Vai trò của máy móc, thiết bị trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư là gì

Máy móc hay con người tạo ra giá trị?

Việc xác định đúng vai trò của con người, phát huy và khai thác nguồn lực con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng để chúng ta thực hiện các mục tiêu mà Đại hội lần thứ XIII đề ra, phấn đấu đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập cao.

(Ảnh minh họa)

Học thuyết Giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong hệ thống học thuyết của C.Mác đã chứng minh, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.

C. Mác đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN), đến nay học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên giá trị, nhưng có nhiều luận điệu của các học giả tư sản, những người bảo vệ cho lợi ích của CNTB cho rằng: Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ phát triển, máy móc hiện đại, rôbốt tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao, thu được nhiều lợi nhuận Luận điệu này cho rằng: CNTB có chăng chỉ bóc lột “máy móc” chứ không bóc lột “con người”, đặc biệt nó có vẻ “thuyết phục” khi được dẫn chứng bằng thực tế của quá trình ứng dụng KHCN vào trong quá trình sản xuất, dẫn đến nhiều người nhầm tưởng: máy móc tạo ra giá trị thặng dư, lợi nhuận, chứ không phải do công nhân tạo ra, nên không có chuyện chủ tư bản bóc lột công nhân. Luận điệu này đã che đậy bản chất bóc lột của nền sản xuất TBCN, của các chủ tư bản, chủ doanh nghiệp. Hơn nữa, CNTB hiện đại ngày nay có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và ổn định xã hội. Cụ thể như: công nhân được sở hữu cổ phần, cổ phiếu, được tham gia vào các vị trí quản lý nhất định… nên có mức sống “trung lưu” nên cho rằng không có sự phân biệt “chủ - thợ”, không ai bóc lột ai… dẫn đến sự chấp nhận cuộc sống và thủ tiêu ý chí đấu tranh đòi hỏi các quyền và lợi ích chính đáng có được từ thành quả lao động của mình. Nhưng thực tế đã không phủ định được sự giàu có của các chủ tư bản, sự giàu có đó chính là do kết quả lao động của người lao động tạo ra. Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra bản chất nhà nước tư sản và việc phân phối lợi ích trong CNTB: “Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”[1].

Những luận điệu trên hoàn toàn không đúng vì những lý do sau:

Những doanh nghiệp áp dụng máy móc hiện đại, đem lại năng suất lao động cao nên sẽ có giá trị hàng hóa cá biệt của doanh nghiệp thấp hơn giá trị hàng hóa của thị trường nên thu được nhiều lợi nhuận, điều này gây ra sự hiểu lầm là máy móc cũng tạo ra lợi nhuận.Không phân biệt được vai trò của máy móc trong quá trình sản xuất. Máy móc cho dù có hiện đại như thế nào thì nó vẫn tham gia quá trình sản xuất với tư cách là tư liệu lao động, là phương tiện để tạo ra giá trị sử dụng. Máy móc bộ phận của tư bản bất biến và giá trị của nó được chuyển dịch sang sản phẩm mới theo con đường khấu hao chứ không làm thêm giá trị mới.

Hơn nữa, máy móc dù tiên tiến, hiện đại đến đâu đi nữa thì nó vẫn do con người chế tạo, vận hành, điều khiển. Nếu tách khỏi lao động sống thì thì máy móc cũng không hoạt động được và không thể chuyển được giá trị của nó vào sản phẩm mới.

Xem xét quá trình sản xuất theo “chuỗi giá trị”, từ khi đưa các yếu tố đầu vào (TLSX), tiến hàng sản xuất và đến khi trở thành hàng hóa trên thị trường thì có vô số khâu lao động, sản xuất. Máy móc cho dù có tự động hóa cũng chỉ đảm nhận ở một số khâu cụ thể, máy móc không thể thay thế được hoàn toàn được lao động sống của công nhân. Nếu như máy móc hoàn toàn thay thế được thì đại dịch Covid- 19 lại không gây đình trệ sản xuất, suy thoái kinh tế. Không bỗng dưng các nhà tư bản bỏ tiền ra tiêm vacxin miễn phí, phòng chống dịch – mà đây chính là cách để đảm bảo được động ngũ lao động để duy trì cho quá trình sản xuất của các nhà tư bản.

Nắm rõ được nguồn gốc của giá trị, giá trị thặng dư, lợi nhuận là do lao động sống, sức lao động của con người tạo ra trong quá trình lao động sản xuất giúp chúng ta có sự nhìn nhận, đánh giá đúng các quan hệ kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay. Từ đó, đề ra các phương hướng để khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước, đặc biệt là nguồn nhân lực vào quá trình phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) nhằm thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Để phát huy các nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó, nguồn nhân lực đóng vai trò chủ thể, đặc biệt yêu cầu của quá trình sản xuất ngày càng cao gắn với nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nên phải tập trung phát triển nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao. Do đó, cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, công tác giáo dục - đào tạo luôn phải đặt lên “quốc sách hàng đầu”, cần đa dạng hóa học tập nâng cao trình độ, tri thức, giáo dục theo cả chiều rộng và chiều sâu, bên cạnh đào tạo chuyên sâu, cần thúc đẩy xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Làm tốt công tác quy hoạch, định hướng và phân luồng trong giáo dục – đào tạo để tạo tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phát triển nguồn nhân lực cũng được Đảng ta cũng xác định là khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục”[2]

Hai là, để đảm bảo kinh tế phát triển nhanh, bền vững, phát huy được mọi nguồn lực cho sự phát triển, hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong quá trình phát triển đất nước cần phải hoàn thiện thể chế và cụ thể hóa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, doanh nghiệp, người lao động trong các hoạt động kinh tế, nhà nước cần nhanh chóng ban hành các thể chế, hoàn thiện pháp luật để mọi hoạt động đều được điều chỉnh bằng pháp luật nhằm tạo ra động lực để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; mặt khác giải quyết việc làm cho người lao động, đảm bảo quyền lợi ích chính đáng cho người lao động. Do đó, Đảng ta cũng xác định cần phải “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [3].

Ba là, để ngày càng nâng cao sức sản xuất cần đẩy mạnh ứng dụng KHCN, máy móc, trang thiết bị hiện đại vào quá trình sản xuất. Do đó, cần phải đầu tư phát triển kết cấu vật chất, kỹ thuật, ngày càng hiện đại thì mới có thể đáp ứng được những yêu cầu cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Đảng ta xác định một trong những trong khâu đột phá đó là: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về KT và XH… chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số” [4].

Tóm lại, làm rõ bản chất của quá trình tạo ra giá trị và giá trị thặng dư (lợi nhuận), đây là cơ sở để chúng ta thấy được vị trí và vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất cũng như phát triển kinh tế - xã hội. Việc xác định đúng vai trò của con người, phát huy và khai thác nguồn lực con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng để chúng ta thực hiện các mục tiêu mà Đại hội lần thứ XIII đề ra, phấn đấu đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập cao.

