Thanh điệu trong thơ lục bát là gì

Monday, April 8, 2013 4:25:57 PM

MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VỀ THƠ LỤC BÁT

Tôi đọc được bài viết ”Một số nguyên tắc về thơ Lục Bát” in trong cuốn TÌM HIỂU CÁC THỂ THƠ của tác giả Lạc Nam, Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1996. Điều này có lẽ nhiều người đã biết nhưng cũng có người chưa biết như tôi vậy xin giới thiệu để mọi người cùng tham khảo.

I- KẾT CẤU
Lục Bát là thể thơ cổ truyền của ta, nó ăn sâu bắt rẽ trong nhân dân, thể hiện rõ tính dân tộc của thơ Việt Nam. Gọi là Lục Bát vì có 2 câu đi liền với nhau trên 6 từ và dưới 8 từ. Đây là thể thơ phổ biến nhất trong nhân gian dưới các dạng Thơ, ca dao, tục ngữ, hò vè…Áng thơ văn Lục Bát hay nhất dài nhất và phổ biến nhất trong nhân gian là: Truyện Kiều.
Trong phạm vi nào đó, có thể thoát ra ngoài khuôn khổ này, gọi là Lục Bát biến thể, thường thì hay dùng trong các vở chèo, hát văn, hát ru, hát ví, cò lả, trống quân, sẩm xoan, bài chòi… 

II- Ý VÀ TỪ

A/ Ý: Tức là nội dung câu thơ muốn nói gì, Ví dụ (VD):
Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Ý nói: Tuy không cùng một mẹ đẻ ra, nhưng là người cùng làng cùng xóm thì nên thương yêu nhau.

B/ TỪ: Dùng lời lẽ, từ ngữ để diễn tả ý muốn nói VD: 
Cái quạt mười tám cái nan/ Ở giữa phất giấy hai nan hai đầu/ Quạt này anh để che đầu/ Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này/ Ước gì chung mẹ chung thầy/ Để ta giữ lấy quạt này làm ghi. Tả cái quạt rất cụ thể, tác dụng của nó và mối tình cảm quan hệ nam nữ do cái quạt tạo nên, lời rất mộc mạc tình tứ.
Hay như 6 câu mở đầu Truyện Kiều Nguyễn Du phân tích hai chữ Tài và Mệnh:Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau/ Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng/ Lạ gì bỉ sắc tư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Ý nói: Tạo hóa sinh ra con người, thường hay đưa ra những mâu thuẫn, con người đủ tài đủ sắc, nhưng lại vướng cái mệnh không ra gì, được bên nọ, mất bên kia.
Còn về từ sử dụng rất tài tình, có mở đầu, có phân tích bình luận và có kết thúc, không thừa thiếu từ nào.

III VẦN

A/ VẦN: Là những từ cùng âm điệu với nhau như nhịp cầu nối liên cho người ta dễ nhớ, dễ thuộc, không có vần thì rất khó nhớ. Trong Thơ Lục Bát vần rất đơn giản, có 2 loại vần:
1/ Vần bằng: Nói chung vần của câu lục cũng như câu bát đều là thanh bằng. Có 2 loại:
– Vần cước (vần chân) (vc) ở cuối câu lục và cuối câu bát.
– Vần yêu (vần lưng) (vl) ở giữa câu bát (từ thứ 6 hoặc cá biệt ở từ thứ 4) VD:Trên trời mây trắng như bông (vc)/ Ở giữa cánh đồng,(vl) bông trắng như mây(vc)/ Cô kia má đỏ hây hây(vc)/ Đội bông như thể đội mây(vl) về làng.. Như vậy từ thứ 6 của câu lục lại tiếp vần lưng của câu bát ở từ thứ 6 (trên là HÂY dưới là MÂY). Vì vậy gieo vần rất quan trọng, một câu lục bát mà đọng được ở trong đầu óc người ta là nhờ có vần. Vần lưng và vần chân liên tiếp móc nối với nhau.
2/ vần trắc: Trong thơ lục bát vần trắc rất ít dùng thỉnh thoảng chỉ có ở trong phong dao, mà thường mỗi bài chỉ có 1, 2 câu vần trắc như: Tò vò mày nuôi con nhện/ Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi/ Tò vò ngồi khóc tỷ ti/ Nhện ơi, nhện hỡi mày đi đằng nào.

