Tại sao thai nhi bị dị tật bẩm sinh

Với mỗi người mẹ, người cha ai cũng mong muốn có những đứa con được sinh ra khỏe mạnh và thông minh. Tuy nhiên không phải gia đình nào cũng dễ dàng có được may mắn đó. Dị tật thai nhi(hội chứng dị tật bẩm sinh) ngày càng có xu hướng tăng lên do nhiều nguyên nhân khác nhau và luôn là nỗi sợ hãi lớn nhất của các gia đình. Vậy đâu là những nguyên nhân gây ra dị tật bẩm sinh ở thai nhi?

1. Mang thai khi cha mẹ đã cao tuổi:

Theo nghiên cứu và thống kế thì những phụ nữ mang thai từ 35 tuổi trở lên và những người cha từ 50 tuổi trở lên có nguy cơ sinh con mắc những hội chứng dị tật bẩm sinh cao hơn những người ít tuổi hơn.  Đối với người cha, từ 50 tuổi trở lên mặc dù vẫn còn khả năng sản sinh tinh trùng nhưng ở độ tuổi này, tinh trùng cũng dễ bị lỗi dẫn đến những bất thường gây nên bệnh di truyền cho thai nhi. Không chỉ vậy, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ được sinh ra khi người cha từ 40 tuổi trở lên có nguy cơ mắc chứng tự kỷ cùng những chứng bệnh khác như suy yếu não, chỉ số IQ thấp,… cao gấp 6 lần so với những người cha sinh con trong độ tuổi 30.

Do ở độ tuổi cao, trứng và tinh trùng thường không còn được đảm bảo, trong quá trình phân chia nhiễm sắc thể dễ xảy ra lỗi dẫn đến những bất thường về di truyền – nguyên nhân gây ra dị tật bẩm sinh ở thai nhi với những hội chứng dị tật bẩm sinh thường gặp như: Down (Trisomy 21), Edwards (Trisomy 18), Patau (Trisomy 13), các bất thường nhiễm sắc thể giới tính: Turner, Klinefelter, Jacobs... được phát hiện trong quá trình thăm khám và siêu âm dị tật thai nhi

2. Mang thai khi đang bị bệnh:

Việc kiểm tra sức khỏe trước khi mang thai là cực kỳ quan trọng. Dựa trên tình hình sức khỏe cũng như bệnh tật của người mẹ mà bác sĩ sẽ đưa ra lời khuyên tốt nhất cho thai kỳ khỏe mạnh "mẹ tròn con vuông". Nếu bỏ qua bước khám thai kỳ quan trọng này, mẹ vẫn mang thai dù đang mắc bệnh rubella, viêm gan siêu vi, viêm thận…, rủi ro sảy thai, sinh non, thai thết lưu hoặc dị tật thai nhi là rất dễ xảy ra.



Nguyên nhân dẫn đến dị tật bẩm sinh

3. Thai nhi mắc dị tật do di truyền từ cha mẹ:

Khi cha mẹ mang gen di truyền có biểu hiện hoặc khỏe mạnh nhưng trong gia đình có tiền sử dị tật bẩm sinh. Người mẹ có tiền sử sảy thai, sinh non, thai dị dạng... thì khả năng cao cho thấy những bất thường về di truyền và có rất nhiều khả năng di truyền những bất thường đó cho thai nhi. Cũng tùy vào những bất thường di truyền của cha mẹ mà xác định được xác suất mà thai nhi có thể mắc phải trước những hội chứng di truyền đó. Những bất thường di truyền có thể gây sảy thai, lưu thai hoặc thai nhi sinh ra sẽ có nguy cơ mắc phải những hội chứng dị tật bẩm sinh khi sinh ra. Các dị tật bẩm sinh do di truyền phố biến thường là các dị tật về tim, tan máu bẩm sinh....