ThS. Vương Mạnh Toàn

Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở, Trường Chính trị tỉnh

----------------------

(1) GS, TS, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, //nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/

(2) (3) (4) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

VAI TRÒ CỦA MÁY MÓC THIẾT BỊ TRONG SẢN XUẤT

Trong nền công nghiệp mới, các loại máy móc thiết bị ra đời với sứ mệnh thay thế và hỗ trợ sức lao động con người, giúp mang lại giá trị thặng dư, tối ưu năng suất cũng như đem lại những giá trị vượt trội.

nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.04 KB, 15 trang )

Lời giới thiệu

Việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy lực l-
ợng sản xuất ở những nớc t bản chủ nghĩa phát triển, nhờ đó không những các tập
đoàn t bản độc quyền thu đợc lợi nhuận siêu ngạch cao mà đời sống của những ng-
ời lao động tại nghiệp cũng đợc cải thiện và hình thành tầng lớp trung lu trong xã
hội.
Trớc thực tế đó, cộng thêm sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung
quan liêu ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều ngời nghi ngờ tính đúng đắn của khoa học
kinh tế chính trị Mác- Lênin, đặc biệt là học thuyết giá trị thặng d hòn đá tảng
trong các học thuyết kinh tế của Mác.
Những ngời phản bác học thuyết giá trị thặng d tấn công vào hòn đá tảng này
bằng nhiều luận điểm khác nhau. Phê phán những luận điểm đó, chúng ta tập
trung vào việc nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị
thặng d để giải thích quan niệm trên.
1
I. Máy móc và lao động
1) Máy móc đối với nền sản xuất t bản chủ nghĩa:
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa không thể đợc
xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó trong quá trình phát
triển chủ nghĩa t bản đã tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tơng ứng là máy móc, đa
chủ nghĩa t bản từ giai đoạn công trờng thủ công lên giai đoạn công nghiệp cơ khí.
Máy móc xuất hiện vào thế kỷ 17 và ngày càng đợc hoàn thiện. ở thời kỳ cách
mạng công nghiệp, thông thờng các máy móc đều gồm ba bộ phận cơ bản. Máy
móc không ngừng đợc cải tiến, phát triển, hình thức hoàn thiện nhất của nó hiện
nay là máy tự động ngời máy. Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa t bản lúc đầu
máy móc đợc sử dụng từng chiếc trong từng xí nghiệp. Về sau nhờ chế tạo ra máy
phát lực mạnh nên chỉ một máy động lực cũng có thể làm cho nhiều máy công tác
hoạt động.
Nhiều máy công tác hoạt động do máy lực trung tâm thông qua một hệ thống
chuyển lực thống nhất, gọi là hệ thống máy móc. Hệ thống máy móc có thể là sự


hiệp tức giản đơn của nhiều máy công tác cùng loại hoặc là sự hiệp tác của nhiều
máy công tác khác nhau nhng liên kết với nhau.
Sự phát triển của máy móc thành hệ thống máy móc đề ra công xởng. Công x-
ởng là xí nghiệp đại công nghiệp sử dụng cả một hệ thống máy móc để sản xuất .
Máy móc đợc sử dụng phổ biến trong xã hội thông qua cuộc cách mạng công
nghiệp. Về thực chất, đó là cuộc cách mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Kỹ thuật cho
phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa, bảo đảm sự toàn thắng của chủ nghĩa t bản
với chế độ phong kiến, xác lập sự thống trị tuyệt đối của quan hệ sản xuất t bản
chủ nghĩa trên toàn xã hội.
Phải chăng máy móc tạo ra giá trị thặng d?. C.Mác đã chỉ ra rằng. giá trị của
hàng hoá trong nền kinh tế t bản chủ nghĩa bao gồm giá trị của những t liệu sản
2
xuất đã đợc tiêu dùng chuyển sang sản phẩm mới c và lợng giá trị mới do lao động
sống thêm vào trong đó để bù lại t bản khả biến đã đợc dùng để mua sức lao động
(ngang với giá trị sức lao động và m là giá trị thặng d dôi ra ngoài giá trị sức lao
động). Nh vậy, nguồn gốc của giá trị thặng d chỉ là lao động sống.
Những ngời phản bác học thuyết giá trị thặng d cho rằng điều đó chỉ đúng
trong thời C.Mác còn sống khi lao động thủ công chiếm u thế, còn ngày nay trong
thời đại cách mạng khoa học công nghệ, máy móc là nguồn gốc chủ yếu của giá
trị thặng d
Sở dĩ có nhận thức sai lầm ấy là do cha phân biệt đợc vai trò của máy móc với t
cách là nhân tố của quá trình lao động và vai trò của máy móc với t cách là nhân
tố của quá trình làm tăng gía trị.
Hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con ngời và đi vào
quá trình tiêu dùng thông qua mua- bán. Vì vậy, không phải bất cứ một vật phẩm
nào cũng là hàng hoá. Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi.
a. Giá trị sử dụng của hàng hoá: là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu
cầu nào đó của con ngời (nh gạo để ăn, vải để mặc, xe đạp để đi). Giá trị sử dụng


của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá quy định. Vì vậy, nó là một
phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là giá trị sử dụng
không phải cho con ngời sản xuất trực tiếp mà là cho ngời khác, cho xã hội. Giá trị
sử dụng đến tay ngời khác, ngời tiêu dùng phải thông qua mua bán. Trong kinh tế
hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
b. Giá trị hàng hoá: muốn hiểu giá trị ta phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi
biểu hiện là quan hệ tỷ lệ về số lợng trao đổi lẫn nhau giữa các giá trị sử dụng
khác nhau. Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi đợc với nhau
theo một tỷ lệ nhất định vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là
sự hao phí sức lao động của con ngời. Lao động xã hội của ngời sản xuất hàng hoá
kết tinh trong hàng hoá là giá trị của hàng hoá. Nh vậy, giá trị là cơ sở của giá trị
trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
3
Giá trị của hàng hoá biểu hiện mối quan hệ sản xuất giữa những ngời sản xuất
hàng hoá và là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá.
Lợng giá trị của hàng hoá đợc xác định nh thế nào? Nếu giá trị hàng hoá là lao
động xã hội kết tinh trong hàng hoá thì lợng giá trị của hàng hoá là số lợng lao
động xã hội hao phí để sản xuất hàng hoá (gồm lao động sống và lao động vật hoá
thể hiện ở t liệu sản xuất)
Vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt : lao động cụ thể là lao động có
ích dới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi
lao động cụ thể có một mục đích riêng, phơng pháp hoạt động riêng, công cụ lao
động riêng, đối tợng lao động và kết quả lao động riêng. Thí dụ: lao động của ngời
thợ xây, thợ mộc, thợ may là những lao động cụ thể. Kết quả của lao động cụ thể
là tạo ra một công dụng nhất định, tức là tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Lao động trừu tợng: là lao động xã hội của ngời sản xuất hàng hoá không kể đến
hình thức cụ thể của nó. Các loại lao động cụ thể có điểm chung giống nhau là sự
tiêu hao cơ bắp, thần kinh sau một quá trình lao động. Đó chính là lao động trừu t-
ợng, nó tạo ra giá trị của hàng hoá.
Tất nhiên, không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hoá mà chỉ là lao


động của ngời sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt mà thôi.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động t nhân và lao động xã hội
của những ngời sản xuất hàng hoá. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất
hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn còn biểu
hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tợng, ở giá trị sử dụng với giá trị hàng
hoá.
Bất cứ quá trình lao động nào cũng là sự kết hợp ba nhân tố chủ yếu: lao động có
mục đích của con ngời, đối tợng lao động, t liệu lao động (quan trọng hơn cả là
công cụ lao động, nhất là công cụ cơ khí hay máy móc). Sử dụng máy móc càng
4
hiện đại thì sức sản xuất của lao động càng cao, càng làm ra nhiều giá trị sử dụng
(nhiều của cải) trong một đơn vị thời gian.
Nhng khi xét quá trình tạo ra và làm tăng giá trị thì những hàng hoá tham gia
vào đây không còn đợc xét với t cách là những nhân tố vật thế nữa, mà chỉ đợc coi
là những lợng lao động đã vật hoá nhất định. Và dù máy móc (kể cả rôbớt) quan
trọng đến múc nào cũng không thể tự nó chuyển giá trị vào sản phẩm chứ đừng
nói đến việc tạo thêm giá trị.
Chính lao động sống đã cải tử hoàn sinh cho các t liệu sản xuất, trong đó có
mày móc, chuyển giá trị của chúng sang sản phẩm mới theo mức độ đã tiêu dùng
trong quá trình lao động sản xuất. Nhng một t liệu sản xuất không bao giờ chuyển
vào sản phẩm một giá trị nhiều hơn giá trị mà nó đã bị tiêu hao trong quá trình sản
xuất.
C.Mác ví máy móc, thiết bị trong quá trình làm tăng giá trị giống nh bình cổ
cong trong quá trình hoá học. Không có bình cổ cong thì không thể diễn ra các
phản ứng hoá học, nhng bản thân bình cổ cong chỉ là điều kiện cho phản ứng hoá
học diễn ra, chứ không trực tiếp tham gia vào phản ứng ấy. Cũng nh vậy, thiết bị,
máy móc chỉ tạo đIều kiện cho việc làm tăng giá trị hàng hoá chứ bản thân nó
không trực tiếp tham gia vào việc tăng giá trị.
ở đây, một vấn đế đợc đặt ra là, tại sao thông thờng những ngời sử dụng máy


