Thiếu máu cơ tim có mang thai được không

  • Mang thai có thể không được khuyến khích cho những phụ nữ mắc một số bệnh tim có nguy cơ cao (ví dụ như tăng áp phổi, hẹp động mạch chủ nếu không được sửa chữa hoặc đi kèm với chứng phình mạch, hội chứng Marfan có đường kính gốc động mạch chủ > 4,5 cm, hẹp động mạch chủ triệu chứng nghiêm trọng, hẹp van hai lá nặng, van động mạch chủ hai lá với động mạch chủ lên > 50 mm, tâm thất duy nhất có chức năng tâm thu kém, bệnh cơ tim, suy tim loại III hoặc IV theo NYHA).

  • Điều trị chứng suy tim và loạn nhịp trong thời kỳ mang thai giống như đối với những bệnh nhân không mang thai, ngoại trừ tránh dùng một số loại thuốc nhất định (như warfarin, thuốc ức chế ACE, ARB, các đối kháng aldosterone, thuốc lợi tiểu thiazide, một số thuốc chống loạn nhịp như amiodarone).

  • Điều trị hầu hết các bệnh nhân mang thai có rung nhĩ với heparin tiêu chuẩn hoặc có trọng lượng phân tử thấp.

  • Các chỉ định dự phòng viêm nội tâm mạc cho bệnh nhân mang thai có rối loạn cấu trúc tim cũng giống như các bệnh nhân khác.

Tại Việt Nam, bệnh tim hay gặp ở phụ nữ có thai vẫn liên quan nhiều đến bệnh van tim do di chứng thấp tim, một số khác do các bệnh tim bẩm sinh chưa được phát hiện và điều trị. Những sản phụ này có thể sẽ gặp nhiều nguy cơ trong quá trình thai nghén.

3 ngày vừa mổ bắt con vừa phẫu thuật tim cứu mẹ

Sản phụ N.T.Đ (33 tuổi, quê Tiền Giang) mang thai con đầu lòng. Khám thai ở tuần thứ 33 thai kỳ, huyết áp một bên của sản phụ không đo được. Các bác sĩ sản nghi sản phụ bị bệnh lý động mạch chủ (ĐMC) cấp tính nên đã chuyển bệnh nhân sang Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM. Bệnh viện đã quyết định mổ lấy thai ra trước rồi sau đó tiến hành phẫu thuật ĐMC cho người mẹ. Ca mổ lấy thai cho sản phụ Đ. được thực hiện ngay tại phòng mổ tim mạch với sự sẵn sàng của ê-kíp các chuyên gia, bác sĩ tim mạch để can thiệp phẫu thuật ngay lập tức trong trường hợp bệnh nhân bị vỡ mạch máu trong lúc lấy em bé.

Các bác sĩ đã đón em bé gái (nặng 1,8kg) chào đời thành công, khỏe mạnh. Người mẹ không phải can thiệp tim mạch trong ca mổ lấy thai. Sản phụ được cầm máu sau sinh, chăm sóc ổn định sức khỏe trong 2 ngày, sau đó tiếp tục được phẫu thuật tim mạch.

Sản phụ đã được các bác sĩ thực hiện một ca mổ lớn, phải cho ngưng tim, hạ thân nhiệt để bảo vệ não, tuần hoàn ngoài cơ thể. Hai cuộc mổ được thực hiện cùng lúc để thay van và gốc ĐMC cho bệnh nhân; đồng thời, thay quai ĐMC, đặt stent graft ĐMC xuống dài 20cm. Sau 8 giờ thực hiện, ca phẫu thuật thành công.

Khi mang thai, cần khám định kỳ để an toàn cho cả mẹ lẫn con.

Một số bệnh lý tim mạch hay gặp

Trong quá trình mang thai, cơ thể người phụ nữ thay đổi nhiều về tâm lý, giải phẫu, sinh lý, huyết học, tuần hoàn... Với những người khỏe mạnh, hệ thống tim mạch thích ứng được những thay đổi đó, nhưng với những sản phụ có bệnh tim mạch thì thai nghén trở thành gánh nặng và làm cho các bệnh lý tim mạch trở nên nặng hơn, dễ xảy ra tai biến và biến chứng cho mẹ và thai nhi. Vì thế, việc theo dõi, điều trị, tiên lượng và quyết định các can thiệp đối với bệnh nhân tim mạch đang mang thai rất quan trọng.

Bệnh tim thiếu máu cục bộ: Các yếu tố nguy cơ gây nhồi máu cơ tim ở phụ nữ có thai cũng tương tự như người không có thai. Nguy cơ nhồi máu sẽ tăng lên ở trường hợp đa thai, người hút thuốc lá, bệnh nhân đái tháo đường, béo phì, tăng huyết áp và tăng mỡ máu. Nhồi máu cơ tim hay gặp nhất trong 3 tháng cuối của quá trình mang thai và tử vong mẹ khoảng 20%. Về điều trị cũng tương tự với người không có thai.

