Từ khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, em hãy cho biết tại sao ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa? Show
Câu 1 trang 55 SGK GDCD lớp 11
Đề bài Từ khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, em hãy cho biết tại sao ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa? Lời giải chi tiết - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. - CNH phải gắn liền với HĐH là vì CNH là biến đổi cơ bản lao động thủ công thành lao động tiên tiến hiện đại, nhưng nếu dừng lại ở chỗ này thì CNH không có giá trị mà chúng ta phải áp dụng CNH đó vào các ngành sản xuất, lưu thông, dịch vụ, quản lý thì sự CNH đó mới thật sự đúng nghĩa và đem lại lợi ích cho đất nước. Việc áp dụng CNH vào các mặt của đất nước ta gọi đó là HĐH, do đó CNH phải gắn liền với HĐH. Loigiaihay.com
Phần Một – Bài 6: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướcApril 28, 2018 18 Share Câu 1 (trang 55 sgk Giáo dục công dân 11):Từ khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, em hãy cho biết tại sao ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa? Trả lời: – Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế và quản lí kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. – CNH phải gắn liền với HĐH là vì CNH là biến đổi cơ bản lao động thủ công thành lao động tiên tiến hiện đại, nhưng nếu dừng lại ở chổ này thì CNH không có giá trị mà chúng ta phải áp dụng CNH đó vào các ngành sản xuất, lưu thông, dịch vụ, quản lý thì sự CNH đó mới thật sự đúng nghĩa và đem lại lợi ích cho đất nước. Việc áp dụng CNH vào các mặt của đất nước ta gọi đó là HĐH, do đó CNH phải gắn liền với HĐH. Câu 2 (trang 55 sgk Giáo dục công dân 11):Trình bày tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta Trả lời: – Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. + Do yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng của khoa học và công nghệ tiên tiến, được hình thành và phân bố có kế hoạch trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân. + Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kĩ thuật – công nghệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới. Sau hơn 20 năm đổi mới, nhất là 10 năm 2001 – 2010, nền kinh tế nước ta đã đạt những thành tựu rất quan trọng, trong đó cơ sở vật chất – kĩ thuật bước đầu được tăng cường. Tuy nhiên, đất nước vẫn đang tồn tại nhiều yếu kém, sự yếu kém này đã và đang là nguyên nhân làm hạn chế chất lượng tăng trưởng, chất lượng cạnh tranh và chất lượng hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi nước ta là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. + Do yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội. Xã hội sau muốn tiến bộ hơn xã hội trước, thì điều trước hết và chủ yếu là phải làm cho năng suất lao động của xã hội sau cao hơn hẳn năng suất lao động của xã hội trước, mà điều đó chỉ có thể trông chờ ở việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Câu 3 (trang 55 sgk Giáo dục công dân 11):Trình bày tác dụng to lớn và toàn diện của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trả lời: – Tạo điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân. – Tạo lực lượng sản xuất mới làm tiền đề cho việc củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ liên minh giữa công nhân – nông dân – trí thức. – Tạo tiền đề hình thành và phát triển nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa – nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. – Tạo cơ sở vật chất – kĩ thuật cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, củng cố và tăng cường quốc hòng an ninh. Câu 4 (trang 55 sgk Giáo dục công dân 11):Phân tích nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta Trả lời: – Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất: + Thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội, bằng cách chuyển nền kinh tế từ chỗ dựa trên kĩ thuật thủ công sang dựa trên kĩ thuật cơ khí, chuyển nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. + Áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào các ngành của nền kinh tế quốc dân. Thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại gắn với “hiện đại hóa”, gắn với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, gắn với bước chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh hậu công nghiệp. + Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện bằng cách gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức. – Xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lí, hiện đại, hiệu quả: + Cơ cấu kinh tế là tổng thể hữu cơ giữa cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế, trong đó, cơ cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất vì nó là cốt lõi của cơ cấu kinh tế. Thực hiện nội dung này thông qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự chuyển đổi từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả và bất hợp lí sang một cơ cấu kinh tế hợp kí, hiện đại, hiệu quả. Xu thế của sự chuyển dịch này là đi từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp lên cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp và phát triển lên thành cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ hiện đại. + Đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế tri thức là tiền đề chi phối xu hướng dịch chuyển cơ cấu lao động trong từng thời kì ở nước ta. – Củng cố và tăng cường địa vị chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tiến tới xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, ba nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thực chất của mối quan hệ này là mối quan hệ biện chứng nhân quả giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Câu 5 (trang 55 sgk Giáo dục công dân 11):Cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội là gì? Em có nhận xét gì về cơ sở vật chất – kĩ thuật của nước ta hiện nay? Trả lời: – Cơ sở vật chất – kĩ thuật của xã hội chủ nghĩa là cơ sở hạ tầng như: hệ thống điện lưới, đường giao thông, hệ thống trường học, trạm y tế, bệnh viện, v.v… – Cơ sở vật chất chúng ta hiện nay còn yếu, đường sá bị quá tải, ùn tắc giao thông xảy ra thường xuyên nhất là ở các thành phố lớn, điện lưới vẫn chưa thật đáp ứng được yêu cầu của đất nước vì phần nhiều