móc thiết bị tiên tiến lại thu đợc lợi nhuận siêu ngạch? Đó là do công nghệ tiên
tiến làm tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá xuống thấp
hơn giá trị thị trờng (giá trị xã hội), nhng trên thị trờng, thông qua cạnh tranh lại
bán theo giá trị thị trờng, nên thu đợc lợi nhuận siêu ngạch. Xí nghiệp A có trình
độ kỹ thuật cao nhất và có khối lợng sản phẩm lớn nhất trong ngành, có gía trị cá
biệt của sản phẩm thấp hơn giá trị thị trờng, nên thu đợc lợi nhuận siêu ngạch.
Nh vậy, việc thu lợi nhuận siêu ngạch diễn ra qua cạnh tranh giữa những ngời
sản xuất hàng hoá trên thị trờng chứ không phải trong sản xuất. Cơ chế thị trờng
khắc nghiệt dựa trên nguyên tắc mạnh đợc yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Kẻ
thắng nhận đợc phần thởng là lợi nhuận siêu ngạch, kẻ thua bị trừng phạt, không
5
thu lại đủ số lao động (sống và quá khứ) đã hao phí. Nhng giá trị của phần thởng
(+28) vừa đúng bằng khoản cúp phạt nghĩa là không vợt ra ngoài tổng số gía trị
và gía trị thặng d đã đợc tạp ra trong lĩnh vực sản xuất.
Nếu thiếu sức trừu tợng hóa, chỉ quan sát các biểu hiện bên ngoài không đi sâu
vào bản chất của hiện tợng thì dễ lẫn lộn việc phân phối giá trị thặng d với việc sản
xuất ra giá trị thặng d. Từ đó tất yếu sẽ hiểu lầm rằng, máy móc là nguồn gốc sinh
ra giá trị siêu ngạch, mà không thấy rằng máy móc chỉ là đIều kiện để thu đợc lợi
nhuận siêu ngạch thông qua cạnh tranh.
Thực chất vấn đề sẽ sáng tỏ hơn khi chỉ những xí nghiệp đi trớc trong việc ứng
dụng công nghệ tiên tiến mới thu đợc lợi nhuận siêu ngạch. Khi công nghệ đó trở
thành phổ biến, các đối thủ cạnh tranh đã đuổi kịp trình độ tiên tiến thì giá trị thị
trờng sẽ hạ xuống, hàng hoá rẻ đi, những ngời tiêu dùng đợc hởng lợi và không có
ngời sản xuất nào thu đợc lợi nhuận siêu ngạch nữa.
Nhng động cơ kiếm lợi nhuận siêu ngạch lại kích thích việc ứng dụng công
nghệ mới và một hiệp mới của cuộc cạnh tranh lại tiếp diễn. Nhờ đó, kỹ thuật tiến
bộ không ngừng. Mặt khác, cạnh tranh dới tác động của tiến bộ kỹ thuật tất yếu
dẫn đén phân hoá giàu nghèo. Muốn thu hẹp khoảng cách giàu nghèo nhà nớc phải
thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, điều tiết thu nhập của dân c và hỗ trợ
những ngời nghèo.


Cũng cần lu ý rằng máy móc là phơng tiện giảm nhẹ nỗi cực nhọc của ngời lao
động, tiết kiệm lao động sống nhng không phải bao giờ máy móc cũng là đIều
kiện để thu đợc nhiều lợi nhuận hơn là sử dụng lao động thủ công. Khi nói về giới
hạn sử dụng máy móc trong chủ nghĩa t bản, C.Mác đã chỉ ra rằng nhà t bản
không trả cho lao động đã sử dụng, mà chỉ trả cho giá trị sức lao động đã sử
dụng. Cho nên, việc sử dụng máy móc bị giới hạn bởi số chênh lệch giữa giá trị
của chiếc mày và giá trị của sức lao động bị máy đó thay thế. Do đó, tiền công
thấp sẽ ngăn cản việc sử dụng máy móc, bởi vì lợi nhuận bắt nguồn không phải từ
việc giảm bớt lao động đợc trả công. C.Mác đã dẫn ra sự kiện ngời Mỹ chế tạo ra
6

Vai trò của máy móc trong sản xuất giá trị thặng dư quá khứ, hiện tại, tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.86 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Vai trò của máy móc trong sản xuất giá trị
thặng dư: quá khứ, hiện tại, tương lai”

Giảng viên hướng dẫn: Cô Phạm Mỹ Duyên

Năm 2021


 Sinh viên thực hiện:
Bùi Thu Phương
K194030373
Thái Minh Tiến
K194030383
Lê Kim Nghĩa
K194030368
Nguyễn Đỗ Anh Thư
K204031117
Võ Thị Thanh Thư
K194030382
Lê Ngọc Thùy Trâm
K194030386
Nguyễn Thanh Quyền Oanh K204020102
Hồ Thùy Dung
K19414718
Phan Thị Song Nhi
K194030371


Trần Thanh Phúc
K194141740

MỤC LỤC


Phần 1. MỞ ĐẦU

 1.Phần mở đầu………………………………………. 4
1.1. Giới thiệu nội dung…………………………………………………….4
1.2. Khái niệm………………………………………………………………4
1.2.1. Giá trị thặng dư (Surplus value) là gì?………………………….4
1.2.2. Máy móc là gì?………………………………………………….4

Phần 2. NỘI DUNG………………………………………………5

 2.Phần nội dung……………………………………….5
 2.1 Nguồn gốc của thặng dư……………………………………………….5
 2.2.Chế độ sở hữu và vấn đề giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa………………………………………………5
2.2.1. Nhận thức lại và vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển mác
xít về chế độsở hữu……………………………………………………………5
2.2.2. Nhận thức lại vấn đề giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa……………………………………………………7
 2.3 Bản chất của thặng dư…………………………………………………10
 2.4 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư………………………………11
 2.5 Ảnh hưởng máy móc trong quá trình sản xuất thặng dư…………… 12
2.5.1 Ảnh hưởng máy móc trong quá trình sản xuất thặng dư tuyệt
đối……………………………………………………………………………12
2.5.2. Ảnh hưởng máy móc trong q trình sản xuất thặng dư tương


đối…………………………………………………………………………….12
2.5.3 Giá trị thặng dư siêu gạch………………………………………14
 2.6. Những bất cập của máy móc trong q trình sản xuất thặng dư ……14
 2.7.Vai trị của máy móc trong q trình sản xuất thặng dư…………….. 15