>>> xem thêm: siêu âm thai 3 tháng đầu

4. Tự ý sử dụng thuốc men:

Khi nào có những dấu hiệu bị ho, cảm xúc, viêm họng hay sốt khi đang mang thai thì mẹ bầu đều nên đi thăm khám để được điều trị và uống thuốc an toàn. Uống thuốc không chỉ định của bác sĩ có thể tác động rất xấu đến sự phát triển của thai nhi. Đặc biệt nghiêm trọng nhất là nguy cơ dị tật bẩm sinh. Mẹ bầu tuyệt đối không được tự ý uống thuốc trong thai kỳ mà không được sự cho phép của bác sĩ.
Nếu mẹ bầu đang sử dụng thuốc để chữa bệnh tim, chống ung thư, thuốc thần kinh… thì không nên thụ thai bởi những loại thuốc này có thể gây chứng rối loạn kinh nguyệt. Điều đó làm ảnh hưởng đến sự rụng trứng cũng như chất lượng trứng.

5. Mẹ mang thai thường xuyên căng thẳng, mệt mỏi:


Tâm trạng của mẹ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của thai nhi

Tâm trạng của mẹ bầu có tác động trực tiếp vào sự phát triển của thai nhi cả về thể chất lẫn trí tuệ. Bởi thế trong thai kỳ, mẹ bầu nên cố gắng thư giãn và nghỉ ngơi nhiều nhất có thể. Nếu mẹ bầu thường xuyên sống trong lo lắng, căng thẳng và mệt mỏi thì có thể dẫn mẹ bầu đến nguy cơ trầm cảm khi mang thai. Trong thời kỳ 3 tháng đầu mang thai, thường xuyên căng thẳng và mệt mỏi như thế thì sẽ gây ra dị tật cho thai nhi như sứt môi hoặc hở hàm ếch.

6. Mẹ bầu sử dụng chất kích thích và cay nóng:

Khi mẹ mang thai sử dụng rượu bia, chất kích thích sẽ dẫn truyền trực tiếp đến thai nhi thông qua nhau thai. Khi đó, các chất kích thích sẽ tăng cao trong máu khiến cho trẻ không nhận đủ oxy và chất dinh dưỡng để phát triển cơ thể đặc biệt là các tế bào não. Hậu quả là khi sinh ra, bé có thể gặp các dị tật về não, chân tay,.. Các nghiên cứu mới nhất chỉ ra, việc bà bầu ăn quá nhiều các loại gia vị cay như tiêu, ớt, gừng… trong thời kỳ mang thai có thể gây ra những ảnh hưởng không hề tốt đối với thai nhi. Bởi lượng độc tố từ các thực phẩm này có thể tấn công vào nhiễm sắc thể trong bào thai, dẫn đến các dị tật bẩm sinh.

>>> tham khảo: siêu âm 4d thai 22 tuần

Bài viết được viết bởi Bác sĩ Đỗ Phước Huy, Trung tâm Công nghệ cao Vinmec

Theo thống kê của WHO, 2015. Trong số 2,68 triệu ca tử vong sơ sinh có đến 11,3% (tương ứng với 303000 trẻ) mất do dị tật bẩm sinh. Dị tật bẩm sinh gây ra nhiều hệ lụy lâu dài với cá nhân gia đình và xã hội. Các dị tật bẩm sinh nặng và thường gặp gồm hội chứng Down, dị tật tim bẩm sinh, dị tật ống thần kinh. Với hơn 50% các dị tật bẩm sinh chưa rõ nguyên nhân, chúng ta làm thế nào để chẩn đoán và phòng tránh?

Dị tật bẩm sinh hay còn gọi là rối loạn bẩm sinh được định nghĩa là bất thường về cấu trúc, hoặc chức năng (ví dụ như rối loạn chuyển hóa bẩm sinh) xuất hiện từ lúc mang thai. Những rối loạn bẩm sinh này có thể được chẩn đoán trước sinh, sàng lọc sơ sinh, hoặc muộn hơn ở giai đoạn trẻ nhỏ.

