Thẩm định dự an công nghệ thông tin

Nội dung thẩm định dự án ứng dụng công nghệ thông tin được quy định tại Điều 27 Nghị định 102/2009/NĐ-CP về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước như sau:

1. Đơn vị đầu mối tổ chức thẩm định dự án ứng dụng công nghệ thông tin chịu trách nhiệm trước pháp Luật về nội dung Báo cáo kết quả thẩm định của mình và trình Người có thẩm quyền quyết định đầu tư Báo cáo kết quả thẩm định, các hồ sơ có liên quan, kèm theo dự thảo quyết định đầu tư.

2. Nội dung thẩm định dự án gồm:

a) Xem xét các yếu tố đảm bảo tính hiệu quả của dự án, bao gồm: sự cần thiết đầu tư; các yếu tố đầu vào của dự án; quy mô, công nghệ, tổng mức đầu tư, thời gian, tiến độ thực hiện dự án; phân tích tài chính, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án;

b) Xem xét các yếu tố đảm bảo tính khả thi của dự án, bao gồm: kinh nghiệm quản lý của Chủ đầu tư; kết quả thẩm định thiết kế sơ bộ; khả năng hoàn trả vốn đầu tư (nếu có yêu cầu thu hồi vốn đầu tư); các yếu tố ảnh hưởng đến dự án như quốc phòng, an ninh; ý kiến bằng văn bản của các cơ quan liên quan.

3. Nội dung thẩm định thiết kế sơ bộ:

a) Sự phù hợp của thiết kế sơ bộ với với các tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ thông tin và các yêu cầu cơ bản về chức năng, tính năng kỹ thuật đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật của bộ, ngành, địa phương; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống hạ tầng kỹ thuật khác;

b) Việc áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn công nghệ-kỹ thuật, bảo đảm phòng chống cháy nổ, an toàn vận hành, bảo mật;

c) Điều kiện năng lực của tổ chức tư vấn, năng lực nghiệp vụ của cá nhân chủ trì thiết kế sơ bộ.

Trên đây là nội dung tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về nội dung thẩm định dự án ứng dụng công nghệ thông tin. Để hiểu rõ chi tiết hơn về điều này bạn nên tham khảo thêm tại Nghị định 102/2009/NĐ-CP.

Trân trọng!

Có bắt buộc thẩm định, thẩm tra dự án công nghệ thông tin?

(Chinhphu.vn) – Việc thẩm định dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước là quy định bắt buộc theo quy định của pháp luật đầu tư công và Nghị định số 73/2019/NĐ-CP. Thẩm tra dự án đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước không phải là yêu cầu bắt buộc.

Theo phản ánh của ông Vũ Thế Anh, tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP quy định về tổ chức thẩm định dự án có yêu cầu: “Chủ đầu tư tổ chức thẩm định và được phép thuê tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm thực hiện thẩm tra thiết kế chi tiết và dự toán để làm cơ sở thẩm định đối với các phần việc mà mình thực hiện, trừ trường hợp dự án thực hiện lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật”.

Căn cứ quy định trên, ông Thế Anh hỏi, có phải bất kỳ dự án đầu tư về công nghệ thông tin nào cũng bắt buộc chủ đầu tư phải tổ chức thẩm định và tổ chức thẩm tra dự án đầu tư hay không? Chủ đầu tư phải thuê tư vấn thẩm tra dự án (đơn vị phải có năng lực và độc lập với chủ đầu tư) làm cơ sở để chủ đầu tư tổ chức thẩm định dự án có đúng không? Đối với dự án chỉ lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật thì chủ đầu tư không phải thẩm tra nên không phải thuê tư vấn thẩm tra dự án, chỉ yêu cầu chủ đầu tư tổ chức thẩm định dự án đầu tư có đúng không?

Về vấn đề này, Bộ Thông tin và Truyền thông trả lời như sau:

Nội dung trả lời dưới đây là áp dụng đối với dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, bao gồm vốn đầu tư công. Trường hợp dự án không sử dụng nguồn vốn này nhưng cơ quan, tổ chức vận dụng quy định để thực hiện thì cơ quan, tổ chức xem xét, quyết định việc vận dụng cho phù hợp.

Đối với việc thẩm định và thẩm tra dự án: Việc thẩm định dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước là quy định bắt buộc theo quy định của pháp luật đầu tư công và Nghị định số 73/2019/NĐ-CP.

Thẩm tra dự án đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước không phải là yêu cầu bắt buộc.

Về thẩm định và thẩm tra thiết kế chi tiết, dự toán trong trường hợp thiết kế 2 bước theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP: Việc thẩm định thiết kế chi tiết và dự toán trong trường hợp thiết kế 2 bước là quy định bắt buộc theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP.

Việc thuê tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm thực hiện thẩm tra thiết kế chi tiết và dự toán không phải là quy định bắt buộc mà tùy vào trường hợp/dự án cụ thể, chủ đầu tư quyết định thuê hoặc không thuê tư vấn thẩm tra thiết kế chi tiết và dự toán.

Trường hợp thuê tư vấn thẩm tra thì chủ đầu tư thực hiện theo trình tự, thủ tục của pháp luật đấu thầu.