Phần 3. KẾT LUẬN…………………………………………….16

*Tài liệu tham khảo…………………………………………………………18


1.Phần mở đầu
1.1. Giới thiệu nội dung
Các loại máy móc thiết bị ra đời với sứ mệnh thay thế và hỗ trợ sức lao động
con người, giúp mang lại giá trị thặng dư, tối ưu năng suất cũng như đem lại
những giá trị vượt trội.
Với khát vọng tăng cường giá trị thặng dư, các nhà tư bản không ngừng đầu tư
nghiên cứu chuyển hướng các đối tượng khai thác là tư bản tri thức để mang
lại thành tựu kỹ thuật tiên tiến ngày càng hiện đại đặc biệt là máy móc để khai
thác tối ưu lợi nhuận.
Câu hỏi đặt ra máy móc đã có những tác động mạnh mẽ như thế nào đến quá
trình sản xuất thặng dư từ quá khứ đến nay và cả tương lai? Cả những chi phối
trong sự phát triển kinh tế thị trường?
Đã nhiều lần nhiều người nghi ngờ về tính đúng đắn của học thuyết thặng dư
trong các học thuyết kinh tế của Mác. Để chứng minh giá trị của học thuyết giá
trị thặng dư thì vai trị của máy móc đến q trình sản xuất thặng dư là một tiền
đề quan trọng.
1.2. Khái niệm
1.2.1. Giá trị thặng dư (Surplus value) là gì?
Giá trị thặng dư (surplus value) là mức độ dôi ra khi lấy mức thu của một đầu
vào nhân tố trừ đi phần giá cung của nó, và Mác đã nghiên cứu khái niệm này


dưới góc độ hao phí lao động .
Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị
C.Mác. Ơng đã nghiên cứu và đưa ra một số cơng thức tính tốn xung quanh
khái niệm này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của mình. Điển hình
trong số đó là tác phẩm “Tư bản”, nơi các lý luận về giá trị thặng dư được trình
bày cơ đọng nhất .
Theo C.Mác, giá trị thặng dư là một phần giá trị mới do lao động sống tạo thêm
ra ngoài giá trị hàng hố sức lao động, là lao động khơng được trả công của
người lao động làm thuê . Đối với hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào
tư liệu sản xuất và mua sức lao động. Mục đích khi chi tiền là nhằm thu được
một số tiền dôi ra ngồi số tiền mà họ đã chi trong q trình sản xuất. Như vậy,
phần giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị
nhà tư bản chiếm hết được gọi là giá trị thặng dư .
1.2.2. Máy móc là gì?
Máy móc là một kết cấu hoàn chỉnh, gồm các chi tiết, cụm chi tiết, bộ phận có
liên kết với nhau để vận hành, chuyển động theo mục đích sử dụng được thiết
kế .
[1]

[2]

[3]

[4]

[5]

2.Phần nội dung



2.1 Nguồn gốc của thặng dư
Giá trị thặng dư là mục tiêu của các nhà tư bản, là điều kiện tồn tại và phát triển
của tư bản. Bất kỳ một nền sản xuất nào muốn phát triển được, muốn đáp ứng
nhu cầu của con người về điều kiện sống đều phải tái sản xuất, mở rộng và phải
tạo ra được sản phẩm thặng dư. Bởi mức độ giàu có của xã hội tuỳ thuộc vào
khối lượng sản phẩm thặng dư. Xã hội càng phát triển thì sản phẩm thặng dư
càng nhiều. Song trong mọi xã hội, sản phẩm thặng dư bán trên thị trường đều
có giá trị, nhưng chỉ có ở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì giá trị của sản phẩm
thặng dư mới là giá trị thặng dư. Từ đó có thể khẳng định sản xuất ra giá trị
thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
2.2.Chế độ sở hữu và vấn đề giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
C.Mác đã chỉ ra rằng sự sản xuất quá trình thặng dư là sự thống nhất q trình
tạo ra và tăng giá trị. Để có được giá trị thặng dư nền sản xuất xã hội phải đạt
đến trình độ nhất định. Trình độ này phản ánh người lao động phải hao phí một
phần thời gian lao động là có thể bù đắp giá trị hàng hóa sức lao động, bộ phận
này là thời gian lao động tất yếu. Ngồi thời gian tất yếu đó, vẫn trong nguyên
tắc ngang giá đã thỏa thuận người lao động phải làm việc trong sự quản lý của
người mua hàng hóa sức lao động và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu nhà tư bản.
Thời gian đó là thời gian lao động thặng dư. Như vậy, nguồn gốc của lao động
thặng dư là do hao phí sức lao động mà có.
2.2.1. Nhận thức lại và vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển
mác xít về chế độsở hữu
Theo quy luật phủ định của phủ định, C. Mác cho rằng:“Phương thức chiếm
hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra, và do đó
cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế
độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một q trình
tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại
chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành


tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công
cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra” (1).
Cần hiểu quan điểm trên đây ở ba điểm:
Một là,chế độ sở hữu XHCNchỉ phủ định sở hữu tư bản ở mặt tiêu cực, bóc
lộtcủa nó. Điều này cũng được trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản: “Đặc
trưng của chủ nghĩa cộng sản khơng phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung”,
“Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao
động của người khác”(2). Ý này rất quan trọng: mục đích của xóa bỏ tư hữu là
xóa bỏ bóc lột, do vậy những hình thức tư hữu khơng bóc lột mà có lợi cho sản
xuất thì khơng có lý do gì để xóa bỏ.


Hai là, CNXH khơng xóa bỏ mà cịn tiếp tục duy trì và phát triển hình thức
sở hữu cá nhân của người lao động, nhưng là “sở hữu cá nhân trên cơ sở những
thành tựu của thời đại TBCN”, tức sở hữu cá nhân gắn liền với nền sản xuất lớn
và được sử dụng để tổ chức lao động với năng suất cao, khơng phải để bóc lột
lao động của người khác.
Ba là,sở hữu cá nhân tồn tại trên nền tảng của chế độ công hữu về ruộng
đất, tài nguyên thiên nhiên và tư liệu sản xuất do lao động xã hội tạo ra. Nghĩa
là sở hữu cá nhân chỉ cung cấp vốn, cơng cụ lao động, v.v.. cịn những tư liệu
sản xuất cơ bản như đất đai, tài nguyên, và những tư liệu sản xuất khác do xã
hội tạo ra thì khơng thuộc sở hữu cá nhân.
Sở hữu cơng cộng và sở hữu cá nhân đều có vai trị quan trọng trong các
nước XHCN và các nước tiên tiến trên thế giới. Ruộng đất, tài nguyên thiên
nhiên và các tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra đều đã thuộc về sở hữu công cộng.
Chẳng hạn, ở Canađa, Xinhgapo, chế độ sở hữu công cộng được thiết lập rất
bền vững và được mọi người dân thừa nhận và tôn trọng với ý thức tự giác cao.
Trong Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng việc thiết lập sở hữu cơng
cộng về ruộng đất “khơng có nghĩa là khơi phục lại chế độ sở hữu chung
nguyên thủy trước kia, mà là lập nên một hình thức cao hơn và phát triển hơn


nhiều của hình thức chiếm hữu chung, một hình thức không chỉ không trở ngại
cho sản xuất mà trái lại, lần đầu tiên giải phóng sản xuất khỏi những xiềng xích
trói buộc nó, làm cho sản xuất có thể sử dụng được đầy đủ những phát kiến về
hóa học và những sáng chế về cơ học hiện đại” (3).
Mối quan hệ giữa sở hữu xã hội và sở hữu cá nhân là mối quan hệ đan xen
lẫn nhau. Sở hữu cơng cộng là cơ sở, nền tảng trên đó tồn tại và phát triển sở
hữu cá nhân.Vấn đề này hiện nay được hiểu như sau: đất đai, tài nguyên thiên
nhiên, các cơng trình cơng cộng, v.v.. thuộc về sở hữu xã hội (chế độ công
hữu).
Tuy nhiên, cá nhân và tập thể được xã hội trao quyền sử dụng những
thứ đó để làm nơi cư trú, nơi canh tác nơng nghiệp, xây dựng những cơng trình
sản xuất và phục vụ sản xuất, du lịch, giải trí, khai thác tài nguyên, năng lượng
để phục vụ xã hội, v.v.. Những tư liệu lao động do cá nhân cung cấp và trực
tiếp sử dụng, như máy móc, thiết bị thì thuộc về sở hữu cá nhân.
Sự vận dụng tư tưởng của C.Mác về quy luật phủ định của phủ định để dự báo
về chế độ chiếm hữu trong tương lai vừa có tính cơng cộng, vừa có tính cá nhân
cũng được V.I.Lênin chỉ ra trong tác phẩm Những người bạn dân là thế nào và
họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao.V.I.Lênin nêu rõ:
“Mác không thể chứng minh được tính tất yếu của cách mạng xã hội, tính tất
yếu của việc kiến lập chế độ công hữu về ruộng đất và về tư liệu sản xuất do
lao động tạo ra, nếu không dùng đến sự phủ định cái phủ định của Hêghen...
Mác đã đi đến kết luận là trong xã hội tương lai sẽ tồn tại một chế độ sở hữu