Các nguyên nhân gây dị tật bẩm sinh thường gặp gồm di truyền và môi trường (bao gồm dinh dưỡng, truyền nhiễm, tiếp xúc với độc chất và các yếu tố môi trường khác).

2.1. Nguyên nhân di truyền

Nguyên nhân di truyền của dị tật bẩm sinh được chia làm ba loại: bất thường nhiễm sắc thể, bất thường đơn gen, các bất thường di truyền khác.

Bất thường nhiễm sắc thể

Hội chứng Down thai nhi

Bất thường nhiễm sắc thể gồm nhiều loại như bất thường về số lượng nhiễm sắc thể (thêm hoặc bớt cả một nhiễm sắc thể), bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể. Nhiều hợp tử (sự kết hợp giữa trứng và tinh trùng) mang những bất thường như vậy không phát triển thành phôi nhưng cũng có những hợp tử có thể phát triển đến những giai đoạn sau của thai kỳ hoặc thậm chí được sinh ra và có tuổi thọ tương đối dài như trisomy 21 (tam nhiễm sắc thể 21).

Để sàng lọc các dạng bất thường này sẽ gồm nhiều phương pháp như Double Test, Triple Test, hay NIPT...

Để phát hiện các bất thường này sẽ có nhiều phương pháp và tùy theo từng loại và mức độ bất thường sẽ có các xét nghiệm phù hợp như: Nhiễm sắc thể đồ (Công thức nhiễm sắc thể, Karyotype), FISH, Giải trình tự toàn bộ bộ gen (Whole genome sequencing) theo phương pháp giải trình tự gen thế hệ mới (Next generation sequencing)...

Các bất thường đơn gen

Trái ngược với các bất thường về nhiễm sắc thể, các khuyết tật đơn gen có thể xảy ra lặp lại ở lần mang thai sau với phần trăm nguy cơ tùy thuộc vào từng bệnh và từng gen bị bất thường. Ví dụ, phenylketon niệu (PKU) là một tình trạng di truyền gây ra bởi sự bất thường trong hoạt động của enzym PAH. Vì enzym này được mã hóa bởi duy nhất gen PAH trên nhiễm sắc thể số 12, nên PKU thuộc loại bất thường đơn gen.

Với bất thường đơn gen có nhiều dạng di truyền gồm di truyền theo kiểu trội, di truyền theo kiểu lặn trên nhiễm sắc thể thường, và di truyền liên kết giới tính. Với từng dạng di truyền, sẽ có tỉ lệ trẻ sinh sau tái mắc là khác nhau. Ví dụ, di truyền theo kiểu lặn tỷ lệ trẻ sinh ra tái mắc nếu ba mẹ mang cùng gen bị đột biến (thể mang – carrier) là 25%.

Siêu âm thai kỳ là một công cụ có thể cân nhắc để sàng lọc một phần các bệnh lý liên quan bất thường đơn gen. Tuy nhiên, nhiều nhóm bệnh không hiệu quả do không biểu hiện bất thường trên siêu âm như các nhóm rối loạn chuyển hóa.

Hội chứng Prader-Willi yếu tố di truyền gây nên dị tật

Để chẩn đoán các bệnh lý này các xét nghiệm có thể gồm: Giải trình tự Sanger, giải trình tự gen thế hệ mới...

Các yếu tố di truyền khác

Ngoài những yếu tố di truyền nói trên còn nhiều yếu tố khác gây nên dị tật như: bất thường ngoại di truyền (ví dụ hội chứng Prader-Willi, Angelman và Beckwith-Wiedemann), bất thường bộ gen ti thể (ví dụ như hội chứng Melas), hay do kết hợp cùng lúc nhiều bất thường di truyền.

