Yên Bái lên thành phố năm bao nhiêu?

YênBái - Hôm nay (12/9), Thủ tướng Chính phủ chính thức công nhận thành phố Yên Bái là đô thị loại II.

Yên Bái lên thành phố năm bao nhiêu?

Thành phố Yên Bái ngày một khang trang hơn.

Cụ thể, tại Quyết định số 1039/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ công nhận thành phố Yên Bái là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Yên Bái (phạm vi gồm toàn bộ thành phố Yên Bái hiện hữu, trong đó, khu vực nội thành dự kiến gồm có 9 phường hiện hữu và 3 xã: Giới Phiên, Tân Thịnh và Văn Phú).

Những năm qua, thành phố Yên Bái đã phát huy mạnh mẽ tiềm năng lợi thế, huy động mọi nguồn lực, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp; xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phát triển thương mại, du lịch. Kinh tế - xã hội của thành phố đã có những bước phát triển mới, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Đặc biệt, kết cấu hạ tầng đô thị của thành phố trong những năm qua đã phát triển mạnh, góp phần xây dựng diện mạo đô thị văn minh.

Thành phố Yên Bái nằm trên hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, vị trí thuận lợi để kết nối các hoạt động kinh tế với các đô thị nằm trên hành lang Thủ đô Hà Nội, các đô thị cửa khẩu và cảng biển, có tiềm năng lớn trong thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, logistics, thương mại dịch vụ đô thị; có cảnh quan thiên nhiên đặc trưng, đa dạng về địa hình, thuận lợi để hình thành một đô thị có bản sắc, tài nguyên du lịch sinh thái và văn hóa phong phú.

Năm 2022, tốc độ tăng trưởng GRDP toàn tỉnh Yên Bái đứng thứ 6/14 tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, trong đó, thành phố Yên Bái đóng góp hơn 30%. 

Mức tăng trưởng kinh tế 3 năm gần nhất của thành phố Yên Bái đạt 10,36%; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị đạt 88,41%; tỷ lệ hộ nghèo giảm dần xuống còn 0,67%; tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung và được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 98%...


Thành phố Yên Bái trở thành đô thị loại II là niềm vui, niềm động viên, khích lệ lớn đối với Đảng bộ và nhân dân thành phố Yên Bái.

Ngày 1/10/1991, tỉnh Yên Bái chính thức đi vào hoạt động. Thời điểm này, tỉnh có 8 đơn vị hành chính trực thuộc; diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.887,7 km vuông; dân số có 658.891 người.

Ngược dòng thời gian được biết, từ sau Cách mạng tháng Tám - 1945, địa lý và các đơn vị hành chính của tỉnh có nhiều thay đổi. Năm 1953, Yên Bái thộc Khu Tây Bắc, năm 1955 hai châu Văn Chấn và Than Uyên tách khỏi tỉnh Yên Bái chuyển về trực thuộc Khu tự trị Thái - Mèo. 

Cùng thời gian này, châu Mù Cang Chải được thành lập trên cơ sở các xã của huyện Văn Chấn, Than Uyên, Mường La. Năm 1956, huyện Yên Bình (tỉnh Tuyên Quang) sáp nhập và tỉnh Yên Bái. 

Tháng 10/1962, Quốc hội quyết định đổi tên Khu tự trị Thái - Mèo thành khu tự trị Tây Bắc và lập các tỉnh trực thuộc. Ngày 24/12/1962, tỉnh Nghĩa Lộ (thuộc Khu tự trị Tây Bắc) chính thức được thành lập gồm các huyện Văn Chấn, Than Uyên, Phù Yên. 

Năm 1964, một phần huyện Văn Chấn tách ra thành lập huyện Trạm Tấu; huyện Lục Yên tách ra thành huyện Bảo Yên; huyện Trấn Yên tách ra thành lập huyện Văn Yên.

Ngày 27/12/1975, tại kỳ họp thứ II Quốc hội khóa V, quyết định bỏ cấp "khu” trong hệ thống đơn vị hành chính của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, hợp nhất tỉnh Yên Bái - Nghĩa Lộ - Lào Cai thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Ngày 3/1/1976, tỉnh Hoàng Liên Sơn đi vào hoạt động. 

Ngày 12/8/11991, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra Nghị quyết chia tỉnh Hoàng Liên Sơn thành 2 tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Tháng 9/1991, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời tỉnh Yên Bái gồm 23 đồng chí; Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí. 