B/ LẠC VẬN (lạc vần)
Nghĩa là câu lục gieo 1 vần, xuống câu bát (ở từ thứ 6 vần lưng) lại tiếp vần khác, làm cho câu thơ đọc lên không có âm điệu, khó mà nhớ được, tức là vần lưng câu đi sau không khớp với vần chân câu đi trước, hoặc 2 vần chân của câu trước và câu sau không khớp với nhau. Ví dụ bài”Chưa hết đâu anh” tập thơ CLB SKNT HK (năm 1987): Văn nghệ nhiệm vụ hát hò/ Ngâm thơ ca múa tự do cho MÌNH (vc)/ Anh mừng phấn khởi biết BAO(vc). Hai vần chân của câu bát trước (MÌNH) và câu lúc sau (BAO) không khớp nhau.
Hay cũng trong bài ấy: Chọn người giao việc đích DANH/ Thế là cúng tạn yên TÂM bước đầu, vần chân của câu lục trước (DANH) và vần lưng của câu bát sau (TÂM) không ăn khớp nhau..

C/ VÂN CHÍNH VẦN PHỤ
– Vần chính là vần đã gieo trước, nếu vần của câu sau cũng cùng âm thanh như thế thì vẫn là vần chính. Thí dụ (Kiều) Một thiên bạc mệnh lại càng não NHÂN/ Phong lưu nhất mực hồng QUẦN/ xuân xanh sấp sỉ tới TUẦN cập kê. Nhân quân tuần đều là những vần chinh.
– Vần phụ (vần thông) gieo na ná như vần chính ví dụ: Nghĩ nguồn cơn, lại sụt sùi nguồn cơn (vần chính)/ Giọng Kiều rền rĩ trước loan (vần phụ)/ Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn (trở lại vần chính) cớ gì (v. chính mới)/ Cớ sao trằn trọc canh khuya (V. phụ)/ Màu hoa lê đã đầm đìa (v. chính) giọt mưa (v. chính mới)/ Thưa rằng chút phận ngây thơ (v. phụ)/Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ (v. chính) chưa đền.
Ở đây vần oan (loan) na ná với vần ơn (cơn) và vần ơ (thơ) na ná với vần ưa (mưa) là vần phụ.

D/ ĐIỆP VẬN (trùng vần)
Tức là vần tiếp theo giống hệt như vần trước ví dụ (cũng trong bài trên): Thời cơ anh nắm phong trào đưa LÊN/ Việc này cũng phải nói LÊN. Những trường hợp này nên tránh
Có trường hợp gieo vần giống nhau trong một bài thơ, hoặc cách nhau chỉ vài ba câu đã trở lại vần ấy, ví dụ: Rồng đưa xuân trở về rồi/ Bể khơi xanh thắm bầu TRỜI xuân tươi/ Mưa xuân làm đẹp biển TRỜI.
Hay như: Xuân về nhuộm thắm lòng HOA/ Trăng xuân dọi khắp sơn hà sáng trong/ Thi nhân xuân tứ phiêu bồng/ Thơ xuân dưới nguyệt, rượu nồng bên HOA/ Trăng xuân lồng bóng tiệc HOA trước thềm. Trong mấy câu thơ trên có 2 từ TRỜI và 3 từ HOA liền nhau.

Đ/ PHONG YÊU 
Trong một câu thơ bố trí trùng vần là phong yêu (lưng con ong). Nghĩa là cả vân lưng và vần chân đều trùng một vần, ví dụ: Biển khơi xanh thắm bầu TRỜI xuân TƯƠI Trong bài “Xuân đón bạn” của Như Hoa: Xa xôi cách núi cách sông/ Cách trời , cách biển nhưng KHÔNG cách LÒNG/ Dù cho đạn nổ bom rơi/ Càng ngời chất thép vẫn TƯƠI tình ĐỜI. 

IV- NIÊM LUẬT THANH ĐIỆU BẰNG TRẮC

A/ THANH BẰNG (bình) những từ không dấu là thanh bằng cao hoặc thanh ngang. Những từ mang dấu huyền là thanh bằng thấp hoặc thanh huyền, Những từ thuộc 2 thanh bằng:
– Thanh bằng cao (thanh ngang): Tôi, anh…
– Thanh bằng thấp (thanh huyền): Về, làm, mà…

B/ THANH TRẮC Những từ có dấu: sắc, nặng, hỏi, ngã đều thuộc 4 thanh trắc. 
Như vậy là âm ngữ Việt Nam có 6 thanh: Ngang, huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã.

