết để đưa công cụ nào về vận hành. Vừa qua mới banhành quy chế và đang thí điểm, thể hiện Ngân hàng Nhà nước thực hiện muabán tín phiếu ngăng hạn, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để tác động vàolượng tiền cung ứng, việc thực hiện ban đầy gặp lhó khăn, song do hàng hoá ởthị trường chưa có nhiều, vì vậy công cụ này chưa phát huy được hiệu quả.Từ năm 1996, hàng năm Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiềntệ bằng cách xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu cuảu chínhsách tiền tệ phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, diễn15Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A biến tiền tệ của năm trước như: Tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán,tốc độ tăng tín dụng, tốc độ tăng huy động tiền gửi, tốc độ tăng dự trữ ngoạitệ.Hướng điều hành chính sách tiền tệ: Ngân hàng Nhà nước phải xác địnhđược khối lượng tiền tăng thêm hàng năm, xác định công cụ chính sách tiền tệnhư lãi suất, dự trữ bắt buộc, tài cấp vốn, tỷ giá, quản lý ngoại hối.III. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM.Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc điều hành chính sách tiền tệ ởViệt nam cũng đang được bộc lé những hạn chế thiếu sót nhất định. Hiệntượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính tiền tệ nói chung và sự thiếunhất quán về một số mặt trong chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách tiềntệ cóng bộc lé khá sớm, đe doạ sự ổn định của nền kinh tế về trung và dài hạn.Bên cạnh đó vòng xoái tụt dốc “đô mi nô” về tăng trưởng kinh tế cũng ảnhhưởng đến Việt nam Ýt nhất là trong vòng 2 đến 3 năm kể từ năm 1997. Tìnhhình xấu đi càng bộc lé rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định vàđiều hành chính sách tiền tệ trong vòng 5 năm trở lại đây. Có thể nêu một sốđiều chủ yếu sau:- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn chỉnh theo cơchế thị trường và còn ở rạng sơ khai. Yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suấttrong mối tương quan chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xửlý tốt.- Kinh doanh của hầu hết các Ngân hàng thương mại bị gò bã , thiếu chủđộng tự chủ. Hơn nữa phần lớn các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nayđều trong tình trạng thua lỗ, cho vay không hiệu quả, tỷ lệ nợ khó đòi, nợ quáhạn, nợ không sinh lời khá cao. Nhìn chung rủi ro tín dụng Ngân hàng là đánglo ngại, bên cạnh đó là các loại rủi ro khác về tỷ giá, về thanh toán đối ngoại 16Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A Thị trường liên Ngân hàng nội ngoại tệ được thành lập và đi vào hoạtđộng từ những năm 1993 - 1994 nhưng chưa phát triển sôi động, chưa trởthành giao điểm hội tụ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữacác Ngân hàng thương mại. Các giao dịch ngoại tệ chinhd thức bị gò bó, chiphối chưa mạnh và kịp thời với biến đọng tỷ giá hối đoái thị trường. Thịtrường vốn mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung ứng vốn đầu tư trung,dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu. Việc tạo lập các công cụ và thể chế pháttriển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn nói chung mới bắtđầu và còn gặp không Ýt khó khăn: Đó là những trở ngại lớn cho Ngân hàngNhà nước trong việc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát, điềuchỉnh kịp thời tổng lượng tiền trong lưu thông.- Sù thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánhnặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổnđịnh, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã tạo dựng đượcở giai đoạn chống lạm phát trước đây, thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phảibù đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên nhân chính gây ra nạn “dollar hoá”khiến VNĐ bị đánh giá quá cao kích thích tâm lý tích luỹ giá trị dưới dạngngoại tệ, không gian tiền tệ bị méo mó. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắnmột cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và Ngân hàng sau một vụ đổvỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qualãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay của các cấp chính quyền Đó lànhững trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá trình hoàn thiện chính sách tiền tệhiện nay.17Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A CHƯƠNG III. HẠN CHẾ CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNHTRỰCTIẾP TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM VÀCÁC ĐIỀU KIỆN NHẰM CHUYỂN ĐỔI CÁC CÔNG CỤ CHÍNHSÁCH TIỀN TỆ TỪ TRỰC TIẾP SANG GIÁN TIẾP.I. HẠN CHẾ CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH TRỰC TIẾP TRONG ĐIỀU HÀNHCHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM.Hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt nam đang sử dụng một hệ thống cáccông cụ chính sách tiền tệ trực tiếp bao gồm: Hạn mức tín dụng, lãi suất(thông qua hệ thống trần lãi suất cho vay), tỉ giá. Bên cạnh đó các công cụgián tiếp nh dù trữ bắt buộc và chính sách tài cấp vốn (bao gồm hạn mức tàicấp vốn và lãi suất tài cấp vốn) cũng được sử dụng nhưng hiệu quả tác độngcòn hạn chế. Để bổ trợ cho các công cụ trên, Ngân hàng Nhà nước Việt namcòn sử dụng một loạt các chính sách điều chỉnh trực tiếp nh chính sách tíndụng, chính sách quản lý ngoại hối. Việc sử dụng hệ thống công cụ điều tiết trực tiếp trong thời 10 năm quamặc dù những hạn chế của nó được biết trước là hoàn toàn phù hợp với điềukiện cụ thể của Việt nam khi những điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưađược hình thành.Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước Việt nam không có khả nảng kiểm soátchính xác sự biến động số dư dự trữ của hệ thông Ngân hàng, một trongnhững căn cứ quan trọng để có thể sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp. Khảnăng cập nhật thông tin và những phương tiện kỹ thuật phụ trợ hiện tại làmhạn chế khả năng của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát và dự boáchính xác sự biến độngmức dự trữ của hệ thống Ngân hàng.Thứ hai: Mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng là rất khó dự đoán do sựbiến động bất thường của cả cơ sở tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ sốtạo tiền.18Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A Thứ ba: Hệ thống thị trường tài chính và khả năng chứng khoán hoá cácnhu cầu vốn chưa phát triển và chưa trở thành thãi quen của cộng đồng.đương nhiên khi các điều kiện của cơ chế gián tiếp chưa hình thành thì việcsử dụng cơ chế trực tiếp là tất yếu.Trong thực tế, cơ chế điều chỉnh trực tiếp đã đem lại sự thành công đángkể cho chính sách tiền tệ trong thập kỷ 90 khi nhìn vào sự biến động của cácmục tiêu vĩ mô, lạm phát, sản lượng và công ăn việc làm. chính sách tiền tệ đãđạt được hiệu quả tối đa của nó.Nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn địnhgiá trị tiền tệ với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong thờigian vưa qua mục tiêu này chưa được thực hiện một cách hoàn hảo tỷ lệ lạmphát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm này qua năm khác.Những biến động về hiệu quả và phân phối lại các lạm phát do ảnh hưởng đếngiá trị thực của các chỉ tiêu giá trị không chỉ nảy sinh từ mức lạm phát cao màchủ yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm phát. Vì điều quan trọng bắt đầu từnăm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục nhưng giấ cả cóxu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và sự giảm giá nàydiễn ra ở hầu hết các tháng trong năm 1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũnggiảm mạnh từ năm 1998. Điều này chứng tỏ chính sách tiền tệ của Ngân hàngNhà nước tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiềncung ứng để đảm bảo cho phù hợp vỡi nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế.Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng trên có lẽ xuất phát từ hạn chế vốn cócủa cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ mà ngàycàng bộc lé rõ nét:Một là: Các công cu trực tiếp không cho phép Ngân hàng Nhà nước cóthể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ thừa.Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các Ngân hàng thương mại bắtđầu từ năm 1994 và kéo dài đến nau. Lý do ban đầu có lẽ bởi việc duy trì lãi19Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A suất tiền gửi cao cùng với việc khống chế trần tín dụng trong những năm 1994- 1996, bởi dự trữ ngoại tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian này và tỷ lệ tiềngửi có xu hướng giảm xuống. Tuy nhiên lý do chủ yếu của tình trạng này từnăm 1997 đến nay lại nằm ở sự giảm sút tổng cầu cuả nền kinh tế, phản ánhsự giảm sút nhu cầu tiền tệ đặc biệt nhu cầu về giao dịch. Thực tế này làm chocác Ngân hàng thương mại phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn đông thờilàm giảm thiểu hiệu quả cuẩ chính sách tiền tệ. Ngoài dự trữ bắt buộc (thayđổi rất chậm) Ngân hàng Nhà nước không có công cụ để hấp thụ lượng vốnkhả dụng thừa một cách chủ động. Thực tế năm 1996 Ngân hàng Nhà nước đãthí điểm phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để đạt được mục đích này.Nhưng vì nhiều lý do nó đã không tồn tại.Hai là: Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong công việcđiều hành lượng tiền cung ứng cà do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiềntệ. Điều này được thể hiện rõ trong hai năm 1998, 1999 khi trần lãi suất côngcụ chính sách tiền tệ chủ yếu giảm liên tục nhưng giá cả và sản lượng khôngnhững không tăng mà tiếp tục giảm. Đương nhiên sự giảm sút này xuất phátchủ yếu từ các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từyếu tố danh nghĩa. Nhưng chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối lậpvới tình trạng này và do đó làm cho sự tác động của chính sách tiền tệ trở nênkém hiệu quả.Ba là: hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợidụng được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và quathị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giángoại tệ.Việc sử dụng các công cụ trực tiếp và các chính sách điều chỉnh nhưhiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục tiêu thông quacác kênh dẫn truyền trực tiếp và chủ yếu thông qua tác động về mặt khốilượng.20Tiu Lun Kinh T V Vụ Lờ Mnh Cng_CH13A Kờnh dn truyn trc tip: Kờnh dn truyn giỏn tip ch yu li dng c ch tỏc ng ca thtrng ti chớnh thụng qua sự thay i ca gia ti sn v s c cu li danhmc u t ca ngi u t. Vi cỏc cụng c giỏn tip, c bit l nghip vth trng m, Ngõn hng Trung ng cú th a phng truyn tỏc ng canú n mc tiờu cui cựng ca chớnh sỏch tin t, bao bm cỏc kờnh dntruyn trc tip v giỏn tip.21GNP thực tế tăngLạm phát tăng MS Chỉ tiêu tăng GNP danh nghĩa tăng Chính sách tín dụngChính sách quản lý ngoại hốiNhập khẩu tăngXuất khẩu giảmTài khoản vãng lai bội chiVNĐ giảm giáTiu Lun Kinh T V Vụ Lờ Mnh Cng_CH13A Kờnh dn truyn giỏn tip. Vic phõn tớch nhng hn ch cụng c trc tip cũng nh ch ra lith ca cụng cgiỏn tip trong iu hnh chớnh sỏch tin t khụng ph nhn22MS tăng Lãi suất ngănd hạn giảmCơ cấu lại danh mục đầu t Lãi suất hoặc tỷ lệ sinh lời giảmChi tiêu cho những khu vực nhạy cảm với lãi suất tăng GNP danh nghĩa tăng Lợngmua Tín phiếu tăng Giá tín phiếu tăng Mức sinh lời giảm Trái phiếu tăng Giá trái phiếu giảm mức sinh lời giảm Cổ phiếu tăng Giá cổ phiếu tăng Mức sinh lời giảmChi tiêu cho các đồ dùng cần thiếtThay đổi danh mục đầu t Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A hoàn toàn tác động tích cực của chúng trong điều tiết lượng tiền cung ứng thờigian qua. Trong thực tế khi các điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa chínmuồi bao gồm: - Hệ thống Ngân hàng hoạt động lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh.- Thị trường tiền tệ thứ cấp tích cực và được điều tiết hiệu quả.- Các công cụ ảnh hưởng có hiệu quả đến lãi suất và các kênh truyền dẫnđược hoàn thiện thì việc sử dụng các công cu trực tiếp đảm bảo tính hiệu qảunhất định của nó. Tuy nhiên đã đén lúc cơ chế điều chỉnh chính sách tiền tệcần được thay đổi. Nền kinh tế đang đứng trước thách thức của nhu cầu hộinhập và mở cửa toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quảsẽ không đảm bảo cho nã tranh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trườngbên ngoài. Hơn nữa, sau 10 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ tronglĩnh vực Ngân hàng, những điều kiện cho phép sử dụng cơ chế điều chỉnhgián tiếp đang dần hình thành hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự chuyểnđổi cơ chế điều tiết lượng tiền cung ứng. Công việc cần phải làm tiếp theo làđánh giá và dự tính hiệu quả tác động của công cụ gián tiếp trong điều kiện cụthể của Việt nam.II. CÁC ĐIỀU KIỆN NHẰM CHUYỂN ĐỔI CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TỪ TRỰC TIẾP SANG GIÁN TIẾP.Chuyển đổi việc diều hành chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếplà một quá trình phức