Rối loạn nhịp tim và thai nghén: Ngoại tâm thu nhĩ và thất rất phổ biến trong thời kỳ mang thai. Nhiều sản phụ có cảm giác tim đập mạnh trong lồng ngực và thấy có khoảng hẫng nhịp sau nhịp ngoại tâm thu. Rối loạn nhịp nhanh cũng phổ biến trong thai kỳ. Khoảng 20% trường hợp phụ nữ có cơn nhịp nhanh trên thất từ trước sẽ tái phát trong thời kỳ có thai. Vì thế, các sản phụ cần được theo dõi về tim mạch trong suốt quá trình mang thai.

Hẹp van hai lá: Bệnh hẹp van hai lá là bệnh tim rất đáng quan tâm ở phụ nữ có thai vì khởi đầu người bệnh thường không có triệu chứng nhưng khi mang thai có thể diễn biến xấu đi do nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim hoặc do nhu cầu cung cấp máu tăng dẫn đến các biến chứng thường gặp là phù phổi cấp, nếu không được điều trị dễ dẫn đến tử vong. Vì thế, sản phụ có bệnh hẹp van hai lá nặng cần được tư vấn bởi bác sĩ chuyên khoa tim mạch và thường điều trị nong van hoặc phẫu thuật sửa/thay van hai lá trước khi mang thai.

Hở van hai lá: Nguyên nhân thường do di chứng thấp tim hoặc sa van hai lá. Sản phụ thường dung nạp tốt nên đôi khi quá trình mang thai vẫn diễn ra bình thường (thường gặp ở sản phụ chức năng tim còn bù trừ tốt), tuy nhiên, ở những sản phụ có hở van hai lá nặng kèm theo chức năng tim đã suy giảm thì quá trình thai nghén dễ có các biến chứng khi sinh nở.

Hẹp van ĐMC: Nguyên nhân thường gặp là bẩm sinh hoặc do di chứng của thấp tim. Nếu hẹp van ĐMC nặng hoặc đã có triệu chứng như khó thở, đau ngực thì cần khuyên người bệnh không nên có thai cho tới khi được phẫu thuật. Nếu đã mang thai và xuất hiện các triệu chứng sớm thì nên cân nhắc đình chỉ thai nghén.

Hở van ĐMC: Sản phụ thường dung nạp tốt khi chức năng tim còn trong giới hạn bình thường. Cần lưu ý một số thuốc trong quá trình thai nghén như thuốc “ức chế men chuyển” (loại thuốc hay dùng điều trị trong hở van ĐMC) có nguy cơ dị tật với thai nhi nên cần thay thế bằng nhóm thuốc khác.

Van cơ học và thai nghén: Những sản phụ có mang van tim nhân tạo (được thay van nhân tạo cơ học trước khi mang thai) cần dùng thuốc chống đông suốt đời và phải tiếp tục trong suốt thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, các thuốc chống đông như wafarin (Sintrom) và các dẫn xuất khác có thể dẫn đến bệnh lý thai nhi trong thời gian từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 12, đồng thời làm tăng nguy cơ sẩy thai, thai lưu và xuất huyết nội sọ thai. Vì thế, với người bệnh mang van tim cơ học, việc mang thai sẽ dẫn đến nguy cơ lớn cho cả mẹ và thai nhi. Nếu vẫn tiếp tục mang thai thì trước khi sinh cần phải dừng wafarin và thay bằng thuốc chống đông khác là heparin trong 10 ngày trước khi sinh. Trong khi sinh thì dừng dùng heparin và dùng lại wafarin từ ngày thứ 2 hoặc thứ 3 sau khi sinh.

Các bệnh tim ít gặp khác trong quá trình thai nghén như: Tăng áp lực động mạch phổi, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn, bệnh cơ tim chu sản (một loại bệnh lý đặc biệt có liên quan quá trình thai sản)... Đối với những sản phụ nói chung, đặc biệt, các sản phụ có bệnh tim nói riêng cần được theo dõi và quản lý thai nghén định kỳ theo hướng dẫn của nhân viên y tế. Các sản phụ có bệnh lý tim mạch kèm theo, cần được thăm khám và kết hợp điều trị của bác sĩ chuyên khoa tim mạch nhằm giảm các nguy cơ biến chứng và tai biến trong thai kỳ, đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và em bé.

Lời khuyên của thầy thuốc

Bệnh tim có nhiều loại, thể nặng hay nhẹ đều ảnh hưởng đến sức khỏe của người mẹ và thai nhi, đe dọa trực tiếp đến tính mạng như các bệnh hẹp, hở van hai lá, suy tim... Chính vì vậy, những phụ nữ mắc bệnh tim cần có sự lựa chọn cẩn thận khi quyết định mang thai. Nếu đã có thai, cần đi khám xem có thể chịu đựng được quá trình mang thai và sinh nở hay không để quyết định giữ thai hay bỏ thai.

Trong quá trình mang thai, phải được theo dõi sức khỏe chặt chẽ, có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi đặc biệt, tâm trạng luôn luôn thoải mái; nếu có những biến đổi khác thường, phải đến ngay các cơ sở y tế để được xử trí kịp thời, tránh những tai biến đáng tiếc xảy ra.