vừa cá nhân, vừa công cộng, với tư cách là sự thống nhất tối cao, kiểu
Hêghen,... của cái mâu thuẫn đã bị xóa bỏ”(4).
Trước hết, với Chính sách thuế lương thực, V.I.Lênin thừa nhận vai trò của
sở hữu cá nhân và kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. Ruộng đất là sở hữu công
cộng, nhưng người nông dân được trao quyền sử dụng và trao đổi tồn bộ sản
phẩm nơng nghiệp của mình sau khi đã nộp thuế lương thực cho nhà nước.


Trong công nghiệp, V.I.Lênin kêu gọi doanh nhân trong nước bỏ vốn ra kinh
doanh và đồng thời đề nghị thực hiện “chính sách tơ nhượng” đối với tư bản
nước ngồi. V.I.Lênin nói về thực chất của chính sách tơ nhượng: “Chính
quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của
mình: nhà máy, vật liệu, hầm mỏ; nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách
là một bên ký kết, là người làm thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa, và thu
được lợi nhuận do tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà nước xã hội chủ
nghĩa một phần sản phẩm”(6).
Với Chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin đã bước đầu vận dụng một cách
sáng tạo tư tưởng của C.Mác về một hình thức sở hữu vừa “cơng cộng vừa cá
nhân”: tư liệu sản xuất của nhà nước (sở hữu công cộng) cho tư nhân thuê để
kinh doanh. Ở nước ta hiện nay, ruộng đất là sở hữu công cộng, nhưng giao cho
nông dân canh tác; đất đai, rừng núi, sông, biển, thềm lục địa... là sở hữu nhà
nước nhưng giao cho tư nhân kinh doanh khách sạn, xây dựng các cơng trình
thủy điện, du lịch, khai thác khống sản,v.v.. Như vậy, sở hữu tồn dân là cơ sở
trên đó tồn tại và phát triển hình thức sở hữu tư nhân, nhưng đây là sở hữu tư
nhân của người lao động, không phải là sở hữu tư nhân của kẻ bóc lột.
2.2.2. Nhận thức lại vấn đề giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong tác phẩm Tư bản, C.Mác chứng minh một cách khoa học rằng giá trị
của hàng hóa là do lao động tạo ra(gồm lao động hiện tại và lao động quá khứ).
Lượng giá trị của toàn bộ hàng hóa được sản xuất ra(biểu hiện thành giá xuất
xưởngcủa sản phẩm, chưa qua lưu thông). Từ sự chứng minh lượng giá trị của
hàng hóa do lượng của lao động sản xuất ra hàng hóa đó quyết định, C.Mác đi
đến chứng minh rằng, nguồn gốc của giá trị thặng dư (GTTD) mà nhà tư bản
thu được là do lao động thặng dư(lao động không được trả công) của người lao
động tạo ra. C.Mác chỉ rõ sự khác nhau giữa quá trình sản xuất ra giá trị và quá
trình sản xuất ra GTTD như sau: “Giả định rằng ngày lao động gồm 6 giờ lao
động cần thiết và 6 giờ lao động thặng dư. Như vậy, trong một tuần lễ người
lao động tự do cung cấp cho nhà tư bản 6 x 6, hay 36 giờ lao động thặng dư.


Điều đó cũng giống như anh ta lao động 3 ngày trong một tuần cho bản thân
mình và 3 ngày khơng cơng cho nhà tư bản”(7).
Trong thời kỳ trước đổi mới, các nhà lý luận XHCN đã có một cách hiểu sai
lệch về thành phần của lao động trong nguồn gốc tạo ra GTTD. Nguyên nhân là


do trong quá trình nghiên cứu, C.Mác chưa đề cập đến vai trò của doanh nhân
trong việc tạo ra GTTD. Điều này đã gây ra một cách hiểu phiến diện từ trước
đến nay là GTTD chỉ do một mình lao động của người công nhân làm thuê tạo
ra. Doanh nhân chẳng những khơng tạo ra mà cịn “tước đoạt” tồn bộ GTTD
của giai cấp vơ sản. Vì thế, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, có một thời kỳ
Nhà nước Xơviết thực hiện “tước đoạt lại những kẻ đã tước đoạt” bằng cách
tịch thu toàn bộ tài sản của tư bản và biến thành tài sản của nhà nước. Tuy
nhiên, sau mấy năm thực hiện “chính sách cộng sản thời chiến”, V.I.Lênin đã
thực hiện đổi mới căn bản chính sách kinh tế. Trong Chính sách kinh tế mới,
Nhà nước Xơviết thừa nhận vai trò quan trọng của lao động doanh nhân, kể cả
tư bản nước ngoài, sẵn sàng cung cấp cho họ những điều kiện cần thiết về cơ sở
vật chất, ngun vật liệu (được gọi là “chính sách tơ nhượng”) và cho họ được
phép hưởng một cách chính đáng và hợp pháp GTTD do hoạt động sản xuất
kinh doanh tạo ra với điều kiện là nộp lại một phần cho Nhà nước.
Sau khi Lênin qua đời, Chính sách kinh tế mới đã không được tiếp tục thực
hiện. Những người kế tục Lênin đã xóa bỏ hồn tồn kinh tế tư nhân và thực
hiện kế hoạch hóa tập trung trong cơng nghiệp và thương nghiệp, tập thể hóa
trong nơng nghiệp. Đó là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trì trệ
trong kinh tế ngày càng tăng sau khi đất nước bước vào thời kỳ hồ bình xây
dựng và dẫn đến sự khủng hoảng nghiêm trọng không thể cứu vãn nổi của Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Ở nước ta, trước đổi mới, cũng do cách hiểu không đúng nên coi kinh tế tư
nhân chỉ có bóc lột nên không thể dung hợp với nguyên tắc công bằng xã hộilà
nguyên tắc cơ bản của CNXH, dẫn đến việc hạn chế, xóa bỏ kinh tế tư nhân


trong cơng nghiệp và thương nghiệp, gây ra tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Những thành tựu sau gần 30 năm đổi mới đất nước đã chứng minh vai trị
tích cực của kinh tế tư nhân. Một vấn đề được đặt ra: nếu kinh tế tư nhân là
khơng cơng bằng thì làm sao nó đã và thật sự trở thành động lực lớn của sự
phát triển đất nước? Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là cần nhận thức lại vấn đề
GTTD để hiểu rõ được vai trò của kinh tế tư nhân và làm cơ sở cho việc thực
hiện công bằng xã hội trong tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư
nhân.
Tất nhiên, chúng ta khơng tán thành quan niệm cho rằng, GTTD là do tư
bản (tiền) được đầu tư vào sản xuất nên sinh lợi, hoặc do máy móc tạo ra.
GTTD là do lao động thặng dư của người lao động tạo ra. Người lao động
không chỉ bao gồm người công nhân trực tiếp đứng máy, mà cịn có những
người lao động khác, như lao động của những người chủ doanh nghiệp, lao
động của bộ phận quản lý quá trình sản xuất kinh doanh, lao động của những
người thiết lập, điều khiển tồn bộ quy trình cơng nghệ. Nếu người chủ doanh
nghiệp cũng đồng thời là người quản lý doanh nghiệp thì lao động quản lý của