là thủy điện lệ thuộc vào thời tiết. Hệ thống trường học, trung tâm y tế,… được mở rộng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Câu 6 (trang 55 sgk Giáo dục công dân 11):Chọn ý kiến đúng trong các ý kiến sau về việc xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta và lí giải ngắn gọn vì sao lại chọn ý kiến đó. a. Nước ta tự nghiên cứu và xây dựng. b. Nhận chuyển giao kĩ thuật và công nghệ hiện đại từ các nước tiên tiến. c. Kết hợp vừa tự nghiên cứu và xây dựng vừa nhận chuyển giao kĩ thuật và công nghệ hiện đại từ các nước tiên tiến. Trả lời: – Chọn đáp án C: Xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước là cần kết hợp vừa tự nghiên cứu và xây dựng, vừa nhận chuyển giao kĩ thuật và công nghệ hiện đại từ các nước tiên tiến. – Vì như vậy ta vừa có thể đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách với các nền kinh tế phát triển, đồng thời vẫn tự lực để có thể phát triển, không phải dựa dẫm, không ỉ lại vào thế lực, đất nước nào, tăng cường địa vị của nước ta trên trường quốc tế, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa hiện đại. Câu 7 (trang 55 sgk Giáo dục công dân 11):Trình bày xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trả lời: – Cơ cấu kinh tế là tổng thể hữu cơ giữa cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế, trong đó, cơ cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất vì nó là cốt lõi của cơ cấu kinh tế. Thực hiện nội dung này thông qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. – Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự chuyển đổi từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả và bất hợp lí sang một cơ cấu kinh tế hợp lí, hiện đại và hiệu quả. – Xu hướng của sự chuyển dịch này là đi từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp lên cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp và phát triển lên thành cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ hiện đại. – Đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế tri thức là tiền đề chi phối xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động trong từng thời kì ở nước ta. Câu 8 (trang 56 sgk Giáo dục công dân 11):Tại sao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đồng thời với chuyển dịch cơ cấu lao động? Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động ở nước ta hiện nay? Trả lời: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm tăng mối quan hệ với các nước phát triển về các ngành sản xuất công nghiệp, sự giao lưu, trao đổi về các yếu tố sản xuất càng khăng khít hơn. – Chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm tăng việc làm trong công nghiệp và dịch vụ, mở rộng cơ hội tìm việc, đảm bảo hơn về thu nhập cho người lao động. – Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, do vậy giúp cho người lao động có sự linh hoạt hơn trong lùa chọn các công việc phù hợp, tạo điều kiện mở rộng thị trường lao động, đặc biệt là thị trường lao động cho khu vực kinh tế liên doanh và kinh tế tư nhân – Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cùng với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ khí hoá nông nghiệp có tác dụng hạn chế dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, giảm sức ép đáng kể cho nhu cầu lao động thành phố. – Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm tăng yêu cầu đối với chất lượng lao động. Nó đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn nhất định do phát triển một số ngành công nghiệp có trình độ cao như công nghệ thông tin, chế tạo máy. Vì những lý do trên nên chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đồng thời chuyển dịch cơ cấu lao động. Ở Việt Nam đang trong quá trình CNH-HĐH, nền kinh tế đang dần tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp. Nhưng trước kia cơ cấu lao động nước ta phân bố chủ yếu ở ngành nông nghiệp, trình độ chuyên môn chưa cao. Vì vậy khi đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ thì phải chuyển dịch cơ cấu lao động cho phù hợp và đáp ứng được cơ cấu kinh tế, tức đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp,… Em cần: – Nhận thức đúng đắn về sự cần thiết khách quan và tác dụng to lớn của CNH – HĐH đất nước, một nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH – Xây dựng cho bản thân động cơ, quyết tâm, phương pháp học tập góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. – Biết lựa chọn ngành nghề phù hợp với khả năng, ra sức học tập nắm bắt kĩ thuật công nghệ để sau khi ra trường phục vụ trực tiếp sự nghiệp CNH – HĐH Câu 9 (trang 56 sgk Giáo dục công dân 11):Là một công dân, trong khi học và sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, em phải làm gì để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Trả lời: Commentscomments
Share Previous articlePhần Một – Bài 7: Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và tăng cường vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước Next articlePhần Một – Bài 5: Cung – cầu trong sản xuất và lưu thông hàng hóa Tại sao CNH phải gắn với hđh, CNH hđh phải gắn với phát triển kinh tế tri thức
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.48 KB, 25 trang ) TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH 14149008 Phạm Tấn Kha 14149075 GVHD: Nguyễn Đình Cả ĐIỂM: Nhận xét của GV: Ghi chú Mục lục Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Danh mục các từ viết tắt CNH: Công nghiệp hóa HĐH: Hiện đại hóa CNH-HĐH: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa KTTT: Kinh tế tri thức CNXH: Chủ nghĩa xã hội WTO (World Trade Organization): Tổ chức thương mại thế giới GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội KH&CN: Khoa học và công nghệ ICOR ( Incremental Capital - Output Ratio): hệ số sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư tăng trưởng, hay tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm, ... AFTA (Asean Free Trade Area): Khu vực mậu dịch tự do Asean ASEAN (Association of South - East Asian Nations): Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM (The Asia-Europe Meeting): Diễn đàn hợp tác Á – Âu KH: Khoa học CN: Công nghệ GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 4 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam A. PHẦN MỞ ĐẦU Công nghiệp