Truyền nhiễm

Nhiều nhóm bệnh lý truyền nhiễm có liên quan đến tăng tỉ lệ dị tật thai nhi như nhiễm Rubella. Những thai phụ bị nhiễm Rubella trong giai đoạn đầu thai kỳ, đặc biệt trong 12 tuần đầu (tam cá nguyệt 1) thai nhi sẽ mắc phải hội chứng Rubella bẩm sinh (Congenital Rubella Syndrome – CRS). Những thai nhi bị CRS có thể mang những dị tật bẩm sinh như điếc, đục thủy tinh thể, chậm phát triển, tim bẩm sinh...

Dinh dưỡng

Bên cạnh yếu tố môi trường như truyền nhiễm thì những yếu tố môi trường như dinh dưỡng cho người mẹ cũng rất quan trọng trong sự phát triển trẻ. Nếu mẹ thiếu acid folic trong thai kỳ hay chế độ ăn không có iot sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là phát triển hệ thần kinh, ví dụ thiếu acid folic làm tăng nguy cơ trẻ bị tật cột sống chẻ đôi (spina bifida).

Nếu mẹ thiếu acid folic làm tăng nguy cơ trẻ bị tật cột sống chẻ đôi (spina bifida).

Sử dụng thuốc trong thai kỳ

Sử dụng thuốc kháng sinh trong thời kỳ mang thai cần thận trọng, vì một số loại kháng sinh có thể ảnh hưởng đến thai nhi như Tetracycline có thể làm thay đổi màu răng của trẻ, vì thế Tetracycline không được khuyến cáo sử dụng sau tuần 15 của thai kỳ.

Các yếu tố môi trường khác

Thai phụ trước và trong thời kỳ mang thai sẽ tăng các nguy cơ gây dị tật thai nhi khi tiếp xúc các chất độc hóa học như thuốc trừ sâu; các kim loại nặng...

Để phòng ngừa trẻ sinh ra bị dị tật cần kết hợp nhiều biện pháp, cụ thể như sau:

  • Bổ sung đầy đủ chất dinh dưỡng đầy đủ cho thai phụ, như các chất như acid folic.
  • Sử dụng các thuốc trong thời kỳ mang thai cần có sự chỉ định và trao đổi với bác sĩ chuyên khoa Sản, đặc biệt là các thuốc kháng sinh.
  • Tránh tiếp xúc hóa chất như thuốc trừ sâu, kim loại nặng.
  • Tiêm vắc-xin trước khi mang thai, đặc biệt là nhóm Rubella.
  • Tầm soát và điều trị các bệnh nhiễm trùng khác như Rubella, giang mai...

Tầm soát và sàng lọc trước sinh các bệnh lý như bất thường số lượng nhiễm sắc thể như hội chứng Down, Hội chứng Patau, Edwards với xét nghiệm sinh hóa đặc biệt là xét nghiệm có độ nhạy và độ đặc hiệu cao như NIPT. Sàng lọc các bệnh lý đơn gen thể lặn phổ biến như tan máu bẩm sinh.

Tiêm vắc-xin trước khi mang thai giúp phòng ngừa dị tật bẩm sinh thai nhi

Theo khuyến cáo của các chuyên gia, để chuẩn bị một thai kỳ khỏe mạnh, cả vợ và chồng nên kiểm tra sức khỏe sinh sản từ 3-5 tháng trước khi mang thai.

Người vợ nên:

Người chồng nên:

Vinmec hiện có nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe toàn diện cho các cặp vợ chồng, bà mẹ mang thai và thai nhi, gồm các gói khám tiền hôn nhân cơ bản, gói khám tiền hôn nhân nâng cao, chương trình thai sản trọn gói. Vinmec có đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực sản phụ khoa, IVF, tế bào gốc, công nghệ Gen, có khả năng triển khai đồng bộ và toàn diện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiên tiến nhất hiện nay.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

XEM THÊM:

Video liên quan

Chủ đề