họ cũng là một loại lao động tạo ra GTTD. Lao động quản lý phải được coi là
một loại lao động phức tạp, như người Việt Nam có câu: “Một người lo bằng
một kho người làm”.
Như vậy, doanh nhân được hưởng một phần GTTD do hoạt động sản xuất
và kinh doanh của doanh nghiệp là hồn tồn chính đáng. Vấn đề đặt ra là, làm
thế nào để lượng hóa một cách chính xác số lượng lao động thặng dư của từng
bộ phận, từng người lao động để thực hiện phân phối GTTD một cách công
bằng trong các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đều có hai hình thức phân phối: phân
phối theo tiền lương, tiền cơngvà phân phối theo phúc lợi của doanh nghiệp.
Sau khi đã khấu trừ tất cả các khoản chi phí, doanh nghiệp còn một khoản lợi
nhuận (thực chất lợi nhuận là GTTD của người lao động, tức lao động chưa


được trả công), cần phải được phân phối lại. Điều khó khăn và phức tạp nhất
trong việc phân phối GTTD là làm thế nào để lượng hóa một cách chính xác số
lượng và chất lượng của lao động, nhất là trong quan hệ giữa người lao động
trực tiếp và người quản lý lao động. Việc tính tốn số lượng lao động thì tương
đối đơn giản hơn, nhưng còn về chất lượng lao động thì quả là một vấn đề nan
giải. Mặc dù, lao động phức tạp là “bội số” của lao động đơn giản, nhưng bội
số đó là bao nhiêu, rất khó để có một cơng thức tối ưu cho mọi lĩnh vực, mọi
doanh nghiệp. Giải pháp chung cho vấn đề phân phối ở cả hai hình thức được
đề xuất là:
Một là,dựa trên sự thỏa thuận theo hợp đồng giữa người thuê lao động và
người lao động được thuê. Mối quan hệ này phải được thường xuyên điều
chỉnh theo quy luật thị trường quy định mặt bằng chung về giá cả sức lao động
và sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc thu hút lao động có chất
lượng cao bằng tiền lương, tiền thưởng. Như vậy, cơ chế thị trường có tác dụng
điều chỉnh quan hệ phân phối, thường xuyên phá vỡ sự bất công, luôn vận động
và phát triển để tạo ra sự công bằng trong điều kiện mới.
Hai là,sự điều chỉnh của nhà nước bằng chính sách tiền lương và luật lao
động. Nhà nước cần phải có quy định về lương tối thiểu và điều kiện làm việc,
về bảo hiểm xã hội, v.v.., của người lao động trong các doanh nghiệp. Học
thuyết GTTD của C.Mác đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, do điều
kiện kinh tế - xã hội mới, cơ cấu của GTTD có nhiều thay đổi, lao động quản lý
ngày càng giữ vai trò quan trọng hơn trong việc tạo ra GTTD. Vì vậy, cần
thường xuyên cập nhật, đổi mới cách xem xét vấn đề này để khắc phục sai lầm
trong cách hiểu trước đây.
Công bằng xã hội thực hiện trong các thành phần kinh tế bao giờ cũng chỉ
có tính tương đối, dựa trên sự thỏa thuận là chính. Chúng ta cần có cách nhìn
nhận mềm dẻo, linh hoạt, tránh thái độ cực đoan trong vấn đề này. Bằng việc
áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và việc nâng cao kỹ năng chuyên môn



và năng suất lao động, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường và vai trò
quản lý của Nhà nước, vấn đề này sẽ được giải quyết ngày càng tốt hơn.
Nhà nước và các tổ chức xã hội cần phải thường xuyên theo dõi để kịp thời
phát hiện, ngăn chặn, uốn nắn những biểu hiện tiêu cực, bất công trong các
doanh nghiệp, thường xuyên giải quyết mâu thuẫn, khơng để mâu thuẫn tích
lũy dẫn đến tình trạng bùng nổ thành xung đột; đồng thời khuyến khích, biểu
dương, khen thưởng những doanh nghiệp làm tốt việc phân phối phúc lợi, chăm
lo đời sống của người lao động, tạo ra được sự hài hịa giữa các lợi ích trong
doanh nghiệp.
2.3 Khái niệm và bản chất của thặng dư
Giá trị thặng dư là một bộ phận giá trị mới do lao động của cơng nhân tạo ra,
dơi ra ngồi giá trị sức lao động , là kết quả lao động không công của người lao
động thuộc về nhà tư bản.
Tỷ suất gia trị thặng dư: là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá tị thặng dư và tư
bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó. Nó nói lên trình độ bóc
lột của nhà tư bản đối với cơng nhân làm th.
(Trong đó: m' là tỷ suất giá trị thặng dư, m là tổng sổ giá trị mới do sức lao động
tạo ra, v là tư bản khả biến.)
Trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người công nhân
làm cho nhà tư bản chiếm baonhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu
làm cho mình và đượng tính theo cơng thức:
(Trong đó: t' là thời gian lao động thặng dư, t là thời gian lao động tất yếu.)
Khối lượng giá trị thặng dư:là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản
khả biến đã được sử dụng và được ký hiệu là M'. Nó nói lên quy mơ bóc lột.
Nhằm nghiên cứu các yếu tố cốt lõi để tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình
sản xuất của các nhà tư bản cũng như bản chất của nó, C.Mác đã chia tư bản ra
thành hai bộ phận: Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển
vào sản phẩm, tức là không thay đổi đại lượng giá trị của nó, được C.Mác gọi
là tư bản bất biến, và ký hiệu là c. Tư bản cố định là bộ phận tư bản (thiết bị,


máy móc) tham gia tồn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó khơng
chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển từng phần theo độ hao mịn của
nó trong q trình sản xuất.
Tư bản bất biến tuy không là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó có
vai trị là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng
dư. Tư bản bất biến quyết định năng suất lao động của công nhân.
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua
lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về đại
lượng, được C.Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là v. Bộ phận này chuyển
hóa thành tư liệu tiêu dùng và mất đi trong quá trình tiêu dùng của người cơng
nhân. Tuy nhiên trong q trình lao động, bằng lao động trừu tượng, người


công nhân tạo ra một lượng giá trị mới hơn giá trị bản thân sức lao động. Nó
bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng
để mua sức lao động. Cịn tư bản bất biến có vai trị gián tiếp trong việc tạo ra
giá trị thặng dư.
Sự phân chia tư bản thành tư bản khả biến và tư bản bất biến đã vạch trần
bản chất bóc lột của tư bản chủ nghĩa, chỉ có cơng nhân làm th mới tạo ra giá
trị thặng dư của nhà tư bản. Tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do cơng
nhân tạo ra .
Nói đơn giản hơn, tư bản chủ nghĩa bóc lột cơng sức người lao động để tạo
ra nhiều thặng dư hơn cho mình. Việc họ bóc lột cơng nhân càng nhiều thì giá
trị thặng dư được tạo ra càng cao. Do đó người giàu sẽ cứ giàu mãi, người
nghèo sẽ cứ nghèo mãi .
2.4 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
· Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
§ Phương pháp sản xuất giá trị thăng dư tuyệt đối: là phương pháp sản xuát
giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động


tất yếu; trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao
động tất yếu không thay đổi.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chủ yếu phụ thuộc vào thời
gian lao động và cường độ lao động.
Kéo dài thời gian lao động trong ngày
Tăng cường độ lao động
- Hạn chế
Giới hạn lao động về thể chất và tinh thần của người công nhân, co dãn trong
khoảng: Thời gian lao động cần thiết < ngày lao động < 24 h.
Vấp phải sự đấu tranh của công nhân.
§ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: là phương pháp sản xuất
ra giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu để kéo dài một
cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã
hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao
động không đổi.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối phụ thuộc chủ yếu vào cơng
nghệ sản xuất, thiết bị máy móc, vốn và năng suất lao động.
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí,
kĩ thuật dã tiến bộ làm năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, các nhà tư bản
chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột
giá trị thặng dư tương đối.
- Hạn chế
Địi hỏi trình độ kĩ thuật nhất định.
u cầu phải có vốn đầu tư ban đầu.
· Ý nghĩa:
[5]