hóa (CNH) là con đường tất yếu mà mọi quốc gia đều phải trải qua trong quá trình phát triển để trở thành một nền kinh tế hiện đại. Xét về lịch sử, CNH được diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII. Đến nay, đã có nhiều quốc gia hoàn thành CNH và đang tiến mạnh vào nền kinh tế hiện đại với xu hướng nổi bật là phát triển nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, còn không ít quốc gia, trong đó có Việt Nam, chưa đạt tới nền công nghiệp phát triển mà vẫn còn trong tình trạng nền kinh tế đang phát triển. Công nghiệp hóa- hiện đại hóa (CNH-HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức (KTTT) là con đường của nước ta đi sau nhằm tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của đất nước để rút ngắn quá trình phát triển, sớm trở thành một nước xã hội hiện đại. 1. Tính cấp thiết của đề tài: Nhằm trang bị những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự cần thiết, nội dung và điều kiện, tiền đề để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh mới của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở các kiến thức trên và kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, người học có thể phát triển việc nghiên cứu, đề xuất việc vận dụng chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức vào thực tiễn ngành, địa phương mà mình công tác. Nhận thức đúng tầm quan trọng của đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong các nhiệm vụ kinh tế xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) cũng như trong yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 5 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta để chủ động sáng tạo trong hoạch định chính sách và tổ chức thực tiễn. Từ ba điều trên nhóm tôi quyết định chọn đề tài này. Để cho thấy tầm quan trọng của viêc CNH-HĐH phải gắn với phát triển nền kinh tế tri thức. 2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết, xác định nội dung CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta để đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tiến trình này, phấn đấu đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 3. Đối tượng & phạm vi nghiên cứu: 3.1.Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc độ Kinh tế chính trị: Quá trình công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ở nước ta. CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. 3.2.Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Phạm vi cả nước và thế giới để nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn để từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển. - Về thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức (năm 2001) đến nay. Phần dự báo, đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT được tính từ nay đến năm 2020 và triển vọng đến giữa thế kỷ XXI, tức là đến thời điểm mà nước ta trở thành một thành phố công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 4. Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chủ trương đổi mới của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 6 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT nói riêng. B. 1.1.1. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Quá trình công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ở nước ta hiện nay 1.1. Công nghiệp hóa- hiện đại hóa là gì? Quan niệm về công nghiệp hóa: Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, cuộc Cách mạng công nghiệp được diễn ra ở nước Anh với sự xuất hiện “chiếc thoi bay” trong lĩnh vực se sợi. Nước Anh trở thành quê hương của Cách mạng công nghiệp, là nước tiến CNH đầu tiên. Manchester là thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Kể từ đây, nhân loại bước vào một giai đoạn phát triển mới – giai đoạn CNH. Sau Anh là lần lượt các nước: Pháp vào đầu thế kỷ XIX, Mỹ và Đức vào giữa thế kỷ XIX; Nhật, Nga và nhiều nước châu Âu khác vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tiến hành CNH và đã lần lượt trở thành nước công nghiệp. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (giữa thế kỷ XX), nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba tiến hành quá trình này với Chiến lược CNH riêng của mình. Một số dựa theo mô hình CNH của Liên xô (cũ), một số dựa theo mô hình của Mỹ. Đến nay, một số nước đã thực hiện CNH rút ngắn thành công, đã trở thành nước công nghiệp. Tuy nhiên, còn không ít nước trong đó có Việt Nam vẫn trong tình trạng nền kinh tế nông nghiệp, đang trong giai đoạn tiến hành CNH. Do thời điểm lịch sử tiến hành CNH ở các nước không giống nhau nên đã có những quan niệm khác nhau về CNH. Việc nhận thức đúng phạm trù CNH trong một giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước là rất cần thiết, nó không chỉ có ý nghĩa về lý luận mà còn có tính thiết thực trong hoạch định và thực thi chính sách phát triển. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 7 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Thực tế lịch sử cho thấy, những nước đi đầu về CNH như Anh, Pháp và một số nước Tây Âu khác vào thời điểm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đi liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất với công nghệ chủ đạo là máy hơi nước. Trong điều kiện đó, CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, quá trình chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu lên công nghiệp, biến một nước nông nghiệp truyền thống thành nước công nghiệp. Những biểu hiện đầu tiên của CNH được gắn với nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Đó là: - Chuyển chỗ làm việc từ gia đình vào các công xưởng trên quy mô lớn; Tập trung dân cư ở các khu đô thị; Thay thế hệ thống kỹ thuật thủ công dựa vào gỗ, sức cơ bắp, sức nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật cơ khí với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng mới là sắt và than đá, tạo ra sự đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước - phát triển vượt bậc của công nghiệp; Tạo ra những công việc kinh doanh mới nhờ có được những mạng lưới giao - thông, vận tải và thông tin liên lạc mới; Tăng mạnh quy mô của thị trường và việc sử dụng tín dụng, ngân hàng và - các dịch vụ tài chính có liên quan; và Áp dụng rộng rãi các phát minh mới. Với những biểu hiện đó, CNH còn được hiểu là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng hay một nền kinh tế, quá trình chuyển nền kinh tế dựa chủ yếu vào nông nghiệp lên nền kinh tế dựa chủ yếu vào công nghiệp. Đây không chỉ là quá trình chuyển biến về kinh tế mà còn chuyển biến cả về văn hóa và xã hội để đạt tới một xã hội mới - xã hội công nghiệp. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 8 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Đến nửa cuối thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được diễn ra với quy mô và thành quả lớn hơn rất nhiều so với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Nhiều công nghệ mới được sản xuất ra và đưa vào sử dụng. Điển hình là con người đã sản xuất ra động cơ điện vào năm 1872, sản xuất ra động cơ đốt trong (động cơ diesel) vào năm 1883, sản xuất ra kim loại màu và các hóa phẩm tổng hợp. Trong điều kiện đó, quan niệm về CNH có sự thay đổi. Nó không còn đơn thuần là cơ khí hóa, mà còn được gắn với quá trình điện khí hóa, hóa học hóa và cơ giới hóa. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (khoảng giữa thế kỷ XX), cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba được diễn ra trên thế giới với sự phát triển vượt bậc và có tính đột phá của khoa học và công nghệ. Trong giai đoạn này, tuy những quốc gia đã hoàn thành CNH đang tiến rất mạnh vào nền kinh tế hiện đại, nhưng còn không ít quốc gia vẫn trong tình trạng nền kinh tế lạc hậu, đang hoặc thậm chí có nước còn chưa bước vào giai đoạn CNH. Trong bối cảnh đó, việc nhận thức phạm trù CNH còn được hiểu đó là quá trình tự động hóa sản xuất và phát triển các công nghệ chất lượng cao… Tuy có những quan niệm khác nhau về CNH, nhưng về cơ bản các quan niệm trên vẫn có những điểm chung và có thể được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa hẹp, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, từ chỗ tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho lao động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo nghĩa rộng, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. Nó không GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 9 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi về văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức là trình độ văn minh cao hơn. 1.1.2. Quan niệm về hiện đại hóa: Theo cách hiểu thông thường, hiện đại hóa (HĐH) là quá trình “làm cho mang tính chất của thời đại ngày nay”. Đó là quá trình biến đổi từ tính chất truyền thống cũ lên trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay. Theo ý nghĩa về kinh tế - xã hội, HĐH là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay. HĐH về kinh tế vừa có sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về thời gian. Giai đoạn đầu của hiện đại hóa được xác định trùng với thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (còn gọi là thời kỳ CNH). Trong giai đoạn này, CNH là nội dung cốt lõi của HĐH. Tuy một số nước đi trước đã hoàn thành CNH và đã trở thành nước công nghiệp phát triển, nhưng quá trình HĐH ở các nước đó vẫn tiếp tục diễn ra ở trình độ cao hơn. Thực tế cho thấy, ở mỗi trình độ phát triển khác nhau, HĐH mang những đặc trưng khác nhau. Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên nền kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức. Đối với các nước đang phát triển, HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành CNH trong bối cảnh mới của thế giới nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn lực trong nước, các nước đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài thông qua thu hút đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn và công nghệ mới. Đây chính là kiểu CNH rút ngắn hiện đại. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 10 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam CNH rút ngắn hiện đại là cách thức mà nước đi sau tiến hành CNH khi trên thế giới đã có những quốc gia hoàn thành CNH, những nội dung của CNH đã được triển khai ổn định ở các nước đi trước (gọi là nước công nghiệp phát triển). Do sự biến đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là từ khi diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên những công nghệ hiện có của các nước này dễ bị lạc hậu. Do cạnh tranh trên thị trường, các nước này phải “chiếm lĩnh đỉnh cao công nghệ”, nên họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ hiện có của họ cho nước đi sau để bước vào thế hệ công nghệ mới. Bởi vậy, nước đi sau có rất nhiều phương án lựa chọn trong phát triển công nghệ mà không nhất thiết phải dựa vào phát minh. Đây chính là “lợi thế của nước đi sau”. Dựa vào lợi thế này, nước đi sau có thể rút ngắn đáng kể thời gian để sớm trở thành nền kinh tế hiện đại. Tại các nước này, quá trình tiến hành CNH được gắn kết với quá trình HĐH. Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về CNH và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là một nước đi sau đang trong quá trình phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa VII (năm 1994), nêu chủ trương tiến hành xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới bằng con đường CNH, HĐH và nêu quan niệm: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Theo quan niệm này, quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung CNH và HĐH. Nó không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 11 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Quan niệm trên không bó hẹp CNH trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khi như cách hiểu trước đây, mà còn là một sự kết hợp với những thành tựu mới nhất về khoa học và công nghệ của nhân loại. Nội dung công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta: Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nội dung cơ bản của quá trình này là: - Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. - Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội. - Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. - Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao. 1.2. 1.3. Tại sao công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa? Đặc điểm của nước ta là nước nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, lại bị chiến tranh phá hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây đã dẫn nền kinh tế bị tụt hậu so với thế giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành CNH. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nếu như nước ta không kịp thời tiến hành CNH, HDH thì bị bỏ lại phía sau. Đồng thời nước ta tận dụng được lợi thế của các nước phát triển tiếp thu được công nghệ mà không phải bỏ công sức ra để tìm tòi, phát minh. Quá trình toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, một số nước bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tri thức, yêu cầu nước ta bắt kịp xu thế đó. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 12 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam CNH phải gắn liền với HĐH vì: Trên thế giới: - Khoa học công nghệ phát triển rất mạnh mẽ, các thành tựu khoa học tiên tiến ra đời - Quá trình toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ Trong nước: - Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sử dụng công cụ thô sơ, ko có sự áp dụng các thành tựu tiên tiến trên thế giới vào sản xuất - Chiến tranh kéo dài và hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề - Lũ lụt hạn hán xảy ra hàng năm, tàn phá của cải - Sự quản lý nhà nước đang yếu kém, thời kỳ bao cấp đang còn => Do Việt Nam CNH muộn và muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước phát triển thì CNH phải gắn liền với HĐH. Chương 2: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức 2.1. Khái niệm về kinh tế tri thức: Năm 2000, Tổ chức Hợp tác và phát triển của các nước phát triển cùng với Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC) nêu quan niệm: "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế" [45, tr.98]. Thuật ngữ kinh tế tri thức (KTTT) được đưa vào Văn kiện Đại hội X và Đại hội XI của Đảng ta và được hiểu: các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, tri thức chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội và sự phát triển của nó được dựa trên bốn trụ cột: Lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng cao; Hệ thống sáng tạo và ứng dụng CN có hiệu quả; Hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện đại; Hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 13 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. 2.2. Những quan điểm, nhận thức của Đảng ta về CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức: Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX cho tới nay, khoa học và công nghệ đã có mặt tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, lần đầu tiên Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm quan trọng về phát triển kinh tế tri thức với tư cách là một yếu tố mới cấu thành đường lối CNH,HĐH đất nước. Đến Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức...” 1. Điều đó thể hiện tầm nhìn xa và tính nhạy bén của Đảng ta về vấn đề này. Để thực hiện thành công mục tiêu trên, Cương lĩnh cũng chỉ rõ: toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt tám phương hướng cơ bản; trong đó, “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển Kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường” là phương hướng cơ bản đầu tiên. Đây không chỉ là sự tiếp tục đường lối và chiến lược CNH,HĐH đã được xác định ở các kỳ đại hội trước, mà còn thể hiện sự nhạy bén và phát triển sáng tạo của Đảng ta trong việc nhận thức và vận dụng học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, sự thay đổi nhanh chóng các điều kiện phát triển, cả ở trong nước và trên thế giới, đòi hỏi chúng ta phải có những nhận thức mới về nội dung và phương thức thực hiện CNH,HĐH. Trên thế giới hiện nay, công nghiệp hóa không chỉ gắn với các mục tiêu, giải pháp có “tính chất truyền thống”, mà phải đạt tới mục tiêu hiện đại và dựa trên các công cụ, giải pháp hiện đại. Theo bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của các ngành công nghệ cao, như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô... đang GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 14 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam hội tụ với nhau để tạo thành nền tảng cho một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ XXI - công nghệ của nền kinh tế tri thức. Đi đôi với quá trình biến đổi lực lượng sản xuất, từ kinh tế công nghiệp chuyển lên kinh tế tri thức, là quá trình toàn cầu hóa. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, xu thế ấy lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ ai. Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, CNH-HĐH là một quá trình lịch sử tất yếu mà Việt Nam phải trải qua nhằm cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ; trang bị và tái trang bị công nghệ mới nhất cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, chuyển từ lao động thủ công lạc hậu sang sử dụng lao động với công nghệ (phương tiện, phương pháp) tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng trí tuệ cao; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự chủ và đưa đất nước đi lên CNXH một cách vững chắc. Từ thực tiễn cho thấy, để đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn ninh”, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Để thực hiện tốt vấn đề đó, cần tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường; đồng thời, thực hiện tốt chính sách xã hội. Thứ hai: Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh. Trong quá trình đó, phải đặc biệt coi trọng việc phát triển KTTT, bảo đảm tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất, công nghiệp quốc phòng. Cùng với đó, cần ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ; từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường. Đồng thời, cần chú ý phát huy hiệu quả các khu, GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 15 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam cụm công nghiệp (Khu công nghệ cao Hoà Lạc - Hà Nội, Khu công nghệ phần mềm Quang Trung - thành phố Hồ Chí Minh...) và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn và hiệu quả cao. Thứ ba: Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh. Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế...; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, lô-gistíc và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. Thứ tư: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng KH&CN, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Trong quá trình đó, cần đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đồng thời, thực hiện tốt các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển KTTT. Thứ năm: Tập trung phát triển KH&CN, đảm bảo thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, cần hướng trọng tâm hoạt động KH&CN vào phục vụ CNH-HĐH, nhất là công nghệ thông tin, bảo đảm phát triển theo chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ. 2.3. Những đặc điểm chủ yếu của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay: GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 16 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Đường lối CNH, HĐH được Đảng ta hoạch định qua 28 năm đổi mới là đúng đắn, toàn diện và ngày càng sáng tỏ cả về quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, bước đi... Đây là cơ sở lý luận cho quá trình đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo dựng những tiền đề để đẩy mạnh CNH, HĐH và bước đầu thực hiện CNH, HĐH đạt những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối CNH, HĐH. Về đường lối: “Tiêu chí khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới chưa được xác định cụ thể; các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH chưa được làm rõ; chậm cụ thể hóa mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” . Trong thực tiễn vẫn còn tình trạng nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của CNH, HĐH, về quan điểm chỉ đạo CNH, HĐH. Nhiều chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng về CNH, HĐH chưa được thực hiện nghiêm túc. Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nước ta đã đạt nhiều thành tựu. Nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, chưa tương xứng với khả năng. Quy mô nền kinh tế nhỏ, Bình quân thu nhập thấp, tái sản xuất chủ yếu theo chiều rộng chưa theo chiều sâu. Hiệu quả kinh tế còn thấp (chỉ số ICOR cao: 4-5/1). Các nguồn lực của đất nước sử dụng chưa hiệu quả, nguồn lực trong dân chưa được phát huy. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao: Cơ cấu lao động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Năng lực khoa học và công nghệ quốc gia còn yếu; kết quả ứng dụng những công trình, bằng sáng chế phát minh khoa học còn ít và thấp so với các nước; thị trường KH&CN (khoa học và công nghệ) chậm được hình thành; sự gắn kết hoạt động KH&CN với giáo dục đào tạo và sản xuất, kinh doanh còn yếu Giá trị xuất khẩu tuy khá cao, nhưng hiệu quả kém: - Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu ít qua chế biến. - Vùng kinh trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh, chưa có sự liên kết chặt chẽ. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 17 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam - Cơ cấu thành phần kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, môi trường đầu tư, cạnh tranh chưa bình đẳng. - Công tác quy hoạch chất lượng còn thấp, cơ chế thị trường chậm hoàn hiện, nhiều chính sách chưa đủ mạnh để huy động các nguồn lực.... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế, trong đó công tác lãnh đạo của Bộ chính trị, Ban bí thư và quản lý, điều hành của nhà nước trong xử lý mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng còn hạn chế; công tác dự báo chưa tốt… Sự yếu kém của thể chế kinh tế thị trường, của chất lượng nguồn nhân lực kết cấu hạ tầng đã trở thành những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém. Để khắc phục những hạn chế cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: Thứ nhất, làm tốt công tác lãnh đạo của Bộ chính trị, Ban bí thư và quản lý, điều hành của nhà nước trong xử lý các mối quan hệ. Cụ thể là: phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và tri thức. Sự phát triển của khoa học, công nghệ là điều kiện cần để hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Cần đầu tư hơn nữa cho khoa học, công nghệ; tạo ra chính sách phát triển khoa học, công nghệ. cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá, công nghệ năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học... Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ CNH, HĐH . Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH , rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin. Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh tế tri thức. Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng đến việc phát huy vai trò của khoa học, công nghệ, hướng đến kinh tế tri thức. Cụ thể là: cần có chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi tham nhũng làm thất thoát tài sản nhà nước; khen thưởng xứng đáng đối với những sáng kiến, phát minh có giá trị thực tiễn ứng dụng vào sản xuất; nghiêm túc thực hiện việc kiểm tra, đôn đốc của các cơ quan nhà nước trong chỉ đạo thực hiện... GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 18 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Thứ tư, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu. Cần kết hợp hợp lý phát triển kinh tế theo hai mô hình này, một mặt khai thác những lợi thế sẵn có về lao động, tài nguyên; mặt khác phải “đi tắt, đón đầu”, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mô hình “hiện đại”, “rút ngắn” để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. 2.4. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam: 2.4.1. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức để nhanh chóng thoát khỏi lạc hậu: CNH được bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đây là con đường tất yếu của mọi quốc gia muốn phát triển, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. CNH tạo lập một nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, thúc đẩy sản xuất đạt năng suất, hiệu quả, chất lượng cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Còn HĐH chỉ mới bắt đầu thực hiện và gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX đến nay. Thực chất HĐH là quá trình sử dụng những thành tựu khoa học và CN hiện đại và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất làm cho nó trở nên hiện đại hơn, tiên tiến hơn. Trong thời đại mà nền KTTT là tài sản chung của nhân loại; CN thông tin và truyền thông đóng vai trò chủ chốt trong mọi lĩnh vực; các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng tri thức cao chiếm đa số; đầu tư vô hình cho con người giáo dục, khoa học và văn hóa lớn hơn đầu tư hữu hình cho cơ sở vật chất, CN đổi mới rất nhanh vòng đời CN được rút ngắn, tương lai trong thế kỷ XXI không còn công nhân trực tiếp lao động chân tay vì nền sản xuất hoàn toàn tự động hóa, thì việc áp dụng những thành tựu KH&CN vào quá trình CNH, HĐH là điều mà không một quốc gia nào được bỏ lỡ. CNH, HĐH theo quan điểm của Đảng ta là sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với CN, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại. Vì vậy chúng ta không thể đi theo con đường CNH tuần tự của các nước tư bản trước kia sẽ mất tới hàng trăm năm mà phải kết hợp giữa CNH với HĐH, giữa CNH, HĐH với phát triển KTTT. Đối với Việt Nam để tồn tại trong tiến trình toàn GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 19 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam cầu hóa sâu rộng như hiện nay phải biết nắm lấy thời cơ, tranh thủ nắm bắt tri thức khoa học và CN mới, những thành quả của kinh tế tri thức chắc chắn sẽ giúp chúng ta từ một nước phát triển trung bình vươn lên thành nước phát triển sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.4.2. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là giải pháp bắt buộc để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hiện thực: Tiến trình phát triển của lịch sử loài người đã khẳng định rằng, mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên nền tảng cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Bất cứ quốc gia đang phát triển nào muốn trở thành nền kinh tế hiện đại đều phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền sản xuất hiện đại. Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền sản xuất hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao, dựa trên trình độ KH&CN hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến thắng được sản xuất phong kiến là do tạo ra nền đại công nghiệp. Lênin đã từng nói chủ nghĩa xã hội chỉ có thể chiến thắng phương thức sản xuất tư bản khi có nền sản xuất hiện đại, có năng suất lao động cao hơn gấp nhiều lần so với chủ nghĩa tư bản hiện có. Hay nói cách khác, chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ được xây dựng trên cơ sở khi mà lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa cao hơn nhiều nhiều lần so với chủ nghĩa tư bản, khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật lớn hơn của chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội hiện thực là ước mơ mà thôi. Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội thì phải CNH, HĐH đất nước đây là giải pháp bắt buộc nhất là đối với nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản như ở Việt Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội", "Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa" [58, tr.13-159]. Trong điều kiện cuộc cách mạng KH&CN đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn, theo chiều hướng chuyển mạnh sang KTTT. Lực lượng sản xuất của xã hội loài người bước lên một thang bậc mới, với sự tăng vọt GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 20 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam về năng suất, chất lượng, hiệu quả, các nước không đủ khả năng sẽ bị tụt hậu. Vì vậy để xây dựng thành công chủ nghĩa xã ở nước ta hiện nay thì phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Theo đó có thể nói, CNH-HĐH ở Việt Nam không chỉ khác với các nước đã tiến hành CNH về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành mà cả mục tiêu chiến lược. Chính sự khác biệt này đã làm nên tính đặc thù của sự nghiệp CNH, HĐH mà chúng ta đang tiến hành. 2.4.3. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn: Nói tới hội nhập kinh tế là nói tới việc tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao đầy đủ với 169 nước trong đó có tất cả các nước láng giềng và các nước lớn có quan hệ thương mại với trên 225 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của hầu hết các tổ chức quốc tế chủ yếu như: Thành viên của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và bắt đầu tham gia khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA); Việt Nam gia nhập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC); đặc biệt 7/11/2006 nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Quá trình hội nhập kinh tế sẽ mang lại những cơ hội to lớn mà nếu biết tranh thủ sẽ có tác động tích cực đến việc rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, song cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt. Chủ động hội nhập vào kinh tế thế giới là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Không thể thoát cảnh nghèo nàn, lạc hậu, nếu đứng ngoài, biệt lập với thế giới, đặc biệt khi định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, càng không thể đóng cửa mà phải tận dụng mọi nguồn lực, trong đó nguồn ngoại lực là quan trọng. Với lợi thế về nguồn nhân lực và lợi thế của nước đi sau trong một vùng mà CN, tư bản và tri thức kinh doanh đang di chuyển nhanh chóng, Việt Nam hoàn toàn có khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. Tuy nhiên đó mới chỉ là tiềm năng và cơ hội. Điều kiện đủ là phải quyết tâm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, mạnh dạn đổi mới để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, tích cực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đó là những yếu tố quan trọng để tích lũy nhanh và kinh tế phát triển có hiệu quả. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 21 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam 2.4.4. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức do tác động nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội: Tác động của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy của con người. Trong nền KTTT, các quy trình sản xuất đều được tự động hoá. Máy móc không chỉ thay thế con người những công việc nặng nhọc, mà thay thế con người ở những khâu phức tạp của sản xuất và quản lý, không chỉ thay thế thao tác lao động của con người mà cả thao tác tư duy. Vì vậy với sự phát triển như vũ bão của KH&CN, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được CN thì sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của mình. Cũng chính từ đây nảy sinh một thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển như nước ta đó là làm thế nào để phát huy được thế mạnh nguồn nội lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay tất yếu phải khai thác được những tiềm năng thế mạnh của đất nước, thúc đẩy phát triển KH&CN, coi đó là một điều kiện cần thiết để đạt được những mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nhận thức tính tất yếu, sự cần thiết và tác động nhiều mặt của CNH, HĐH trong bối cảnh mới của thế giới và trong nước, kể từ Đại hội IX, Đảng ta nêu chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với từng bước phát triển KTTT. Chủ trương này được tiếp tục khẳng định tại Đại hội XI với yêu cầu cấp thiết hơn: " Phát triển mạnh khoa học, CN làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước" [36, tr 218]. 2.5. Các giải pháp đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay: Vấn đề quan trọng hàng đầu là chúng ta phải chủ động phá huy năng lực sáng tạo tri thức trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế giới toàn cầu hóa. Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển KTTT lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy mạnh GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 22 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc đi nâng cao trình độ ở nước ngoài , các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể chủ động trong ứng dụng các công nghệ cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho CNH, HĐH ở trình độ cao. Để CNH- HĐH nhanh, nông nghiệp phải gắn với ứng dụng tri thức sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về công nghệ sinh học, tri thức về giống cây con chất lượng và năng suất cao, về canh tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng thời phải cung cấp tri thức về tổ chức sản xuất gắn với thị trường và xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông trong mọi hoạt động hiện đại hóa nông nghiệp. Trong công nghiệp và xây dựng thì CNH, HĐH sẽ gắn kết thuận lợi với phát triển KTTT vì công nghiệp trong kinh tế thị trường là rất hiện đại và dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp phải chuyển nhanh từ thiết kế thủ công sang thiết kế bằng máy tính sẽ rất nhanh và độ chính xác sẽ cao hơn, tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư viện các thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng máy thông minh, tự động hóa hoặc robot, các dây chuyền tự động. Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh vực này. Chúng ta bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trong hiện đại hóa nền công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng. Nhưng nhìn chung vẫn còn tụt hậu so với thế giới. Gần đây, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một số dự án công nghệ cao đã tăng nhanh với vốn đầu tư lớn hứa hẹn triển vọng tốt. Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của KTTT, có khi chiếm đến trên 70% GDP, bởi vậy gắn kết với phát triển KTTT sẽ có thuận lợi đẩy mạnh hiện đại hóa nhanh dịch vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan trọng như thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch , y tế, giáo dục, pháp luật,... bắt buộc phải nhanh chóng chuyển sang ứng dụng công nghệ thông tin, mạng internet, viễn thông toàn cầu,... Thời gian qua, một số ngành dịch vụ ở nước ta đã có tiến bộ đáng kể trong hiện đại hóa, nhưng nhìn chung chưa khai thác hết tiềm năng. Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo hướng tri thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như nước ta, có định hướng GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 23 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam XHCN thì cần tập trung vào dịch vụ hành chính điện tử (hoặc chính phủ điện tử). Đây là một cuộc cách mạng thực sự hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nếu được xây dựng đúng đắn và đầy đủ, sẽ khách quan đảm bảo được công khai, minh bạch, không tham nhũng, công bằng, dân chủ, văn minh. Khi đó sẽ có một nền hành chính điện tử được hiện đại hóa nhanh dẫn tới rút ngắn thời kỳ quá độ. C. PHẦN KẾT LUẬN Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, trải qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển đến nay nền kinh tế của nước ta đã có những thay đổi đáng kể và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, mức sống thấp Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước có nền kinh tế khá ổn định, trở thành thành viên của WTO. Đây là một bước tiến lớn lao khẳng định sự phát triển của nền kinh tế nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực không ngừng để bắt kịp xu thế thời đại và không bị tụt hậu. Gắn với phát triển kinh tế, xây dựng nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện nay việc đẩy mạnh CNH-HĐH gắn liền với phát triển KTTT là một bước đi đúng đắn để tạo nội lực mạnh cho kinh tế trong nước đồng thời tăng ngoại lực để có thể hòa nhập với các nền kinh tế trên thế giới. Nghị quyết đại hội IX đã chỉ ra: “ Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Chiến lược này đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của đất nước đẻ vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cho sự nghiệp thúc đẩy nền kinh tế vươn lên mạnh mẽ không gì khác là phải: “ Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức”. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 24 Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam Danh mục tài liệu tham khảo [1]. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khóaVII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [2]. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [3]. V.I. Lênin toàn tập (1979), tập 42, Nxb Tiến bộ [4]. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [5]. https://sites.google.com/site/luatgiangothanhphuong/triet-hoc---chinh-tri/giaotrinh-dhuong-loi-cach-mang-cua-dhang-cong-san-viet-nam#TOC-CH-NG-IV:NG-L-I-C-NG-NGHI-P-H-A [6]. http://kiemtailieu.com/giao-duc-dao-tao/tai-lieu/trinh-bay-va-phan-tich-vi-saocong-nghiep-hoa-phai-gan-lien-voi-hien-dai-hoa/1.html [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. GVHD: Nguyễn Đình Cả Page 25 |