Đối với dự án sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước tự thu xếp (không phải vốn đầu tư công), ông Thế Anh nghiên cứu xem dự án mà ông nêu có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu không? Nếu có thì cần tuân thủ theo các quy định của pháp luật đấu thầu để lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm tra.

Về vấn đề đơn vị tư vấn có năng lực và độc lập với chủ đầu tư, ông nghiên cứu các quy định của pháp luật đấu thầu về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu (Điều 6 Luật Đấu thầu) để thực hiện.

Trường hợp dự án chỉ lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật (thiết kế 1 bước) thì thẩm quyền thẩm định dự án không phải của chủ đầu tư mà là của đơn vị theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 40 Luật Đầu tư công; thẩm quyền thẩm định thiết kế chi tiết không phải của chủ đầu tư mà là của đơn vị chuyên môn về CNTT theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP.

Do đó, trường hợp lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật thì việc thẩm tra dự án không phải do chủ đầu tư quyết định.

Nếu cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư quyết định thẩm tra dự án thì chủ đầu tư tổ chức thuê tư vấn thẩm tra dự án.

Chinhphu.vn

Thẩm định dự an công nghệ thông tin
Thẩm định dự an công nghệ thông tin
Thẩm định dự an công nghệ thông tin
Thẩm định dự an công nghệ thông tin
Thẩm định dự an công nghệ thông tin

(Xây dựng) – Ông Vũ Thế Anh có câu hỏi liên quan đến việc có phải bắt nuốc thẩm định, thẩm tra dự án công nghệ thôn tin, gửi tới Bộ Thông tin và Truyền thông.

Thẩm định dự an công nghệ thông tin
Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet).

Nội dung câu hỏi như sau: Theo phản ánh của ông Vũ Thế Anh, tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP quy định về tổ chức thẩm định dự án có yêu cầu: “Chủ đầu tư tổ chức thẩm định và được phép thuê tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm thực hiện thẩm tra thiết kế chi tiết và dự toán để làm cơ sở thẩm định đối với các phần việc mà mình thực hiện, trừ trường hợp dự án thực hiện lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật”.

Căn cứ quy định trên, ông Thế Anh hỏi, có phải bất kỳ dự án đầu tư về công nghệ thông tin nào cũng bắt buộc chủ đầu tư phải tổ chức thẩm định và tổ chức thẩm tra dự án đầu tư hay không? Chủ đầu tư phải thuê tư vấn thẩm tra dự án (đơn vị phải có năng lực và độc lập với chủ đầu tư) làm cơ sở để chủ đầu tư tổ chức thẩm định dự án có đúng không? Đối với dự án chỉ lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật thì chủ đầu tư không phải thẩm tra nên không phải thuê tư vấn thẩm tra dự án, chỉ yêu cầu chủ đầu tư tổ chức thẩm định dự án đầu tư có đúng không?

Về vấn đề này, Bộ Thông tin và Truyền thông trả lời như sau:

Nội dung trả lời dưới đây là áp dụng đối với dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, bao gồm vốn đầu tư công. Trường hợp dự án không sử dụng nguồn vốn này nhưng cơ quan, tổ chức vận dụng quy định để thực hiện thì cơ quan, tổ chức xem xét, quyết định việc vận dụng cho phù hợp.

Đối với việc thẩm định và thẩm tra dự án: Việc thẩm định dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước là quy định bắt buộc theo quy định của pháp luật đầu tư công và Nghị định số 73/2019/NĐ-CP.

Thẩm tra dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước không phải là yêu cầu bắt buộc.

Về thẩm định và thẩm tra thiết kế chi tiết, dự toán trong trường hợp thiết kế 2 bước theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP: Việc thẩm định thiết kế chi tiết và dự toán trong trường hợp thiết kế 2 bước là quy định bắt buộc theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP.

Việc thuê tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm thực hiện thẩm tra thiết kế chi tiết và dự toán không phải là quy định bắt buộc mà tùy vào trường hợp/dự án cụ thể, chủ đầu tư quyết định thuê hoặc không thuê tư vấn thẩm tra thiết kế chi tiết và dự toán.

Trường hợp thuê tư vấn thẩm tra thì chủ đầu tư thực hiện theo trình tự, thủ tục của pháp luật đấu thầu.

Đối với dự án sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước tự thu xếp (không phải vốn đầu tư công), ông Thế Anh nghiên cứu xem dự án mà ông nêu có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu không? Nếu có thì cần tuân thủ theo các quy định của pháp luật đấu thầu để lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm tra.

Về vấn đề đơn vị tư vấn có năng lực và độc lập với chủ đầu tư, ông nghiên cứu các quy định của pháp luật đấu thầu về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu (Điều 6 Luật Đấu thầu) để thực hiện.

Trường hợp dự án chỉ lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật (thiết kế 1 bước) thì thẩm quyền thẩm định dự án không phải của chủ đầu tư mà là của đơn vị theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 40 Luật Đầu tư công; thẩm quyền thẩm định thiết kế chi tiết không phải của chủ đầu tư mà là của đơn vị chuyên môn về công nghệ thông tin theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 73/2019/NĐ-CP.

Do đó, trường hợp lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật thì việc thẩm tra dự án không phải do chủ đầu tư quyết định.

Nếu cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư quyết định thẩm tra dự án thì chủ đầu tư tổ chức thuê tư vấn thẩm tra dự án.