[6]



Máy móc tuy khơng trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó góp phần làm
tăng giá trị lao động. Mục đích của các ơng chủ tư bản là muốn tạo ra ngày càng
nhiều giá trị thặng dư (lợi nhuận) nên máy móc-kĩ thuật đóng vai trị như một
cơng cụ đắc lực giúp tạo ra lợi nhuận nhanh nhất có thể -> giảm hao phí sức lao
động của cơng nhân , đời sống cũng được cải thiện đáng kể -> kích thích sự hăng
say làm việc của họ.
Áp dụng máy móc, khoa họckĩ thuật vào sản xuất giúp duy trì sức lao động của
cơng nhân.
Áp dụng máy móc, khoa học kĩ thuật vào sản xuất giúp tăng năng suất lao
động .
Máy móc làm việc nhanh hơn, chính xác hơn và có thể làm việc trong thời gian
dài hơn con người từ đó làm tăng số lượng sản phẩm.
Áp dụng máy móc, khoa họckĩ thuật vào sản xuất thúc đẩy sự phát triển khoa
học kĩ thuật.
Áp dụng máy móc, khoa học kĩ thuật vào sản xuất giúp hạn chế những mâu
thuẫn giữa các nhà tư bản và công nhân.
2.5 Ảnh hưởng máy móc trong q trình sản xuất thặng dư
Q trình lao động dù là giản đơn hay phức tạp cũng là sự kết hợp của người
lao động với tư liệu sản xuất. Sử dụng máy móc càng hiện đại thì sức sản xuất
ngày càng được nâng lên, càng tạo ra nhiều của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu
của xã hội.
2.5.1 Ảnh hưởng máy móc trong q trình sản xuất thặng dư tuyệt
đối
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong
điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất
ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư.
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:


m’ = 4/4 = 100%
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu
không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Tỷ suất giá trị thặng dư lúc này là:
m’ = 6/4 = 150%
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động
tất yếu khơng thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá
trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là
150%
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có
những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh
thần của người lao động quyết định. Vì cơng nhân phải có thời gian ăn, ngủ,
nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp


phải sự phản kháng của giai cấp cơng nhân. Cịn giới hạn dưới của ngày lao
động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng
dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian
lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần
của người lao động.
2.5.2. Ảnh hưởng máy móc trong q trình sản xuất thặng dư
tương đối
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng
dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài
một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao
động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư
được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương
đối.Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao
động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Do đó, tỷ suất giá trị thặng
dư là:
m’ = 4/4 = 100%


Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ
cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao
động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời
gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Bây giờ tỷ suất
giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 5/3 = 166%
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Điều đó
chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và
tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã hội. Nếu trong
giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản
xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của
lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã
trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại cơng
nghiệp cơ khí, đó cũng là q trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư
tương đối.
Ngày nay hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà
tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột cơng nhân làm
thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.Ngày nay, việc tự động hóa
sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự
căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
Tóm lại: cả 2 phương pháp


• Đều là cách mà nhà tư bản sử dụng để bóc lột cơng nhân để tạo giá trị thặng
dư.
• Đều dựa trên cơ sở thời gian lao động thặng dư được kéo dài.


• Địi hỏi độ dài ngày lao động nhất định, cường độ lao động và năng suất lao
động nhất định.
2.5.3 Giá trị thặng dư siêu gạch
Vì muốn thu được nhiều giá trị thặng dư và chiếm ưu thế cạnh tranh, các
nhà tư bản áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Mục đích là cải tiến,
hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết quả
giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào áp dụng
cách này thì hàng hóa khi bán sẽ thu được một số giá trị thặng dư nhiều hơn
nhà tư bản khác.
Tóm lại: Máy móc chính là bàn tay trái của con người trong việc nâng cao
năng suất lao động cũng như quản lý kinh tế.
2.6. Những bất cập của máy móc trong q trình sản xuất thặng dư
C.Mác khơng chỉ phân tích và dự báo tính vượt trội của cách mạng cơng
nghiệp dựa trên máy móc và hệ thống máy móc so với cơng cụ thủ cơng, sức
lực cơ bắp của người cơng nhân, mà cịn chỉ rõ sự liên hệ máu thịt giữa cách
mạng công nghiệp với chủ nghĩa tư bản, sự bất cập của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất với cuộc sống người
cơng nhân do khơng có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho nhà tư bản, trói buộc
sự phát triển lực lượng sản xuất.
Do máy móc nằm trong tay giai cấp tư sản, nên trở thành công cụ hữu hiệu
để giai cấp này tăng cường bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối giai
cấp lao động thông qua việc kéo dài ngày lao động ra khỏi mọi giới hạn tự
nhiên, bởi lẽ, việc sử dụng máy móc có hiệu quả địi hỏi máy móc phải làm
việc liên tục, nên địi hỏi nhà tư bản ln cần thiết phải kéo dài ngày lao động.
Mặt khác, khi áp dụng máy móc thì cường độ lao động chủ yếu tùy thuộc vào
máy móc, kéo theo việc nhà tư bản tìm mọi cách để tăng cường độ lao động để
bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối. Bằng cách đó, những máy móc đó đã trao
tồn bộ cơng nghiệp vào tay các nhà tư bản lớn và hoàn toàn làm giảm giá trị
số tài sản nhỏ bé không đáng kể thuộc về công nhân (công cụ, khung cửi,...),
thành thử chẳng bao lâu, các nhà tư bản đã nắm hết thảy mọi cái vào tay mình,


cịn cơng nhân thì khơng cịn gì nữa.
Bản chất cố hữu của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư, để có
nhiều giá trị thặng dư nhà tư bản khơng có cách nào hiệu quả hơn là gia tăng
năng suất lao động thông qua việc phát triển lực lượng sản xuất, mà cụ thể ở
đây là cải tiến công cụ lao động. Công cụ lao động - yếu tố cấu thành của lực
lượng sản xuất - được chủ nghĩa tư bản đầu tư mạnh nên liên tục được cải tiến,


gia tăng nhanh chóng cả về số lượng, quy mơ và chất lượng để bóc lột được
nhiều hơn, và vì vậy số lượng giai cấp công nhân bị bần cùng hóa ngày càng
nhiều hơn, dẫn đến kết cục là trong chủ nghĩa tư chỉ tồn tại hai giai cấp cơ bản
có lợi ích đối lập nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
Không ai phủ nhận cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ nhất là một tiến
bộ xã hội, gắn với sự ra đời chủ nghĩa tư bản, góp phần tạo ra lượng của cải vật
chất to lớn. Nhưng cũng trong xã hội này, quan hệ giữa con người với con
người chỉ là quan hệ dựa trên quan hệ tiền bạc lạnh lùng, mọi tầng lớp xã hội,
kể cả trí thức, do khơng có tư liệu sản xuất, đều bị cỗ máy tư sản chuyển hóa
trở thành cơng cụ để giai cấp tư sản bóc lột. Người trực tiếp làm ra của cải vật
chất là giai cấp công nhân, nông dân lại không thuộc về họ mà chủ yếu thuộc
về chủ tư bản.
Vì chạy theo lợi nhuận thơng qua việc bóc lột giá trị thặng dư dưới chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, mà sự phát triển cách mạng công nghiệp đã ngày
càng làm gia tăng thêm số người vô sản. Người công nhân trở thành một vật
phụ thuộc giản đơn của máy móc và đi kèm với đó là việc bóc lột giai cấp công
nhân tàn bạo hơn, tinh vi hơn, và kéo theo đó là những biểu hiện mới là khủng
hoảng thừa và nạn thất nghiệp.
Vậy là, cuộc cách mạng công nghiệp gắn chặt với phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa cũng như hệ quả từ những thành tựu vượt trội do máy móc tạo ra
nhưng những hạn chế về mặt xã hội bắt nguồn từ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa, đó là tình trạng cạnh tranh tự do dẫn đến khủng hoảng thừa, tha hóa lao