C/ BỐ TRÍ THANH BẰNG THANH TRẮC THƠ LỤC BÁT- NIÊM LUẬT BẰNG TRẮC.

Mô hình 1: Áp dung cho cả câu lục và câu bát:
– Từ thứ 2 của câu lục và câu bát phải là thanh bằng
– Từ thứ 4 của câu lục và câu bát phải là thanh trắc
– Các từ số 2,4,6 và 8 phải dứt khoát theo đúng luật bằng trắc.
– Các từ số 2 và số 4 của câu lục NIÊM với từ số 2 và số 4 của câu bát
– Các từ 1, 3, 5 của câu lục và các từ 1, 3, 5, 7 của câu bát TỰ DO.VD
Trăm(1) năm(2) trong(3) cõi(4) người ta(6)
Chữ(1) tài(2) chữ(3) mệnh(4) khéo(5) là(6) ghét(7) nhau(8)

Dập(1) dìu(2) tài(3) tử(4) giai(5) nhân(6)
Ngựa(1) xe(2) như(3) nước(4) áo(5) quần(6) như(7) nêm(8).

Mô hình 2: Riêng cho câu lục: Ở câu lục có bố trí từ thứ 2 là thanh trắc, thì phải đưa vào dạng tiểu đối, Tức là chia câu lục ra làm 2 vế, mỗi vế 3 từ có đối nhau như:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh.
Nước vỏ lựu, máu mao gà.
Khi gió gác, khi trăng sân.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài.
Khi tựa gối, khi cúi đầu.
Các từ số 2, số 3 dứt khoát phải là thanh trắc, từ thứ 6 dứt khoát phải là thanh bằng (vì là vần chân tiếp vần chân của câu bát). Từ thứ 5 nên bố trí thanh bằng để đối cho cân khi cần thiết, ví dụ: Khi(1) tựa(2) gối(3), khi(4) cúi(5) đầu(6), các từ 1, 4, 5 tự do.

Mô hình 3: Riêng cho câu bát: Ở câu bát nếu bố trí từ số hai là thanh trắc – Từ số 2 và 6 nhất thiết phải là thanh trắc, từ số 4 và 8 nhất thiết phải là thanh bằng, Các từ 1, 3, 5, 7 tự do.ví dụ: Trèo lên cây khế hái hoa/ Bước(1) xuống(2) vườn(3) cà(4) hái(5) nụ(6) tầm(7) xuân(8). Hay: Trên trời mây trắng như bông/ Ở(1) dưới(2) cánh(3) đồng(4) bông(5) trắng(6) như(7) mây(8). Và: Ông nghè sai lính ra ve/ Em(1) lạy(2) ông(3) nghè(4) em(5) đã(6) có(7) con(8)…
Tuy nhiên trường hợp này chỉ áp dụng cho phong dao hoặc vè trong dân gian. Còn trong văn chương nghệ thuật thì không nên dùng, ví như trong Truyện Kiều không có một câu bát nào mà từ số 2 là thanh trắc cả.
Các thanh bằng trắc, thể hiện nhạc điệu của câu thơ, bố trí sai sẽ mất nhạc, sinh ra khổ độc (khó đọc),vừa kém hay, vừa khó nhớ. Việc sắp xếp bằng trắc cũng phải theo một luật lệ nhất định.
Chú ý: +Tuy cùng là thanh bằng, cũng cần phân biệt thanh ngang và thanh huyền. Nếu ở câu bát mà bố trí vần lưng và vần chân cùng thanh huyền hoặc cùng thanh ngang cả thì sẽ mất nhạc, không thành thơ mặc dù bố trí rất đúng vần.
+ Để các thanh được cân đối, thì từ 2 và từ 6, tuy cùng là thanh bằng, nhưng phải bố trí 1 cao, 1 thấp, ví dụ: Từ 2 là thanh huyền, thì từ 6 phải là thanh ngang hoặc ngược lại thì nhạc điệu mới hài hòa được. Ví dụ: Vó CÂU vừa đóng dặm TRƯỜNG/ Xe HƯƠNG nàng cũng thuận ĐƯỜNG quy ninh.

Bài viết của Lạc Nam
Nguyễn Sỹ Đào trình bày

12.788591 -1.474625

Video liên quan

Chủ đề