Chăm sóc bà mẹ mang thai

05/11/2012

BS.CK1. Nguyễn Thị Từ Anh (Dịch)
K. Sơ sinh - BV Từ Dũ

Theo một nghiên cứu vừa mới được đăng tải ngày 11 tháng 9 năm 2012 trên phiên bản điện tử của Tạp chí tim mạch châu Âu, phụ nữ mang thai mắc bệnh tim tử vong nhiều gấp 100 lần so với phụ nữ mang thai có sức khỏe bình thường. Các tác giả nghiên cứu cũng nhận thấy có khoảng 0,9% phụ nữ mang thai ở Anh có bệnh tim. Theo tiến sĩ Mark Johnson (Đại học Hoàng gia London, Anh), một trong những tác giả nghiên cứu, bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất đối với phụ nữ mang thai. Nguyên nhân này nhiều gấp 3 lần so với nguyên nhân thuyên tắc tĩnh mạch sâu và gấp 6 lần so với nguyên nhân xuất huyết. Vì vậy, cần quan tâm hơn đến vấn đề tim mạch của phụ nữ mang thai và cần tầm soát tốt hơn. Nếu phụ nữ bệnh tim được điều trị và theo dõi bệnh tốt thì tỷ lệ biến chứng rất thấp. Điểm then chốt là các phụ nữ bệnh tim cần được phát hiện bệnh trước khi mang thai để được điều trị ổn định và được theo dõi thường xuyên trong suốt thai kỳ. Trong thai kỳ, việc chẩn đoán bệnh tim rất khó khăn vì các triệu chứng của bệnh tim thường bị nhầm lẫn với những triệu chứng của mang thai như khó thở, mệt mỏi và ợ nóng. Đồng thời, các bác sĩ cũng ít nghĩ đến bệnh lý tim khi khám các phụ nữ mang thai. Vì thế, khi chăm sóc thai phụ có các yếu tố nguy cơ như lớn tuổi, béo phì, đái tháo đường hoặc tăng huyết áp thì các bác sĩ và nữ hộ sinh cần nghi ngờ bệnh tim nếu thai phụ than phiền bị đau ngực hoặc khó thở để chuyển họ đến bác sĩ chuyên khoa tim mạch kịp thời.

Dữ liệu của nghiên cứu được thu thập từ năm 2007 đến năm 2011, ghi nhận 1321 phụ nữ mang thai ở 28 quốc gia. Trong số này, bệnh lý tim bẩm sinh chiếm 66%, bệnh lý van tim chiếm 25%, bệnh cơ tim chiếm 7% và bệnh tim thiếu máu chiếm 2%. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong của phụ nữ mang thai bị bệnh tim là 1%, so với tỷ lệ tử vong của phụ nữ mang thai có sức khỏe bình thường là 0,007%. Các phụ nữ bị bệnh cơ tim có dự hậu xấu nhất vì có tỷ lệ suy tim và rối  loạn nhịp tim nhiều hơn. Các phụ nữ bị bệnh van tim thường bị xuất huyết sau sinh hơn, có thể vì dùng nhiều thuốc chống đông máu. Tỷ lệ tử vong giữa các quốc gia đang phát triển cũng cao hơn các quốc gia phát triển, 3,9% so với 0,6%.

Tỷ lệ thai lưu của phụ nữ bệnh tim cũng cao gấp 5 lần và con của họ bị tử vong trong vòng 30 ngày sau sinh cũng cao gấp 1,5 lần. Tuy nhiên, các tỷ lệ này khác biệt rất lớn giữa các quốc gia đang phát triển và đã phát triển.

Kết quả điều  trị của thai phụ bệnh tim so với thai phụ có sức khỏe bình thường.

KQ điều trị

Thai phụ bình thường (%)

Bệnh tim bẩm sinh (%)

Bệnh van tim (%)

Bệnh cơ tim (%)

Bệnh tim thiếu máu cục bộ (%)

Tử vong của mẹ

0.007

0.5

2.1

2.4

0

Suy tim

0

8.0

18

24

8.0

Sinh mổ lấy thai

23

38

42

58

60

Tử vong của con

0.35

0.5

3.9

4.5

4.0

Một số phụ nữ không biết mình có bệnh tim và khi mang thai thì bệnh mới biểu hiện rõ. Thí dụ, bệnh cơ tim có thể chỉ biểu hiện triệu chứng khi mang thai. Một số bệnh nhân bị bệnh tim bẩm sinh được chẩn đoán khi còn nhỏ nhưng không còn theo dõi khi trưởng thành. Có nhiều quốc gia, người phụ nữ bị áp lực phải sinh con nên mặc dù bị bệnh tim vẫn mang thai. Bệnh lý van tim do bệnh thấp vẫn còn phổ biến ở các quốc gia đang phát triển nhưng ít gặp ở các quốc gia đã phát triển. Nghiên cứu này còn tiếp tục tiến hành trong vài năm tiếp theo và kết quả nghiên cứu sẽ giúp có những kế hoạch chăm sóc phụ nữ mang thai tốt hơn.

Nguồn:

www.medscape.com

Video liên quan

Chủ đề