động .
[7]

2.7.Vai trị của máy móc trong q trình sản xuất thặng dư
Máy móc là tiền đề vật chất cho q trình tạo ra giá trị thặng dư
Trong quá khứ: Khi sử dụng máy móc xuất hiện đã làm tăng khả năng sản xuất
của lao động. Trong một đơn vị thời gian sẽ tạo ra được nhiều hàng hoá hơn đã
giúp người lao động hạn chế một phần sức lao động, nhưng đồng thời cũng tăng
được năng suất lao động.
Máy móc khơng ngừng cải tiến trong hiện tại - trong bối cảnh tự động hóa sản
xuất mà đỉnh cao của nó là sử dụng người máy (rôbôt) khi thực hiện một số chức
năng nào đó thì người máy có thể thay thế con người, thì máy móc là nguồn gốc
chính để tạo ra giá trị thặng dư
Trong tương lai có thể rằng máy móc dần thay thế vị trí con người liệu cơng
nghệ kỹ thuật có thể tạo ra những giá trị thặng dư vượt trội hay không hay đến một
giai đoạn nào đó sức lao động con người sẽ trở lại như ban đầu là thành tố duy
nhất cấu thành giá trị thặng dư. Câu trả lời là không: tri thức con người sẽ không
cho phép bản phân bỏ ra sức lao động một cách lãng phí như vậy? Chắc chắn rằng


công nghệ sẽ càng phát triển nhưng vẫn nằm trọn vẹn trong tri thức khổng lồ của
nhân loại chúng ta.
Chúng ta phải thừa nhận rằng giá trị thặng dư là một dao động. Và nó dao
động như thế nào chắc chắn con người sẽ hiểu rõ và dự báo được. Vì chính chúng
ta đã thúc đẩy tạo tiến trình cho giá trị thặng dư được sinh ra và ngày càng lớn
hơn.
Tóm lại
Nếu: đã xác định "Giá trị thặng dư" là một phần của cái "giá trị lao động thật
tế" của người làm công bị ông chủ tư bản lấy đi, mà ông ta chỉ trả lại cho người
làm công một khoảng gọi là "Lương" (Lương luôn nhỏ hơn "giá trị lao động


thật tế" của người làm cơng)
Thì: vấn đề về sự ảnh hưởng "Giá trị thặng dư", chỉ còn là sự đánh giá từ phía
các ơng chủ về về "giá trị lao động thật sự" của người làm công. Người chủ chịu
trả lương bao nhiêu? Có đúng với sức lao động của ta khơng? Máy móc chắc
chắn chỉ là cơng cụ hữu hiệu nhằm giảm sức lao động chân tay và giảm thời gian
cho công nhân.

3.Phần kết luận
Xét thuần túy trong lĩnh vực kinh tế, công thức trên cho thấy bất kỳ cá nhân
hay tổ chức nào có tiền (vốn) được đưa vào trong quá trình sản xuất và kinh
doanh trực tiếp hay gián tiếp như thông qua đầu tư chứng khốn, thậm chí gửi
ngân hàng sẽ sinh lời. Đồng tiền chỉ trở thành công cụ sinh lời nếu đầu tư vào
sản xuất hay kinh doanh. Mỗi cá nhân đều có thể trở thành nhà tư bản nếu biết
sử dụng hợp lý tiền của mình trong đầu tư kinh doanh. Nếu chỉ để tích lũy
thuần túy thì đó là đồng tiền chết, khơng những khơng có lợi cho cá nhân đó
mà cịn khơng có lợi cho những người khác cần vốn để sản xuất.
Trong bất kì xã hội nào cũng cần phải tìm cách tăng giá trị thặng dư, nếu áp
dụng được các công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng được tri thức, trí tuệ vào
trong q trình sản xuất sẽ làm tăng giá trị thặng dư mà không cần phải kéo dài
thời gian lao động hay cường độ lao động ảnh hưởng đến những người sản
xuất.
Công thức cũng chỉ ra cách thức tích lũy làm tăng số tiền, là cơ sở để tái sản
xuất mở rộng, phát triển quy mô sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
Thực chất, khi sử dụng máy móc hiện đại sẽ làm tăng khả năng sản xuất của
lao động. Trong một đơn vị thời gian sẽ tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, với
chất lượng tốt hơn, khi bán hàng hoá trên thị trường (có thể bán với giá thấp
hơn so với giá cả thị trường) nhưng vẫn thu được lợi nhuận rất cao. Sở dĩ như
vậy là do khi năng suất lao động tăng lên thì hao phí lao động để sản xuất ra
một hàng hoá giảm xuống dẫn đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm



xuống. Chính vì thế C.Mác cho rằng: xã hội sẽ khơng thể tiến bộ nếu khơng
ln ln cách mạng hố cơng cụ sản xuất.
Do đó, nếu khơng đi sâu vào nghiên cứu bản chất của nó, ta sẽ khơng phân biệt
được phân phối GTTD và sản xuất GTTD. Từ đó làm cho ta lầm tưởng rằng máy
móc là nguồn gốc sinh ra GTTD mà khơng thấy được rằng máy móc chỉ là điều
kiện để thu được lợi nhuận siêu ngạch thơng qua cạnh tranh. Vì thế các doanh
nghiệp yếu kém phải phấn đấu vươn lên, ứng dụng công nghệ mới để tồn tại.
Tuy nhiên, không phải bao giờ sử dụng máy móc hiện đại cũng thu được nhiều
lợi nhuận hơn so với lao động thủ công. C.Mác đã chỉ ra rằng: các nhà tư bản
không trả công cho lao động đã sử dụng mà chỉ trả công cho giá trị sức lao động
đã sử dụng. Cho nên việc sử dụng máy móc bị giới hạn bởi số chênh lệch giữa giá
trị của máy móc và giá trị của sức lao động đã thay thế. Do vậy, tiền công thấp sẽ
ngăn cản việc sử dụng máy móc hiện đại vào sản xuất bởi vì: lợi nhuận khơng
phải bắt nguồn từ giảm bớt lao động được sử dụng mà là từ giảm bớt lao động
được trả công.


*Tài liệu tham khảo:
//lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1879-che-doso-huu-va-van-de-gia-tri-thang-du-trong-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xahoi-chu-nghia.html
//loigiaihay.com/hai-phuong-phap-san-xuat-gia-tri-thang-duc126a20246.html
//www.wattpad.com/129545627-l%C3%BD-thuy%E1%BA%BFt-m%C3%A1c-2%C3%B4n-t%E1%BA%ADp-l%C3%BD-thuy%E1%BA%BFt
//text.123docz.net/document/13762-nghien-cuu-may-moc-va-lao-dong-trong-quatrinh-san-xuat-gia-tri-thang-du-doc.htm?
fbclid=IwAR2BcEMwDjYamukFxJkGerOHXGGtuD_Pa_p6QbkkPdN_n21xk1jF_U5W
4mM



Video liên quan

Chủ đề