Đồng chí Tạ Hữu Thanh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Kiều Việt Nguyên được chỉ định làm Chủ tịch HĐND tỉnh; đồng chí Hoàng Công Dung làm Chủ tịch UBND tỉnh.

Ngày 1/10/1991, tỉnh Yên Bái chính thức đi vào hoạt động. Thời điểm này, tỉnh có 8 đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Yên Bái  và 7 huyện Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Yên Bình, Trấn Yên, Văn Yên, Lục Yên.

Yên Bái nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ, có vị trí của ngõ của vùng Tây Bắc. Phía đông bắc, tỉnh Yên Bái giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp tỉnh Lai Châu và Lào Cai. 

Khi tái lập, diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.887,7 km vuông; dân số có 658.891 người.

Sau 30 năm tái lập, tỉnh Yên Bái có 9 đơn vị hành chính (thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và 7 huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, Yên Bình, Trấn Yên, Văn Yên, Lục Yên) với tổng số 181 xã, phường, thị trấn. Năm 2020, dân số của tỉnh là 876.041 người.

Tỉnh Yên Bái tái lập cho thấy sự phù hợp về quy mô, diện tích, khôi phục truyền thống nhân dân các dân tộc hình thành trong lịch sử. Đồng thời là điều kiện để cấp ủy chính quyền đưa ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho các vấn đề kinh tế - xã họi, chính trị, an ninh, quốc phòng của địa phương.

Tuy nhiên, khi mới tái lập, Yên Bái là một trong tỉnh nghèo nhất cả nước, đất sản xuất phần lớn bác màu, địa hình phức tạp, đồi núi hiểm trở, thiên tai thường xuyên xảy ra; kết cấu hạ tầng thấp kém; diện tích, năng suất và sản lương nông, lâm nghiệp thấp, không ổn định; công nghiệp tiểu thủ công nghiệp nhỏ lẻ. 

Nguồn vốn đầu tư vào các ngành nghề, các vùng của tỉnh hạn chế, chưa thu được nguồn lực đầu tư từ bên ngoài; đời sống vật chất và tinh thần của người dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa…

Thời kỳ này, trên phạm vi cả nước, cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra gay gắt; sản suất không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước Liên Xô và Đông âu đã tăng cường chống phá cách mạng nước ta, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… Những khó khăn đó đã tác động nhiều chiều, phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

30 năm tái lập, tỉnh Yên Bái đã có bước phát triển mạnh mẽ, vượt bậc, tiềm lực kinh tế - xã hội được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.

Trải qua các đại hội, Đảng bộ tỉnh đề ra nhiều chủ trương, giải pháp toàn diện, trong đó, có những chủ trương mang tính đột phá, mở đường cho kinh tế - xã hội phát triển, đưa Yên Bái từ một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp… trở thành tỉnh cơ bản thoát khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên.

Đầu xuân Kỷ Hợi – 2019, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Yên Bái vinh dự được đón đồng chí Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và lãnh đạo các bộ ngành Trung ương tới dự lễ phát động Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ. Phát biểu tại buổi lễ, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định "Yên Bái chưa bao giờ có được cơ đồ tốt đẹp như ngày nay”…

thành phố Yên Bái thành lập năm bao nhiêu?

Nghị định 05/2002/NĐ-CP thành lập thành phố Yên Bái thuộc tỉnh Yên Bái.

thành phố Yên Bái bao nhiêu người?

Thành phố rộng 106,83 km², dân số năm 2022 là 147.172 người, mật độ dân số đạt 1.378 người/km². Dân cư của thành phố Yên Bái mang đặc trưng của cư dân thành thị vùng cao.

tỉnh Yên Bái tái lập năm bao nhiêu?

Năm 1991, tỉnh Yên Bái được tái lập; chuyển 2 huyện Bảo Yên và Văn Bàn về tỉnh Lào Cai quản lý; chuyển 3 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu và Văn Chấn của tỉnh Nghĩa Lộ cũ (đã giải thể ngày 27-12-1975) về tỉnh Yên Bái quản lý.

thành phố Yên Bái có bao nhiêu xã?

Yên Bái bao gồm 01 thành phố, 01 thị và 07 huyện với tổng số 173 đơn vị hành chính cấp (gồm 150 , 13 phường, 10 thị trấn). Trong đó 70 vùng cao và 62 đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các chương trình phát triển kinh tế - hội của Nhà nước.