tạp, thường đòi hỏi một thời gian khá dài để hoàn thành.Kinh nghệm một số nước đã cho thấy quá trình chuyển đổi có thể gặp phảinhững khó khăn, chi phí nặng nề và có thể kéo dài nếu không có một phươngpháp tiếp cận toàn diệnvới các công cụ gián tiếp. Đặc biệt ở những nướckhông thực hiện những biện pháp hỗ trợ đầy đủ. Hiệu quả kiểm soát tiền tệ đãgiảm xuống và một số nước đã đình chỉ (hoặc đi ngược lại) những lỗ lựcchuyển đổi của họ. Để khắc phục những khó khăn ở mức thấp nhất và tạo23Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A điều kiện thực hiện chuyển đổi trôi chảy chung ta cần phải giải quyết các vấnđề cơ bản sau:1. Phát triển thị trường tài chính.Việc sử dụng các công cụ gián tiếp của Ngân hàng Trung ương sé cóhiệu lực hơn nếu được cạnh tranh thực hiện trong điều kiện thị trường tàichính phát triển. Vì vậy, để Ngân hàng Nhà nước Việt nam có thể thực hiệnquá trình chuyển việc điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sangcông cụ gián tiếp một cách có hiệu quả thì cần phải phát triển thị trường tàichính. Dười đây là một vài giải pháp phát triển thị trường tài chính Việt nam.- Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầumối thông qua Ngân hàng Trung ương làm đại lý.- Ngân hàng Trung ương cần nghiên cứu cơ chế phát hành tind phiếuNgân hàng Trung ương.- Ngân hàng Trung ương cũng cần xem xét để có thể cho phép một sốnước Ngân hàng thương mại được phép phát hành các loại chứng từ tiền gửi,các công cụ sẽ có hiệu quả hơn nếu thị trường tiền tệ phản ứng nhanh nhạyvới các hành vi của Ngân hàng Trung ương. Hiện nay thị trường tiền tệ pháttriển cần có các điều kiện sau: Góp phần cung cấp hàng hoá cho thị trườngtiền tệ, từ đó thúc đẩy hoạt động thị trường mở phát huy ưu thế vốn có của nó.- Tiến tới có cơ chế lãi suất linh hoạt và chịu sự điều tiết của thị trường.- Đảm bảo sự ổn định của giá trị đồng tiền Việt nam trong giới hạn chophép.- Thị trường tiền tệ và thị trường liên Ngân hàng cần được củng cố vàliên kết chặt chẽ. Một thị trường năng động là đặc biệt quan trong vì điều nàysẽ giúp xác định rõ thời điểm và khối lượng của hoạt động thị trường mở. Cáccông cụ gián tiếp nói chung sẽ có hiệu quả hơn nếu thị trường tiền tệ phảnững nhanh nhạy với các hành vi của Ngân hàng Trung ương. Do đó cần phải24Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh Cường_CH13A phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường - các hệ thồng và thủ tục thanh toán.Khuân mẫu pháp lý và điều tiết thị trường đồng thời đưa vào sử dụng cáccông cụ và kỹ thuật thị trường phù hợp. Một số nước sử dụng cửa sổ chiếtkhấu để hạn chế, phạt hoặc cấm vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung ương.Ngân hàng trung ương cũng có thể khuyến khích các giao dịch trên thị trườngliên Ngân hàng thông qua một số biện pháp khác nh sử dụng cơ chế chuyểngiao và thanh toán để nắm chắc các nguồn giao dịch liên Ngân hàng. Hiện naycác thoả thuận mua lại (repos) được coi là hình thức tài trợ linh hoạt và thuậntiện nats. Repos là nghiệp vụ theo đó những người tham gia thị trường muahoặc bán các chứng khoán lấy tiền mặt thoả thuận thực hiện một giao dịchngược lại vào một thời điểm sau đó. Nghiệp vụ này giúp tăng tính năng độngcủa thị trường và giúp cho thị trường phát triển thuận lợi.- Khuôn mẫu giám sát và điều tiết cần được củng cố. Các nước cần xâydựng những hành lang an toàn dưới hình thức các tiêu chuẩn về vốn tối thiểulập quỹ phòng ngõa rủ ro, các yếu tố về cần cố vốn, bảo lãnh, thế chấp và cáccơ chế khác nhằm khuyến khích các hành vi thận trọng trong kinh doanh tiềntệ. Các báo cáo tài chính phải qua kiểm toán và đảm bảo tính công khai đểcho thị trường và các nhà chức trách có thể thực hiện hữu hiệu vai trò của họtrong kỷ cương tài chính.- Có mạng lưới thông tin hoàn chỉnh.2. Cải cách hệ thống Ngân hàng.2.1. Cải cách hệ thống Ngân hàng thương mại.Hệ thống Ngân hàng thương mại cần được cơ cấu lại nhằm xây dựng những Ngân hàng thương mại mại mạnh và thúc đẩy quá trình cạnh tranh. Khu vực Ngân hàng hiện nay đang đứng trước một áp lực mạnh mẽ từ sự tăngtrưởng chậm lại cải nền kinh tế và điều kiện tài chính ngày càng xấu đi của một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tỷ lệ xấu (Bao gồm nợ quá hạn khó đòi, nợ đã được khoanh, nợ chờ xử lý) của các Ngân hàng thương 25